Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Chính sách tiền tệ phi truyền thống và thực trạng sử dụng chính sách tiền tệ phi truyền thống ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.58 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ QUỐC TẾ
--------***--------

TIỂU LUẬN KINH TẾ VĨ MÔ 2

CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ PHI TRUYỀN THỐNG
VÀ THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
PHI TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Nhóm: 3
Lớp: KTE402.2
Khoá: 56
Giáo viên hướng dẫn: ThS. Nguyễn Thị
Hồng

Hà Nội, tháng 5 năm 2019


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

2

STT

Chữ viết tắt

Giải thích

1


CSTT

Chính sách tiền tệ

2

NHTW

Ngân hàng Trung ương

3

NHTM

Ngân hàng thương mại

4

LS

Lãi suất

5

TD

Tín dụng

6


TPCP

Trái phiếu chính phủ

7

NSNN

Ngân sách Nhà nước

8

TCTD

Tổ chức tín dụng

9

NH

Ngân hàng

10

TTCK

Thị trường chứng khoán

2



MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cùng với chính sách tài khoá, chính sách tiền tệ đã góp phần quan trọng trong việc duy trì
tốc độ tăng trưởng và sự ổn định của nền kinh tế.
Mục tiêu chính của chính sách tiền tệ là nhằm làm ổn định giá trị của đồng tiền đồng thời
kiểm soát lạm phát, góp phần thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân
dân. Trên cơ sở đó, NHTW Việt nam đã điều hành chính sách tiền tệ khá linh hoạt, thong qua các
công cụ chính sách như điều tiết cung tiền, chính sách tỷ giá, lãi suất, đặt ra hạn mức tín dụng
cho hệ thống NHTM, các công cụ gián tiếp như quy định dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn,…
Ngày nay, NHTW chủ yếu thực thi CSTT bằng cách đặt ra một mục tiêu cho lãi suất (LS)
qua đêm trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng và điều chỉnh lượng cung tiền của NHTW hướng
tới mục tiêu đó thông qua nghiệp vụ thị trường mở. Tuy nhiên, trong một số thời kỳ, CSTT
truyền thống không thực sự có hiệu quả mặc dù NHTW vẫn nỗ lực nhằm đạt được những mục
tiêu đề ra. Do vậy, CSTT phi truyền thống được xem như một công cụ để đạt được mục tiêu của
NHTW.
Căn cứ vào thực tại và tính cấp bách của đề tài, nhóm chúng em quyết định lựa chọn đề tài
"Chính sách tiền tệ phi truyền thống và thực trạng sử dụng chính sách tiền tệ phi truyền
thống ở Việt Nam hiện nay” nhằm phân tích cụ những tác động cuả CSTT phi truyền thống lên
nền kinh tế tại Việt Nam đồng thời đề ra các giải pháp làm gia tăng tính hiệu quả của CSTT phi
truyền thống.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích khái niệm, mục tiêu và nội dung của CSTT truyền thống và CSTT phi truyền
thống và thực trạng của chính sách tiền tệ phi truyền thống ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Phân tích tác động của CSTT phi truyền thống lên nền kinh tế của Việt Nam từ đó đánh giá
mức độ hiệu quả của CSTT phi truyền thống, đồng thời đề ra các giải pháp gia tăng hiệu quả của
CSTT phi truyền thống.

4. Đối tượng nghiên cứu

3

3


Tập trung chủ yếu vào việc đưa ra cơ sở lý luận của CSTT và thực tiễn sử dụng của CSTT
phi truyền thống.

CHƯƠNG 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1

Chính sách tiền tệ truyền thống
Chính sách tiền tệ truyền thống là việc NHTW sử dụng các công cụ của mình nhằm thay
đổi lượng cung tiền qua đó tác động đến tổng cầu và sản lượng.
Chính sách tiền tệ truyền thống có vai trò vô cùng quan trọng trong việc điều tiết lượng
tiền lưu thông trong toàn bộ nền kinh tế. Thông qua chính sách tiền tệ ngân hàng Trung ương có
thể kiểm soát được hệ thống tiền tệ để từ đó kiềm chế và đẩy lùi lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá
hối đoái, đạt được toàn dụng lao động hay tăng trưởng kinh tế.
Tùy tình trạng của các nước mà chính sách tiền tệ có thể xác lập theo hai hướng: chính
sách tiền tệ mở rộng và chính sách tiền tệ thắt chặt.
Các công cụ của chính sách tiền tệ:
• Công cụ tái cấp vốn: là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung ương đối với các



Ngân hàng thương mại. Khi cấp 1 khoản tín dụng cho Ngân hàng thương mại, Ngân hàng

Trung ương đã tăng lượng tiền cung ứng đồng thời tạo cơ sở cho Ngân hàng thương mại
tạo bút tệ và khai thông khả năng thanh toán của họ.
Dự trữ tỷ lệ bắt buộc: là tỷ lệ phần trăm tính trên tổng tiền gửi huy động được mà các



NHTM không được sử dụng để kinh doanh, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán (cho
vay) của các Ngân hàng thương mại.
Nghiệp vụ thị trường mở: là việc NHTW mua và bán giấy tờ có giá ngắn hạn với NHTM



với mục đích tác động đến thị trường tiền tệ, điều hòa cung cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh
hưởng đến khối lượng dự trữ của các NHTM tại NHTW, từ đó tác động đến khả năng
cung ứng tín dụng của các ngân hàng này. Thị trường mở là một trong những cánh cửa để
NHTW phát hành tiền vào lưu thông hoặc rút bớt khối lượng tiền tệ lưu thông.
Lãi suất tín dụng: là công cụ gián tiếp trong thực hiện chính sách tiền tệ bởi vì sự thay đổi
lãi suất không trực tiếp làm tăng thêm hay giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, mà có thể
làm kích thích hay kìm hãm sản xuất.

