Tải bản đầy đủ (.docx) (56 trang)

THỰC TRẠNG và một số yếu tố LIÊN QUAN đến NHIỄM GIUN TRUYỀN QUA đất ở học SINH TIỂU học tại HUYỆN TIÊN PHƯỚC, TỈNH QUẢNG NAM, năm 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (569.75 KB, 56 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ HẬU

THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN
QUAN ĐẾN NHIỄM GIUN TRUYỀN
QUA ĐẤT Ở HỌC SINH TIỂU HỌC TẠI HUYỆN
TIÊN PHƯỚC, TỈNH QUẢNG NAM, NĂM 2017
Chuyên ngành

: Xét nghiệm y học

Mã số

:

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. ĐỖ TRUNG DŨNG

HÀ NỘI - 2018


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

ELISA
EPG


IFA
WHO
XN

Enzym – linked immune sorbent assay
(Phản ứng miễn dịch gắn men)
Eggs per gram
(Số trứng trên 1 gam)
Indirect inmmuno fluorescent assay
(Phản ứng miễn dịch huỳnh quang gián tiếp)
World health organization
(Tổ chức y tế thế giới)
Xét nghiệm


MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC HÌNH ẢNH


6

ĐẶT VẤN ĐỀ

Bệnh giun sán nói chung, bệnh giun truyền qua đất nói riêng phân bố
rộng khắp trên thế giới. Bệnh phổ biến ở các nước nhiệt đới, cận nhiệt, nơi có

tập quán lạc hậu, kinh tế kém phát triển như châu Á, châu Phi, châu Mỹ La
tinh. Theo thống kê của tổ chức Y tế thế giới (WHO) năm 2011 ước tính trên
thế giới có khoảng 1,2 tỷ người nhiễm giun đũa, 795 triệu người nhiễm giun
tóc và 740 triệu người nhiễm giun móc/mỏ[1]. Ước tính năm 2016 có khoảng
270 triệu trẻ em trước tuổi đến trường và hơn 600 triệu trẻ em trong độ tuổi
đến trường bị nhiễm giun truyền qua đất[2].
Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới, nóng ẩm, mưa nhiều, là điều kiện
thuận lợi cho mầm bệnh giun sán phát triển quanh năm. Hơn nữa, kinh tế
nước ta chủ yếu dựa vào nền nông nghiệp lạc hậu, với thói quen dùng phân
tươi trong trồng trọt và chăn nuôi. Bên cạnh đó, ý thức vệ sinh của người dân
chưa cao, môi trường sống bị ô nhiễm. Đó là lý do làm cho bệnh giun sán ở
nước ta phổ biến và mang tính xã hội. Bệnh giun truyền qua đất phân bố rộng
khắp cả nước từ Bắc và Nam ở cả 4 vùng đồng bằng, trung du, miền núi và
ven biển. Nhiễm giun truyền qua đất tác động một cách thầm lặng và lâu dài
ảnh hưởng tới sức khỏe và tình trạng dinh dưỡng, cũng như sự phát triển về
thể chất, tinh thần của con người[3].
Trẻ em là đối tượng nhiễm giun đường ruột với tỷ lệ và cường độ nhiễm
cao, bị tái nhiễm nhanh hơn người lớn. Theo số liệu điều tra từ năm 20112016 của Viện Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng trung ương, tỷ lệ nhiễm
chung bệnh giun truyền qua đất ở học sinh tiểu học tại miền Bắc là 12,3%,
miền Trung-Tây Nguyên là 18,6% và miền Nam là 6,16%, toàn quốc là
12,3%. Một số tỉnh có tỷ lệ nhiễm giun truyền qua đất ở học sinh tiểu học cao


7

như: Hà Giang rất cao là 86% (2013); Đăk Lăk 25,0%, Phú Thọ 24,8%,
Quảng Ninh 20,31%, Trà Vinh 18,08%, Ninh Bình 17,46%, Thanh Hóa 18,3,
Bình Thuận 17,25%. Tỷ lệ nhiễm giun truyền qua đất ở trẻ 12-60 tháng tuổi
tại miền Bắc 14,1%, miền Trung-Tây Nguyên 7,2%, miền Nam là 2,2%[4].
Huyện Tiên Phước thuộc tỉnh Quảng Nam, là một huyện miền núi, có

điều kiện kinh tế khó khăn, canh tác nông nghiệp là chủ yếu, điều kiện văn
hóa, y tế, xã hội để đáp ứng nhu cầu cộng đồng còn nhiều hạn chế. Đặc biệt,
trẻ em ở lứa tuổi học sinh tiểu học, lứa tuổi nhận thức chưa được đầy đủ, thói
quen sinh hoạt chưa hợp vệ sinh, dễ cảm nhiễm và mắc các bệnh do giun
truyền qua đất. Do đó, để đóng góp cơ sở cho việc nghiên cứu tình hình
nhiễm giun truyền qua đất trên cả nước, góp phần thúc đẩy công tác phòng
chống giun sán đạt hiệu quả cao, chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Thực trạng
và một số yếu tố liên quan đến nhiễm giun truyền qua đất ở học sinh tiểu
học tại huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, năm 2017” với mục tiêu:
1. Mô tả thực trạng nhiễm giun truyền qua đất ở học sinh tiểu học tại
huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam, năm 2017.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến nhiễm giun truyền qua đất tại
địa bàn nghiên cứu.


