Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

THỰC TRẠNG NUÔI CON BẰNG sữa mẹ của các bà mẹ SAU SINH tại KHOA PHỤ sản BỆNH VIỆN đa KHOA TRUNG tâm TỈNH LẠNG sơn năm 2017 và một số yếu tố LIÊN QUAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI
INCLUDEPICTURE
" dai hoc
y.jpg" \* MERGEFORMATINET INCLUDEPICTURE
" dai hoc
y.jpg" \* MERGEFORMATINET INCLUDEPICTURE
" dai hoc
y.jpg" \* MERGEFORMATINET INCLUDEPICTURE
" dai hoc
y.jpg" \* MERGEFORMATINET INCLUDEPICTURE
" dai hoc
y.jpg" \* MERGEFORMATINET INCLUDEPICTURE
" dai hoc
y.jpg" \* MERGEFORMATINET INCLUDEPICTURE
" dai hoc
y.jpg" \* MERGEFORMATINET INCLUDEPICTURE
" dai hoc
y.jpg" \* MERGEFORMATINET INCLUDEPICTURE
" dai hoc
y.jpg" \* MERGEFORMATINET INCLUDEPICTURE
" dai hoc
y.jpg" \* MERGEFORMATINET INCLUDEPICTURE


" dai hoc

y.jpg" \* MERGEFORMATINET



MAI TH NGUYT

THựC TRạNG NUÔI CON BằNG SữA Mẹ
CủA CáC Bà Mẹ SAU SINH TạI KHOA PHụ
SảN
BệNH VIệN ĐA KHOA TRUNG TÂM TỉNH
LạNG SƠN
NĂM 2017 Và MộT Số YếU Tố LIÊN QUAN

LUN VN THC S Y HC
Ngi hng dn khoa hc:
PGS

.TS.

Trn Th Phỳc Nguyt

H Ni - 2018


B GIO DC V O TO

B Y T

TRNG I HC Y H NI

MAI TH NGUYT

THựC TRạNG NUÔI CON BằNG SữA Mẹ

CủA CáC Bà Mẹ SAU SINH TạI KHOA PHụ
SảN
BệNH VIệN ĐA KHOA TRUNG TÂM TỉNH
LạNG SƠN
NĂM 2017 Và MộT Số YếU Tố LIÊN QUAN
Chuyờn ngnh: Dinh dng
Mó s: 60720303
LUN VN THC S Y HC
Ngi hng dn khoa hc:
PGS.TS. Trn Th Phỳc Nguyt


Hà Nội - 2018
LỜI CẢM ƠN
Sau quá trình học tập và nghiên cứu và tiến hành luận văn, tôi xin gửi
lời cảm ơn chân thành nhất tới Ban Giám hiệu trường Đại học Y Hà Nội,
lãnh đạo Viện đào tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng, các Thầy Cô giáo
và các Bộ môn, các Phòng Ban liên quan của trường và Viện đã tạo điều kiện
giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới PGS. TS. Trần
Thị Phúc Nguyệt đã tận tình hướng dẫn, động viên tôi, hỗ trợ kịp thời và
đưa ra những lời khuyên quý báu giúp tôi hoàn thành luận văn.
Với lòng biết ơn chân thành, tôi xin gửi lời cảm ơn tới các lãnh đạo
và các bạn đồng nghiệp Bệnh viện Đa khoa Trung tâm tỉnh Lạng Sơn, đặc
biệt Khoa Sản bệnh viện Đa khoa Trung tâm tỉnh lạng sơn đã giúp đỡ và
chia sẻ kinh nghiệm giúp tôi hoàn thành nghiên cứu.
Cuối cùng, tôi xin gửi tấm lòng biết ơn tới gia đình của tôi là nguồn
động viên, khích lệ để tôi trong quá trình tôi học tập cũng như hoàn thành
luận văn.
Hà Nội, ngày 17 tháng 05 năm 2018

Học viên

Mai Thị Nguyệt


LỜI CAM ĐOAN

Tôi là Mai Thị Nguyệt, học viên cao học chuyên ngành Dinh dưỡng,
Trường Đại học Y Hà Nội xin cam đoan:
1. Đây là nghiên cứu của tôi, thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của
PGS.TS. Trần Thị Phúc Nguyệt.
2. Công trình này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã
được công bố tại Việt Nam.
3. Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác,
trung thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp nhận của cơ sở nơi
nghiên cứu.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.
Hà Nội, ngày 17 tháng 05 năm 2018
Học viên

Mai Thị Nguyệt


DANH MỤC CHỮ VIẾT
A&T
BMHT
BV
DD
ĐKTT
ĐTV

KT
NCBSM
SDD
TH
UNICEF
WHO

Alive & Trive
Bú mẹ hoàn toàn
Bệnh viện
Dinh dưỡng
Đa khoa trung tâm
Điều tra viên
Kiến thức
Nuôi con bằng sữa mẹ
Suy dinh dưỡng
Thực hành
Quỹ nhi đồng Liên Hiệp quốc
Tổ chức Y tế thế giới (World Health Organization)


MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ

1

Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU

4


1.1. Một số định nghĩa về sữa mẹ và nuôi con bằng sữa mẹ

4

1.1.1. Sữa mẹ 4
1.1.2. Nuôi con bằng sữa mẹ

4

1.1.3. Nuôi con bằng sữa mẹ sớm
1.1.4. Bú mẹ hoàn toàn

4

4

1.2. Thành phần dinh dưỡng của sữa mẹ

4

1.2.1. Sữa non 5
1.2.2. Sữa ổn định

5

1.3. Tầm quan trọng của nuôi con bằng sữa mẹ và cho trẻ bú sớm trong
vòng một giờ đầu sau đẻ

6


1.3.1. Tầm quan trọng của nuôi con bằng sữa mẹ

6

1.3.2. Tầm quan trọng của cho trẻ bú sớm trong vòng một giờ đầu sau sinh
10
1.4. Cách nuôi con bằng sữa mẹ

11

1.4.1. Cho trẻ bú sữa mẹ sớm

11

1.4.2. Số lần cho bú 11
1.4.3. Cho bú hoàn toàn đến 6 tháng tuổi
1.4.4. Thời điểm cai sữa

12

1.4.5. Cách cho trẻ bú

12

11

1.5. Tình hình nuôi con bằng sữa mẹ, bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau sinh
trên Thế giới và Việt Nam