4

4




Tỷ giá hối đoái: là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Nó vừa phản

ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiện quan hệ cung cầu ngoại hối. Kết quả của

sự can thiệp của NHTW vào thị trường ngoại hối nhằm ổn định tỷ giá hối đoái, để giữ
vững sức mua đối ngoại của đồng tiền bản tệ sẽ làm cho tiền lưu thông tăng lên hoặc
giảm đi.
Hạn mức tín dụng: là một công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành chính của NHTW để
khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng.
1.2 Chính sách tiền tệ phi truyền thống
1.2.1
Khái niệm
CSTT phi truyền thống: IMF (2013)
- Trong các giai đoạn thị trường bất ổn nghiêm trọng và khủng hoảng kinh tế toàn cầu, các
công cụ và các kênh truyền dẫn CSTT truyền thống, đặc biệt là lãi suất trở nên kém hiệu quả
hoặc không còn thực hiện được vai trò ổn định thị trường. Khi đó, các NHTW có thể sử dụng
CSTT phi truyền thống với các nghiệp vụ phổ biến bao gồm: thay đổi kết cấu, mở rộng bảng cân
đối của NHTW và định hướng cho lãi suất dự tính trong dài hạn để thay thế.
- CSTT phi truyền thống được thực hiện nhằm ngăn chặn khủng hoảng của hệ thống tài
chính, khôi phục chức năng của thị trường tài chính và trung gian tài chính, nhờ đó cải thiện tình
trạng nền kinh tế
1.2.2
Điều kiện áp dụng
Trong một số thời kỳ, khi CSTT truyền thống không thực sự có hiệu quả, có hai trường
hợp có thể xảy ra:
Thứ nhất, khi những cú sốc kinh tế quá mạnh làm LS danh nghĩa cần được đưa về mức
0%. Ở mức này, việc cắt giảm thêm LS là điều không thể. Vì vậy CSTT mở rộng chỉ có thể được
thực hiện bằng cách sử dụng các công cụ CSTT phi truyền thống, thông qua:
− Tác động vào LS kỳ vọng trung, dài hạn;
− Thay đổi thành phần của bảng cân đối NHTW;
− Mở rộng bảng cân đối của NHTW.
Thứ hai, khi LS vẫn ở trên mức 0% nhưng các kênh truyền dẫn CSTT truyền thống bị suy
yếu, trong tình huống này, NHTW có thể tiếp tục giảm LS mục tiêu (tiếp tục sử dụng CSTT
truyền thống) hoặc chuyển sang sử dụng các công cụ phi truyền thống.

CSTT phi truyền thống đã được sử dụng rộng rãi từ đầu thế kỉ 20 gắn với những cuộc
khủng hoảng kinh tế lớn.
• Một số hướng mà CSTT phi truyền thống có thể tác động tới các biến số kinh tế:
• Tác động đến kỳ vọng của thị trường, qua đó làm thay đổi LS dài hạn thực tế và cuối

5



cùng sẽ ảnh hưởng đến chi phí của khoản vay.
Làm thay đổi các điều kiện thị trường của các tài sản tài chính có thời gian đáo hạn khác



nhau như: trái phiếu chính phủ (TPCP), thương phiếu hoặc các tài sản tài chính nước
ngoài. Loại chính sách này thường được đề cập đến với tên gọi “nới lỏng tín dụng (TD)”
1.2.3
Các công cụ
1.2.3.1 Nới lỏng định lượng và nới lỏng tín dụng
Nới lỏng định lượng:
5


NHTW sử dụng nó để kích thích nền kinh tế bằng cách mua một khối lượng tài sản tài
chính phi rủi ro nhất định từ các NHTM và các tổ chức tư nhân khác, từ đó, nâng giá các tài sản
tài chính này và làm giảm LS của chúng đồng thời kích thích tăng lượng tiền cơ sở.
Ban đầu NHTW thực hiện CSTT mở rộng bằng cách mua TPCP ngắn hạn nhằm hạ LS
ngắn hạn trên thị trường. Tuy nhiên, khi LS ngắn hạn đã giảm đến mức 0%, biện pháp này mất
hiệu lực. Khi đó, NHTW có thể sử dụng nới lỏng định lượng nhằm tăng cường kích thích nền
kinh tế bằng cách mua các tài sản có thời gian đáo hạn dài hơn TPCP ngắn hạn nhằm làm giảm

LS dài hạn trên đường cong LS.
Tuy nhiên, biện pháp này cũng tiềm ẩn rủi ro: nếu chính sách trở nên hiệu quả quá mức
mong đợi trong việc điều chỉnh giảm phát, sẽ dẫn đến tình trạng lạm phát cao hơn trong dài hạn
(do cung tiền tăng), hoặc chính sách sẽ không đủ hiệu quả nếu các NH không cho vay dự trữ bổ
sung.
NHTW lựa chọn cách mua các TPCP dài hạn từ các ngân hàng chứ không phải bất kì loại
tài sản nào, vì lý do: (i) LS TPCP có vai trò như một tiêu chuẩn để định giá các chứng khoán có
rủi ro cao hơn do tư nhân phát hành. Khi TPCP dài hạn được mua, LS của các trái phiếu do công
ty phát hành được mong đợi cũng sẽ giảm song song với LS TPCP; (ii) LS dài hạn giảm sẽ kích
thích đầu tư dài hạn và làm tăng tổng cầu, nhờ đó ổn định giá cả.
Sự ổn định của hệ thống tài chính đóng vai trò quan trọng trong sự thành công của biện
pháp nới lỏng định lượng. Khi các NHTM dừng những khoản vay trung gian, chính sách này sẽ
không còn tác dụng. Nới lỏng định lượng được xem là thành công khi nó thu hẹp được chênh
lệch giữa LS phải trả đối với một số công cụ TD nhất định và LS chính sách, từ đó hạn chế rủi ro
thiếu tính thanh khoản và khuyến khích NH cấp TD cho những đối tượng sẵn sàng trả LS cao
hơn.
• Nới lỏng tín dụng:
NHTW trực tiếp nắm giữ các tài sản cho đến khi đáo hạn hoặc bán lại các tài sản đó, do đó,
rủi ro của các tài sản này sẽ nằm trên bảng cân đối của NHTW. Một cách khác để mở rộng bảng
cân đối NHTW là nới lỏng điều kiện tài chính hoặc cho các NHTM vay với thời gian đáo hạn lâu
hơn, với tài sản thế chấp là các tài sản mà thị trường của chúng đang tạm thời bị suy giảm. Chính
sách này ảnh hưởng trực tiếp đến đường cong LS theo chiều ngang hay theo thời gian chính sách
được tiến hành hoặc cam kết tiến hành. Chiều ngang của đường cong LS sẽ được kéo dài đến
thời hạn NHTW cam kết tiến hành gói thầu. Ví dụ, nếu NH cam kết tiến hành hoạt động tái cấp
vốn 6 tháng trong 1 năm, chiều ngang của đường cong LS trong 2 năm sẽ có xu hướng bị ảnh
hưởng.
Khi thực hiện CSTT mở rộng, việc tăng lượng tiền cơ sở sẽ dựa trên sự ưa thích tiền mặt
của các NHTM và mức độ khủng hoảng của hệ thống NH. Trong điều kiện bình thường, khi thị
trường tài chính hoạt động tốt, kích thước của bảng cân đối NHTW sẽ ở mức mà LS qua đêm
trùng với LS tái cấp vốn ngắn hạn và dự trữ dư thừa là không đáng kể, nhưng trong thời kỳ

khủng hoảng, bảng cân đối NHTW sẽ bị mở rộng do nhu cầu dự trữ dư thừa của các NHTM gia
tăng, và sẽ mở rộng đến mức làm LS qua đêm giảm xuống còn thấp hơn so với LS tái cấp vốn
ngắn hạn.
6