8

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU GIUN TRUYỀN QUA ĐẤT
1.1.1. Lịch sử nghiên cứu giun đũa
Giun đũa được đề cập từ lâu trong lịch sử y học. Vào thế kỷ XVI trước
công nguyên, Ebers đã nói tới các loài giun sán ở người như sán dây, giun
đũa, giun kim và giun chỉ. Thế kỷ thứ nhất, các nhà y học Hy Lạp Dioscoride,
Cohimelle (980-1037) đã mô tả về giun đũa[5].
Năm 1683, Edward Tyson, một quý tộc người Anh lần đầu tiên chính
thức mô tả và đặt tên là “Lumbricus teres”, vì giun trưởng thành ký sinh
trong ruột người có hình dạng giống giun ở đất[6].
Sau đó các nhà khoa học đã đặt nhiều tên khác nhau như Ascaris
lumbricoides (Linnacus 1758), Lumbricoides vulgaris (Merat, 1821)... Năm

1915, Uỷ ban khoa học quốc tế gồm 66 thành viên của các nước đã chính thức
thống nhất tên giun đũa trên danh mục động vật học là Ascaris
lumbricoides[6].
1.1.2. Lịch sử nghiên cứu giun tóc
Giun tóc được phát hiện lần đầu tiên bởi Wrisbeng H.A và cộng sự. Ông
đã thấy giun tóc ở ruột bé gái 5 tuổi từ một vụ tả. Năm 1761, Roederes, Butter
đã mô tả hình dạng giun tóc và đặt tên là Trichuris. Sau đó giun tóc được đặt
dưới nhiều tên khác nhau như Ascaris trichiura (Linnaeus 1771, Stiles 1901),
Trichocephalus hominis (Schrank 1788)... Đến năm 1941, Các nhà ký sinh
trùng học tại Châu Mỹ đã thống nhất cách gọi tên giun tóc là Trichuris
trichiura[6].


9

1.1.3. Lịch sử nghiên cứu giun móc/ mỏ
Năm 1838, trên tử thi một phụ nữ người Milan, Dubini đã phát hiện ra
giun móc trưởng thành. Ông đã mô tả chi tiết về loài ký sinh trùng này và đặt
tên là Agchylostoma duodenale năm 1843. Sau đó nhiều tác giả ở Ai Cập cũng
phát hiện giun móc trên người và đặt nhiều tên khác nhau như Ancylostoma
duodenale (Creplin 1845), Uncinaria duodenale (Railliet, 1885)... Đến năm
1915, một uỷ ban quốc tế đã thống nhất cách gọi tên giun móc là
Ancylostoma duodenale[6].
Năm 1902, Stiles đã phát hiện một loại giun tròn gần giống với
Ancylostoma duodenale và ông đã đặt tên là Necator americanus[6].
1.2. TÌNH HÌNH NHIỄM GIUN TRUYỀN QUA ĐẤT
1.2.1. Tình hình nhiễm giun truyền qua đất trên thế giới
Bệnh giun truyền qua đất phân bố rộng khắp trên thế giới, bệnh thường
phân bố theo địa lý, khí hậu và điều kiện kinh tế - xã hội của con người. Bệnh
hay gặp ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt, đặc biệt là vùng kinh tế kém phát triển,

vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường chưa được cải thiện[3].
Theo đánh giá năm 1994 của Lanter Chan và cộng sự, trên toàn cầu có
1.471 triệu người nhiễm giun đũa, 1.048 triệu người nhiễm giun tóc và 1.297
triệu người nhiễm giun móc/mỏ[7].
• Các nước Châu Âu do điều kiện khí hậu lạnh, khô làm cho sự phát triển trứng
giun sán ở ngoại cảnh bị hạn chế. Bên cạnh đó, các nước Châu Âu là nơi có
mức sống cao, môi trường sạch, phân đều được xử lý trong các hố xí tự hoại,
không còn phong tục sử dụng phân tươi làm phân bón trong nông nghiệp. Do
đó bệnh giun truyền qua đất hầu như không còn (dưới 1%)[8].
• Ở các nước Châu Phi, do điều kiện sống thấp, vệ sinh môi trường kém, kinh
tế kém phát triển cùng với khí hậu nóng ẩm là điều kiện thuận lợi cho giun
phát triển, tỷ lệ nhiễm giun truyền qua đất thường cao.


