Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến bệnh tăng huyết áp trong độ tuổi từ 15 59 tại huyện tứ kỳ hải dương năm 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (986.44 KB, 108 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tăng huyết áp (THA) là một trong những bệnh lý tim mạch phổ biến
mãn tính, tăng dần và

nguy hiểm gây ra khoảng 4,5 % gánh nặng bệnh tật

toàn cầu, bệnh thường gặp ở các nước phát triển, cũng như các nước đang
phát triển [1], [2]. Tỷ lệ tăng huyết áp trên thế giới năm 2000 là 26,4% (1 tỷ
người mắc) sẽ tăng lên 29,2% vào năm 2025 (1,5 tỷ người bị bệnh). Qua các
cuộc điều tra dịch tễ học THA tại các tỉnh cũng như khu vực ở Việt Nam cho
thấy tỷ lệ mắc bệnh xu hướng tăng lên, tỷ lệ THA trên cộng đồng người Kinh
năm 1992 là 11,7% và trên cộng đồng miền Bắc Việt Nam năm 2002 là
16,3%, ở Thành phố Hà Nội năm 2002 là 23,2% [27], [28], ở Thành phố Hồ
Chí Minh năm 2004 là 20,5%. Tăng huyết áp là yếu tố nguy cơ chính của
nhồi máu cơ tim, suy tim, đột quỵ, sa sút trí tuệ, các thử nghiệm lâm sàng
cũng như thực tế lâm sàng đã chứng minh việc điều trị THA làm giảm bệnh
tật và giảm nguy cơ do bệnh tim mạch rất đáng kể. Tuy nhiên dù biện pháp
điều trị hữu hiệu bằng thuốc cùng cách thức thay đổi lối sống có hiệu quả
trong THA nhẹ, tình trạng kiểm soát THA vẫn chưa đạt yêu cầu, tại Việt Nam
các nghiên cứu và thống kê y tế cho thấy gánh nặng bệnh tật (biến chứng) do
THA gây ra rất đáng lưu tâm (62% do đột quỵ và 49% đau thắt ngực do THA)
và gây ra chết đột ngột hoặc từ từ. Người ta gọi THA là kẻ giết người thầm
lặng (THA gây giảm tuổi thọ từ 10 - 20 năm), còn về mặt tài chính thì tăng
chi phí, về mặt sức khoẻ làm bệnh tăng dần, tàn tật nhiều [1], [2].
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng của bệnh tăng huyết áp các
nghiên cứu cho thấy tỷ lệ tăng huyết áp liên quan đến tuổi giới, thói quen hút
thuốc lá, uống rượu, lười vận động, béo phì và các yếu tố kinh tế xã hội, lối
sống cũng là yếu tố ảnh hưởng đến THA [13], [18].
Người mắc bệnh THA phải điều trị kiên trì, liên tục, tránh xa các yếu tố


nguy cơ làm THA và phải nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của việc điều trị
cũng như những biến chứng nguy hiểm của bệnh [18], [19], [20].


2
Hiện nay có rất nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước tìm hiểu thực
trạng của bệnh nhằm đưa ra chiến lược phòng chống THA.
Huyện Tứ kỳ là một huyện nông nghiệp của tỉnh Hải Dương, Huyện gồm
25 xã 01 thị trấn, diện tích 170.03 km2, dân số khoảng 168700 người,mật độ
970 người/ km2, số người trong độ tuổi lao động khoảng 35000 người, chiếm
tỷ lệ 20%, đây là lực lượng góp phần quan trọng đến việc phát triển kinh tế,
xã hội ở hải dương nói chung và Tứ kỳ nói riêng. Việc điều tra về tình trạng
THA ở độ tuổi này nhằm góp phần bảo vệ nâng cao đời sống sức khoẻ ở cộng
đồng, đặc biệt ở độ tuổi lao động. Với lý do đó chúng tôi tiến hành nghiên
cứu đề tài: Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến bệnh tăng huyết áp ở
độ tuổi từ 15- 59 tại Huyện Tứ kỳ- Tỉnh Hải Dương năm 2013. Với hai mục
tiêu sau:
1- Xác định tỉ lệ THA ở người trong độ tuổi từ 15 đến 59 tại Huyện Tứ
Kỳ - Tỉnh Hải Dương năm 2013.
2 - Mô tả một số yếu tố liên quan đến bệnh THA trong đối tượng nghiên
cứu ở độ tuổi trên.


3

Chƣơng 1
TỔNG QUAN
1.1. Khái niệm về huyết áp và tăng huyết áp
1.1.1. Khái niệm huyết áp
Huyết áp (HA) là áp lực máu có trong động mạch, do tim co bóp đẩy

máu từ thất trái vào hệ động mạch, đồng thời cũng do ảnh hưởng của lực cản
thành động mạch. Kết quả làm cho máu được lưu thông đến các tế bào để
cung cấp ôxy và các chất dinh dưỡng cho nhu cầu cơ thể. HA mà người ta
thường gọi là áp lực máu trong động mạch thường được đo ở động mạch cánh
tay [1], [9],[18].
Khi tim co bóp tống máu, áp lực động mạch tăng lên đạt mức cao nhất
gọi là HA tâm thu (HATT). Khi tim nghỉ, áp lực đó xuống đến mức thấp nhất
gọi là HA tâm trương (HA TTr) [22], [35], [59].
1.1.2. Khái niệm về tăng huyết áp
Cho đến nay, Tổ chức Y tế thế giới và Hội Tăng huyết áp quốc tế (World
Health Organization - WHO và International Society of Hypertension - ISH)
đã thống nhất gọi là THA khi HATT  140 mmHg và/hoặc HATTr  90
mmHg. Con số này có được là do dựa trên những nghiên cứu lớn về dịch tễ
học cho thấy có sự gia tăng đặc biệt nguy cơ tai biến mạch não (TBMN) ở
người lớn khi HA  140/90 mmHg. Tỷ lệ TBMN ở người có số HA < 140/90
mmHg giảm rõ rệt [58].
THA là khi trị số HA đo được ở trên mức bình thường, THA có thể là
tăng cả tâm thu và tâm trương hoặc chỉ tăng 1 trong 2 dạng đó [13], [26].
1.1.3. Chẩn đoán tăng huyết áp
Chẩn đoán tăng huyết áp: dựa vào chỉ số huyết áp đo được sau khi đo
huyết áp đúng quy trình [10],[4],[35].


