Tải bản đầy đủ (.docx) (58 trang)

KIẾN THỨC, THỰC HÀNH về CÁCH CHO ăn của các bà mẹ và TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG TRẺ BIẾNG ăn dưới 5 TUỔI đến KHÁM tại PHÒNG KHÁM tư vấn DINH DƯỠNG TRẺ EM – VIỆN DINH DƯỠNG năm 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.71 KB, 58 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

ĐỖ ĐẶNG NAM

KIÕN THøC, THùC HµNH VÒ C¸CH CHO ¡N CñA
C¸C Bµ MÑ
Vµ T×NH TR¹NG DINH D¦ìNG TRÎ BIÕNG ¡N D¦íI
5 TUæI
§ÕN KH¸M T¹I PHßNG KH¸M T¦ VÊN DINH D¦ìNG
TRÎ EM – VIÖN DINH D¦ìNG N¡M 2018

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN Y KHOA
KHÓA 2014-2018


Hà Nội - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

ĐỖ ĐẶNG NAM

KIÕN THøC, THùC HµNH VÒ C¸CH CHO ¡N CñA


C¸C Bµ MÑ
Vµ T×NH TR¹NG DINH D¦ìNG TRÎ BIÕNG ¡N D¦íI
5 TUæI
§ÕN KH¸M T¹I PHßNG KH¸M T¦ VÊN DINH D¦ìNG
TRÎ EM – VIÖN DINH D¦ìNG N¡M 2018
Ngành đào tạo : Cử nhân dinh dưỡng
Mã nghành
: 52720303
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN Y KHOA
KHÓA 2014-2018
Người hướng dẫn khoa học:
1. TS.BS. Phan Bích Nga
2. ThS.BS. Lê Vũ Thúy Hương


Hà Nội - 2018


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập và nghiên cứu hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này tôi
đã nhận được quan tâm giúp đỡ của các thầy các cô, các anh các chị đi trước, bạn bè
và gia đình.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới: Ban Giám hiệu nhà trường, Viện Đào tạo
YHDP&YTCC, phòng đào tạo đại học, bộ môn Dinh dưỡng và an toàn thực phẩm,
thư viện và các phòng ban Viện đào tạo Y học Dự phòng và Y tế công cộng Trường Đại học Y Hà Nội, ban lãnh đạo khoa, Phòng khám tư vấn dinh dưỡng trẻ
em Viện Dinh Dưỡng quốc gia đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học
tập, thu thập số liệu, nghiên cứu và hoàn thành khóa luận này.
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới TS.BS Phan Bích Nga Giám đốc Trung tâm Khám Tư vấn Dinh Dưỡng trẻ em Viện Dinh Dưỡng quốc gia
(Bộ Y tế) là người đã hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên
cứu và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.

Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới tất cả những người thân trong gia đình,
bạn bè, đã động viên, chia sẻ khó khăn với tôi suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 08 tháng 05 năm 2017

Đỗ Đặng Nam


LỜI CAM ĐOAN

Kính gửi phòng đào tạo trường Đại học Y Hà Nội, Viện đào tạo Y học Dự
phòng và Y tế công cộng.
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu trong khóa
luận này là trung thực, chính xác và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm với cam đoan trên.
Hà Nội, ngày 08 tháng 05 năm 2017

Đỗ Đặng Nam


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ABS

Ăn bổ sung

BSMHT

Bú sữa mẹ hoàn toàn


BT

Bình thường

CC/T

Chiều cao theo tuổi

CĐ/ĐH

Cao đẳng/đại học

CN/CC

Cân nặng theo chiều cao

CN/T

Cân nặng theo tuổi

FAO

Tổ chức Nông Lương Quốc Tế
(Food and Agriculture Organization)

NCBSM

Nuôi con bằng sữa mẹ

NCBSMHT


Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn

SDD

Suy dinh dưỡng

TTDD

Tình trạng dinh dưỡng

VDD

Viện Dinh dưỡng

WHO

Tổ chức Y tế Thế giới (World Health Organization)


MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC BIỂU ĐỒ


11


ĐẶT VẤN ĐỀ
Dinh dưỡng là một trong những vấn đề thiết yếu được quan tâm hàng đầu hiện
nay trong nước ta nói riêng và trên thế giới nói chung. Là một nước đang phát triển,
chúng ta vẫn đang phải đối mặt với nhiều thách thức của tình trạng thiếu hụt về dinh
dưỡng, đặc biệt là ở phụ nữ và trẻ em.
Theo tổ chức Nông Lương Quốc Tế (FAO), năm 2015 ước tính có khoảng 795
triệu người đang bị suy dinh dưỡng, giảm xuống từ gần một tỉ người (20,5%) trong
vòng một thập kỷ qua [1]. Xu hướng giảm này chủ yếu là ở các nước đang phát
triển, trong đó có Việt Nam. Điều này đồng nghĩa với việc các chương trình phòng
chống suy dinh dưỡng được triển khai trên thế giới và trong nước đã đạt được
những thành tựu đáng kể trong việc cải thiện tình trạng dinh dưỡng. Cụ thể ở Việt
Nam là Chương trình phòng chống suy dinh dưỡng quốc gia năm 2001-2010 đã có
hiệu quả cải thiện tình trạng SDD trong cả nước [2]. Theo số liệu của Viện Dinh
dưỡng Quốc gia (VDD), tỷ lệ SDD ở trẻ dưới 5 tuổi năm 2000 thể nhẹ cân là
33,8%, thể thấp còi là 36,5%, năm 2005 lần lượt thể nhẹ cân là 25,2% thấp còi là
29,6%, năm 2009 thể nhẹ cân là 18,9% và thấp còi là 31,9%. Cho đến năm 2015 thì
số liệu đã cho thấy sự giảm đáng kể ở cả hai thể trong vòng một thập kỷ qua, lần
lượt thể nhẹ cân giảm còn 14,1% và thể thấp còi là 24,6% [3]. Như vậy, tỷ lệ SDD ở
nước ta đã giảm đáng kể so với hơn mười năm về trước, tuy nhiên vẫn còn ở mức
cao hơn so với các nước đang phát triển khác.
Biếng ăn ở Việt nam có xu hướng tăng theo sự phát triển kinh tế: Theo nghiên
cứu đánh giá tình hình bệnh nhi đến khám hàng năm tại khoa khám tư vấn dinh
dưỡng trẻ em - Viện dinh dưỡng Quốc gia, tỷ lệ chẩn đoán biếng ăn ở trẻ đến khám
tại Viện chiếm đến 37%, trong khi đó tỷ lệ ở Mỹ là 25-45%. Hậu quả quan trọng
của biếng ăn là tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em ngày càng nặng và kéo dài, dẫn
đến tăng tỷ lệ mắc các bệnh nhiễm khuẩn do giảm sức đề kháng, đồng thời ảnh
hưởng đến tâm lý trẻ và tâm lý bà mẹ do lo lắng. Ép ăn sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến
lượng và chất lượng sữa của bà mẹ.



12

Tại Việt Nam, cho đến nay chưa có nhiều nghiên cứu về trẻ biếng ăn dưới 5 tuổi.
Do đó, nghiên cứu về “Kiến thức, thực hành về cách cho trẻ ăn của các bà
mẹ và tình trạng dinh dưỡng trẻ biếng ăn dưới 5 tuổi đến khám tại phòng tư vấn
dinh dưỡng trẻ em – Viện Dinh Dưỡng năm 2018” cần được tiến hành với 2 mục
tiêu cụ thể sau:

1.

Mô tả kiến thức, thực hành về cách cho trẻ ăn của bà mẹ có con biếng ăn dưới 5 tuổi

2.

đến khám tại phòng khám tư vấn dinh dưỡng – Viện Dinh Dưỡng năm 2018.
Đánh giá tình trạng dinh dưỡng trẻ biếng ăn dưới 5 tuổi đến khám tại phòng
khám tư vấn dinh dưỡng – Viện Dinh Dưỡng năm 2018.


13

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1.1. TỔNG QUAN VÀ ĐỊNH NGHĨA VỀ BIẾNG ĂN
Tỷ lệ biếng ăn ở Việt nam có xu hướng tăng theo sự phát triển kinh tế: Theo
nghiên cứu đánh giá tình hình bệnh nhi đến khám hàng năm tại khoa khám tư vấn
dinh dưỡng trẻ em - Viện dinh dưỡng Quốc gia, tỷ lệ chẩn đoán biếng ăn ở trẻ đến
khám tại Viện chiếm đến 37%, trong khi đó tỷ lệ ở Mỹ là 25-45%.
Theo báo cáo đánh giá mô hình bệnh tật tại Viện dinh dưỡng năm 2014 thì lý
do trẻ biếng ăn chiếm tỷ lệ đến 46,9% trong số các lý do đưa trẻ đi khám tư vấn

dinh dưỡng.
Định nghĩa: Biếng ăn là khi trẻ:
 Ăn ít hơn 60% nhu cầu và có dấu hiệu thiếu chất dinh dưỡng (suy dinh
dưỡng, thiếu vi chất dinh dưỡng).
 Ăn không đủ hoặc ăn không đa dạng thực phẩm.
 Thời gian mỗi bữa ăn kéo dài (trên 30 phút, thậm chí hàng tiếng)
Biếng ăn bản thân không hẳn là một bệnh mà thường là biểu hiện của nhiều
nguyên nhân khác nhau, có thể do bệnh lý hay rối loạn tâm lý. Có thể nghiêm trọng
vì dễ gây ra một vòng xoắn bệnh lý: biếng ăn, ăn ít gây ra thiếu nhiều chất dinh
dưỡng quan trọng như đạm, dầu mỡ, vitamin, các yếu tố vi lượng... dẫn đến hậu quả
bị suy dinh dưỡng hoặc thiếu hụt các vi chất như khô mắt, thiếu máu…và càng làm
cho trẻ biếng ăn hơn, suy dinh dưỡng nặng hơn. Trẻ suy dinh dưỡng lại dễ mắc các
bệnh nhiễm trùng và trẻ lại càng biếng ăn hơn sau các đợt bệnh đó.
Hậu quả quan trọng của biếng ăn không chỉ là tình trạng suy dinh dưỡng trẻ
em ngày càng nặng và kéo dài, mà còn đồng thời ảnh hưởng nặng nề đến tâm lý trẻ
do bị ép ăn nhiều, và tâm lý bà mẹ do lo lắng, ảnh hưởng xấu trực tiếp đến lượng và
chất lượng sữa, cũng như có thể gây căng thẳng giữa các thành viên gia đình vì
không giải quyết được vấn đề biếng ăn của trẻ.