10

Tỷ lệ nhiễm giun đũa, giun móc/mỏ, giun tóc ở một số vùng thuộc
Nigeria lần lượt lên tới 76,2%, 30,1% và 53,3%[9],[10].
Ở Ethiopia, một nước Đông Phi, theo nghiên cứu năm 2016 tỷ lệ
nhiễm giun móc/mỏ ở trẻ từ 5 - 10 tuổi là 50% và trẻ từ 11 - 15 tuổi là
45,1%[11].
Ở Niregia, nghiên cứu năm 2017 nghiên cứu trên nhóm trẻ từ 6 – 10
tuổi cho thấy tỷ lệ nhiễm giun đũa là 34%, giun tóc là 32% và giun móc/mỏ
là 1%[10].
• Các nước Châu Á: Đặc biệt là khu vực Đông Nam Á, vùng kinh tế đang phát
triển, vấn đề ô nhiễm môi trường, khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều nên có tỷ lệ
bệnh giun sán cao[3].
Như ở Pakistan với 45,5% nhiễm giun đũa và 3,5% nhiễm giun
móc/mỏ. Ở Nhật Bản với 49,9% - 63,4% nhiễm giun đũa[12],[13].
Tại Philippines tỷ lệ nhiễm giun đũa, giun tóc, giun móc/mỏ lần lượt là

36,5%, 61,8% và 28,4%[14].
Tại Malaysia cho kết quả tỷ lệ nhiễm ba loài giun đũa là 43,3%; giun tóc
là 9,5% và giun móc/mỏ là 13,1%[11].
Ở Ấn Độ, tỷ lệ trẻ học đường nhiễm giun đũa là 51,9%, giun tóc là
4,7% và giun móc/mỏ là 41,8%[15].
Trẻ 1 - 5 tuổi ở Srilanka, tỷ lệ nhiễm giun đũa là 9,7%[16].
Ở Manufahi Timor – Leste tỷ lệ trẻ em nhiễm giun đũa là 30% và giun
móc/mỏ là 55,3%[17].
1.2.2. Tình hình nhiễm giun truyền qua đất ở Việt Nam
• Bệnh do giun truyền qua đất phổ biến trên khắp các tỉnh thành, nhưng phân
bố không đều giữa các địa phương phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Bệnh có ở mọi
lứa tuổi, tuy nhiên trẻ em thường có nguy cơ nhiễm bệnh cao hơn người lớn
do bàn tay nhiễm bẩn và thói quen mút tay[3].
• Hoàng Thị Kim và cộng sự đã công bố về tình hình nhiễm giun truyền qua đất
trên cả nước[18]


11

Nhiễm giun đũa phân bố rộng khắp cả nước, song tỷ lệ nhiễm cao nhất
là ở miền Bắc từ 50% - 95%, vùng đồng bằng từ 80% – 95%, vùng núi từ
50% - 70%. Tỷ lệ nhiễm giun ở miền Trung là 12,5% - 70,5%, vùng đồng
bằng có tỷ lệ nhiễm là 70,5%, vùng núi là 38,4%, vùng ven biển là 12,5%.
Miền Nam có tỷ lệ nhiễm giun đũa thấp hơn là 10% - 60%, trong đó vùng
đồng bằng là 45% - 60%, Tây Nguyên là 10% - 25%. Lứa tuổi nhiễm cao nhất
là trẻ em từ 5 - 9 tuổi.
Tỷ lệ nhiễm giun tóc trong cả nước rất khác nhau, tùy theo từng vùng
từ 0,5% - 89%, trong đó miền Bắc có tỷ lệ nhiễm từ 28% - 89%, miền Trung
từ 4,2% - 47% và miền Nam từ 0,5% - 1,7%.
Tỷ lệ nhiễm giun móc/mỏ trong cả nước từ 3% - 69%. Nhiễm giun

móc/mỏ phụ thuộc vào từng vùng thổ nhưỡng, điều kiện vệ sinh và canh tác.
Những vùng đất xốp, trồng màu thường có tỷ lệ nhiễm cao.
• Ở miền Bắc và miền Trung, nghiên cứu từ năm 1996 trên trẻ 7 – 12 tuổi tại
Hà Tây cho thấy tỷ lệ nhiễm giun ở trẻ rất cao, tỷ lệ nhiễm giun đũa, giun tóc,
giun móc/mỏ lần lượt là 78,9%, 44,3% và 30,2%[8].
• Năm 2007, nghiên cứu khác tại Hà Tây trên trẻ dưới 14 tuổi cho kết quả tỷ lệ
nhiễm giun đã giảm nhiều, chỉ 8% trẻ có nhiễm giun đũa, 27% nhiễm giun
móc và 7% nhiễm giun móc/mỏ[9].
• Năm 2015, tỷ lệ nhiễm giun ở vùng núi cũng có xu hướng giảm thể hiện qua
nghiên cứu ở Điện Biên và Yên Bái thấy tỷ lệ nhiễm giun đũa, giun tóc, giun
móc/mỏ giảm xuống còn 21,2%, 5,5% và 0,4%[14].
• Ở miền Nam, tỷ lệ nhiễm giun truyền qua đất thấp hơn so với miền Bắc.
Nghiên cứu năm 2005 ở Kiên Giang trên trẻ 6 – 11 tuổi chỉ có 3,1% nhiễm
giun đũa, 6,4% nhiễm giun tóc và 1,9% nhiễm giun móc/mỏ[11].
• Năm 2012, nghiên cứu khác tại Ninh Thuận ở trẻ 9 – 15 tuổi cũng cho thấy tỷ
lệ nhiễm thấp với giun đũa, giun tóc, giun móc/mỏ lần lượt là 22,1%, 0,5% và
16,6% hay nghiên cứu tại Khánh Hòa trên đối tượng học sinh tiểu học trong