4
- Người bệnh nghỉ ngơi trong phòng yên tĩnh ít nhất 5 - 10 phút trước khi
đo huyết áp.
- Không dùng chất kích thích (cà phê, hút thuốc, rượu bia) trước đo 2 giờ.
- Tư thế đo chuẩn: Người được đo huyết áp ngồi ghế tựa, cánh tay duỗi
thẳng trên bàn, nếp khửyu ngang mức với tim. Ngoài ra có thể đo ở các tư thế
nằm, đứng. Đối với người cao tuổi hoặc có bệnh đái tháo đường nên đo thêm

huyết áp đứng nhằm xác định có hạ HA tư thế hay không.
- Sử dụng HA kế thuỷ ngân, HA kế đồng hồ hoặc HA kế điện tử (loại đo ở
cánh tay). Các thiết bị đo cần được kiểm chuẩn định kỳ. Bề dài bao đo tối thiểu
bằng 80% chu vi cánh tay, bề rộng tối thiểu bằng 40% chu vi cánh tay.
Cuốn băng cuốn đủ chạy, bờ dưới của bao đo ở trên nếp lằn khưỷu 2cm. Đặt máy
ở vị trí để đảm bảo cho cột thuỷ ngân trở về số 0 đặt ngang với mức tim.
- Nếu không dùng thiết bị đo tự động, trước khi đo phải xác định vị trí
động mạch cánh tay để đặt ống nghe. Bơm hơi thêm 30mmHg sau khi không
còn thấy mạch đập. Xả hơi với tốc độ 2 - 3mmHg/nhịp đập. HA tâm thu
tương ứng với lúc xuất hiện tiếng đập đầu tiên (pha I của Korotkoff) và HA
tâm trương tương ứng với khi mất hẳn tiếng đập ( pha V của Korotkoff).
- Không nói chuyện khi đang đo HA.
- Lần đo đầu tiên, cần đo HA ở cả hai cánh tay, tay nào có số đo HA cao
hơn sẽ dùng để theo dõi HA về sau.
- Nên đo HA ít nhất hai lần, mỗi lần cách nhau ít nhất 1 - 2 phút. Nếu số
đo HA giữa hai lần đo chênh nhau trên 10mmHg, cần đo lại một vài lần sau
khi đã nghỉ trên 5 phút. Giá trị HA ghi nhận là trung bình của hai lần đo cuối
cùng.
- Trường hợp nghi ngờ, có thể theo dõi huyết áp bằng máy đo HA tự
động tại nhà hoặc bằng máy đo HA tự động 24 giờ.


5
- Ghi lại số đo theo đơn vị mmHg dưới dạng HA tâm thu/HA tâm trương,
không làm tròn số quá hàng đơn vị và thông báo kết quả cho người được đo.
Ngưỡng chẩn đoán tăng HA thay đổi tuỳ theo từng cách đo HA.
ảng 1.1. ảng các ngưỡng chẩn đoán tăng HA theo từng cách đo
Huyết áp

Huyết áp


tâm thu

tâm trương

1. Cán bộ y tế đo theo đúng quy  140 mmHg
trình

Và/hoặc

90 mmHg

2. Đo bằng máy đo huyết áp tự  130 mmHg
động 24giờ

80 mmHg

 135 mmHg

85 mmHg

3. Tự đo tại nhà (đo nhiều lần)
1.1.4. Phân loại tăng huyết áp

Hiện nay Tổ chức Y tế thế giới (TCYTTG) đã có nhiều khuyến cáo và
chỉ dẫn về việc phân loại, theo dõi và điều trị THA. Hội đồng chuyên viên của
TCYTTG năm 1978 chia THA thành các giai đoạn, căn cứ vào các mức độ
tổn thương các cơ quan đích. Năm 1993 TCYTTG chia THA thành các mức
độ nặng vừa và nhẹ. Tuy nhiên các khuyến cáo trên chưa thật hoàn chỉnh vì
không đề cập đến các yếu tố nguy cơ cũng như các chỉ dẫn điều trị THA sao

cho thích hợp [35], [60].
Cùng với TCYTTG và Hội THA quốc tế, Liên Uỷ ban quốc gia Hoa Kỳ
(United States Joint National Committee - JNC) cũng đưa ra phân loại THA.
Cách phân loại này dựa trên số HA đo được, đồng thời chú ý đến cả tổn
thương cơ quan đích. Đến năm 1997, tại kỳ họp lần thứ VI, JNC đã đưa ra các
tiêu chuẩn đánh giá THA một cách hoàn chỉnh hơn bao gồm con số HA đo
được, tổn thương cơ quan đích, yếu tố nguy cơ và hướng dẫn điều trị [60].
Cuối năm 1998, TCYTTG và Hội THA quốc tế đã hội thảo và đưa ra
“Hướng dẫn của WHO/ISH - 1999 về THA” [60] bằng nhiều chỉ dẫn tương
đối cụ thể và hoàn chỉnh về phân độ THA, về yếu tố nguy cơ, tổn thương cơ


6
quan đích cũng như khuyến cáo khá đầy đủ về phương pháp điều trị và quản
lý bệnh nhân THA, đây là tài liệu có giá trị khoa học và thực tiễn cao.
ảng 1.2. Phân loại mức độ huyết áp theo hướng dẫn của JNC VI (1997) hay
WHO/ISH (1999):
Phân loại HA

HATT (mmHg)

HATTr (mmHg)

HA tối ưu

< 120

< 80

HA bình thường


< 130

< 85

HA bình thường cao

130 - 139

85 - 89

THA độ 1

140 - 159

90 - 99

THA độ 2

160 - 179

100 - 109

THA độ 3

 180

 110

Tăng HATT đơn độc

Phân nhóm: giới hạn

 140

< 90

140 - 149

< 90

Năm 2003, theo quy định của Liên uỷ ban quốc gia về phòng ngừa,
phát hiện, đánh giá và điều trị bệnh THA lần thứ VII (JNC VII), đã đưa ra
một số chỉ dẫn về phân loại và xử trí HA mới nhất [19], [30], [48].
ảng 1.3: Phân loại THA theo JNC VII (2003)
Phân loại THA

HATT (mmHg)

HATr (mmHg)

< 120

< 80

Tiền THA

120- 139

80- 89


THA giai đoạn 1

140- 159

90- 99

THA giai đoạn 2

≥ 160

≥ 100

HA bình thường

Tiền tăng huyết áp đã được JNC VII đề cập để chỉ những người có nguy
cơ cao bị THA trong tương lai.
- Theo phân loại HA mới nhất của JNC VII thì: Con số HA bình thường
trước kia là <140/90 mmHg, nay hạ xuống còn dưới 120/80 mmHg. Huyết áp
từ 120 – 139/ 80 – 90 mmHg thì JNC VII không coi là bình thường nữa, mà