6


Biện pháp này cũng cho phép các đối tác của NHTW tự lựa chọn loại tài sản thế chấp trong
nghiệp vụ tái cấp vốn. Trong giai đoạn thị trường bất ổn, xu hướng tự nhiên của các NHTM là
gia tăng sử dụng các tài sản thế chấp có chất lượng thấp hơn. Việc biến những nhóm tài sản nhất
định trong các hoạt động của CSTT từ không hợp lệ thành hợp lệ sẽ tạo điều kiện cho hoạt động
thương mại diễn ra giữa các thành viên tham gia thị trường.
1.2.3.2 Định hướng mục tiêu
Định hướng mục tiêu (hay hiệu ứng cam kết): Là một trong những công cụ của NHTW
nhằm truyền tải đến công chúng những thông điệp về CSTT trong tương lai của mình, trên cơ sở
đó, tác động đến các quyết định tài chính của hộ gia đình, doanh nghiệp và các nhà đầu tư.
Có 2 loại định hướng mục tiêu: Định hướng mục tiêu kiểu Delphic và Định hướng mục
tiêu kiểu Odyssian
• Định hướng mục tiêu kiểu Delphic
Là định hướng mục tiêu mà trong đó, NHTW đưa ra khẳng định về triển vọng của nền kinh
tế mà không cam kết gì thêm. Loại định hướng mục tiêu này thường có xu hướng ảnh hưởng đến
LS ngắn hạn
• Định hướng mục tiêu kiểu Odyssian
Khi LS ngắn hạn đã chạm mức sàn 0%, NHTW cần có những tín hiệu mạnh mẽ hơn nếu
muốn kích thích nền kinh tế, khi đó, NHTW sẽ sử dụng định hướng mục tiêu kiểu Odyssian bằng
cách thuyết phục thị trường rằng khi nền kinh tế dần dần phục hồi, NHTW sẽ không nâng mức
LS ngay lập tức để phản ứng với sự gia tăng của lạm phát và tăng trưởng kinh tế, thay vào đó, sẽ
chờ đợi một thời gian. Nói cách khác, NHTW cam kết duy trì một mức LS nào đó trong một
khoảng thời gian nhất định, theo đó, thu nhập khả dụng của người đi vay sẽ tăng lên và khuyến

khích các hoạt động trong nền kinh tế.
Việc sử dụng công cụ “định hướng mục tiêu” giúp làm rõ định hướng chính sách của
NHTW, nhờ đó, không chỉ kích thích được nền kinh tế khi LS đã chạm mức 0%, mà còn làm
giảm tâm lý lo ngại, không chắc chắn của các chủ thể trên thị trường tài chính, qua đó, giảm sự
biến động của LS (thậm chí là phần bù rủi ro). Chẳng hạn: Nếu xuất hiện dấu hiệu một sự quan
ngại về việc LS mục tiêu sẽ tiếp tục duy trì ở mức thấp, LS của các loại trái phiếu, hợp đồng và
công cụ TD khác có thể sẽ tăng lên, điều này sẽ không khuyến khích dân chúng đi vay và tiêu
dùng. Trong trường hợp này, nếu như NHTW đưa ra thông điệp rằng việc giữ LS thấp là chính
sách của họ, khi ấy, thị trường sẽ phản ứng phù hợp với chính sách tổng thể.
1.2.3.3 Lãi suất âm
• Bối cảnh áp dụng:
(i) Thị trường tiền tệ liên ngân hàng dư thừa thanh khoản lớn (là hệ quả của việc NHTW
thực hiện nới lỏng định lượng
(ii) Dư thừa dòng vốn nước ngoài chảy vào trong nước
• Phương thức thực hiện
Lãi suất tiền gửi dự trữ vượt mức âm → Lãi suất chính khác giảm → Lãi suất liên ngân
hàng ngắn hạn giảm xuống

7

7


CHƯƠNG 2

THỰC TRẠNG SỬ
DỤNG CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ PHI TRUYỀN
THỐNG Ở VIỆT NAM
2.1 Các chính sách nới lỏng tín dụng

2.1.1
Tín dụng hỗ trợ nhà ở
Ngày 10/4/2012, NHNN ra công văn số 2056/NHNN-CSTT nhằm nới lỏng tiêu dùng Bất
động sản (BĐS), đưa một số nhóm tiêu dùng BĐS ra khỏi nhóm tiêu dùng không khuyến khích
như xây dựng, sửa chữa mua nhà để bán, cho thuê; xây dựng các công trình dự án phát triển
trong các khu đô thị,…
Bên cạnh đó, NHNN cũng đã ban hành Thông tư số 11/2013/TT-NHNN, theo đó, quy định
5 NHTM Nhà nước và NHTM cổ phần do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ sẽ tiến hành
cho vay theo quy định. Mức lãi suất cho vay hỗ trợ nhà ở của ngân hàng đối với khách hàng
được NHNN công bố hàng năm và áp dụng cho các khoản vay có dư nợ trong năm. Định kì vào
tháng 12 hàng năm, NHNN xác định và công bố mức lãi suất áp dụng cho năm tiếp theo, bằng
khoảng 50% lãi suất cho vay bình quân của các ngân hàng trên thị trường nhưng không vượt quá
6%/năm. Thời gian tối đa áp dụng mức lãi suất cho vay được quy định là 10 năm với khách hàng
mua, thuê, thuê mua nhà ở xã hội và thuê, mua nhà thương mại và 5 năm đối với khách hàng là
doanh nghiệp.
NHNN thực hiện giải ngân khoản cho vay tái cấp vốn khoảng 30.000 tỷ đồng đối với ngân
hàng trên cơ sở dư nợ cho vay của ngân hàng đối với khách hàng. Lãi suất tái cấp vốn của
NHNN thấp hơn lãi suất cho vay của ngân hàng đối với khách hàng là 1,5%/năm tại cùng thời
điểm. Đối tượng vay vốn theo quy định trong Thông tư 11 bao gồm: “Các đối tượng mua, thuê,
thuê mua nhà ở xã hội và thuê, mua nhà ở thương mại có diện tích nhỏ hơn 70 m2, giá bán dưới
15.000.000 đồng/m2” và “Doanh nghiệp là chủ đầu tư dự án xây dựng nhà ở xã hội, doanh
nghiệp là chủ đầu tư dự án nhà ở thương mại được chuyển đổi công năng sang dự án nhà ở xã
hội”. Ngoài ra, một quy định đáng chú ý của NHNN là giới hạn tổng mức cho vay của các ngân
hàng đối với doanh nghiệp chiếm tối đa 30% nguồn tái cấp vốn hỗ trợ nhà ở.
2.1.2 Tín dụng hỗ trợ ngư dân
Ngày 07/7/2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định 67/2014/NĐ-CP đưa ra những
ưu đãi về vốn vay đối với các chủ tàu được vay ngân hàng tối đa 95% tổng giá trị đầu tư đóng
mới, nâng cấp; thời hạn cho vay sẽ kéo dài trong 11 năm, trong đó năm đầu tiên chủ tàu được
8
8