12


1.5.1. Tình hình nuôi con bằng sữa mẹ trên Thế giới 12
1.5.2. Tình hình nuôi con bằng sữa mẹ Việt Nam

13


1.5.3. Tình hình cho trẻ bú sớm 1 giờ đầu sau sinh

15

1.6. Những yếu tố ảnh hưởng tới việc nuôi con bằng sữa mẹ và cho trẻ bú
sớm trong vòng một giờ đầu sau sinh 16
1.6.1. Trình độ văn hóa của bà mẹ 16
1.6.2. Ảnh hưởng của tình trạng kinh tế, trình độ văn hóa xã hội tới
việc nuôi con.

17

1.6.3. Ảnh hưởng của các cán bộ y tế, bạn bè và các thành viên của gia đình
19
1.7. Vài nét đặc điểm của Lạng Sơn20
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu

23

23

2.2. Phương pháp nghiên cứu 23

2.2.1. Thiết kế nghiên cứu 23
2.2.2. Thời gian nghiên cứu23
2.2.3. Địa điểm nghiên cứu 24
2.2.4. Quy trình nghiên cứu24
2.2.5. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu

25

2.2.6. Các biến số và chỉ số nghiên cứu 26
2.2.7. Các tiêu chí đánh giá

29

2.2.8. Sai số và cách khống chế sai số trong nghiên cứu

29

2.2.9. Xử lý và phân tích số liệu 29
2.2.10. Đạo đức trong nghiên cứu 30
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

31

3.1. Một số thông tin chung của đối tượng nghiên cứu 31
3.2. Kiến thức của các bà mẹ về nuôi con bằng sữa mẹ 35
3.3. Thực hành nuôi con bằng sữa mẹ sớm của các bà mẹ sau sinh
3.4. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng bú mẹ sớm 49

41



Chương 4: BÀN LUẬN 54
4.1. Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu 55
4.2. Thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ trong thời gian nằm
viện sau sinh tại khoa Phụ sản - Bệnh viện ĐKTT tỉnh Lạng Sơn
55
4.2.1. Kiến thức của bà mẹ về nuôi con bằng sữa mẹ 55
4.2.2. Thực hành cho con bú sớm sau sinh của bà mẹ 58
4.3. Một số yếu tố liên quan đến thực hành cho trẻ bú sữa mẹ sớm trong
thời gian nằm viện sau sinh của các bà mẹ tại khoa Phụ sản - Bệnh
viện ĐKTT tỉnh Lạng Sơn
KẾT LUẬN

68

KHUYẾN NGHỊ 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

63


DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1.

Nghề nghiệp của các bà mẹ trong nghiên cứu............................32

Bảng 3.2.

Đặc điểm dân tộc của bà mẹ trong nghiên cứu...........................33


Bảng 3.3.

Một số thông tin chung của trẻ....................................................34

Bảng 3.4.

Kiến thức của các bà mẹ về lợi ích của nuôi con bằng sữa mẹ...35

Bảng 3.5.

Kiến thức của các bà mẹ về sữa trưởng thành............................37

Bảng 3.6:

Kiến thức về khái niệm nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn..............37

Bảng 3.7.

Kiến thức của các bà mẹ về thời gian cho trẻ bú hoàn toàn........38

Bảng 3.8.

Kiến thức về thời gian cai sữa của các bà mẹ.............................39

Bảng 3.9.

Kiến thức về chế độ ăn và lao động trong thời gian cho con bú
của các bà mẹ .............................................................................39


Bảng 3.10. Nguồn thông tin cung cấp kiến thức về nuôi con bằng sữa mẹ của
các bà mẹ ....................................................................................40
Bảng 3.11. Tỉ lệ bà mẹ cho trẻ bú sớm 1 giờ đầu sau sinh............................41
Bảng 3.12. Lý do bà mẹ cho trẻ bú sớm 1 giờ đầu sau sinh..........................42
Bảng 3.13.

Lý do cho trẻ bú muộn trên 1 giờ sau sinh của các bà mẹ...................43

Bảng 3.14. Tình trạng vắt bỏ sữa non của các bà mẹ sau khi sinh................44
Bảng 3.15. Thực phẩm cho trẻ ăn/uống trước khi bú mẹ lần đầu.................45
Bảng 3.16. Thao tác bế trẻ khi cho bú của bà mẹ..........................................47
Bảng 3.17. Tiếp cận quảng cáo sữa bột dành cho trẻ nhỏ.............................47
Bảng 3.18. Liên quan giữa đặc điểm chung của bà mẹ với thực hành cho trẻ
bú trong vòng 1 giờ đầu sau sinh................................................49
Bảng 3.19. Liên quan giữa thông tin của trẻ và thực hành bú mẹ trong vòng
một giờ đầu sau sinh....................................................................51
Bảng 3.20. Liên quan giữa kiến thức của bà mẹ về sữa non với thực hành
cho trẻ bú sớm trong vòng một giờ đầu sau sinh........................52
Bảng 3.21. Liên quan giữa thực hành sử dụng thực phẩm cho trẻ ăn trước khi bú sau
sinh với thực hành cho trẻ bú trong vòng 1 giờ đầu sau sinh................52


Bảng 3.22. Liên quan giữa hình thức sinh con với thực hành cho trẻ bú trong
vòng 1 giờ đầu sau sinh...............................................................53
Bảng 3.23 Liên quan giữa nguồn cung cấp thông tin nuôi dưỡng trẻ với thực
hành cho trẻ bú trong vòng 1 giờ đầu sau sinh............................53


DANH MỤC BIỂU ĐỒ


Biểu đồ 3.1.