12

cùng năm cũng cho thấy tỷ lệ nhiễm ba loài giun này lần lượt là 15,1%, 0% và
12,9%[19],[20].
• Báo cáo tổng kết công tác phòng chống các bệnh ký sinh trùng tại Việt Nam
giai đoạn 2011- 2016 của Viện Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng trung
ương cho thấy tỷ lệ nhiễm chung bệnh giun truyền qua đất ở học sinh tiểu học
tại miền Bắc là 12,3%, miền Trung-Tây Nguyên là 18,6% và miền Nam là
6,16%, toàn quốc là 12,3%. Một số tỉnh có tỷ lệ nhiễm giun truyền qua đất ở
học sinh tiểu học cao như: Hà Giang vẫn là 86% (2013); Đăk Lăk 25,0%, Phú
Thọ 24,8%, Quảng Ninh 20,31%, Trà Vinh 18,08%, Ninh Bình 17,46%,

Thanh Hóa 18,3, Bình Thuận 17,25%. Tỷ lệ nhiễm chung bệnh giun truyền
qua đất ở trẻ 12-60 tháng tuổi tại miền Bắc 14,1%, miền Trung-Tây Nguyên
7,2%, miền Nam là 2,2%[4].
1.3. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA GIUN TRUYỀN QUA ĐẤT
1.3.1. Đặc điểm hình thể
1.3.1.1. Giun đũa
Giun đũa là giun có kích thước lớn ký sinh ở người, hình trụ tròn, hai
đầu vót nhọn, màu trắng hồng như sữa. Giun trưởng thành con cái có kích
thước 20 – 25 cm, giun đực có kích thước 15 – 17 cm[3].
Đầu thuôn nhỏ có 3 môi xếp cân đối, gồm một môi lưng và hai môi
bụng. Bao bọc các môi là tầng kytin trong, trong môi là tủy môi. Thân giun
được bao bọc một lớp vỏ kytin. Đuôi giun nhọn, gần cuối đuôi về phía bụng
có lỗ hậu môn. Đuôi giun đực thường cong và có 2 gai sinh dục bằng nhau[3].
Bộ phận sinh dục cái gồm hai ống, phần trước nhỏ là buồng trứng, phần
sau lớn dần là vòi trứng. Ống sinh dục một giun cái trưởng thành có thể chứa
tới 27 triệu trứng[3],[12].
Giun cái đẻ trứng, trứng chưa được thụ tinh kích thước thay đổi từ 38 –
45 µm đến 85 – 95 µm[21]. Trứng đã được thụ tinh hình bầu dục, kích thước


13

40 – 75 µm, có 3 lớp vỏ dày bao bọc, ngoài cùng là vỏ albumin xù xì, thường
bắt màu vàng[22],[21].

Hình 1.1: Hình thể giun trưởng thành và trứng giun đũa[23]
1.3.1.2. Giun tóc
Giun tóc có màu trắng sữa hoặc hồng nhạt. Có hình thể đặc biệt, cơ thể
chia hai phần rõ rệt: phần đầu nhỏ và dài chiếm 2/3 chiều dài cơ thể, phần
thân ngắn và to chiếm[8].

Giun đực dài 30 – 45 mm, đuôi nhọn, cong về phía thân, cuối đuôi có
một gai sinh dục. Giun cái dài 30 – 50 mm, đuôi thẳng và tròn. Bộ phận sinh
dục cái chỉ gồm một buồng trứng, tử cung chứa đầy trứng chiếm gần hết nửa
thân sau[8].
Trứng giun hình thon dài, giống như quả cau bổ dọc, màu vàng đậm, vỏ
dày,hai đầu giống hai nút trong, kích thước 25 x 50 μm[21].

Hình 1.2: Hình thể giun trưởng thành và trứng giun tóc[23]
1.3.1.3.

Giun móc/mỏ


14

• Giun móc
Giun trưởng thành có màu trắng sữa hoặc hơi hồng hoặc đỏ nâu, cơ thể
cong hình chữ C. Trong bao miệng, có hai đôi răng hình móc ở bờ trên miệng,
xếp cân đối, bờ dưới miệng là các bao cứng[3].
Giun móc đực kích thước 8 – 11 mm, có đuôi xòe như chân vịt với gân
cứng chia ba nhánh. Bộ phận sinh dục đực gồm một tinh hoàn, ống dẫn tinh
và hai gai sinh dục dài[3].
Giun móc cái kích thước 10 – 13 mm, đuôi nhọn. Bộ phận sinh dục cái
gồm hai buồng trứng và hai ống dẫn trứng đổ vào lỗ sinh dục[3].
Trứng giun móc hình trái xoan, kích thước 60 x 40 µm, bao quanh bởi
lớp vỏ mỏng không màu, nhẵn. Giun cái đẻ trứng trong ruột người. Trứng ra
ngoài theo phân đã có 4 – 8 phôi bào[3].
• Giun mỏ
Giun mỏ trưởng thành có nhiều giống với giun móc. Tuy nhiên, Giun
mỏ nhỏ và ngắn hơn giun móc, cơ thể cong hình chữ S. Bao miệng có hai đôi

răng có hình bán nguyệt. Đuôi giun mỏ đực có gân chia hai nhánh[3].
Trứng giun mỏ và trứng giun móc giống nhau về hình thể.