14

1.1.1. Nguyên nhân gây biếng ăn:
Có nhiều nguyên nhân, thường gặp các nguyên nhân sau:
1. Dinh dưỡng sai lầm: cách cho ăn chưa hợp lý
 Do thiếu vitamin A, B, C, vi lượng: Kẽm, Lysin,..
 Thức ăn không hợp khẩu vị, không phù hợp lứa tuổi
 Trẻ hay ăn uống vặt (bú vặt) và không được ăn đúng bữa
2. Do yếu tố môi trường, tâm lý, hành vi
 Do tâm lý ăn quá căng thẳng

3. Do bệnh lý của trẻ:
- Phản ứng viêm: Viêm họng, Viêm thực quản, Viêm dạ dày, Viêm ruột và
viêm đại tràng, Vấn đề gan mật…


Tình trạng nhiễm trùng  ức chế các enzym tiêu hóa  biếng ăn



Biểu hiện của các bệnh toàn thân như thiếu máu thiếu sắt, suy dinh dưỡng,
còi xương
- do thiếu vitamin A, B, C, vi lượng: Kẽm....(vì những yếu tố này tham gia
hình thành các men tiêu hoá và quá trình chuyển hoá, hấp thu thức ăn)
- Nhiễm ký sinh trùng đường ruột: như giun đũa, giun móc, giun kim.. thường
chán ăn và gầy yếu xanh xao.
- Rối loạn nhu động đường tiêu hóa: Co thắt tâm vị, co cơ thực quản, liệt dạ
dày, co thắt dải tá tràng, táo bón
1.1.2. Triệu chứng của trẻ biếng ăn:



Trẻ bú ít, ăn ít hơn bình thường, không chịu ăn hết khẩu phần hoặc bữa ăn bị
kéo dài (hơn 1 giờ). Trẻ từ chối không chịu ăn, chạy trốn khi thấy thức ăn. Trẻ nhìn
thấy thức ăn là có phản ứng buồn nôn, nôn.



Vì thế không đủ tạo khối lượng phân để kích thích cơ vòng hậu môn có phản
xạ đi ngoài nên trẻ thường hay táo bón, số lượng phân ít hơn bình thường.




Trẻ ngậm thức ăn trong miệng lâu, không chịu nuốt.



Phát triển cân nặng của trẻ chậm hơn bình thường hoặc không tăng cân, có
khi còn giảm cân.
1.2. TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG CỦA TRẺ EM


15

1.2.1. Nhu cầu dinh dưỡng của trẻ em
1.2.1.1. Nhu cầu về năng lượng
Nhu cầu năng lượng của trẻ ở thời kỳ này là rất cao, nhu cầu năng lượng theo
bảng khuyến nghị của Việt Nam trẻ dưới 6 tháng là 555kcal, từ 7 đến 12 tháng là
710kcal, trong đó 50% đáp ứng cho chuyển hóa cơ bản và trẻ từ 1 đến 3 tuổi thì
năng lượng cần là 1180kcal/ngày, 4 đến 6 tuổi cần 1470kcal/ngày [22].
Từ giai đoạn 6 tháng tuổi năng lượng từ sữa mẹ chỉ cung cấp đủ khoảng 450
kcal/ngày, trong khi đó giải đoạn này trẻ cần khoảng gần 700 kcal/ngày. Càng thêm
tháng tuổi sự thiếu hụt năng lượng này ngày càng nhiều lên.
1.2.1.2. Nhu cầu về glucid
Trẻ từ 7 đến 12 tháng, nhu cầu glucid là 91g/ngày; trong đó từ sữa mẹ khoảng
600ml/ngày, tương đương với glucid là 44g/ngày, cộng thêm từ nguồn thức ăn bổ
sung là 51g/ngày.
Đối với trẻ từ 1 đến 3 tuổi thì nhu cầu glucid là 100g/ngày [23], [24]. Đối với
các chất đường ngọt thì ta áp dụng nhu cầu khuyến nghị của các tác giả Mỹ (Bruce
and Asp, 1994) là chỉ nên tiêu thụ đường ngọt đã tinh chế không quá 10% nhu cầu
các chất glucid [22].