7
gọi là tiền THA, nghĩa là có nhiều nguy cơ trở thành THA thực sự sau này
gấp 2 lần so với người có HA bình thường < 120/80 mmHg. THA giai đoạn 1
(trước đây gọi là THA độ 1) vẫn như cũ, nghĩa là huyết áp 140 – 159/90 – 99
mmHg. JNC VII bỏ khái niệm THA giới hạn, THA độ 2 và THA độ 3, nay
được JNC VII gộp lại gọi là giai đoạn 2: HATT  160 mmHg hoặc HATTr 
100 mmHg. Vì tỷ lệ biến chứng không khác nhau rõ và xử lý giống nhau [19].
JNC VII còn nhắc lại rằng tăng HATT nặng hơn tăng HATTr. Trước năm
1988, các thử nghiệm lâm sàng đều coi hạ HATTr là mục tiêu, cho nên JNC

IV(1988) nhấn mạnh đến HATTr. Nhưng từ đó đến nay, nhiều dữ kiện đã
chứng tỏ rằng tăng HATT nhiều biến chứng hơn cho nên JNC VII coi mục
tiêu điều trị hàng đầu là đạt mục tiêu về HATT. Cụ thể là phải đưa HATT về
dưới 140 mmHg. THA là một bệnh hoặc triệu chứng do bệnh khác gây nên có
thể dễ chẩn đoán bằng cách đo HA nhưng nguyên nhân không phải là luôn
luôn tìm thấy. Vì vậy người ta chia làm 2 loại: THA nguyên phát (Còn gọi là
THA vô căn) là các trường hợp THA không tìm thấy nguyên nhân, gọi là
bệnh THA chiếm từ 90 – 95% số người bị tăng huyết áp. THA thứ phát là
các trường hợp THA xảy ra do một bệnh khác, gọi là THA triệu chứng.
Trong các trường hợp THA thứ phát, người ta tìm thấy nguyên nhân làm
cho HA tăng cao, nếu được điều trị bệnh chính thì HA sẽ trở lại bình
thường. Các bệnh thường gặp có triệu chứng THA là các bệnh về thận như
viêm thận, suy thận, lao thận, các bệnh của tuyến thượng thận,... [35].
1.1.5 Cơ chế bệnh sinh của tăng huyết áp
Huyết áp động mạch = Cung lượng tim x Sức cản động mạch ngoại vi
(Cung lượng tim = Phân số nhát bóp x Tần số tim/phút).
Căn cứ vào công thức trên cho thấy rằng, khi tăng cung lượng tim và
hoặc tăng sức cản động mạch ngoại vi sẽ gây tăng huyết áp hệ thống động
mạch. Tăng hoạt động thần kinh giao cảm gây tăng nồng độ adrenalin và
noradrenalin trong máu. Sự tăng nồng độ adrenalin và noradrenalin được nhận


8
cảm bởi các thụ cảm thể alpha, bêta của cơ trơn thành động mạch, gây co
mạch làm tăng huyết áp [22].
+ Vai trò của hệ RAA (Renin – Angiotensin –Aldosteron):

Angiotensinogen
(sản xuất từ gan)


Renin (từ thận)

Angiotensinogen I

Men converting
(từ phổi)

Ức
chế
ngược

Angiotensinogen II

Angiotensiasa
(tổ chức)

Tăng Aldosteron

AngiotensinIII
Thụ cảm thể AT 1
tiếp nhận gây co mạch

Tăng giữ nước và Na+

Tăng hoạt tính thần kinh
giao cảm gây co mạch

Tăng huyết áp hệ
thống động mạch.


Sơ đồ 1.4. Hệ RAA trong tăng huyết áp.
- Angiotensin II được nhận cảm bởi các thụ cản thể AT1 và AT2 của cơ
trơn thành động mạch gây co mạch làm tăng huyết áp.


9
- Angiotensin II kích thích vỏ thượng thận tăng tiết aldosteron, từ đó gây
tăng tái hấp thu muối và nước, gây tăng thể tích dịch trong máu, nên tăng sức
kháng động mạch gây tăng huyết áp.
- Angiotensin II còn gây tăng hoạt tính giao cảm, dẫn đến THA.
+ Tăng cung lượng tim: do tim tăng động, phì đại cơ tim, nhịp tim nhanh
+ Tăng natri máu hoặc tăng nhạy cảm với natri, tăng tái hấp thu natri ở ống thận
+ Rối loạn chức năng tế bào nội mạc động mạch, giảm nồng độ các chất
gây giãn mạch, tăng tiết các yếu tố gây co mạch (ví dụ như: EDCF, PGH2, TX
A2, endothelin, giảm NO....).
+ Những yếu tố khác: kháng insulin, tăng nồng độ axit uric máu,
thay đổi hormon sinh dục, giảm chức năng của thụ cảm thể áp lực ở xoang
động mạch cảnh...
Các thuốc được dùng điều trị triệu chứng THA đều can thiệp vào các
khâu của huyết động trong quá trình bệnh lý
- Hoặc làm giảm cung lượng tim
- Hoặc làm giảm sức cản ngoại vi
- Hoặc làm giảm cả hai khâu
Để đưa HA trở về bình thường thông qua các cơ chế:
1- Cơ chế liệt giao cảm
2- Cơ chế giãn mạch trực tiếp
3- Cơ chế giảm natri và giảm thể tích dịch lưu hành
4- Cơ chế can thiệp vào hệ RAA
1.1.6. Điều trị tăng huyết áp
- Nguyên tắc chung [4], [35] :



10
+ THA là một bệnh mãn tính nên cần theo dõi đều, điều trị đúng và đủ
hàng ngày, điều trị lâu dài.
+ “Huyết áp mục tiêu” cần đạt là <140/90mmHg và thấp hơn nữa nếu
người bệnh vẫn dung nạp được. Nếu nguy cơ tim mạch từ cao đến rất cao thì
HA mục tiêu cần đạt là <130/80mmHg. Khi điều trị đã đạt huyết áp mục tiêu,
cần tiếp tục duy trì phác đồ điều trị lâu dài kèm theo việc theo dõi chặt chẽ,
định kỳ để điều chỉnh kịp thời.
+ Điều trị cần hết sức tích cực ở bệnh nhân đã có tổn thương cơ quan
đích. Không nên hạ HA quá nhanh để tránh biến chứng thiếu máu ở các cơ
quan đích, trừ tình huống cấp cứu.
- Điều trị THA bằng thuốc tại tuyến cơ sở:
+ Chọn thuốc khởi đầu.
THA độ 1: có thể lựa chọn một số thuốc trong số các nhóm: lợi tiểu
thiazide liều thấp, ức chế men chuyển, chẹn kênh canxi loại tác dụng kéo dài,
chẹn beta giao cảm (nếu không có chống chỉ định).
THA độ 2 trở lên: nên phối hợp hai loại thuốc (lợi tiểu, chẹn kênh
canxi, ức chế men chuyển, ức chế thụ thể AT1 của angiotensin II, chẹn beta
giao cảm).
Từng bước phối hợp các thuốc hạ HA cơ bản, bắt đầu từ liều thấp như
lợi tiểu thiazide (hydrochlorothiazide 12.5mg/ngày), chẹn kênh canxi dạng
phóng thích chậm (nifedipine 10 -20mg/ngày), ức chế men chuyển (enalapril
5mg/ngày; perindopril 2,5 – 5mg/ngày...).
+ Quản lý người bệnh ngay tại tuyến cơ sở để đảm bảo bệnh nhân được
uống thuốc đúng, đủ và đều; đồng thời giám sát quá trình điều trị, tái khám,
phát hiện sớm các biến chứng và tác dụng phụ của thuốc theo 4 bước quản lý
tăng huyết áp ở tuyến cơ sở: bước 1 đánh giá nguy cơ tim mạch tổng thể,
bước 2 xác định giai đoạn tăng huyết áp và chiến lược điều trị, bước 3 xác