Hình 1.3: Hình thể bao miệng giun móc và trứng giun móc/mỏ[23]
1.3.2. Đăc điểm về chu kỳ
Chu kỳ của giun truyền qua đất là kể từ khi người ăn phải trứng có ấu
trùng hay khi ấu trùng chủ động xâm nhập vào người, đến khi phát triển thành


15

thể trưởng thành và có khả năng đẻ ra trứng. Chu kỳ của giun truyền qua đất
thuộc chu kỳ đơn giản[8].
Người
1.3.2.1.

Ngoại cảnh

Chu kỳ giun đũa
Giun đũa ký sinh trong ruột non của người. Giun đực và giun cái

trưởng thành giao hợp và đẻ trứng. Trứng theo phân ra ngoại cảnh, sau một
thời gian phát triển thành trứng có ấu trùng, khi đó trứng có khả năng gây
nhiễm. Sự phát triển của trứng ở ngoại cảnh phụ thuộc vào nhiệt độ, độ ẩm,
oxy và ánh nắng mặt trời. Đất sét ẩm, dưới bóng râm với nhiệt độ 20 – 300C là
điều kiện tối ưu cho sự phát triển trứng. Tuỳ vào điều kiện ngoại cảnh, thời
gian để trứng phát triển ở ngoại cảnh từ 10 – 40 ngày.
Người ăn phải trứng giun đũa có ấu trùng do sử dụng thức ăn, nước
uống nhiễm trứng, chưa được nấu chín hoặc dùng tay bẩn chế biến thức ăn.
Vào tới dạ dày, nhờ sức co bóp và dịch vị dạ dày ấu trùng thoát vỏ, chui qua

các mao mạch ruột, vào tĩnh mạch mạc treo và đến gan. Ấu trùng đi qua gan 3
– 4 ngày sau đó theo tĩnh mạch trên gan vào tĩnh mạch chủ dưới và đến tim
phải, từ tim phải ấu trùng di chuyển đến phổi theo động mạch phổi sau
khoảng 4 ngày. Sau quá trình phát triển 10 – 15 ngày ở phổi, ấu trùng xuyên
qua phế nang vào đường dẫn khí và di chuyển đến hầu họng, từ đó người nuốt
ấu trùng xuống ruột và ấu trùng sẽ phát triển thành giun trưởng thành ở ruột
non sau 6 – 12 tuần. Đời sống của giun đũa ngắn, kéo dài 12 – 13 tháng[24].
Tại bệnh viện Nam Hà gặp giun đũa trưởng thành ở một ổ áp xe mông,
bệnh viện Việt Đức gặp giun ở động mạch đùi sâu[5],[25].


16

Hình 1.4: Chu kỳ của giun đũa[21]
1.3.2.2. Chu kỳ giun tóc
Giun tóc trưởng thành ký sinh ở đại tràng, manh tràng. Khi ký sinh giun
tóc cắm phần đầu vào niêm mạc ruột để hút máu, còn phần đuôi ở ngoài lòng
ruột. Sau khi giao hợp, giun cải đẻ trứng, trứng theo phân ra ngoại cảnh và
phát triển thành trứng có ấu trùng. Sự phát triển của trứng ở ngoại cảnh phụ
thuộc vào điều kiện nhiệt độ, ẩm độ, oxy. Ở điều kiện tối ưu là 25 – 30 0C, độ
ẩm trên 80%, có oxy và ít ánh nắng mặt trời. Thời gian để trứng phát triển đến
giai đoạn có ấu trùng bên trong từ 17 – 30 ngày. Ở nhiệt độ thấp, trứng phát
triển chậm, có thể kéo dài trên 3 tháng. Người ăn phải trứng có ấu trùng,
trứng vào dạ dày, ấu trùng thoát vỏ nhờ co bóp và dịch vị dạ dày. Sau khi
thoát vỏ, ấu trùng di chuyển tới manh tràng, dừng lại và phát triển thành giun
trưởng thành. Thời gian hoàn thành chu kỳ của giun tóc khoảng 30 ngày. Tuổi
thọ của giun tóc trung bình khoảng 5 – 6 năm[3].
Ngoài lây nhiễm qua đường tiêu hoá, giun đũa và giun tóc còn có khả
năng lây nhiễm vào cơ thể qua đường hô hấp[26].



17

Hình 1.5: Chu kỳ của giun tóc[21]
1.3.2.3. Chu kỳ giun móc/mỏ[5]
Giun móc/mỏ ký sinh ở tá tràng, giun ngoạm vào niêm mạc ruột để
chiếm thức ăn và hút máu. Giun đực và cái trưởng thành giao hợp và đẻ trứng,
trứng theo phân ra ngoại cảnh. Ở ngoại cảnh, trứng cần điều kiện về nhiệt độ,
ánh sáng, oxy, bóng râm để phát triển thành ấu trùng. Ở nhiệt độ 25 – 35 0C,
trứng phát triển thành ấu trùng giai đoạn I sau 24 giờ. Ấu trùng I dinh dưỡng
bằng các vi khuẩn và hữu cơ trong đất, phát triển thành ấu trùng giai đoạn III.
Ấu trùng giai đoạn III không tự dưỡng mà sống tự do để chờ vật chủ thích
hợp, chúng có các hướng động đặc biệt, có khả năng chui qua da.
Khi người tiếp xúc với đất hoặc thực vật có ấu trùng III, ấu trùng chủ
động xâm nhập vào da và mô dưới da. Ấu trùng theo tĩnh mạch về tim phải,
sau đó tới phổi qua động mạch phổi. Tại phổi, ấu trùng phát triển hoàn thiện
thành ấu trùng IV, V. Ấu trùng V di chuyển từ phế nang qua đường dẫn khí
đến vùng hầu họng và được nuốt xuống ruột. Thời gian từ khi ấu trùng xâm
nhập đến khi thành con trưởng thành trong cơ thể người mất 6 tuần.
Đời sống của giun móc kéo dài 2 – 7 năm, giun mỏ 4 – 20 năm.