1.2.1.3. Nhu cầu về protid
Theo khuyến cáo hiện nay của WHO/UNICEF, đối với trẻ dưới sáu tháng tuổi,
cho trẻ bú mẹ hoàn toàn bằng sữa mẹ là đảm bảo đủ nhu cầu protein để trẻ phát
triển và khỏe mạnh. Trẻ đến sáu tháng tuổi nhu cầu protein là 12g/ngày. Trẻ từ 7 đến
12 tháng tuổi protein từ 21-25g/ngày và từ 1 đến 3 tuổi là 35-44g/ngày. Sữa mẹ có
đủ các acid amin ở tỷ lệ cân đối giúp trẻ tăng trưởng tốt, vì vậy khuyến khích các bà
mẹ cho trẻ bú đến hai năm tuổi [22].
1.2.1.4. Nhu cầu về lipid
Nhu cầu lipid ở trẻ đảm bảo cho nhu cầu về năng lượng và các acid béo cần
thiết và hỗ trợ cho việc hấp thu các vitamin tan trong dầu. Với trẻ đang bú mẹ, vì
50-60% năng lượng ăn vào là do chất béo của sữa mẹ cung cấp, nên khi trẻ bắt đầu
ăn bổ sung, nhất là khi trẻ cai sữa mẹ cần hết sức chú ý ngăn ngừa tình trạng giảm


16

chất béo đột ngột do được bú mẹ ít đi hoặc không còn được bú sữa mẹ nữa. Do đó,
nhu cầu khuyến nghị về lipid cho trẻ em rất cao [22].
1.2.1.5. Nhu cầu về vitamin và chất khoáng
Vitamin là thành phần không thể thiếu đối với trẻ nhỏ, do đòi hỏi về cường độ
phát triển và sự chuyển hoá cao nên nhu cầu vitamin ở trẻ em cao hơn người lớn.
Theo Viện dinh dưỡng khuyến cáo thì nhu cầu vitamin A và D ở trẻ như sau:
Vitamin A

• Trẻ 0-11 tháng tuổi: 350 µg/ngày
• Trẻ 1-3 tuổi: 400 µg/ngày
• Trẻ từ 4-6 tuổi: 450 µg/ngày
Vitamin D

• Trẻ từ 0-5 tháng tuổi: 8,5 µg/ngày

• Trẻ từ 6-11 tháng tuổi: 7 µg/ngày
• Trẻ trên 1 tuổi: 5 µg/ngày
Ở lứa tuổi này canxi và photpho cần được chú ý để cung cấp đủ cho trẻ. Trẻ
dưới sáu tháng tuổi là 300mg/ngày, từ 6 đến 11 tháng tuổi là 400mg/ngày và từ 1
đến 3 tuổi nhu cầu là 500mg/ngày. Cần có một tỷ lệ thích hợp giữa can xi và
photpho mới giúp trẻ hấp thu và sử dụng được hai loại khoáng chất này. Tỷ lệ tốt
nhất giữa calci/photpho là 1-1,5 như có trong sữa mẹ nên sữa mẹ luôn luôn được ưu
tiên là thức ăn tốt nhất cho sự phát triển của trẻ nhỏ [22].
1.2.2. Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ em
Tình trạng dinh dưỡng (TTDD) là tình trạng sức khỏe của cá nhân hay cộng
đồng ảnh hưởng bởi chế độ ăn và việc sử dụng các chất dinh dưỡng trong cơ thể
[25]. Hiện nay có bốn phương pháp được dùng để đánh giá TTDD của trẻ em:
- Điều tra khẩu phần và tập quán ăn uống;
- Các chỉ tiêu nhân trắc;
- Thăm khám thực thể để phát hiện các dấu hiệu lâm sàng của bệnh tật có liên
quan đến ăn uống;
- Các xét nghiệm hóa sinh.


17

Nhân trắc học dinh dưỡng được sử dụng để đo các biến đổi về kích thước và
cấu trúc cơ thể theo tuổi và tình trạng dinh dưỡng [26], [27]. Thu thập các chỉ số
nhân trắc học là một bước quan trọng trong các cuộc điều tra dinh dưỡng vì nó là
những chỉ số trực tiếp đánh giá TTDD của trẻ em. Theo khuyến cáo của WHO
(2006) ba chỉ tiêu nhân trắc thường dùng là cân nặng theo tuổi, chiều cao theo tuổi
và cân nặng theo chiều cao [26], [28].
Cân nặng theo tuổi (CN/T): Chỉ số này thường được dùng để đánh giá tình
trạng suy dinh dưỡng nhẹ cân nhưng không cho biết cụ thể đó là loại suy dinh
dưỡng vừa mới xảy ra hay đã tích lũy từ lâu. Vì việc theo dõi cân nặng tương đối