11
định huyết áp mục tiêu và phương án điều trị, bước 4 theo dõi định kỳ và
giám sát tuân thủ điều trị.
+ Nếu chưa đạt HA mục tiêu: chỉnh liều tối ưu hoặc bổ sung thêm một
loại thuốc khác cho đến khi đạt HA mục tiêu.
+ Nếu vẫn không đạt HA mục tiêu hoặc có biến cố cần chuyển tuyến trên
hoặc gửi khám chuyên khoa tim mạch.
- Các lý do chuyển tuyến trên hoặc chuyên khoa tim mạch: cân nhắc
chuyển đến các đơn vị quản lý THA tuyến trên hoặc chuyên khoa tim mạch
trong các trường hợp sau.
+ THA tiến triển: THA đe doạ có biến chứng (như tai biến mạch máu
não thoáng qua, suy tim ...) hoặc khi có biến cố tim mạch.
+ Nghi ngờ THA thứ phát hoặc THA ở người trẻ hoặc khi cần đánh giá
các tổn thương cơ quan đích.
+ THA kháng trị mặc dù đã dùng nhiều loại thuốc phối hợp (  3 thuốc,
trong đó ít nhất có một thuốc lợi tiểu) hoặc không thể dung nạp với các thuốc
hạ áp hoặc có quá nhiều bệnh nặng phối hợp.
+ THA ở phụ nữ có thai hoặc một số trường hợp đặc biệt khác.
- Điều trị tăng huyết áp và các yếu tố nguy cơ tim mạch khác ở tuyến
trên. Quản lý tăng huyết áp và các yếu tố nguy cơ tim mạch khác ở tuyến trên
bao gồm:
+ Phát hiện tổn thương cơ quan đích ngay ở giai đoạn tiền lâm sàng như
nguyên nhân gây THA thứ phát, các yếu tố nguy cơ tim mạch, biến chứng và
tổn thương cơ quan đích do tăng huyết áp.
+ Loại trừ các nguyên nhân gây THA thứ phát.
+ Chọn chiến lược điều trị dựa vào độ HA và mức nguy cơ tim mạch.



12
+ Tối ưu hoá phác đồ điều trị THA: dựa vào các chỉ định bắt buộc hoặc
ưu tiên của từng nhóm thuốc hạ HA trong các thể bệnh cụ thể. Phối hợp nhiều
thuốc để tăng khả năng kiểm soát HA thành công, giảm tác dụng phụ và tăng
việc tuân thủ điều trị của người bệnh.
+ Điều trị các bệnh phối hợp và điều trị dự phòng ở nhóm có nguy cơ tim
mạch cao hoặc rất cao.
+ Sử dụng các thuốc hạ HA đường tĩnh mạch trong các tình huống khẩn
cấp như THA ác tính, tách thành động mạch chủ, suy thận tiến triển nhanh,
sản giật, THA có kèm nhồi máu cơ tim cấp, hoặc suy tim trái cấp.
1.1.7. Tiến triển bệnh tăng huyết áp
THA không được điều trị và kiểm soát tốt sẽ dẫn đến tổn thương nặng
các cơ quan đích và gây các biến chứng nguy hiểm như tai biến mạch máu
não, nhồi máu cơ tim, phình tách thành động mạch chủ, suy tim, suy
thận…thậm chí dẫn đến tử vong [4],[35].
1.1. 8. Các biện pháp dự phòng tăng huyết áp
Các biện pháp tích cực thay đổi lối sống là những biện pháp để phòng
ngừa THA ở người trưởng thành, phối hợp với việc giáo dục truyền thông
nâng cao nhận thức và hiểu biết về bệnh tăng huyết áp cũng như các biến
chứng của THA và các yếu tố nguy cơ tim mạch khác đó là [1],[2],[4]:
- Có chế độ ăn lành mạnh nhiều rau quả và ngũ cốc nguyên cám, hạn chế
mỡ và giảm muối trong bữa ăn.
- Duy trì cân nặng bình thường.
- Tăng cường hoạt động thể lực.
- Hạn chế rượu, không hút thuốc lá.
- Giảm các Stress.
1.2. Các yếu tố liên quan đến tăng huyết áp


13


1.2.1. Tuổi và giới tính
Độ tuổi lao động [10]: Là lứa tuổi đã đạt đến đỉnh cao của sự chín muồi,
trưởng thành về sức khoẻ tâm lý, địa vị xã hội, kinh nghiệm sống. Trong lứa
tuổi trung niên sự phân hoá của cơ thể chậm lại, sự đào thải cũng chậm xu
hướng tích tụ tế bào mỡ gia tăng.
Đối với phụ nữ ở tuổi này có nhiều thay đổi về nhu cầu dinh dưỡng, nội
tiết tố không còn giống trước đã bắt đầu có dấu hiệu của sự lão hoá, dấu hiệu
của tiền mãn kinh, mãn kinh.
Tuổi bắt đầu có THA thông thường là từ 30 tuổi trở lên, theo Pepara có
trường hợp THA từ năm 10 tuổi. TCYTTG tính khái quát: Ở tuổi 35 cứ 20
người thì có 1 người THA, ở tuổi 45 cứ 7 người thì có 1 người THA và quá
65 tuổi thì cứ 3 người thì có 1 người THA. Tại các nước công nghiệp phát
triển THA gây tử vong cả trực tiếp lẫn gián tiếp khoảng gần 30% tổng số tử
vong, nhìn chung khi HA tăng ở lứa tuổi càng cao thì tỷ lệ tử vong càng lớn
[26].
Trong đa số người dân trên thế giới, HATT và HATTr đều tăng theo tuổi
cho đến 60 tuổi. Sau tuổi này, HATTr có xu hướng giảm, HATT tiếp tục tăng
làm cho khoảng cách HATT và HATTr xa ra. Trẻ em dưới 10 tuổi, HA ở nam
và nữ như nhau, sau đó HA ở nam tăng nhanh hơn nữ. Ở tuổi từ 20 - 40 tuổi,
HATT ở nam cao hơn nữ [26], theo Nguyễn Thị Chính thì THA thường ít gặp
ở tuổi dưới 30, tăng rõ ở lứa tuổi 50 - 65 có khoảng 20 - 40% THA ở tuổi 65,
ở tuổi 70 thì HATT thường tăng trong khi HATTr không tăng nên xảy ra tình
trạng tăng HATT đơn độc [26].
Kết quả nghiên cứu của Odonnell và CS tại Boston- Hoa Kỳ năm 1997
cho thấy nhóm người cao tuổi THA có nguy cơ mắc các bệnh tim mạch, đặc
biệt là TBMN và tử vong do bệnh tim mạch cao hơn người trẻ tuổi [74].
Ngoài ra, người già cũng có những thay đổi chức năng khác như tăng hoạt