18

Đối với mỏ chỉ nhiễm theo con đường qua da ở trên. Còn với giun móc,
còn có một con đường nhiễm khác là qua đường tiêu hoá. Ấu trùng theo thực
phẩm vào ruột non của người. Tại ruột, ấu trùng chui vào niêm mạc ruột, rồi
chui ra lòng ruột phát triển thành thể trưởng thành. Một số ấu trùng sau khi
xâm nhập vào tổ chức thì ngừng phát triển, ở trạng thái ngủ một thời gian dài,
trước khi chúng phát triển thành thể trưởng thành[26],[27].


Hình 1.6: Chu kỳ của giun móc/mỏ[21]
1.4. TÁC HẠI CỦA GIUN TRUYỀN QUA ĐẤT
1.4.1. Tác hại của giun đũa
• Tác hại do ấu trùng giun đũa
Trong giai đoạn chu du trong cơ thể, ấu trùng giun đũa gây những tổn
thương nhất định tại nơi chúng đi qua. Điển hình là hội chứng Loeffler mà ấu
trùng gây ra tại phổi, với các tổn thương ở phế nang, làm chảy máu, gây viêm
tổ chức, sốt, ho khan, đau ngực, bạch cầu ái toan tăng trong máu[28]. Hội
chứng Loeffler sẽ giảm dần và mất đi sau ngày thứ 18. Nguyên nhân gây nên
hội chứng này là do ấu trùng gây kích thích cơ học và tiết ra độc tố gây viêm
kiểu dị ứng[29].
• Tác hại do giun trưởng thành


19

Trường hợp nhiễm ít (5 – 10 con), bệnh nhân thường không có triệu
chứng gì[30].
Trường hợp nhiễm nhiều (> 10 con), các triệu chứng lâm sàng, cận lâm
sàng có thể xảy ra do cả ấu trùng và giun trưởng thành[3].
Ấu trùng giun đũa có thể gây ra các phản ứng dị ứng trong quá trình
chu du, biểu hiện bằng tăng bạch cầu ái toan và đại thực bào trong máu. Viêm
phổi do ấu trùng (hội chứng Loefler) có thể xảy ra với các triệu chứng: sốt
nhẹ, ho khan, thở khò khè, nổi mề đay, bạch cầu ái toan tăng cao, nhiều nốt
thâm nhiễm rải rác trên phim chụp X - quang… Các triệu chứng trên sẽ hết
sau 1 – 2 tuần, khi ấu trùng di chuyển lên vùng hầu họng[3].
Giun đũa trưởng thành gây ra triệu chứng lâm sàng do chiếm sinh chất,
rối loạn hấp thu và tắc nghẽn cơ học[21].
Khả năng chiếm sinh chất và gây rối loạn hấp thu: giun đũa là loài giun

lớn, thường ký sinh với số lượng lớn trong ruột non người, do đó vấn đề dinh
dưỡng là tồn tại hàng đầu. Trong các trường hợp mổ tắc ruột do giun, số
lượng giun có thể lên tới 500 – 1000 con, lượng giun lớn chiếm một phần
diện tích đường ruột gây cản trở quá trình tiêu hóa và hấp thu thức ăn. Bên
cạnh đó, giun đũa dinh dưỡng bằng protein, vitamin A, vitamin D đã được
tiêu hóa của người, góp phần gây thiếu vitamin và suy dinh dưỡng protein
năng lượng.
Tắc cơ học: Số lượng giun lớn khi xoắn vào nhau gây ra tắc, giãn ruột,
viêm ruột thừa, thậm chí thủng ruột, viêm phúc mạc. Giun chui vào đường
mật, ống mật, ống tụy gây ra viêm, tắc ống mật, ống tụy. Giun lạc chỗ lên gan
gây áp xe gan, lên phổi gây tắc nghẽn đường thở, suy hô hấp, áp xe phổi hoặc
lên thực quản, miệng, mũi gây viêm loét.
1.4.2. Tác hại của giun tóc