miễn lãi và chưa phải trả nợ gốc; lãi suất được duy trì ổn định 7%/năm, nhưng chủ tàu chỉ phải
trả 1 - 3%/năm, phần còn lại do Ngân sách Nhà nước (NSNN) cấp bù.
Trong trường hợp chủ tàu gặp rủi ro do nguyên nhân khách quan, bất khả kháng, được
ngân hàng cơ cấu lại thời hạn trả nợ và được xử lý theo hợp đồng bảo hiểm. Chủ tàu khai thác
hải sản và cung cấp dịch vụ hậu cần khai thác hải sản hoạt động nghề cá có hiệu quả, sẽ được
vay tối đa 70% giá trị cung cấp dịch vụ hậu cần đối với tàu dịch vụ hậu cần khai thác hải sản, tối
đa 70% chi phí cho một chuyến đi biển đối với tàu khai thác hải sản, với LS 7%/năm.

2.1.3
Tín dụng hỗ trợ nông nghiệp, nông thôn
NHNN đã ban hành Thông tư số 14/TT-NHNN (14/6/2010) và Thông tư số 20/TT-NHNN
(29/09/2010) hướng dẫn chi tiết việc thực hiện các biện pháp điều hành công cụ để hỗ trợ TCTD
cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn. Từ tháng 5/2012, NHNN còn quy định trần lãi suất
cho vay đối với 5 lĩnh vực ưu tiên, theo đó, lãi suất cho vay đã giảm mạnh, từ trên 20%/năm vào
năm 2011 xuống còn 15%/năm vào năm 2012 và đến năm 2014 còn 8%/năm. Hiện nay, lãi suất
cho vay đối với khu vực này phổ biến mức 6,5 - 8%/năm, thấp hơn so với lãi suất cho vay thông
thường.
Bảng 1: Tăng trưởng tín dụng khu vực nông nghiệp, nông thôn
Thời điểm

Dư nợ cho
vay
(tỷ đồng)

Tỷ trọng trên tổng dư
nợ cho vay nền kinh
tế (%)


Tăng so với năm 2009
(khi NĐ41 chưa ra đời)
(lần)

Tăng so với
cuối năm
trước

Cuối 2012

561.533

18

1.9

12.52

30/06/201
3

621.584

19.26

2.2

10.69

30/09/2013


646.706

19.58

2.2

15.17

31/12/2013

671.986

19.32

2.29

19.67

31/12/2014

758.000

19.3

2.56

12.8

31/05/2015


798.000

19.3

2.7

7.17

Nguồn: Tổng hợp và tính toán từ nhiều nguồn
2.1.4
Cho vay ưu đãi
NHTW đã ban hành Thông tư 06/2009/TT-NHNN quy định chính sách tiêu dùng ưu đãi
cho 61 huyện nghèo để hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững. Theo đó, các đối tượng ưu đãi khi
vay vốn tại các NHTM Nhà nước sẽ được NSTW hỗ trợ 50% lãi suất tiền vay. Bên cạnh đó,
Thông tư còn quy định mức lãi suất 0% cho các hộ nghèo khi vay ưu đãi một lần tối đa 5 triệu
đồng để mua giống chăn nuôi hoặc giống thủy sản, phát triển ngành nghề thủ công nghiệp trong
thời gian 2 năm.
9

9


Ngày 1/10/2014, NHTW tiếp tục chỉ đạo nâng mức cho vay ưu đãi tối đa lên 10 triệu đồng,
đồng thời xác định mức lãi suất bằng 50% lãi suất cho vay hộ nghèo trong từng thời kỳ, tăng thời
gian áp dụng lãi suất ưu đãi lên 3 năm kể từ ngày nhận vốn vay.
2.2 Các chính sách định hướng mục tiêu
2.2.1
Đối với thị trường ngoại hối
Những năm trước 2011 thị trường ngoại hối diễn biến rất phức tạp và để chấn chỉnh,

NHTW đã ban hành hàng loạt văn bản quy phạm pháp luật: Thông tư 13/2011/TT-NHNN
(31/5/2011) quy định việc mua, bán ngoại tệ của tập đoàn kinh tế, Tổng công ty Nhà nước;
Thông tư 15/2011/TT-NHNN quy định việc mang ngoại tệ, VND bằng tiền mặt của cá nhân khi
xuất cảnh, nhập cảnh; Quyết định 1972/QĐ-NHNN (31/8/2011) áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối
với các TCTD áp dụng cho tiền gửi bằng ngoại tệ của các TCTD ở nước ngoài (1%); Thông tư
02/2012/TT-NHNN (27/2/2012) hướng dẫn giao dịch hối đoái giữa NHTW và các TCTD, chi
nhánh NH nước ngoài; Quyết định 857/QĐ-NHNN (2/5/2012) về việc cho vay ngắn hạn bằng
ngoại tệ của TCTD, chi nhánh NH nước ngoài đối với khách hàng vay là người cư trú đến hết
ngày 31/12/2012
Quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ thông qua các Quyết định 750/QĐ-NHNN
09/04/2011, Quyết định 1209/QĐ-NHNN (1/6/2011) và Quyết định 1925/QĐ-NHNN
(26/8/2011).

Hình 1: Biểu đồ dự trữ ngoại hối Việt Nam qua các năm (Nguồn MBS)
Thông tư 05/2011/TT-NHNN (10/3/2011) quy định về thu phí cho vay của TCTD đối với
khách hàng; Thông tư 07/2012/TT-NHNN (20/3/2012) quy định về trạng thái ngoại tệ của các
TCTD, chi nhánh NH nước ngoài.Để xử lý tình trạng “đô la hóa” thì NHNN đã ra Quyết định
2589/QĐ-NHNN (17/12/2015) trong đó quy định LS huy động bằng USD là 0%/năm.
Ngày 31/12/2015, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Quyết định số
2730/QĐ-NHNN về việc công bố tỷ giá trung tâm của VND và USD, tỷ giá tính chéo của VND
và các ngoại tệ khác.Tỷ giá trung tâm được coi là tỷ giá chính thức vào giờ chốt giao dịch cuối
10

10


ngày trước đó cộng với một biên độ nhất định do NHTW quyết định dựa trên các yếu tố diễn
biến thị trường, và được lấy làm tỷ giá giao dịch của ngày hôm sau. Việc Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam (NHNN) quyết định áp dụng cách thức điều hành tỷ giá linh hoạt thông qua tỷ giá
trung tâm xuất phát từ nguyên do năm 2015 thị trường tiền tệ có nhiều diễn biến khó lường.