đơn giản hơn chiều cao ở cộng đồng nên tỷ lệ nhẹ cân vẫn được xem như tỷ lệ
chung của thiếu dinh dưỡng [29]. Nhẹ cân được định nghĩa cân nặng theo tuổi dưới
-2 độ lệch chuẩn so với quần thể tham khảo. Chỉ số này cho biết tình trạng thiếu hụt
một trong các dưỡng chất thiết yếu và/hoặc thiếu hụt năng lượng khẩu phần một
cách tương đối hay tuyệt đối [30]. Có bằng chứng cho thấy rằng trẻ nhẹ cân mức
trung bình sẽ tăng nguy cơ tử vong và nhẹ cân mức độ nặng thì nguy cơ tử vong là
rất cao [31]. Tuy nhiên, một số trẻ có gen di truyền thấp, hoặc trẻ bị thấp còi sẽ có
cân nặng theo tuổi thấp có thể không phải là SDD mà là trọng lượng của trẻ phù
hợp với vóc dáng thấp bé của trẻ [25]. Chiều cao theo tuổi (CC/T):
Chỉ số này đã được khuyến cáo sử dụng của WHO để phát hiện trẻ "thấp còi"
kết hợp với cân nặng theo chiều cao. Thấp còi làm chậm tăng trưởng xương và tầm
vóc, được định nghĩa là kết quả cuối cùng giảm tốc độ tăng trưởng tuyến tính.
Chiều cao theo tuổi thấp phản ánh tình trạng thiếu dinh dưỡng kéo dài hoặc trong
quá khứ làm cho đứa trẻ bị thấp còi và làm gia tăng khả năng mắc bệnh. Tỷ lệ thấp
còi cao nhất là từ 2 đến 3 tuổi [25]. Tỷ lệ hiện mắc của thấp còi phổ biến hơn tỷ lệ
hiện mắc của nhẹ cân ở mọi nơi trên thế giới vì có những trẻ bị thấp còi trong giai
đoạn sớm của cuộc đời có thể đạt được cân nặng bình thường sau đó nhưng vẫn có
chiều cao thấp [32]. Cân nặng theo chiều cao (CN/CC):
Khi chỉ số này dưới -2 độ lệch chuẩn so với quần thể tham khảo được định
nghĩa là gầy còm, hay SDD cấp tính. Cân nặng theo chiều cao thấp cho thấy sự


18

thiếu nguồn thực phẩm xảy ra trong khoảng thời gian gần đây làm cân nặng của trẻ
giảm nhanh. Tỷ lệ gầy còm được quan sát rõ nhất khi xảy ra các nạn đói, mất mùa
hoặc những bệnh nặng, nhưng khi có biểu hiện phù thì chỉ số này sẽ không còn
chính xác. Hiện nay, để đánh giá TTDD trẻ em, từ năm 2005 WHO đưa ra “chuẩn
tăng trưởng mới ở trẻ em” và đề nghị áp dụng trên toàn thế giới. WHO đề nghị lấy
điểm ngưỡng <2 độ lệch chuẩn (<-2SD) so với quần thể WHO 2005 để đánh giá trẻ

bị suy dinh dưỡng [31].
Dựa và Z- Score, tính theo công thức [28]:

Khi CN/T Z-score <-2SD: SDD thể nhẹ cân
Khi CC/T Z-score <-2SD: SDD thể thấp còi
Khi CN/CC Z-score <-2SD: SDD thể gầy còm


19

Bảng 1.1 Tình trạng dinh dưỡng của trẻ được đánh giá theo quần thể tham
chiếu WHO 2005 với 3 chỉ số theo Z-Score [28]
Tình trạng SDD
Cân nặng/tuổi
(CN/T)

Chỉ số Z-Score
<-3SD
<-2SD
Từ -2SD đến +2SD
Chiều cao/Tuổi
<-3SD
(CC/T)
<-2SD
Từ -2SD đến +2SD
Cân nặng/Chiều cao <-3SD
(CN/CC)
<-2SD
Từ -2SD đến +2SD
>+2SD

>+3SD

Phân loại
SDD mức độ nặng
SDD mức độ vừa
Bình thường
SDD mức độ nặng
SDD mức độ vừa
Bình thường
SDD mức độ nặng
SDD mức độ vừa
Bình thường
Thừa cân
Béo phì

Các chỉ số nhân trắc còn được TCYTTG sử dụng để đánh giá mức độ trở thành
vấn đề sức khỏe có ý nghĩa cộng đồng khi dựa vào tỷ lệ nhẹ cân, thấp còi và gầy
còm của trẻ em trong cộng đồng ấy (bảng 1.2).
Bảng 1.2 Các giá trị ngưỡng có ý nghĩa sức khỏe cộng đồng của chỉ số nhân
trắc dinh dưỡng trẻ em
Chỉ tiêu