20

Nhiễm giun tóc thường không có triệu chứng. Một giun tóc trung bình
chỉ hút 0,005 ml/ngày, do đó thiếu máu, suy dinh dưỡng chỉ xảy ra khi nhiễm
giun số lượng lớn[21].
Tại chỗ ở niêm mạc ruột, giun tóc gây tổn thương niêm mạc, hình thành
các đám loét lớn ở niêm mạc đại tràng. Các tổn thương kích thích ở trực tràng
gây triệu chứng giống lị: đau bụng vùng đại tràng, đại tiện nhiều lần trong
ngày, phân ít và có chất nhầy lẫn ít máu. Ở trẻ nhỏ, cảm giác mót rặn và đại
tiện nhiều lần có thể gây sa trực tràng[24].
1.4.3. Tác hại của giun móc/mỏ
• Do ấu trùng[21]
Ấu trùng giun móc/mỏ khi qua da gây ngứa ngáy, mẩn đỏ tại vị trí xâm
nhập. Các triệu chứng xuất hiện và mất nhanh sau 1 – 2 ngày, trừ trường hợp
bội nhiễm gây viêm, lở loét da, tổn thương có thể kéo dài 2 – 4 tuần. Thường

gặp do giun mỏ nhiều hơn giun móc và biểu hiện triệu chứng ở các trường
hợp do giun móc động vật rõ hơn do giun móc người.
Hiếm gặp các triệu chứng ở hô hấp khi ấu trùng xuyên qua mao mạch
phổi vào các phế nang, biểu hiện như một viêm phế quản.
• Do giun trưởng thành[21],[30].
Giun móc/mỏ trưởng thành ký sinh ở tá tràng của người và dinh dưỡng
bằng cách hút máu, phương thức hút máu rất lãng phí nên nhanh chóng gây ra
tình trạng thiếu máu cục bộ cho người. Ước tính một giun móc hút 0,2 – 0,34
ml máu/ngày, một giun mỏ hút 0,03 – 0,05 ml máu/ngày. Biểu hiện thiếu máu
thiếu sắt có thể gặp từ nhẹ đến nặng bao gồm: khó thở khi gắng sức, nhịp
nhanh, chóng mặt, khô tóc, móng mủn dễ gãy. Nhiễm lượng lớn giun móc/mỏ
có thể gây suy tim do thiếu máu.
Các triệu chứng tiêu hóa có thể gặp gồm: đau thượng vị, nôn, chậm tiêu
hoặc tiêu chảy, đi ngoài phân đen do viêm, loét chảy máu ở tá tràng.


21

1.5. CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ BỆNH GIUN TRUYỀN QUA ĐẤT
1.5.1.
Chẩn đoán bệnh giun truyền qua đất
Bệnh do giun truyền qua đất thường không có triệu chứng đặc hiệu,
chẩn đoán cần dựa vào xét nghiệm phân tìm hấy hình ảnh trứng giun.
Các kỹ thuật xét nghiệm phân tìm trứng giun





Kỹ thuật xét nghiệm phân trực tiếp

Kỹ thuật xét nghiệm Kato
Kỹ thuật xét nghiệm Kato-Katz
Kỹ thuật tập trung trứng Willis

Xét nghiệm huyết thanh học dựa vào sự xuất hiện của kháng thể giun
đũa trong máu, có thể sử dụng các phương pháp: miễn dịch gắn men(ELISA),
miễn dịch huỳnh quang(IFA)… Xét nghiệm gián tiếp thường được dùng để
chẩn đoán bệnh do ấu trùng gây ra[21].
Trường hợp hội chứng Loffler do ấu trùng giun đũa chu du chẩn đoán
bằng chụp X – quang phổi thấy hình ảnh thâm nhiễm rải rác hai bên phổi. Tắc
ruột do giun chẩn đoán bằng các phương tiện chẩn đoán hình ảnh, siêu âm
thấy hình ảnh búi giun trong lòng ruột[21].
Chẩn đoán gián tiếp giun móc/mỏ bằng tổng phân tích tế bào máu[21]
• Thiếu máu, thể hiện bằng giảm số lượng hồng cầu và huyết sắc tố.
• Tăng bạch cầu ái toan.
1.5.2. Điều trị bệnh giun truyền qua đất
1.5.2.1. Nguyên tắc điều trị bệnh giun truyền qua đất
- Chọn thuốc điều trị có phổ rộng.
- Thuốc điều trị đạt những yêu cầu:
• Độc với giun
• Không độc với người
• Sử dụng dễ dàng qua đường uống
• Dạng thuốc sử dụng đơn giản, tiện lợi, rẻ tiền


22

- Việc điều trị cho cá nhân phải lựa chọn từng loại thuốc thích hợp, đạt hiệu quả
cao và theo dõi tác dụng phụ của thuốc một cách chặt chẽ.
- Đối với cộng đồng cần có phác đồ phù hợp, dễ sử dụng, có thể điều trị