Cơ chế tỷ giá trung tâm được chính thức thực hiện kể từ ngày 04/01/2016. Việc công bố tỷ
giá trung tâm được đánh giá là bước đi tiếp theo trong các biện pháp đồng bộ được NHNN thực
hiện nhằm thực hiện mục tiêu xuyên suốt là nâng cao vị thế của đồng Việt Nam, ổn định tỷ giá
và thị trường ngoại hối, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ hoạt động sản xuất, kinh doanh
của doanh nghiệp. Cách thức điều hành tỷ giá mới được kỳ vọng là cho phép tỷ giá biến động
linh hoạt hàng ngày theo diễn biến cung cầu ngoại tệ trong nước, biến động trên thị trường thế
giới, nhưng vẫn đảm bảo vai trò quản lý của NHNN theo định hướng điều hành chính sách tiền
tệ.
Tỷ giá trung tâm được NHTW tính toán dựa trên 3 cấu phần, bao gồm:
(i) Diễn biến tỷ giá trên thị trường quốc tế của 8 đồng tiền của các nước, vùng lãnh thổ có quan
hệ thương mại, đầu tư lớn với Việt Nam (gồm Nhân dân tệ (Trung Quốc), Baht (Thái Lan), SGD
(Singapore), Euro (EU), Won (Hàn Quốc), TWD (Đài Loan), Yên (Nhật Bản) và USD).
(ii) Diễn biến tỷ giá bình quân gia quyền trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng ngày hôm trước;
và (iii) Các cân đối tiền tệ vĩ mô. Cân đối vĩ mô liên quan đến các vấn đề cả kinh tế trong nước
lẫn quốc tế, bao gồm về đầu tư, thanh toán, thương mại. NHNN sẽ không can thiệp bằng tay một
cách chủ quan lên tỷ giá (Tùng Lâm, 2016).
Có thể thấy, tỷ giá trung tâm mang tính thị trường nhiều hơn, linh hoạt hơn, có tăng, giảm
và đứng yên, không thể hiện một xu hướng rõ rệt nào để có thể đầu cơ.
2.2.2
Đối với thị trường vàng
Từ năm 2011, Chính phủ và NHTW đã có những bước đi mạnh mẽ nhằm ổn định thị
trường vàng, khởi đầu là Thông tư 11/2011/TT-NHNN 29/4/2011 về chấm dứt huy động và cho
vay vốn bằng vàng của TCTD. Chính phủ đã ban hành Nghị định 24/2012/NĐ-CP ngày
03/4/2012 về quản lý hoạt động kinh doanh vàng. Sau đó, NHNN ban hành Thông tư
12/2012/TT-NHNN ngày 27/4/2012 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư
11/2011/TT-NHNN ngày 29/4/2011 về chấm dứt huy động và cho vay vốn bằng vàng của TCTD.
Thông tư 24/2012/TT-NHNN tiếp tục được NHTW ban hành về việc sửa đổi, bổ sung Điều 1
Thông tư 11/2011/TT-NHNN ngày 29/4/2011 về chấm dứt huy động và cho vay vốn bằng vàng
của TCTD. NHNN cũng đã ban hành Quyết định 1623/QĐ-NHNN ngày 23 tháng 8 năm 2012 về
việc tổ chức và quản lý sản xuất vàng miếng. Nhìn chung, các biện pháp này đã góp phần làm ổn

định giá vàng…
2.3 Đánh giá hiệu quả trong việc sử dụng CSTT phi truyền thống ở Việt Nam
2.3.1
Tích cực
CSTT phi truyền thống mà NHNN đưa ra nhìn chung đã có các tác động tích cực đối với
thị trường tài chính vốn bị hoảng loạn sau các tác động tiêu cực của các cú sốc tài chính quốc tế.
Nhìn từ góc độ kinh tế vĩ mô thì việc triển khai các công cụ CSTT phi truyền thống đã giúp
11

11


Chính phủ duy trì được tăng trưởng kinh tế ổn định, công ăn việc làm, thu nhập của dân chúng
ngày càng được cải thiện tích cực, an sinh xã hội được duy trì.
Trong việc áp dụng cơ chế tỷ giá trung tâm, NHNN sẽ đạt được một số mục tiêu cụ thể như
sau:
• Với tỷ giá diễn biến theo ngày và cơ chế giao dịch kỳ hạn, NHNN sẽ hạn chế được tình


trạng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ.
Hỗ trợ sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp xuất khẩu trên thị trường quốc tế



Các NHTM chủ động hơn trong giao dịch ngoại tệ, cùng với đó sẽ khuyến khích cả các
NHTM và doanh nghiệp tích cực sử dụng các công cụ phái sinh nhiều hơn để hạn chế rủi
ro tỷ giá