Tuổi của đối tượng nghiên cứu...............................................31

Biểu đồ 3.2.

Trình độ học vấn của đối tượng nghiên cứu...........................32

Biểu đồ 3.3.

Hình thức sinh con của bà mẹ.................................................33

Biểu đồ 3.4.

Thời gian trẻ được về với mẹ sau sinh....................................35

Biểu đồ: 3.5. Kiến thức của các bà mẹ về lợi ích của sữa non.....................36
Biều đồ 3.6.

Kiến thức về cách duy trì và tăng nguồn sữa mẹ của bà mẹ...40

Biểu đồ3 3.7. Tỉ lệ trẻ được ăn/uống trước khi bú mẹ lần đầu sau sinh.......45
Biểu đồ: 3.8. Lý do các bà mẹ cho trẻ ăn thức ăn khác trước khi bú mẹ lần
đầu sau sinh.............................................................................46


1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Sữa mẹ là món quà quý giá nhất mà thiên nhiên ban

tặng cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Quỹ nhi đồng Liên Hiệp quốc
(UNICEF) đã thúc đẩy việc nuôi con bằng sữa mẹ như là một hành động
chính của chiến lược cải thiện đời sống trẻ thơ [1]. Trong thời gian 4 – 6 tháng
đầu sau sinh, sữa mẹ là nguồn cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết
cho sự phát triển của trẻ, có tỉ lệ các chất dinh dưỡng cân đối và dễ hấp thu,
đặc biệt là prottein và vitamin A. Nuôi con bằng sữa mẹ giúp trẻ chống lại các
bệnh nhiễm trùng và làm giảm tử vong trẻ, đặc biệt là các nước đang phát
triển, nơi mà điều kiện vệ sinh thực phẩm còn kém. Sữa mẹ được xem là yếu
tố khởi đầu, phát triển thành phần của vi khuẩn đường ruột. Sữa mẹ chứa
Oligo-saccharides làm tăng sự phát triển của các các loài vi khuẩn
Bifidobacteria, đây là loài vi khuẩn có mặt sớm nhất trong đường tiêu hóa và
sự có mặt của chúng trong đường tiêu hóa là tốt cho sức khỏe của trẻ [1]. Đặc
biệt là sữa non, dòng sữa nhiều chất dinh dưỡng, nhiều kháng thể, dễ tiêu hóa,
được tạo vào cuối thai kỳ, là thực phẩm hoàn hảo nhất cho trẻ sơ sinh.
Chính vì những lợi ích của sữa mẹ, tổ chức Y tế thế giới (WHO)
khuyến nghị, trẻ sơ sinh cần được bú mẹ sớm trong vòng một giờ đầu sau khi
sinh và được nuôi hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu đời, sau đó ăn bổ
sung hợp lý nhưng vẫn duy trì bú sữa mẹ đến 24 tháng tuổi. Chế độ DD hợp
lý trong suốt thời gian này sẽ cải thiện sự tăng trưởng và phát triển thể chất,
thành tích học tập của trẻ.
Mặc dù vậy, thực tế tại Việt Nam các bà mẹ không có thực hành tốt
trong việc nuôi con bằng sữa mẹ khiến tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng ở trẻ em vẫn ở
mức cao, theo nghiên cứu năm 2008 của Từ Mai ở Viện dinh dưỡng, trẻ bú
mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu là 16,2%; trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 4 tháng
đầu là 28,4%; tỷ lệ trẻ bú sớm trong vòng 1h sau khi sinh là 49,3%, trong đó
chỉ có 34,3% trẻ được bú mẹ trong vòng nửa giờ đầu sau khi sinh [2]. Theo
nghiên cứu của Nguyễn Lân và cộng sự năm 2013 ở Phổ Yên, Thái Nguyên


2


chỉ có 44,4% bà mẹ cho con bú ngay trong vòng 1/2 giờ sau sinh và vẫn còn
15,2% bà mẹ cho con bú sau 24h [3]. Điều đáng lo ngại hơn là chỉ có 10% bà
mẹ nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu trong khi tỉ lệ này ở
Campuchia là 65%, và tỷ lệ trung bình ở các nước Châu Á là 40%...Tại các
thành phố lớn chỉ có 1 trong 3 bà mẹ cho con bú ngay trong 1 giờ đầu sau
sinh, trong khi đó tại các vùng nông thôn là 2 trong 3 phụ nữ [4].
Hiện nay trong khi chính sách đổi mới với nền kinh tế nhiều thành phần
đã đem lại những hiệu quả tăng trưởng rõ rệt, nhưng cũng xuất hiện những
phân cực không tránh khỏi trong xã hội giàu và nghèo, vùng phát triển và
vùng kém phát triển. Bên cạnh một bộ phận các bà mẹ có nhận thức chưa
đúng về nuôi con bằng sữa mẹ thì áp lực công việc cũng làm cho tỉ lệ nuôi
con bằng sữa mẹ đang giảm trầm trọng, không chỉ ở thành phố lớn mà còn lan
rộng đến các vùng nông thôn. Nhiều hội nghị về công tác bảo vệ bà mẹ trẻ em
cũng đã lên tiếng báo động về thực trạng đáng lo ngại này.
Lạng Sơn là một tỉnh miền núi biên giới, thuộc khu vực Đông Bắc Việt
Nam, là nơi có nhiều đồng bào dân tộc sinh sống, việc nuôi con của các bà mẹ
vẫn còn nhiều hạn chế. Tọa lạc ở trung tâm thành phố, tại Khoa Phụ sản Bệnh viện đa khoa trung tâm tỉnh Lạng Sơn hàng năm tiếp nhận hàng nghìn
sản phụ vào chuyển dạ đẻ. Tuy nhiên trong thời gian gần đây, các đánh giá
liên quan đến thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ trong thời gian nằm viện sau
sinh tại tỉnh, những yếu tố nào ảnh hưởng đến việc cho trẻ bú của các bà mẹ
như thế nào, là một vấn đề còn chưa được nghiên cứu. Xuất phát từ thực tế đó
tôi tiến hành nghiên cứu đề tài "Thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ của các
bà mẹ sau sinh tại khoa Phụ sản Bệnh viện đa khoa trung tâm tỉnh Lạng
Sơn năm 2017 và một số yếu tố liên quan".