14
động thần kinh giao cảm có thể do giảm tính nhạy cảm của các thụ thể , vì
vậy có xu hướng gây ra co mạch làm THA [65].
Hầu hết các nguy cơ tim mạch tăng nhanh theo tuổi. Tại Anh, phái nam từ
45-74 tuổi có sự gia tăng từ 3-4 lần tử vong do TBMN và bệnh mạch vành ở mỗi
nhóm cách nhau 10 tuổi. Ảnh hưởng của tuổi lên nguy cơ bệnh làm mạnh thêm
ảnh hưởng của HA và yếu tố nguy cơ khác lên sự xuất hiện bệnh [60].
Khả năng mắc bệnh tim mạch gia tăng, trước khi mãn kinh phụ nữ ít bị
mắc các bệnh tim mạch hơn đàn ông. Nhưng khi nồng độ Oestrogen bắt đầu hạ
thấp vào lúc mãn kinh thì nguy cơ mắc bệnh tim mạch ở phụ nữ tăng lên rõ rệt.
Vì thế tăng triglyceric(TG), tăng cholesterol toàn phần(CT), THA, đau thắt ngực
và nhồi máu cơ tim thường xảy ra nhiều ở phụ nữ tuổi 50 trở lên [8].
Người cao tuổi (từ 60 tuổi trở lên) có nguy cơ cao đối với bệnh THA, tỷ
lệ mắc, tỷ lệ biến chứng gây tử vong, tàn tật đều cao hơn những người trẻ
tuổi. Mặc dù sự tăng HATTr sẽ giảm nhẹ dần khi vượt qua 65-70 tuổi nhưng
HATT lại tiếp tục tăng theo tuổi đời, có thể gây chứng tăng HATT đơn độc.
Trước đây đã có ý kiến cho rằng HATTr là quan trọng hơn, năm 1984,
TCYTTG đã khẳng định HATT cũng là một yếu tố nguy cơ quan trọng tương
đương với HATTr vì dễ gây nên TBMMN [4], [13], [26]. THA là bệnh
thường gặp ở người cao tuổi, nhưng nếu kiểm soát tốt sẽ giảm được tỷ lệ đột
quỵ 35 - 40%, nhồi máu cơ tim 20 - 25% và suy tim trên 50%[40].
Điều tra của Viện Tim mạch 1989-1992 cho thấy tỷ lệ THA là 6% ở
lứa tuổi 16-39, tăng lên 21,5% ở tuổi 50-59, 30,6% ở tuổi 60-69 tuổi, ở lứa
tuổi 70 trở lên là 47,5%[13].
Nghiên cứu của Phạm Gia Khải và CS năm 1999 cho thấy tuổi càng
cao tỷ lệ THA càng tăng. Ở độ tuổi 16-24 tỷ lệ này là 2,78%, độ tuổi 45-54 tỷ
lệ này là 22,95%, trên 75 tuổi thì tỷ lệ này là 65,46%[27].


15

Nghiên cứu của Phạm Gia Khải, Nguyễn Lân Việt và CS thì tần suất
THA tăng dần theo tuổi, tỷ lệ THA ở nam cao hơn đáng kể so với nữ
(p<0,05), nhưng lại xấp xỉ như nhau ở độ tuổi 45-54 và ở độ tuổi  65. Tỷ lệ
THA độ 2 giữa nam và nữ không có sự khác biệt, nhưng tỷ lệ THA tổng cộng,
THA độ 1 và THA độ 3 thì nam cao hơn nữ (p< 0,001). Nam giới có nguy cơ
mắc THA cao gấp 1,4 lần và cứ tăng thêm 10 tuổi thì nguy cơ xuất hiện THA
lại tăng thêm 2,1 lần [28]. Theo Phạm Thắng, người cao tuổi mắc bệnh THA
nhiều nhất so với các lứa tuổi khác chiếm tỷ lệ 45,6% [48]. Tỷ lệ THA theo
JNC VI giữa nam và nữ không khác biệt, nhưng tỷ lệ THA tổng cộng, THA
mức độ nặng hoặc nhẹ thì ở nam cao hơn hẳn nữ [28].
Trong báo cáo chuyên đề thực trạng các mục tiêu Y tế quốc gia của
Tổng cục thống kê năm 2003 cho thấy tỷ lệ THA hiện nay ở những người từ
16 tuổi trở lên của nữ là 12,7%, nam là 15,9%. Nếu chỉ tính từ tuổi 25 trở
lên thì tỷ lệ THA còn cao hơn 19,7% đối với nam và 17,5% đối với nữ. Đối
với nam giới ở lứa tuổi 25-34, cứ 10 người thì có gần 1 người bị THA, đến
tuổi 35- 44 đã có 1,5 người bị THA và ở tuổi 65-74 cứ 2 người thì có 1
người bị THA. Đối với nữ, tuy tỷ lệ THA xuất hiện nhiều ở lứa tuổi cao hơn,
khoảng ngoài 40 tuổi, nhưng tốc độ tăng nhanh ở lứa tuổi ngoài 75. Đặc biệt
ở vùng Tây Bắc và Tây Nguyên có tỷ lệ nam và nữ bị THA cao hơn hẳn các
vùng khác [54].
1. 2. 2. Thay đổi sinh lý của huyết áp
Trên một người bình thường, huyết áp không phải lúc nào cũng ổn định
mà nó luôn luôn thay đổi. Sự thay đổi này tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng
nằm trong một giới hạn nhất định, hay giới hạn sinh lý của huyết áp [13],
[22], [35]. Huyết áp thay đổi theo thời gian: Trong một ngày huyết áp được
ghi nhận nhờ một máy đo huyết áp tự động trong ngày liên tục trong suốt 24
giờ người ta thấy: huyết áp ban ngày cao hơn ban đêm khoảng 20%, từ 22
giờ đến 7 giờ sáng là thời gian huyết áp thấp nhất trong ngày, khi tỉnh dậy