2.3.2
Hạn chế

Nguyên nhân thứ nhất là do mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong thời gian
qua chủ yếu dựa vào vốn, trong đó nguồn vốn từ ngân hàng đóng một vai trò rất lớn. Bên cạnh
đó, có thể thấy các biện pháp nới lỏng NHNN đưa ra đều tập trung vào việc giảm lãi suất cho các
ngành, các khu vực trọng điểm, thực hiện áp lãi suất trần và giảm lãi suất tái cấp vốn nhằm
khuyến khích nguồn vốn chảy vào các khu vực còn yếu. Tuy nhiên tăng trưởng tín dụng lại kém
nhạy cảm với lãi suất. Điều đó có nghĩa là dù lãi suất cao, các doanh nghiệp vẫn tìm mọi cách để
vay vốn ngân hàng, và ngược lại, lãi suất thấp cũng chưa hẳn góp phần kích thích các doanh
nghiệp vay vốn.
Có thể giải thích một phần nguyên nhân của hiện tượng trên là do sự phối hợp chưa đồng
bộ giữa các Bộ, ban, ngành với NHNN, trong khi phần lớn các quy định về đối tượng được
hưởng mức lãi suất ưu đãi phụ thuộc vào sự điều chỉnh của các cơ quan khác mà không hoàn
toàn nằm trong sự điều hành của NHNN.
Nguyên nhân thứ hai dẫn đến sự chưa hiệu quả của các gói tín dụng và chính sách nới
lỏng tín dụng của NHNN là do tâm lý của chính những người đi vay và có nhu cầu vay vốn. Với
thị trường BĐS, các nhà đầu tư còn khá e dè vì thị trường này rất bấp bênh, hầu hết đều lo ngại
nếu lạm phát thì một lần nữa tăng cao, liệu NHNN có tiếp tục thắt chặt cho vay như năm 2011
hay không. Phía những người dân có nhu cầu mua nhà cũng chưa có nhiều chuyển biến tích cực,
bởi họ còn kỳ vọng vào việc NHNN sẽ tiếp tục nới lỏng gói tín dụng, điều này gây ra tâm lý chờ
đợi. Với gói tín dụng hỗ trợ người nghèo và hỗ trợ nông nghiệp, hỗ trợ ngư dân đánh bắt xa bờ,
các đối tượng được ưu đãi phần lớn chưa có nhiều quan hệ tín dụng với ngân hàng. Hơn nữa, do
tính chất các ngành nghề này phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên và thời tiết nên khả năng
xảy ra rủi ro cao. Bên cạnh đó, do chưa có nhiều hiểu biết về các chính sách tín dụng do Nhà
nước đưa ra và chưa có khả năng xây dựng những phương án kinh doanh, đầu tư hiệu quả để vay
vốn và đảm bảo khả năng trả nợ nên nếu không có sự hướng dẫn cụ thể và chi tiết, hầu hết các
gói nới lỏng tín dụng này vẫn chưa tác động nhiều tới cầu đi vay của người dân.
Nguyên nhân thứ ba là một số NHTM vẫn còn thắt chặt cho vay. Dù được NHNN hỗ trợ
lãi suất tái cấp vốn ở mức rất thấp, nhưng do tình trạng nợ xấu còn cao khiến các ngân hàng
không dám mạo hiểm trong bối cảnh hiện tại. Đặc biệt là với thị trường BĐS khi diễn biến
12


12


những năm vừa qua cho thấy thị trường này quá nhiều rủi ro và chưa thể phục hồi trong tương lai
gần. Với gói hỗ trợ ngư dân, kinh nghiệm từ gói hỗ trợ trong quá khứ là bài học đắt giá và buộc
các NHTM phải hết sức thận trọng trong việc xét duyệt các đối tượng cho vay.
Nguyên nhân thứ tư là thị trường chứng khoán (TTCK) chưa phát triển. Ở những nước có
TTCK hoạt động sôi nổi, NHNN có thể chủ động mua bán chứng khoán trên thị trường để hướng
dòng vốn chảy về nơi cần ưu tiên. Hơn nữa, ở những nước này, độ trễ của chính sách có thể rút
ngắn đáng kể do không phụ thuộc vào những quy định thuộc thẩm quyền của các cơ quan khác.

CHƯƠNG 3

CÁC GIẢI PHÁP
NÂNG CAO TÍNH
HIỆU QUẢ CỦA CSTT
PHI TRUYỀN THỐNG
TẠI VIỆT NAM
3.1

Lựa chọn điều kiện và thời điểm thực hiện phù hợp
Chính sách tiền tệ (CSTT) truyền thống là chính sách tiền tệ có tác động tích cực trong
việc ổn định thị trường tài chính, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, không phải ở điều kiện
và thời điểm nào, chính sách tiền tệ truyền thống cũng có hiệu quả. Khi thị trường tài chính đã
lún sâu vào khủng hoảng, CSTT bị suy giảm hiệu lực, đòi hỏi NHTW cần phải đưa ra các công
cụ khác để tác động lên thị trường tài chính và các công cụ chính sách này được gọi tên là các
công cụ CSTT phi truyền thống.
Vấn đề đặt ra là cần lựa chọn điều kiện và thời điểm như thế nào để Chính sách tiền tệ phi
truyền thống có hiệu quả?
Chính sách tiền tệ phi truyền thống chỉ nên được áp dụng khi chính sách tiền tệ truyền

thống bị kém hiệu lực, nghĩa là khi các công cụ của chính sách tiền tệ truyền thống vẫn còn hiệu
lực tốt thì không nên áp dụng chính sách tiền tệ phi truyền thống. Hơn nữa, việc áp dụng chính
sách tiền tệ phi truyền thống không nên kéo dài, nhất là khi nền kinh tế dần đi vào ổn định.
Vậy việc khi lựa chọn đúng điều kiện và thời điểm thực hiện chính sách tiền tệ phi truyền
thống sẽ đem lại hiểu quả như thế nào? Chúng ta hãy cùng phân tích ví dụ về chính sách tiền tệ
phi truyền thống tại nước Anh nhằm đối phó với khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2007.
Nếu như trước đây ổn định giá trị tiền tệ là mục tiêu hàng đầu của CSTT, thì từ khi khủng hoảng
tài chính khởi phát năm 2007 và ngày càng trầm trọng trong các năm 2008-2009,ổn định tài
chính để đảm bảo hiệu quả truyền dẫn CSTT trở thành ưu tiên hàng đầu của BOE. Để giúp kinh
tế Anh ứng phó với khủng hoảng, bên cạnh việc hạ lãi suất cơ bản về mức tối ưu 0,5% kể từ
tháng 3/2009, MPC đã triển khai một loạt biện pháp CSTT phi truyền thống như tăng cường hỗ
trợ thanh khoản, chương trình mua tài sản (APF) và đề án tài trợ để cho vay (FLS). Ủy ban này
tin rằng động thái trên có thể đảm bảo thực hiện mục tiêu lạm phát cân bằng ở mức 2% trong
13