3

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

1. Đánh giá thực trạng nuôi con bằng sữa mẹ của các bà mẹ trong
thời gian nằm viện sau sinh tại khoa Phụ sản - Bệnh viện ĐKTT
tỉnh Lạng Sơn năm 2017.
2. Mô tả một số yếu tố liên quan đến thực hành cho trẻ bú sữa mẹ
sớm trong thời gian nằm viện sau sinh của các bà mẹ tại khoa Phụ
sản - Bệnh viện ĐKTT tỉnh Lạng Sơn năm 2017.


4

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Một số định nghĩa về sữa mẹ và nuôi con bằng sữa mẹ
Sữa mẹ là thức ăn lý tưởng nhất dành cho trẻ nhỏ. Sữa mẹ không chỉ là
nguồn dinh dưỡng hoàn hảo mà còn giúp trẻ dễ tiêu hóa, hấp thu. Nuôi con
bằng sữa mẹ mang lại lợi ích thiết thực cho cả mẹ và bé.
1.1.1. Sữa mẹ: là sữa được tạo thành từ hệ thống tuyến sữa trong vú của
người phụ nữ sau khi có thai, bắt đầu có nhiều từ khoảng 24 đến 48 tiếng sau
khi sinh. Để có sữa nuôi dưỡng em bé thì ngay từ khi mang thai các tuyến sữa
của mẹ đã hoạt động để hình thành nên nhà máy sản xuất sữa tự nhiên này .
Sữa mẹ được xem như là nguồn dinh dưỡng quan trọng nhất cho trẻ sơ sinh,
trước khi trẻ có thể tiêu hóa các loại thực phẩm khác.
1.1.2. Nuôi con bằng sữa mẹ (breastfeeding): là cách nuôi dưỡng trong đó
trẻ được trực tiếp bú sữa mẹ hoặc gián tiếp uống sữa mẹ đã được vắt ra [5].
1.1.3. Nuôi con bằng sữa mẹ sớm (early breast feeding)(theo WHO): là
cho trẻ bú sớm trong vòng một giờ đầu sau sinh [5].
1.1.4. Bú mẹ hoàn toàn (exclusive breastfeeding): là cách thực hành trong đó
trẻ chỉ được ăn sữa mẹ qua bú trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua vắt sữa mẹ
hoặc bú trực tiếp từ người mẹ khác, ngoài ra không được nuôi bằng bất cứ
loại thức ăn đồ uống nào khác. Các thứ khác ngoại lệ được chấp nhận là các

giọt dạng dung dịch có chứa vitamin, khoáng chất hoặc thuốc [6].
1.2. Thành phần dinh dưỡng của sữa mẹ
Sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng tốt nhất cho sự phát triển của trẻ sơ sinh 6
tháng đầu vì trong sữa mẹ có đầy đủ năng lượng và chất dinh dưỡng cần thiết
như protein, glucid, lipid và mỡ vitamin và muối khoáng với tỷ lệ thích hợp
cho sự hấp thu và phát triển của cơ thể trẻ. Việc cho bú mẹ trong thời gian đầu


5

đời là hết sức cần thiết nhằm đảm bảo cho bé ít bệnh tật, phát triển cân bằng
và hài hòa.
Nhờ sự phát triển của khoa học bắt đầu từ những năm 80 người ta mới hiểu
rõ thành phần và cơ chế hình thành sữa mẹ cũng như tầm quan trọng của sữa mẹ.
Ngày nay cùng với công nghệ hóa sinh, sinh học phân tử, sữa mẹ đã được phân
tích sâu sắc, thành phần gồm hàng trăm chất dinh dưỡng khác nhau với thành
phần cân đối và hợp lý. Sữa mẹ trải qua 2 giai đoạn: sữa non và sữa ổn định.
1.2.1. Sữa non: là sữa được bài tiết trong vài ngày đầu sau đẻ. Sữa non sánh
đặc màu vàng nhạt. Trong sữa non chứa nhiều năng lượng, protein, vitaminA,
đồng thời nhiều chất kháng khuẩn tăng cường miễn dịch cho trẻ. Bên cạnh đó,
sữa non còn có tác dụng sổ nhẹ giúp cho việc tống phân xu nhanh ngăn chặn
vàng da ở giai đoạn trẻ sơ sinh [7].
1.2.2. Sữa ổn định: có đầy đủ và cân đối các thành phần dinh dưỡng. Protein
sữa mẹ chứa đầy đủ acid amin cần thiết với tỉ lệ cân đối và dễ hấp thu. Sữa
mẹ có acid béo cần thiết như acid linoleic cần cho sự phát triển của não, mắt
và sự bền vững thành mạch của trẻ, hơn nữa lipid trong sữa mẹ dễ được tiêu
hóa hơn do có lipase. Lactose trong sữa mẹ cung cấp thêm nguồn năng lượng
cho trẻ, một số lactose vào ruột lên men tạo thành acid lactic giúp cho hấp thu
canxi và muối khoáng tốt hơn.
Sữa mẹ còn chứa nhiều các men giúp cho trẻ tiêu hóa và hấp thu tốt.