Mức độ thiếu dinh dưỡng (%)
Thấp

Trung bình

Cao

Rất cao


SDD thể nhẹ cân

<10

10-19

20-29

≥30

SDD thể thấp còi

<20

20-29

30-39

≥40

SDD thể gầy còm

<5

5-9

10-14

≥15



20

1.3. KIẾN THỨC THỰC HÀNH CÁCH CHO TRẺ ĂN CỦA CÁC BÀ MẸ
1.3.1. Nguyên nhân suy dinh dưỡng
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến SDD từ các góc độ khác nhau. Theo
UNICEF, nguyên nhân dẫn đến SDD có thể được chia thành ba cấp độ: nguyên
nhân trực tiếp, nguyên nhân tiềm tàng và nguyên nhân cơ bản. Trong đó nguyên
nhân trực tiếp là do thiếu ăn cả về số lượng, chất lượng và mắc các bệnh nhiễm
khuẩn; nguyên nhân tiềm tàng là thiếu an ninh lương thực thực phẩm, vệ sinh môi
trường kém, thiếu dịch vụ chăm sóc y tế và chăm sóc bà mẹ trẻ em chưa tốt.
Nguyên nhân cơ bản là tình trạng đói nghèo, lạc hậu liên quan đến hệ thống tổ chức
nhà nước, tổ chức xã hội, chính trị và kinh tế [33]. Thiếu ăn là một trong những
nguyên nhân trực tiếp cũng là nguyên nhân cụ thể nhất của SDD. Các nguyên nhân
khác rộng hơn đều khiến thiếu ăn trở nên trầm trọng hơn đồng thời tăng tỷ lệ SDD ở
cộng đồng. Ở Việt Nam nói riêng và các nước đang phát triển khác nói chung, tỷ lệ
trẻ SDD cao nhất ở các khu vực vùng núi thấp dần về các khu vực thành thị. Vì ở
các vùng sâu vùng xa có điều kiện kinh tế xã hội kém và khả năng tiếp cận lương
thực thực phẩm thấp nên tỷ lệ nghèo đói ở đây là rất cao. Khi đó những yếu tố có
tính quyết định làm giảm tỷ lệ SDD của trẻ ở đây gồm trình độ học vấn của người
mẹ, sự có sẵn của thực phẩm, sức khỏe môi trường, điều kiện kinh tế của hộ gia
đình, đặc biệt là số con trong gia đình. Nghiên cứu của Hoàng Khải Lập và cộng sự
ở trẻ em dân tộc Tày và nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Diệp và cộng sự ở khu vực
miền núi phía Bắc đều cho kết quả là trẻ ở trong gia đình có từ 3 con trở lên thì có
nguy cơ SDD cao hơn trẻ ở trong gia đình có 2 con hoặc là con một [34], [35].
Cùng với thiếu ăn là nguyên nhân trực tiếp thì nhiễm khuẩn cũng là yếu tố trực tiếp
dẫn đến SDD. Mà khi bị SDD thì khả năng miễn dịch của cơ thể yếu đi làm giảm
khả năng chống lại vi khuẩn nên lại càng tăng cơ hội nhiễm trùng, đặc biệt là nhiễm
trùng đường tiêu hóa và đường hô hấp.


1.3.2. Kiến thức thực hành nuôi con bằng sữa mẹ với TTDD của trẻ


21

Sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng quan trọng cho trẻ nhỏ. Nó có thể đáp ứng tới
hơn một nửa nhu cầu năng lượng của một đứa trẻ khi trẻ ở tháng tuổi thứ 6 đến
tháng thứ 12 và một phần ba năng lượng khi trẻ ở độ tuổi từ 12 đến 24 tháng tuổi.
Hơn nữa, sữa mẹ cũng là nguồn dinh dưỡng thiết yếu cho trẻ khi trẻ mắc bệnh và bú
mẹ giúp làm giảm tỷ lệ tử vong ở những trẻ bị SDD. Ngoài ra trẻ em được bú mẹ
khi còn bé thì nguy cơ bị thừa cân béo phì thấp hơn so với trẻ không được bú mẹ
[36]. Theo khuyến cáo của WHO, sau khi sinh đứa trẻ cần được cho bú mẹ càng
sớm càng tốt thậm chí ngay trong nửa giờ đầu sau sinh và bú mẹ hoàn toàn cho tới
tận 6 tháng [37]. Bú sớm sẽ kích thích sữa mẹ tiết sớm hơn và nhiều hơn qua phản
xạ prolactin đồng thời giúp cho sự co hồi tử cung tốt hơn để hạn chế mất máu sau
đẻ. Ngoài ra bú sớm còn tăng gắn kết giữa mẹ và con về mặt tình cảm trong suốt
cuộc đời sau này. Theo một nghiên cứu của WHO năm 2006 tiến hành trên các
thành phố của sáu nước cho thấy tỷ lệ trẻ sơ sinh được bú mẹ trong vòng một giờ
sau sinh thấp nhất là 23,1% (ở Ấn Độ), 57,1% (Ghana), đến 77,7% (Mỹ), Na Uy
(84,9%) và cao nhất là Oman 96,7%. Ở Việt Nam, tỷ lệ bà mẹ cho bú sớm trong
vòng nửa giờ đầu sau sinh tại huyên Kim Động tỉnh Hưng Yên theo nghiên cứu của
tác giả Lê Thị Hương là 66,7% [38]. Như vậy tỷ lệ trẻ được bú sớm vẫn còn thấp và
thay đổi theo từng khu vực hay từng nước đặc biệt là các nước nghèo, những khu
vực vùng sâu vùng xa có dân trí thấp, hiểu biết kém về cách chăm sóc và nuôi
dưỡng trẻ. Bên cạnh những lợi ích trên thì bú sớm còn giúp trẻ tận dụng được sữa
non, loại sữa được bài tiết trong vài ngày đầu sau đẻ, có tính chất sánh đặc, màu
vàng nhạt. Trong sữa non có chứa nhiều năng lượng, protein và vitamin A, đồng
thời lại có nhiều chất kháng khuẩn tăng cường miễn dịch cho trẻ. Bên cạnh đó sữa
non còn có tác dụng sổ nhẹ giúp cho việc tống phân su nhanh ngăn chặn vàng da ở

trẻ sơ sinh. Sữa non tiết ra tuy ít nhưng chất lượng cao thỏa mãn nhu cầu của trẻ
mới đẻ [39]. Trên thực tế nhiều bà mẹ không biết đến những lợi ích này mà coi nữa
non là sữa xấu, không tốt cho trẻ. Đặc biệt là ở các vùng núi nơi có dân trí thấp thì
tỷ lệ bà mẹ vắt bỏ sữa non khi cho con bú lần đầu là rất cao. Nghiên cứu của Đoàn
Thị Ánh Tuyết tại vùng dân tộc thiểu số của huyện Hướng Hóa và Dakrong năm