13


trung hạn. Ban đầu, các công cụ thanh khoản sẽ tiếp cận các ngân hàng để cung vốn quy mô lớn,
nới lỏng điều kiện về tài sản bảo đảm, tăng hoặc không giới hạn hạn mức giao dịch, hoán đổi tài
sản kém lỏng trước khi tiếp cận rộng hơn tới các thị trường tài sản tài chính (thương phiếu, trái
phiếu, quỹ tương hỗ thị trường tiền tệ…). Sự ổn định của thị trường tiền tệ, rộng hơn là thị
trường tài chính, là cơ sở để NHTW tiếp tục sử dụng các công cụ CSTT khác (cả truyền thống
lẫn phi truyền thống). Khi cuộc khủng hoảng trở nên ngày càng trầm trọng, NHTW cần mở rộng
các biện pháp để khắc phục tình trạng hỗn loạn của thị trường trên phạm vi rộng như cung cấp
thanh khoản cho các tổ chức tài chính phi ngân hàng, mua hoặc chấp nhận các tài sản tài chính
mà trước đó chưa từng được giao dịch với NHTW. Nhờ đó, nền kinh tế Anh đã có thể vượt qua
được cuộc khủng hoảng.
Như vậy có thể nói rằng, việc can thiệp quyết đoán, chính xác về thời điểm, sử dụng các
biện pháp chính sách khác nhau với liều lượng thích hợp sẽ làm cho chính sách tiền tệ phi truyền

thống phát huy hiệu quả và có những tác động vô cùng tích cực đến nền kinh tế, mà củ thể ở đây
là trong công cuộc giải cứu nền kinh tế Anh vượt qua bão khủng hoảng.
3.2 Sử dụng công cụ và lựa chọn lĩnh vực phù hợp
Chính sách phi truyền thống bao gồm nhiều công cụ khác nhau tùy thuộc vào điều kiện và
hoàn cảnh từng nước. Với những nước có thị trường tài chính phát triển thì công cụ chính sách
thường được áp dụng là nới lỏng định lượng, nhưng với những nước thị trường tài chính kém
phát triển thì có thể áp dụng chính sách nới lỏng TD, vì triển khai áp dụng chính sách nới lỏng
định lượng không cần hiệu quả cao.
Các công cụ mà NHTW Việt Nam đã và đang sử dụng là các chính sách nới lỏng tín dụng.
Chính vì vậy, dựa trên phân tích những hạn chế và tồn tại của các chính sách đã đưa ra,
nhóm nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hơn hiệu quả của việc thực hiện nới
lỏng tín dụng như sau:
Thứ nhất, cần khẩn trương ban hành các thông tư hướng dẫn các quyết định, nghị định về
chính sách mới. Các chính sách nới lỏng tín dụng hầu hết đều tập trung vào 1 số nhóm đối tượng
cần được quan tâm và tạo điều kiện phát triển như người dân hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm,
ngư nghiệp, người dân ở khu vực nông thôn, vùng sâu vùng xa, người nghèo, người lao động có
thu nhập thấp …Với những đối tượng này, nếu không có sự hướng dẫn chi tiết và thiết thực từ
phía cơ quan chịu trách nhiệm thi hành chính sách, sẽ rất khó để chính sách phát huy được hiệu
quả như mong đợi. Bên cạnh đó, việc thường xuyên có sự kiểm tra, giám sát để kịp thời nắm
được các vấn đề còn tồn tại và tìm cách tháo gỡ các vướng mắc gặp phải trong quá trình triển
khai chính sách bằng cách ban hành các văn bản hướng dẫn bổ sung hoặc sửa đổi là hết sức cần
thiết.
Thứ hai, NHNN và Chính phủ có thể đưa ra những thông cáo và tuyên bố cụ thể, rõ ràng
về nội dung, tiến trình và hướng đi của các chính sách trong tương lai để người dân và các chủ
thể trong nền kinh tế nắm bắt được rõ chủ trương của Nhà nước, từ đó, giảm bớt tâm lý e ngại do
thiếu hiểu biết cũng như những kỳ vọng sai lầm do các thông tin chưa được xác minh trên thực
tế. Với thị trường BĐS, cần xây dựng và công bố những kịch bản đối phó với những biến động
14

14



của nền kinh tế. Có thể coi đây là một dạng của định hướng mục tiêu mà NHTW các nền kinh tế
phát triển sử dụng.
Thứ ba, cần đơn giản hóa các thủ tục, quy định và tập trung quyền kiểm soát các chương
trình tín dụng vào một số ít bộ phận nhất định, chẳng hạn, NHNN và hệ thống các NHTM, nhằm
đẩy nhanh tốc độ hiện thực hóa cũng như kiểm tra và giám sát việc thực hiện các chính sách.
Những hạn chế của các chính sách nới lỏng tín dụng đang sử dụng chủ yếu đều xuất phát từ
nguyên nhân sự phối hợp chưa đồng bộ giữa các cơ quan có trách nhiệm thi hành chính sách.
Việc không phân định rõ ràng cụ thể trách nhiệm của từng đơn vị cũng có thể dẫn đến khả năng,
khi có sai sót xảy ra, các đơn vị sẽ đùn đẩy trách nhiệm cho nhau trong khi chính sách vẫn không
được triển khai hiệu quả.
Thứ tư, việc tiếp tục thực hiện tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, xử lý nợ xấu đóng vai trò
hết sức quan trọng trong việc khơi thông kênh tín dụng, cung cấp nguồn vốn cho nền kinh tế. Từ
khi thành lập đến tháng 8/2015, Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) đã
mua được gần 208 nghìn tỷ đồng nợ xấu, phát hành 177 nghìn tỷ đồng trái phiếu đặc biệt. Tính
đến hết tháng 6/2015, nợ xấu còn 160 nghìn tỷ đồng, chiếm 3,72% tổng dư nợ giảm 305.328 tỷ
đồng so với cuối tháng 9/2012. Tuy nhiên, muốn xử lý nhanh nợ xấu, cần phải có thị trường mua
bán nợ và sự tham gia của các tổ chức nước ngoài. Trên cơ sở đó, khuyến khích các tổ chức này
tham gia vào quá trình xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng. Có như vậy, quá trình này mới
được xử lý một cách nhanh chóng và triệt để.
3.3 Các giải pháp hỗ trợ khác
3.3.1 Quản lý chặt chẽ nhưng linh hoạt các luồng vốn từ bên ngoài
Cần duy trì sự quản lý chặt chẽ nhưng linh hoạt đối với các luồng vốn quốc tế đặc biệt là
các luồng vốn đầu cơ vào bất động sản và chứng khoán bằng cơ chế khuyến khích các dòng vốn
đầu tư sản xuất và dịch vụ, hạn chế các dòng vốn mang tính đầu cơ bằng thuế hay các rào cản kỹ
thuật khác để giảm thiểu biến động bất thường của các dòng vốn này.
3.3.2 Duy trì tỷ giá hối đoái ổn định tương đối
Duy trì tỷ giá hối đoái ổn định tương đối để tránh tình trạng đồng Việt Nam bị định giá
quá cao hay quá thấp do cả hai thái cực này đều gây bất lợi cho nền kinh tế.