hàng loạt tại cộng đồng.
1.5.2.2. Các thuốc điều trị bệnh giun truyền qua đất
• Mebendazol: 500mg liều duy nhất.
• Albendazol: 400mg liều duy nhất.
1.5.2.3. Điều trị triệu chứng
• Can thiệp phẫu thuật hoặc nội soi với các trường hợp tắc ống mật, ống tụy,
tắc ruột thủng ruột viêm phúc mạc do giun.
• Điều trị thiếu máu: Bổ sung sắt.
1.6. PHÒNG BỆNH DO GIUN TRUYỀN QUA ĐẤT
1.6.1. Nguyên tắc phòng chống bệnh
- Tiến hành trên quy mô rộng: Bệnh giun truyền qua đất là bệnh phổ biến, có
tính chất xã hội, vì vậy để phòng bệnh hiệu quả đòi hỏi phải có sự tham gia
của toàn cộng đồng, các ngành các tổ chức xã hội, lồng ghép vào các hoạt
động, các chương trình y tế.
- Tiến hành có trọng tâm, trọng điểm: Trong quá trình phòng chống bệnh giun
sán nên tập trung vào vùng có tỷ lệ bệnh cao, những đối tượng có nguy cơ
nhiễm giun cao (như phụ nữ, trẻ em…)
- Tiến hành thường xuyên và liên tục: Mầm bệnh giun sán ở ngoại cảnh do
chính con người thải ra, vì vậy, con người liên tục tái nhiễm bệnh, nên phải
thực hiện thường xuyên và lâu dài.
1.6.2. Chiến lược và giải pháp
Để khống chế được bệnh phải phá vỡ được ít nhất một trong ba mắt
xích của quá trình lây nhiễm: nguồn truyền nhiễm, yếu tố trung gian truyền
nhiễm, khối cảm thụ.
1.6.2.1.
Đối với nguồn truyền nhiễm
- Nguồn truyền nhiễm là người bị bệnh giun.
- Để phá vỡ mắt xích này phải điều trị cho người mắc bệnh.
- Chiến lược điều trị hàng loạt: điều trị cho toàn bộ cộng đồng, không phân biệt
giới, tuổi, tình trạng nhiễm.



23

- Chiến lược điều trị nhóm có mục tiêu: điều trị toàn bộ đối tượng ở nhóm có
nguy cơ nhiễm cao như phụ nữ và trẻ em.
- Chiến lược điều trị cá thể: điều trị cho những ca dương tính (có trứng giun)
được chẩn đoán bởi những đơn vị y tế.
1.6.2.2.
Đối với khối trung gian truyền nhiễm
- Xây dựng các công trình vệ sinh đảm bảo tiêu chuẩn.
- Quản lý và xử lý phân: xây dựng đủ hố xí đảm bảo vệ sinh an toàn, không sử
dụng phân tươi trong trồng trọt và chăn nuôi.
- Sử dụng nước sạch và vệ sinh môi trường…

1.6.2.3.
Đối với khối cảm thụ
- Giáo dục sức khỏe: phổ cập kiến thức về tác hại của giun và cách phòng
chống các bệnh giun tới từng người dân, nâng cao ý thức về vệ sinh và phòng
chống bệnh do giun.
- Xã hội hóa công tác phòng chống, kêu gọi sự tham gia của cộng đồng.
- Cung cấp nước sạch, vệ sinh ăn uống, thực hành ăn chín uống sôi.
- Đảm bảo vệ sinh cá nhân và vệ sinh môi trường.

2.
3.
4.


24


CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh của 16 trường tiểu học thuộc huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.
2.1.2. Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng nghiên cứu
- Chưa tẩy giun trong vòng 6 tháng gần đây.
- Các học sinh đang học từ lớp 1 đến lớp 5.
- Trẻ không mắc bệnh cấp tính, không sốt > 38,50C.
- Trẻ không mắc bệnh mạn tính: tâm thần, suy thận, tim, gan, hen phế quản.
- Trẻ không có tiền sử dị ứng thuốc.
2.1.3. Tiêu chuẩn loại trừ đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng không đồng ý tham gia nghiên cứu.
- Cha mẹ không đồng ý con tham gia nghiên cứu.
- Đối tượng không tuân theo quy trình của đề tài nghiên cứu, không thu đủ
mẫu, không uống thuốc tẩy giun.
2.2. ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
2.2.1. Địa điểm nghiên cứu
- Đề tài được tiến hành trên địa bàn huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.
- Tổng số điểm điều tra: 16 điểm, mỗi điểm là một trường tiểu học thuộc
huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam.
2.2.2. Thời gian nghiên cứu


25

- Thời gian nghiên cứu từ ngày 01/02/2017 đến ngày 01/10/2018
- Thời gian thu thập số liệu: từ tháng 04/2017 – tháng 10/2017.


2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
2.3.2. Cỡ mẫu nghiên cứu
2.3.2.1. Cách tính cỡ mẫu
 Cỡ mẫu cho xác định tỷ lệ nhiễm giun truyền qua đất:
Cỡ mẫu nghiên cứu tính theo công thức ước tính một tỷ lệ

- n: cỡ mẫu tối thiểu phải đạt được
- α: sai số cho phép, α = 0,05
- Z1-α/2 = 1,96 là hệ số tin cậy với xác suất 95%, khi α = 0,05.
- p = 0,21: là tỷ lệ nhiễm giun truyền qua đất ở học sinh tiểu học tại tỉnh
Quảng Nam theo Báo cáo tổng kết công tác phòng chống các bệnh ký sinh
trùng tại Việt Nam giai đoạn 2011-2016 của Viện Sốt rét – Ký sinh trùng –
Côn trùng Trung ương là 0,21[4].
- ε: sai số mong muốn tương đối chọn ε = 0,1.
Thay vào công thức trên có n ~ 1445.
Từ công thức trên, lựa chọn được cỡ mẫu tối thiểu là 1448 học sinh.
 Cỡ mẫu cho điều tra KAP:
Nghiên cứu tiến hành phỏng vấn học sinh lớp 4 và 5 của 16 trường tiểu
đã xét nghiệm phân.


×