Hoạt tính lysozym, amylaza của sữa non cao hơn 60 lần và ở sữa hoàn thiện là
40 lần so với sữa bò. Nhiều các men khác cũng có mặt với nồng độ rất cao
bao gồm transaminaza, catalaza, lactaza, dehydrozenaza, proteaza và lipaza.
Nội tiết tố giáp trạng và những nội tiết tố khác cũng được tiết ra ở sữa mẹ
(Lawrence,1980) [8]. Sữa mẹ còn có nhiều vitamin và muối khoáng như
vitamin A, C, canxianxi, sắt, tỷ lệ Ca/P thích hợp dễ hấp thu, phòng được một
số bệnh do thiếu vi chất gây ra như khô mắt do thiếu vitamin A, thiếu máu
thiếu sắt, còi xương… [7].


6

Một thành phần quan trọng của sữa mẹ mà không một loại sữa nào
khác có thể thay thế được là chất kháng khuẩn. Đó là các kháng thể IgA có
nhiều nhất trong sữa non và giảm dần ở các ngày sau đó. Lactoferin là một
protein gắn sắt có tác dụng kìm khuẩn không cho vi khuẩn ưa sắt phát triển.
Các enzyme lactozym có tác dụng diệt khuẩn. Hơn 80% tế bào trong sữa là
các lympho bào, thực bào có tác dụng thực bào và tiết IgA, interferon có tác
dụng ức chế hoạt động của vi khuẩn, virut, nấm… [9]. Ngoài ra trong sữa mẹ
còn có yếu tố kích thích sự phát triển của vi khuẩn lactobacillus bifidus, lấn át
sự phát triển của vi khuẩn gây bệnh như Ecoli. Sữa mẹ có khoảng hơn 100
thành phần không tìm thấy trong bất kỳ loại sữa công thức nào, hầu như
không một đứa trẻ nào dị ứng với sữa của mẹ mình.
1.3. Tầm quan trọng của nuôi con bằng sữa mẹ và cho trẻ bú sớm trong
vòng một giờ đầu sau đẻ
1.3.1. Tầm quan trọng của nuôi con bằng sữa mẹ
Trong những năm gần đây, NCBSM được quan tâm hàng đầu trong lĩnh
vực dinh dưỡng trẻ em. Đã có nhiều hội nghị trong nước và quốc tế giành
riêng cho vấn đề này vì tính thực tế và tính ưu việt của nó. Tổ chức Quỹ nhi
đồng liên hiệp quốc (UNICEF) đã coi NCBSM là một trong những biện pháp

quan trọng nhất để bảo vệ sức khỏe trẻ em [10].
1.3.1.1. Đối với trẻ
Nuôi con bằng sữa mẹ giúp trẻ phát triển tốt hơn
Do thành phần và tính chất ưu việt như vậy nên NCBSM là biện pháp
dinh dưỡng tối ưu cho trẻ [11]. Nhiều nghiên cứu cho thấy có một sự liên
quan giữa tình trạng dinh dưỡng của trẻ với việc NCBSM, những trẻ được
nuôi bằng sữa mẹ phát triển tốt hơn (Đào Ngọc Diễn, 1991, Bùi Thị Thu
Nhuận và cộng sự, 1986). Morow và cộng sự (1988) cho thấy có sự liên quan
chặt chẽ giữa sự phát triển hiểu biết của trẻ 2 tháng đầu với NCBSM và nhận


7

thấy rằng có một sự khác nhau có ý nghĩa giữa những trẻ được bú mẹ hoàn
toàn với trẻ ăn nhân tạo [12].Trẻ bú sữa mẹ thường phát triển trí tuệ thông
minh hơn trẻ ăn sữa bò [7].
Nuôi con bằng sữa mẹ làm giảm tỷ lệ bệnh tật cho trẻ
Tổ chức UNICEF ước tính rằng hàng năm có khoảng 1 triệu trẻ em trên
toàn thế giới chết vì các lý do gián tiếp hay trực tiếp có liên quan đến không
hoặc thiếu nuôi dưỡng bằng sữa mẹ [13].
NCBSM là biện pháp nuôi dưỡng tự nhiên, tuyệt đối an toàn và hiệu
quả. Chandra (1979) thấy rằng trẻ được bú mẹ không những giảm tỉ lệ nhiễm
trùng mà còn giảm tỉ lệ dị ứng ở trẻ nhỏ [14]. Sữa mẹ có tác dụng chống dị
ứng. Trẻ bú mẹ ít bị dị ứng, ezema như ǎn sữa bò [7].
Ở Châu Mỹ La tinh hàng năm có khoảng 500 nghìn trẻ em dưới 5 tuổi
chết do ỉa chảy, mà hầu hết xảy ra ở trẻ em dưới 1 tuổi. Người ta nhận thấy
rằng nguy cơ trẻ chết do ỉa chảy ở trẻ em ăn nhân tạo cao hơn gấp 14 lần so
với trẻ được bú mẹ [15],[16]. Những nghiên cứu khác do Victora và cộng sự
(1977), (1987), Brend & cs (1988) cũng chỉ ra rằng hầu hết những trường hợp
bệnh nhiễm khuẩn cấp ở trẻ em có một sự liên quan lớn đối với trẻ được nuôi

bằng nhân tạo [17], [18], [19].
Ở Việt Nam, nghiên cứu của Nguyễn Trọng An, Đào Ngọc Diễn (1983)
ở các trẻ nội ngoại thành cũng chỉ rõ tỉ lệ suy dinh dưỡng và mắc bệnh tiêu
chảy, nhiễm trùng hô hấp ở trẻ dưới 12 tháng cao hơn một cách có ý nghĩa ở
nhóm trẻ không được bú mẹ so với nhóm trẻ được bú mẹ [20].
Theo tài liệu của WHO, những trẻ từ 0 đến 2 tháng tuổi mà không
được bú mẹ thì tỷ lệ bị ỉa chảy cao hơn 2 lần và nguy cơ trẻ chết do những
ảnh hưởng của nó tăng gấp 25 lần so với những đứa trẻ được bú mẹ. Hơn thế
nữa những đứa trẻ không được bú mẹ nguy cơ chết do viêm phổi gấp 4 lần
so với những đứa trẻ được bú mẹ hoàn toàn (Zoya & cs, 1991) [21]. Cho con