16
tim làm việc mạnh hơn và huyết áp tăng lên nhanh hơn. Trong ngày, huyết
áp giao động nhẹ và tăng cao hơn vào khoảng 9 - 12 giờ trưa và cuối buổi
chiều. Ban đêm huyết áp lại hạ thấp xuống vào khoảng 3 giờ sáng, hiện
tượng này gặp cả ở người bình thường và người THA. Ở người THA thì có
tỷ lệ huyết áp ban ngày cũng như huyết áp ban đêm hoặc đảo ngược ban
đêm cao hơn ban ngày [13], [23].
Huyết áp tăng giảm theo thời tiết: Khi thời tiết thay đổi huyết áp cũng
dao động theo. Khi trời lạnh các mạch máu ngoại vi co lại để làm giảm sự thải
nhiệt, giữ nhiệt cho cơ thể, huyết áp tăng lên, ngược lại khi trời nắng nóng,
mạch máu ngoại vi dãn ra nhằm tăng sự thải nhiệt, để điều hoà nhiệt độ cho
cơ thể thì huyết áp lại hạ xuống [13], [35].
Huyết áp thay đổi tuỳ theo sự hoạt động của cơ thể, cả lao động trí óc
lẫn lao động chân tay. Khi cơ thể tăng cường vận động, nhu cầu oxy và chất
dinh dưỡng đảm bảo cho hoạt động đó tăng lên, yêu cầu tim phải làm việc
nhiều bằng cách tăng tần số và cường độ co bóp. Do đó, khi hoạt động nhiều
huyết áp tăng lên. Khi nghỉ ngơi, huyết áp trở lại bình thường. Khi lao động
trí óc căng thẳng kéo dài liên tục, huyết áp có thể tăng cao [13], [18], [35].
Huyết áp thay đổi theo tuổi; tuổi càng cao, hệ thống động mạch thường
bị xơ cứng nhiều, sự co dãn đàn hồi của thành động mạch kém đi, lòng động
mạch cũng bị hẹp hơn vì vậy dễ bị THA nhiều hơn [13], [35].
Huyết áp có thể bị ảnh hưởng bởi thuốc, một số thuốc không kể các loại
chuyên điều trị bệnh tăng giảm huyết áp, cũng có thể làm tăng, giảm huyết áp
như cam thảo, thuốc tránh thai, corticoids,... .
Huyết áp thay đổi do trạng thái tâm lý, các trạng thái tâm lý như lo âu,
bồn chồn, xúc động, thần kinh căng thẳng,... đều ảnh hưởng đến huyết áp.


17
Huyết áp thay đổi theo tư thế, chuyển từ tư thế nằm sang tư thế

đứng huyết áp tăng nhẹ 10-20 mmHg để đảm bảo cung cấp máu tốt hơn
cho các bộ phận trong cơ thể.
Tất cả những thay đổi huyết áp có tính chất sinh lý bình thường chỉ ở giới
hạn của huyết áp bình thường hoặc cao hơn bình thường, nhưng sau đó có thể tự
hạ về mức bình thường mà không cần phải điều trị [26], [8], [13].
1.2.3. Tình trạng thừa cân béo phì và béo bụng
Chỉ số khối cơ thể (BMI) được sử dụng để chẩn đoán mức độ béo phì
(BP), còn chỉ số WHR (tỷ số VB/VM) được sử dụng để chẩn đoán có béo
bụng hay không. Theo TCYTTG thì béo bụng khi chỉ số WHR  0,90 ở
nam và WHR  0,80 ở nữ [60], [68].
- Chỉ số khối cơ thể (BMI)
Theo phân loại của TCYTTG năm 2000 [26] người béo là những
người có chỉ số khối BMI  23. Theo Tiểu ban công tác về béo phì của
TCYTTG khu vực Tây Thái Bình Dương và Hội đái tháo đường châu Á
đề nghị thang phân loại béo phì cho người trưởng thành châu Á thì thừa
cân khi chỉ số khối BMI  23[33].
Chỉ số khối BMI có liên quan chặt chẽ với tỷ lệ khối mỡ trong cơ
thể. Đã có nhiều công trình nghiên cứu đưa ra các bằng chứng có liên
quan giữa thừa cân với các bệnh tim mạch và THA, khi BMI tăng, thì tỷ
lệ người có một hay nhiều các tình trạng bệnh tật cũng tăng lên[62].
Nghiên cứu của Phạm Gia Khải và CS năm 1999 tại Hà Nội trên 7610
đối tượng thấy chỉ số khối BMI trung bình của quần thể nghiên cứu là
20,09  2,72 kg/m2 . Nhóm có BMI từ 22 kg/m 2 trở lên đã có nguy cơ
THA[27]. Nghiên cứu của Tô Văn Hải tại cộng đồng Hà Nội năm 2000
cho kết quả nhóm THA có chỉ số BMI cao hơn rõ rệt so với nhóm không
THA(22,6  3,4 kg/m2 so với 20,1  4,6 kg/m2) [17].


18
Theo Bour 15% dân Pháp bị THA, 3% bị đái tháo đường và trong số tử

vong liên quan đến tim mạch có tới 35-40% liên quan chặt chẽ với thừa ăn
[56]. Béo phì là một bệnh lý độc lập đồng thời là một trong những yếu tố
nguy cơ chính của các bệnh mạn tính không lây như bệnh mạch vành, bệnh
đái tháo đường týp II, bệnh THA,... [29].
Theo Doãn Thị Tường Vi, Nguyễn Thị Lâm và Từ Ngữ thì tỷ lệ đối
tượng có chỉ số khối BMI  23 cao nhất là khu vực thành phố và đồng bằng
tương ứng là 29,8% và 19,1%, trung du và miền núi chiếm tỷ lệ thấp hơn
15,7% và 14,0% [58].
Theo TCYTTG năm 1999, người thừa cân có tỷ lệ bệnh tật cao hơn ở
người bình thường, đặc biệt là các bệnh rối loạn lipid máu (tăng CT máu,
giảm HDL, tăng LDL), THA, bệnh mạch vành, nhồi máu cơ tim,..., giảm cân
khoảng 5 kg giúp giảm được huyết áp phần lớn bệnh nhân THA có thể trọng
quá cân 10% và cũng có ích cho yếu tố nguy cơ đi kèm như đái tháo đường,
tăng lipid máu,... [10], [60].
Theo TCYTTG năm 2003, các yếu tố đã được khẳng định dẫn tới tăng
nguy cơ bệnh mạch vành tim, đột quỵ và đái tháo đường là: THA, CT tăng
cao (do chế độ ăn), và sử dụng thuốc lá [62].
Chỉ số khối BMI tăng đi kèm bệnh mạch vành tăng. So sánh với phái
nam gầy, nếu đàn ông có BMI 25-29 kg/m2 có nguy cơ tim mạch tăng 70%,
nhưng nếu BMI 29-33 kg/m2 thì nguy cơ này tăng gấp 3 lần [60].
Theo Bùi Minh Đức và Phan Thị Kim, trong nhóm những người THA có
60% có trọng lượng cơ thể thừa cân trên 20%, mà thừa cân lại do ăn uống
không hợp lý. Béo phì liên quan đến THA, có thể còn do tăng lưu lượng máu,
tăng các bệnh về tim và có thể dẫn đến tăng hoạt động của hệ thống thần kinh
giao cảm và sức đề kháng của insuline [16].