22

2011 cho thấy tỷ lệ bà mẹ cho rằng sữa non không tốt cho sức khỏe của trẻ sơ sinh
là 40% và 22% bà mẹ có lý do là sợ trẻ đau bụng [40]. Tương tự, theo nghiên cứu
của Hoàng Khải Lập trên trẻ em dân tộc Sán Chay tại Thái Nguyên lại chỉ ra có đến
24,4% bà mẹ vắt bỏ sữa non vì sợ trẻ bị tiêu chảy [34]. Nguyên nhân chủ yếu là do
các bà mẹ có kiến thức chưa tốt khi có những quan niệm sai lầm và nghe theo người
khác mách bảo. Ngoài việc bú sớm thì nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn
(NCBSMHT) cũng đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển toàn diện của trẻ
nhỏ. Trong vòng 6 tháng kể từ khi sinh thì sữa mẹ hoàn toàn có đầy đủ chất dinh
dưỡng để đáp ứng nhu cầu của trẻ. Hơn nữa, sữa mẹ lại rất an toàn và tiết kiệm chi
phí so với việc nuôi con bằng sữa công thức. Đồng thời NCBSMHT giúp trẻ chống
lại nhiễm khuẩn đường ruột. Điều này không chỉ được phát hiện ở các nước đang
phát triển mà còn ở cả các nước phát triển trên thế giới [36]. Tuy vậy, tỷ lệ trẻ được
bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu ở các nơi đều thấp. Nghiên cứu của Lê Thị
Hương năm 2008 tại huyện Kim Động tỉnh Hưng Yên, nơi có nhiều chương trình
can thiệp về dinh dưỡng trên địa bàn, tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn đến 6 tháng chỉ
đạt 26% [38]. Hay theo nghiên cứu của Vũ Phương Hà năm 2010 tại vùng dân tộc
thiểu số tỉnh Quảng Trị thì tỷ lệ trẻ được bú mẹ hoàn toàn đến 6 tháng chỉ đạt 13,8%
[41]. Theo khuyến cáo của WHO, trẻ nên được tiếp tục bú mẹ kéo dài từ 18 đến 24
tháng và không nên cai sữa trước 12 tháng [36]. Bú mẹ kéo dài không những tốt cho
trẻ mà còn góp phần cải thiện sức khỏe bà mẹ sau khi sinh bằng cách làm giảm
nguy cơ mắc ung thư tử cung và ung thư vú đồng thời giúp cho mẹ tránh việc có

thai sớm. Đây là biện pháp tránh thai tự nhiên và an toàn, rất có ích đặc biệt là với
các bà mẹ ở các hộ không có điều kiện về của cải và vật chất. Tuy nhiên trên thực tế
cho thấy tỷ lệ trẻ cai sữa sớm vẫn còn cao. Nghiên cứu của Vũ Phương Hà cho thấy
tỷ lệ trẻ cai sữa trước 12 tháng là 61,9%, lý do chính cho việc cai sữa sớm là do mẹ
phải đi làm [41]. Và còn các lý do khác như mẹ không đủ sữa cho con hay là cho
con uống sữa ngoài tốt hơn. Cũng chính vì những lý do trên mà các bà mẹ có xu
hướng cho con ăn bổ sung/ăn dặm ở thời điểm không phù hợp. Cho trẻ ăn bổ sung
quá sớm hoặc quá muộn đều làm ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ.


23

1.3.3. Kiến thức thực hành cho trẻ ABS của bà mẹ với TTDD của trẻ
Ăn bổ sung (ABS) là cho trẻ ăn các thức ăn khác bổ sung ngoài sữa mẹ. Bắt
đầu từ khi trẻ được 6 tháng với một lượng thức ăn vừa đủ và tăng dần theo tháng
tuổi của trẻ. Trẻ cần được tập làm quen với từng loại thức ăn và cần được thích ứng
dần với sự chuyển đổi chế độ ăn từ một khẩu phần hoàn toàn dựa vào sữa sang chế
độ ăn sử dụng thực phẩm có sẵn trong bữa ăn gia đình. Thức ăn bổ sung cho trẻ cần
có đầy đủ bốn nhóm thực phẩm để đáp ứng như cầu dinh dưỡng hàng ngày của trẻ:
- Nhóm thức ăn giàu glucid: gồm các loại ngũ cốc như gạo, ngô, lúa mì...
- Nhóm thức ăn giàu Protid: thịt gia súc, gia cầm, cá và các loại thủy sản...
- Nhóm thức ăn giàu Lipid: mỡ động vật, dầu thực vật...
- Nhóm cung cấp Vitamin và muối khoáng: rau, quả ...
Trong đó, một bữa ăn bổ sung hợp lý cần có sự kết hợp đầy đủ và cân đối giữa
bốn nhóm thực phẩm trên. Ở giai đoạn này bà mẹ dễ mắc những sai lầm trong nuôi
dưỡng trẻ do thiếu kiến thức và kỹ năng trong việc cho trẻ ABS đầy đủ hợp lý. Về
thời điểm cho trẻ ABS thì trẻ được ABS sớm trước 6 tháng được tìm ra có nguy cơ
SDD cao hơn trẻ được cho ABS từ 6 tháng. Nghiên cứu của tác giả Asfaw.M (2015)
tại quận Bule Hora ở Nam Ethiopia chỉ ra rằng những trẻ ABS sớm trước 6 tháng
tuổi có nguy cơ bị SDD cao gấp 3,3 lần so với trẻ bắt đầu ABS từ 6 tháng trở đi