8

bú hoàn toàn từ 4-6 tháng và tiếp tục cho bú ít nhất 2 năm làm giảm bệnh tật
và đặc biệt ỉa chảy và những bệnh nhiễm trùng khác. NCBSM làm giảm
những trường hợp chết do ỉa chảy 32%, nhiễm khuẩn hô hấp 22%, và những
nhiễm trùng khác là 17% (Monterio,1990) [22].
Ngoài bệnh tiêu chảy, nhiễm trùng hô hấp và suy dinh dưỡng, Ducan và
cộng sự (1993) nghiên cứu trên 1220 trẻ nhỏ chỉ ra rằng số trẻ bị viêm tai giữa
ở trẻ bú mẹ hoàn toàn từ 4-6 tháng chỉ bằng ½ trẻ không được bú mẹ và bằng
40% số trẻ được bú mẹ và cho ăn < 4 tháng [23].
Viện hàn lâm nhi khoa Hoa Kỳ năm 1997 đã công nhận những lợi ích
đối với trẻ được nuôi bằng sữa mẹ. Nghiên cứu tại Hoa Kỳ, Canada, Châu Âu
và các nước phát triển khác trên dân số ở tầng lớp trung lưu cho thấy việc
NCBSM giúp giảm tần suất và hoặc mức độ trầm trọng của bệnh tiêu chảy,
viêm đường hô hấp dưới, viêm tai giữa, nhiễm khuẩn huyết, viêm màng não
do vi khuẩn, nhiễm trùng niệu và viêm ruột hoại tử. Một số nghiên cứu cho
thấy NCBSM có thể có tác dụng bảo vệ đối với hội chứng đột tử ở trẻ em,
bệnh đái tháo đường phụ thuộc insulin, bệnh Crohn, viêm loét đại tràng, các

bệnh dị ứng và các bệnh lý mãn tính khác của đường tiêu hóa [24].
Theo thống kê của UNICEF cho thấy suy dinh dưỡng protein – năng
lượng xuất hiện nhiều nhất ở lứa tuổi từ 4 đến 18 tháng tuổi trong đó ở lứa
tuổi dưới 12 tháng có nguyên nhân chủ yếu là không được bú sữa mẹ hoặc
cho trẻ ăn bổ sung quá sớm [25].
1.3.1.2. Đối với mẹ
Bên cạnh những lợi ích của sữa mẹ đối với trẻ thì việc cho con bú cũng
mang lại rất nhiều lợi ích và thuận tiện cho người mẹ. NCBSM gíúp cho bà
mẹ chóng co hồi tử cung, tránh băng huyết sau đẻ. Khi trẻ bú sẽ kích thích
hypothalamus sản xuất ra một hormone khác đó là oxytocin có tác dụng co
các tế bào cơ ở xung quanh tuyến sữa gây nên phản xạ tiết sữa. Oxytocin


9

cũng có tác dụng trên cơ tử cung, do đó nếu trẻ bú mẹ ngay lập tức sau đẻ,
oxytocin sẽ được sản xuất và tác dụng lên tế bào cơ tử cung giúp cho việc
cầm máu nhanh sau đẻ [26], [27].
Cho con bú đòi hỏi một sự tiêu hao năng lượng từ 200 đến
500Kcal/ngày, tương đương với đạp xe đạp trong vòng 1 giờ. Điều này giúp
bà mẹ giảm cân nhanh hơn sau sinh [24].
NCBSM làm chậm có thai và có kinh trở lại sau sinh. Lượng sắt mà bà
mẹ dùng để tạo sữa ít hơn so với lượng sắt mất đi do hành kinh. Điều này
cũng giúp hạn chế thiếu máu do thiếu sắt [24].
NCBSM có thể làm giảm nguy cơ ung thư buồng trứng và ung thư vú ở
phụ nữ tiền mãn kinh [24].
Mặc dù cơ thể bà mẹ cần nhiều calcium cho việc tạo sữa, nhưng người
ta nhận thấy rằng sau khi cai bú, mật độ xương trở về như trước khi có thai,
thậm chí còn cao hơn. Vài nghiên cứu gần đây cho thấy các bà mẹ không cho
con bú có nguy cơ gãy xương chậu sau mãn kinh cao hơn so với các bà mẹ

NCBSM [24].
1.3.1.3. Gắn bó tình cảm mẹ con
Cho con bú giúp tạo ra sự kết nối tình cảm giữa mẹ và bé. Chỉ người mẹ
mới có thể làm công việc cho con bú và đây thực sự là một mối liên kết thiêng
liêng mà không ai có thể chia sẻ được.
Rất tiện lợi và linh động, không cần phải chuẩn bị hay phải chờ đợi.
NCBSM giúp mẹ và con có nhiều thời gian gần gũi tự nhiên đó là yếu tố
tâm lý quan trọng giúp cho sự phát triển hài hoà của đứa trẻ cả về trí tuệ, nhân
cách và tình cảm, giúp cho bà mẹ giảm căng thẳng và đặc biệt giảm tỉ lệ bệnh
trầm cảm sau sinh [24].
1.3.1.4. Hiệu quả kinh tế của NCBSM
Nuôi con bằng sữa mẹ giúp mẹ tiết kiệm hơn nhiều so với việc cho bé
ăn bằng sữa công thức, vì chi phí thức ăn bổ sung cần thiết cho người mẹ