19
Theo nghiên cứu của Bùi Thanh Nghị và Phạm Thị Hồng Vân năm
2003 thì nhóm béo phì có tỷ lệ THA cao gấp 4 lần so với nhóm không béo

phì, ngoài ra béo phì cũng liên quan với một số yếu tố nguy cơ khác như rối
loạn lipid máu, kháng glucose, tăng insulin máu [44] .
Tình trạng béo phì có ảnh hưởng rõ rệt tới THA. So với người không
béo phì, người mới bị tiền béo phì đã có tỷ lệ THA gần gấp đôi ở nam và
1,5 lần ở nữ. Tỷ lệ này gần gấp 3 lần ở người béo phì độ 2 đối với cả nam
và nữ [54].
Huang và CS đã ghi nhận tầm quan trọng của việc tránh tăng cân ở
82473 người có HA bình thường tuổi từ 30-55. Tăng 5-10 kg sau 16 năm so
với lúc 18 tuổi sẽ tăng gấp đôi nguy cơ xuất hiện THA, 48% nguy cơ này do
tăng cân trong thời gian dài. Nguy cơ này lớn hơn ở phụ nữ có tuổi, do khối
lượng cơ thường ít khi lớn tuổi [72].
Chế độ giảm cân cần đặc biệt nhấn mạnh ở những bệnh nhân nam giới
béo phì thể trung tâm (béo bụng). Việc giảm béo phì đã được chứng minh
làm giảm được CT và giảm phì đại thất trái. Nhưng đặc biệt không được áp
dụng ở phụ nữ có thai [59].
- Chỉ số WHR (Tỷ số vòng bụng/ vòng mông)
Béo bụng thường được lượng giá bằng tỷ số vòng bụng/vòng mông
(VB/VM), tỷ số này tăng là yếu tố nguy cơ quan trọng gây xơ vữa động mạch.
Trong nghiên cứu của Phạm Gia Khải và CS năm 1999 thì tỷ số VB/VM >
0,75, điều này có ý nghĩa vòng bụng càng to nguy cơ bị THA càng cao [27].
Theo Hà Huy Khôi và Phạm Gia Khải thì khi tỷ số VB/VM > 0,8 là một
yếu tố nguy cơ của bệnh mạch vành nói chung và THA nói riêng, vòng bụng
càng to thì nguy cơ THA càng cao [27], [31].
Cho đến nay đã có nhiều những nghiên cứu ngắn hạn cũng như dài
hạn đều đã khẳng định rằng có mối tương quan rõ rệt giữa chỉ số BMI và


20
HA. Tỷ lệ THA ở người béo phì cao hơn hẳn người không béo phì và đã
trở thành vấn đề cần quan tâm trong chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. Theo

Mac- Mahon, thì 60% người THA ở châu Âu là có tăng cân quá mức đến
trên 20%, ở Úc nam giới độ tuổi từ 25-44 thì có 2/3 trường hợp THA là có
béo phì [10], [73].
Nghiên cứu của Trần Đình Toán và CS năm 1997 so sánh tình trạng dinh
dưỡng giữa người THA nông thôn và người THA là cán bộ viên chức cho
thấy các chỉ tiêu về cân nặng, BMI, VB, VM, tỷ số VB/VM của người THA
đều cao hơn người bình thường và có ý nghĩa thống kê [52].
Ở cả nam và nữ béo phì thường là dự báo trước các bệnh về tim mạch,
không phụ thuộc vào chỉ số khối BMI, mà chỉ số WHR thường là chỉ tiêu có ý
nghĩa gây bệnh tim mạch so với chỉ số khối BMI [16].
1.2.4. Thói quen về ăn uống
- Muối và thói quen ăn mặn
Một số nghiên cứu quan sát cho thấy ở các quần thể lớn, có thói quen ăn mặn
thì tỷ lệ người bị THA cao hơn hẳn so với các quần thể có thói quen ăn nhạt hơn.
Natri trong chế độ ăn có thể tạo ra từ hai nguồn chính: Phần cho thêm vào thức ăn
(phần này phụ thuộc từng người) và nguồn có sẵn trong thực phẩm (trong quá
trình chế biến hay có tự nhiên trong thực phẩm)[38].
Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Lâm cho thấy số người có thói
quen ăn mặn gặp ở nhóm người THA nhiều hơn so với nhóm người có
HA bình thường [37].
Công trình nghiên cứu của Phạm Gia Khải và CS năm 1999 cho thấy ăn
mặn có liên quan chặt chẽ với THA ở cả nam và nữ độ tuổi từ 24- 44 [27].
Theo kết quả nghiên cứu của Phan Thị Kim và CS năm 1988 cho thấy
giảm muối ăn từ 4-6 gam/ngày thì sau 1 tháng HATTr giảm trung bình 20
mmHg và HATT giảm trung bình 30 mmHg ở người mắc bệnh THA. Kết


21
quả nghiên cứu còn cho thấy vùng nào có lượng muối ăn vào cao thì tỷ lệ
THA cao và đưa ra khuyến nghị cần giảm bớt lượng nước mắm, muối khi nấu