(OR=3,3, 95% CI 1,3-4,4) [42]. Nghiên cứu tại Lebanon đã chỉ ra rằng phần lớn trẻ
được bắt đầu cho ABS từ 4 tháng tuổi trở đi và hơn một nửa số trẻ trong nghiên cứu
chỉ được cho ăn hai nhóm tinh bột và trái cây hàng ngày nhưng không có nhóm đạm
như thịt và cá [43]. Tại 2 xã thuộc tỉnh Yên Bái, nghiên cứu của tác giả Nguyễn
Khánh Chi đã cho thấy tỷ lệ trẻ được ABS trong vòng 4-6 tháng chiếm đến 74,6%
và tỷ lệ trẻ ABS trước 4 tháng chiếm 20% [44].
Ngoài ra còn một số yếu tố khác tác động đến TTDD của trẻ như điều kiện
kinh tế của gia đình, tình trạng thiếu ăn, trình độ văn hóa của bà mẹ, các yếu tố vệ
sinh môi trường và đặc biệt là tình trạng bệnh tật cùng với các chăm sóc trẻ khi bị
bệnh của bà mẹ. Khi trẻ bị bệnh thì cơ thể tiêu hao nhiều năng lượng và vác chất dinh
dưỡng hơn, cảm giác thèm ăn giảm, tiêu hóa và hấp thu thức ăn kém, các chất dinh
dưỡng không còn đủ để đáp ứng nhu cầu của cơ thể, do đó, bệnh tật trở thành nguyên
nhân trực tiếp dẫn đến SDD ở trẻ em. Trong đó, nhiễm khuẩn dễ dẫn đến rối loạn tiêu


24

hóa và ngược lại, SDD dễ dẫn đến nhiễm khuẩn do sức đề kháng giảm. Chính vì thế
mà tỷ lệ SDD thường cao trong các mùa bệnh lưu hành đặc biệt là bệnh tiêu chảy,
nhiễm khuẩn hô hấp cấp. Trong nghiên cứu tại Ethiopia, tác giả Asfaw.M đã chỉ ra rằng
trẻ bị tiêu chảy trong hai tuần trước khi thu nhập dữ liệu có nguy cơ thiếu cân cao gấp
3,9 lần so với trẻ không bị (OR=3,9, 95% CI 2,2-6,8) [42].


25

CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Trẻ biếng ăn dưới 5 tuổi theo chẩn đoán của bác sĩ đến khám tại phòng khám
tư vấn dinh dưỡng trẻ em – Viện Dinh Dưỡng và các bà mẹ của trẻ với tuổi của trẻ

được tính dựa theo sổ y bạ và hồ sơ khám bệnh điện tử.
2.1.1 Tiêu chuẩn lựa chọn
Đối với trẻ:

- Trẻ không mắc các bệnh bẩm sinh, bệnh mãn tính và không mắc các bệnh cấp tính
vào thời điểm nghiên cứu.
Đối với bà mẹ:

- Là mẹ của trẻ được chọn thamg gia nghiên cứu.
- Không bị tâm thần, rối loạn trí nhớ, có khả năng trả lời câu hỏi của phóng viên và
có thái độ hợp tác.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
Trẻ: mắc các bệnh bẩm sinh, các bệnh mãn tính hoặc đang mắc bệnh cấp tính
tại thời điểm nghiên cứu.
Bà mẹ: bị bệnh tâm thần, rối loạn trí nhứ, không có khả năng trả lời câu hỏi
của phỏng vấn viên và từ chối tham gia nghiên cứu.
2.2. ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
Địa điểm nghiên cứu: Phòng khám tư vấn dinh dưỡng – Viện Dinh Dưỡng
Thời gian nghiên cứu: Tháng 1/2018 đến Tháng 5/2018
2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang được áp dụng trong nghiên cứu này nhằm
thu thập thông tin về tình trạng dinh dưỡng và kiến, thức thực hành nuôi dưỡng của
các bà mẹ cho con đi tiêm hoặc khám dinh dưỡng tại phòng khám tư vấn dinh
dưỡng trẻ em Viện Dinh Dưỡng Quốc Gia năm 2018.


×