10

không đáng kể so với chi phí khi mua sữa công thức cho bé. Điều này giúp
mẹ tiết kiệm một khoản tiền để phục vụ cho nhu cầu cuộc sống hằng ngày của
gia đình tốt hơn.
Sữa mẹ luôn có sẵn và ở nhiệt độ thích hợp, cho trẻ ăn ngay dù mùa
đông hay mùa hè. Cho con bú sữa mẹ sẽ thuận lợi vì không phụ thuộc vào giờ
giấc, không cần phải đun nấu, dụng cụ pha chế. Khi người mẹ ǎn uống đầy
đủ, tinh thần thoải mái thì sẽ đủ sữa cho con bú.
Như vậy, NCBSM gắn liền với sự ra đời và trường tồn của nhân loại.
Tạo hóa sinh ra con người và ban tặng nguồn sữa mẹ quý giá cho trẻ nhỏ. Sữa
mẹ là nguồn dinh dưỡng tốt nhất đảm bảo sự sống còn và phát triển tối ưu cho
trẻ nhỏ mà không có một loại thức ăn gì có thể thay thế được.
1.3.2. Tầm quan trọng của cho trẻ bú sớm trong vòng một giờ đầu sau sinh
Cho trẻ bú sớm sau sinh là biện pháp rất quan trọng vì trong giờ đầu

tiên của cuộc đời trẻ sơ sinh ở trạng thái tỉnh táo nhanh nhẹn nhất và dễ thực
hiện hành vi bú mẹ nhất. Khi thời điểm này qua đi, trẻ trở nên buồn ngủ hơn
vì bắt đầu hồi phục sau quá trình thở. Trong giờ đầu tiên đó, quan trọng là để
trẻ gần mẹ, tránh tách mẹ và con để trẻ có cơ hội được bú sớm. Không cho trẻ
bú mẹ trong vòng một giờ đầu sau sinh là một trong những dấu hiệu dự báo
mạnh mẽ nhất việc trẻ sẽ bị thôi bú sớm sau 2 tháng [28].
Theo kết quả nghiên cứu của nhiều nghiên cứu trên thế giới đã khẳng
định rằng cho trẻ bú sớm trong vòng vài giờ đầu sau sinh và bú mẹ hoàn toàn
trong vòng 6 tháng đầu có thể cứu sống được trên 1 triệu trẻ em hàng năm, là
một can thiệp có hiệu quả nhất trong tất cả các can thiệp cứu sống trẻ em [29].
Nuôi con bằng sữa mẹ sớm làm cho sữa mẹ xuống sớm, bởi vì động tác
mút vú của trẻ sẽ kích thích tuyến yên giải phóng prolactin, nó sẽ kích thích
các tế bào tuyến sữa sản xuất ra sữa. Như vậy trẻ càng bú nhiều thì càng có
nhiều prolactin và sữa sẽ được tiết ra nhiều. Như vậy cách đơn giản nhất, kinh


11

điển nhất và tự nhiên nhất để tăng lượng sữa của bà mẹ là cho con bú thường
xuyên nhiều lần. Một đứa trẻ đói thường bú nhiều hơn là những đứa trẻ đã no,
nếu cho trẻ ăn những thức ăn khác trước khi bú, nó có thể làm cản trở sự tiết
sữa (Lawrence, 1980, Cameron & Hofvander, 1983. Helsing & King, 1985),
[30], [31], [8]. Nghiên cứu cho thấy, sữa mẹ được bắt đầu tiết ra sớm hơn ở
những người mẹ cho con bú sớm, cho bú nhiều lần. Sữa mẹ được bắt đầu tiết
ra sớm một cách rõ ràng ở những bà mẹ bắt đầu cho con bú trong vòng một
giờ đầu sau khi đẻ hơn các bà mẹ chờ cho sữa xuống tự nhiên
1.4. Cách nuôi con bằng sữa mẹ
1.4.1. Cho trẻ bú sữa mẹ sớm
Thời gian bắt đầu cho trẻ bú theo khuyến cáo của WHO cũng như chiến
lược hợp tác của WHO và UNICEF về sự sống còn của trẻ đã khuyến nghị mẹ

nên cho con bú sữa mẹ trong vòng giờ đầu sau đẻ giúp trẻ tận dụng được sữa
non là loại sữa tốt, hoàn hảo về dinh dưỡng và các chất sinh học thích ứng với
cơ thể non nớt của trẻ, bú càng sớm càng tốt và không cần cho trẻ mới đẻ ăn
bất kỳ thức ăn gì trước khi bú mẹ lần đầu.
1.4.2. Số lần cho bú: Trẻ bú càng nhiều thì sữa mẹ càng được bài tiết nhiều. Số
lần cho bú tùy thuộc vào nhu cầu của trẻ, cho trẻ bú bất cứ khi nào trẻ muốn, ít
nhất 8 lần trong ngày, bú cả ngày và đêm [32]. Mỗi bữa bú cho trẻ bú kiệt một
bên rồi mới chuyển sang vú bên kia để trẻ nhận được sữa cuối giàu chất béo [7].
1.4.3. Cho bú hoàn toàn đến 6 tháng tuổi: Nghiên cứu của Almroth & cs
(1990) cho thấy rằng những đứa trẻ khỏe mạnh mà được bú mẹ đầy đủ thì nó
hoàn toàn thỏa mãn nhu cầu về năng lượng, đủ các dịch lỏng thậm chí trong
những ngày nóng và khô. Do vậy, không cần cung cấp nước cho những đứa
trẻ bú mẹ hoàn toàn ở cả những nơi điều kiện nóng và khô cằn [33]. Khi trẻ bị
bệnh, ngay cả khi trẻ bị tiêu chảy vẫn tiếp tục cho bú. Khi trẻ bị đẻ non, yếu
ớt không mút được vú mẹ, hay trong trường hợp bị mắc một số bệnh không
bú được cần vắt sữa cho trẻ ăn bằng thìa [34].