3.3.3 Nâng cao vai trò của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán là một bộ phận quan trọng của Thị trường vốn, hoạt động của nó
nhằm huy động những nguồn vốn tiết kiệm nhỏ trong xã hội tập trung thành nguồn vốn lớn tài
trợ cho doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và Chính phủ để phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh
tế hay cho các dự án đầu tư.
Các biện pháp phi truyền thống chính là các chính sách nhằm tác động trực tiếp tới chi
phí và tính sẵn có của các nguồn vốn từ bên ngoài chảy vào các ngân hàng (NH), hộ gia đình và
các công ty phi tài chính. Nguồn tài chính này có thể nằm dưới dạng: NHTW cung cấp tính
thanh khoản, các khoản vay tư nhân, các loại chứng khoán nợ hoặc chứng khoán vốn. Chi phí
của các nguồn tài chính từ bên ngoài này thường cao hơn so với LS liên NH ngắn hạn được điều
chỉnh bởi CSTT. Do đó, các biện pháp phi truyền thống có thể được xem như nỗ lực làm giảm
chênh lệch LS giữa các nguồn vốn từ bên ngoài, qua đó ảnh hưởng tới giá tài sản và luồng tiền
15

15


trong nền kinh tế. Vì những biện pháp này nhằm mục tiêu tác động tới các điều kiện tài chính
nên kết cấu của chúng cũng chịu ảnh hưởng của các điều kiện tài chính. Thị trường chứng khoán
sẽ cung cấp các công cụ để Chính phủ có thể thực hiện chính sách tiền tệ phi truyền thống. Chính
vì vậy, muốn chính sách tiền tệ phi truyền thống phát huy hiệu quả, cần phải nâng cao vai trò của
Thị trường chứng khoán.
Từng bước nâng cao vai trò của TTCK trong nền kinh tế, giúp người dân nhận thức rõ vai
trò kênh huy động nguồn vốn dài hạn cho các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Đồng thời, cần
nhanh chóng đưa ngân hàng trở về đúng với nhiệm vụ vốn có là chủ thể cung cấp các nguồn vốn
ngắn hạn. Hiện nay, chúng ta chưa thực hiện tốt được hai vấn đề: sau hơn 14 năm ra đời, TTCK
vẫn chưa trở thành kênh huy động vốn dài hạn hiệu quả cho các doanh nghiệp. Các nhà đầu tư
tham gia TTCK thiếu chuyên nghiệp, chủ yếu mua bán theo tâm lý đám đông, những tin đồn trên
thị trường thay vì dựa trên cơ sở phân tích năng lực tài chính và năng lực kinh doanh của các
công ty có cổ phiếu được niêm yết. Xuất phát từ tình trạng trên, hệ thống các ngân hàng vẫn là

nguồn cung cấp vốn chính - cả nguồn vốn ngắn hạn và dài hạn - cho nền kinh tế. Bên cạnh đó,
việc mở rộng TTCK giúp NHNN có thêm công cụ và kênh truyền dẫn để điều hành CSTT, giảm
bớt sự phụ thuộc vào các cơ quan khác. Bài học kinh nghiệm rút ra từ việc áp dụng CSTT phi
truyền thống tại các quốc gia phát triển cho thấy, việc có một TTCK phát triển làm tăng tính khả
thi của các biện pháp phi truyền thống. Chẳng hạn, việc thu mua các tài sản chính có rủi ro cao
hơn như các chứng chỉ quỹ ở Nhật Bản nhằm làm giảm phần bù rủi ro chỉ có hiệu quả do các loại
chứng khoán này được giao dịch thường xuyên trên TTCK Nhật Bản. Cuối cùng, việc đa dạng
hóa các loại hình giấy tờ có giá, chứng khoán hóa các khoản nợ ở thời điểm hiện tại sẽ giúp
NHNN can thiệp trực tiếp vào các lĩnh vực cần thiết.

KẾT LUẬN
Thông qua việc nghiên cứu CSTT phi truyền thống và ảnh hưởng của CSTT phi truyền
thống lên nền kinh tế Việt Nam có thể thấy chính sách tiền tệ phi truyền thống ngày càng trở
thành một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách vĩ mô của các quốc gia nhất là trong
quá trình hội nhập kinh tế như hiện nay, chính sách tiền tệ lại càng trở nên cần thiết. Nó không
chỉ đảm bảo cho đất nước tham gia hội nhập, đẩy mạnh tăng trưởng mà còn góp phần giúp phát
triển kinh tế bền vững mà vẫn đảm bảo giữ ổn định giá trị đồng nội tệ, kiềm chế lạm phát, tạo
công ăn việc làm, giảm thất nghiệp, hỗ trợ đời sống nhân dân.
Để giữ vững mục tiêu và nâng cao hiệu quả sử CSTT phi truyền thống Ngân hàng nhà
nước Việt Nam cần thực thị một chính sách tiền tệ linh hoạt trong từng điều kiện cụ thể và có sự
phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác như chính sách tài khoá, chính sách thu nhập,
chính sách kinh tế đối ngoại. Làm được tốt những điều đó, chính sách tiền tệ sẽ thực sự phát huy
được vai trò điều tiết của mình, và trở thành một công cụ hữu hiệu để bình ổn kinh tế, thúc đẩy
tăng trưởng và phát triển.
Với sự khái quát về lý thuyết về CSTT phi thực tế cũng như thực trạng hoạt động của
chính sách tiển tệ phi thực tế tại Việt Nam hi vọng sẽ tạo ra một cái nhìn xác thực hơn về hoạt
16

16



động của Ngân hàng trung ương. Cuối cùng, là một công dân của nước Việt Nam, chúng em luôn
mong chờ ngày mà nền kinh tế Việt Nam cũng ngang bằng và vượt bậc so với các nước trong
khu vực và trên thế giới.

17

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giáo trình KTVM

2.

Tạp chí ngân hàng />leftWidth=20%25&showFooter=false&showHeader=false&dDocName=SBV334383&rightWidt
h=0%25¢erWidth=80%25&_afrLoop=10283223731389407&fbclid=IwAR2zaI7yGzkt8N6
Ap3lWIM7Z_n7cYrpfvLlEhdAiHXX0YP4W40Om5tBQk6w

3.

Tạp chí Thực tiễn và Kinh nghiệm quốc tế
http://210.245.26.173:6788/tapchi/05.2018/system/archivedate/B%C3%A0i%20c%E1%BB
%A7a%20ThS.Ph%E1%BA%A1m%20%C4%90%E1%BB%A9c%20Anh,%20ThS.Tr
%E1%BA%A7n%20Th%E1%BB%8B%20Th%C3%BAy%20An.pdf

4.


Tạp chí Ngân hàng - số 20 - tháng 10/2015
/>
5.

Tạp chí khoa học Đại học Thủ Dầu Một, số 1 (26) – 2016
o/index.php/tdm/article/viewFile/23565/20145

6.

VnEconomy, Trí thức trẻ, Vietstock

7.



8.

/>
9.

/>
10.

/>
11.

/>
12.




13.

/>
18

18


19

19



×