12

1.4.4. Thời điểm cai sữa
Thời gian cho trẻ bú kéo dài trung bình 18 – 24 tháng hoặc lâu hơn nếu
có thể [32], [34], không nên cai sữa cho trẻ trước 12 tháng, khi cai sữa nên cai
từ từ để dần dần thay thế sữa mẹ và quen dần với thức ăn thay thế. Không cai
sữa khi trẻ bị ốm, bị tiêu chảy vì thức ăn thay thế hoàn toàn sữa mẹ dễ làm
cho trẻ rối loạn tiêu hóa gây hậu quả trẻ bị SDD. Khi cai sữa chú ý chế độ ăn
của trẻ phải đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu dinh dưỡng của trẻ với cách chế
biến thích hợp [34].
1.4.5. Cách cho trẻ bú: Khi cho trẻ bú, người mẹ ở tư thế thoải mái, có thể
nằm hoặc ngồi cho bú, để toàn thân trẻ sát vào người mẹ, miệng trẻ ngậm sâu

vào quầng đen bao quanh núm vú để động tác mút được tốt hơn. Thời gian
cho bú tuỳ theo đứa trẻ. Cho trẻ bú đến khi trẻ no, tự rời vú mẹ. Sau khi bú
xong một bên, nếu trẻ chưa đủ no thì chuyển sang vú bên kia [7].
Trẻ cần bú hết cả sữa đầu và sữa cuối [32].
Đối với bà mẹ mổ đẻ, trong những ngày đầu hậu phẫu có thể cho trẻ bú
ở tư thế nằm. Bà mẹ nằm nghiêng một bên, có thể dùng nhiều gối lót sau lưng
cho đỡ mỏi. Nhờ một người phụ ẵm bé cho nằm hướng mặt và thân bé về phía
bà mẹ, trong lúc tay của bà mẹ giữ chặt lấy mông bé. Nên lót thêm một gối
dầy phía trước bụng để tránh bé quấy đạp vào vết mổ ổ bụng [24].
1.5. Tình hình nuôi con bằng sữa mẹ, bú sớm trong vòng 1 giờ đầu sau
sinh trên Thế giới và Việt Nam
1.5.1. Tình hình nuôi con bằng sữa mẹ trên Thế giới
Trong những năm gần đây các số liệu từ nhiều cuộc điều tra cho thấy
xu hướng NCBSM có dấu hiệu hồi phục: 98% trẻ ở Châu Phi, 96% trẻ ở Châu
Á và 90% trẻ ở Nam Mĩ đã được nuôi bằng sữa mẹ. Ngay tại Việt Nam con số
này cũng xấp xỉ 90% [35].
Ở Đông Nam Á, sữa mẹ vẫn là cách nuôi chính của các bà mẹ nhưng
có sự khác biệt lớn giữa nông thôn và thành thị về khoảng thời gian trẻ được


13

bú mẹ. Ở Bangkok theo điều tra năm 1987, thời gian cho con bú trung bình là
4 tháng trong khi ở nông thôn là 14 tháng [35].
Tỉ lệ trẻ em được nuôi bằng sữa mẹ và thời gian kéo dài việc NCBSM
khác nhau tùy các nước ở trên thế giới. Ở nông thôn Malaysia, tỉ lệ NCBSM
giảm một cách nhanh chóng từ 80% (1950-1969) xuống 69% (1989-1990). Ở
Trung Quốc từ 63% xuống 22% và ở Ấn Độ từ 70 – 40%. Tại Bắc Kinh
(Trung Quốc) khoảng 80% trẻ được bú mẹ trong những năm 1950, nhưng tỉ lệ
này giảm còn 13,8% ở thành phố năm 1984 và sau đó tỉ lệ trẻ được bú mẹ duy

trì khoảng 13-14% trong những năm 1987-1990. Chua (1989) nghiên cứu ở
Singapore thấy tỉ lệ trẻ được bú mẹ là 85-90% ở những bà mẹ giàu và 90% ở
những bà mẹ nghèo trong những năm 1950-1960, sau đó giảm xuống còn
60% và 36% [36]. Thời gian cho con bú cũng giảm ở Philippin từ năm 1973
đặc biệt ở thành phố trong các nhóm có điều kiện kinh tế và trình độ văn hóa
cao (Williamson 1990) [37].
Theo MICS 2006 chỉ có 16,9% hay cứ 6 bà mẹ mới có 1 người nuôi
con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu đời; 58% số bà mẹ cho trẻ bú
ngay trong vòng 1 giờ sau khi sinh. Tỉ lệ trẻ tiếp tục được bú mẹ cho tới khi 2
tuổi theo khuyến cáo vẫn dừng ở mức 22,9% [38].
Ở Châu Phi tỉ lệ trẻ được bú mẹ đến 12 tháng dao động khoảng 55-85%
tùy từng vùng. Nhìn chung tỉ lệ cho con bú ở các vùng nông thôn và các bà
mẹ thuộc nhóm kinh tế thấp cao hơn vùng thành thị. Trong số 23 nước ở Châu
Phi cho ăn bổ sung thường bắt đầu sớm 2-4 tháng [35].
Ở Châu Âu đã có xu hướng tăng cường NCBSM tỷ lệ các bà mẹ
NCBSM ở các nước Bungari, Đức, Hungari, và Thụy Sỹ dao động quanh
90%, tỷ lệ ở các nước Tây Âu thấp hơn dao động từ 35-67% [35].
1.5.2. Tình hình nuôi con bằng sữa mẹ Việt Nam
Ở Việt Nam từ đầu những năm 1980 đã có những nghiên cứu về tập
quán và thực hành nuôi con được tiến hành bởi nhiều tác giả và trong nhiều


×