món ăn và khi muối dưa cà. Tại 6 tỉnh có tỷ lệ THA khác nhau Hà Bắc có tỷ
lệ THA 14,6%, Nghệ Tĩnh có tỷ lệ THA 17,9%, Hà Tây có tỷ lệ THA 10,7%,
Hà Nội có tỷ lệ THA 10,6%, Thừa Thiên Huế có tỷ lệ THA 17,8%, Quảng
Nam Đà Nẵng có tỷ lệ THA 13,1% [25].
Theo nghiên cứu của Bùi Thanh Nghị, Phạm Thị Hồng Vân năm 2003
cho thấy nhóm có thói quen ăn mặn có tỷ lệ THA cao gấp 3,22 lần so với
nhóm không có thói quen ăn mặn [44].
Giảm muối (NaCl), đã được chứng minh làm giảm số HA và nguy cơ biến
chứng ở bệnh nhân THA. Chế độ ăn giảm muối nên thực hiện với lượng muối
<6 gam NaCl/ngày hoặc <2,4 gam natri/ngày. Duy trì đầy đủ lượng kali khoảng
90 mmol/ngày. Bảo đảm đầy đủ calcium và magnesium [59].
Theo Cutler, Follmann và Allender đã kết luận rằng việc giảm hằng ngày
khẩu phần natri khoảng 70- 80 mmol có liên quan tới giảm HA ở cả các cá thể
có HA cao và bình thường. Các thử nghiệm lâm sàng cũng đã chứng minh các
tác động làm giảm HA bền vững của việc giảm natri ở người cao tuổi tạo ra việc
điều trị có ích mà không cần thuốc. Khẩu phần ăn của natri từ tất cả các nguồn,
ảnh hưởng tới mức HA của quần thể và cần được hạn chế để giảm nguy cơ bệnh
mạch vành tim và cả 2 dạng đột quỵ (thiếu máu và chảy máu). Việc hạn chế của
khẩu phần để đạt được mục tiêu trên thì cần hạn chế khẩu phần muối NaCl hàng
ngày dưới 5 gam/ngày, số lượng này cần tính đến tổng lượng natri khẩu phần từ
tất cả các nguồn trong chế độ ăn [62].
Đối với người cao tuổi sự nhạy cảm của thành mạch cũng kém hơn so
với người trẻ tuổi, chính vì vậy trong điều trị THA ở người cao tuổi cần giảm
muối vừa phải trong chế độ ăn, không nên quá chặt chẽ [22].
Theo Vũ Đình Hải, điều tra khẩu phần ăn trong nhân dân từng vùng, các
nhà nghiên cứu thấy rằng vùng nào ăn nhiều muối thì tỷ lệ THA càng cao. Ở


22
Nhật, sau khi vận động nhân dân ăn ít muối, chảy máu não giảm 40%, tắc

mạch não giảm 24,6% [18] .
- Chất béo động vật
Cholesterol là một chất sinh học có nhiều chức phận quan trọng, một
phần được tổng hợp trong cơ thể, một phần do thức ăn cung cấp. Lượng
cholesterol trong khẩu phần có ảnh hưởng đến CT trong huyết thanh, do
cholesterol trong chế độ ăn góp phần tạo nên nguy cơ bệnh mạch vành. Người
ta nhận thấy các acid béo no làm tăng các lipoprotein có tỷ trọng thấp (LDLC), vận chuyển các cholesterol từ máu đến các tổ chức và có thể tích luỹ ở
thành động mạch, ngược lại các acid béo chưa no làm tăng các lipoprotein có
tỷ trọng cao (HDL-C), vận chuyển cholesterol từ các mô đến tế bào gan để
thoái hoá [26], [8], [9].
Do đó một chế độ ăn giảm chất béo động vật (thịt mỡ, mỡ), thay thế
bằng dầu thực vật, bớt ăn thịt, tăng ăn cá là có lợi cho người có rối loạn
chuyển hoá cholesterol. Trong các khuyến cáo về ăn uống người ta
khuyên năng lượng do chất béo cung cấp không được vượt quá 30% tổng
số năng lượng, tăng sử dụng dầu thực vật , tăng sử dụng khoai, rau và
trái cây. Các loại đường ngọt không cung cấp quá 10% tổng số năng
lượng, còn năng lượng do protein nên đạt từ 10-15%[10].
Theo Hoàng Thị Bích Ngọc các thông số của người khoẻ mạnh bình thường
thì nồng độ TG, CT, LDL- C, HDL- C khác nhau theo giới và tuổi [45].
Rối loạn lipid máu khi có biểu hiện rối loạn một hoặc nhiều thành phần
như tăng CT, tăng TG, tăng LDL- C, giảm HDL- C [2], cụ thể:
CT
TG

> 5,2 mmol/l
> 2,3 mmol/l

LDL- C

> 3,12 mmol/l


HDL- C

< 0,9 mmol/l


23
- Thói quen uống rượu
Nghiên cứu quan sát của Mac-Mahon thấy nếu uống nhiều rượu có liên
quan với tăng áp lực thành mạch và tỷ lệ THA cao được quan sát thấy ở một
số nghiên cứu [73].
Theo nghiên cứu của Ylima thì đối tượng uống rượu mạnh  50 ml/ngày
có nguy cơ THA cao gấp 4,22 lần so với đối tượng uống < 50 ml/ngày không
phân biệt giới, còn đối tượng nam giới uống bia  330 ml/ngày có nguy cơ bị
THA gấp 5,24 lần so với đối tượng nam uống bia < 330 ml/ngày [43].
Nghiên cứu của Đinh Thị Bích Thuỷ cho kết quả người uống rượu  3
ngày/tuần bị THA nhiều hơn người không uống rượu 4,24 lần [49].
HATT sẽ tăng theo lượng rượu uống vào, đặc biệt là những người
trên 40 tuổi. Nếu uống quá 60g rượu/ngày thì khả năng THA càng rõ.
Những người hút thuốc lá trên 10 điếu trong ngày và uống rượu trên 100
ml trong ngày, liên tục trên 3 năm thì có HA cao hơn những người không
uống rượu và không hút thuốc [7].
Theo nghiên cứu của Nguyễn Lân Việt nếu dùng quá nhiều rượu sẽ làm
tăng nguy cơ TBMMN ở bệnh nhân THA. Một số điều tra cho thấy nếu dùng
lượng rượu thích hợp thì có thể làm giảm nguy cơ bệnh mạch vành. Do đó
lượng rượu nếu có dùng cần hạn chế ít hơn 30 ml ethanol/ngày (hay ít hơn
720 ml bia, 300 ml rượu vang và 60 ml rượu whisky). Tuy nhiên, với một số
dân tộc mà số cân nặng không nhiều như người dân ở nước ta thì lượng rượu
nếu có dùng chỉ nên bằng một nửa lượng rượu nói trên [59].
Liên Uỷ ban quốc gia Hoa kỳ về phòng chống THA - JNC VI khuyên

mỗi ngày chỉ nên uống không quá 1 ounce (tương đương 29,6 ml) ethanol
đối với nam và 1/2 ounce đối với nữ và người nhẹ cân. Uống thường xuyên
một lượng rượu nhỏ cũng có tác dụng phòng các nguyên nhân gây tử vong


24
nói chung và do tim mạch nói riêng, bởi vậy cũng không nên cấm hẳn mà
chỉ cần điều độ [47].
Trong nghiên cứu của Bùi Thanh Nghị cho thấy nhóm uống nhiều rượu
có tỷ lệ THA cao gấp 2,95 lần so với nhóm không uống nhiều rượu (uống quá
nhiều rượu khi uống hơn 3 lần mỗi ngày, mỗi lần khoảng 30ml whisky, 150ml
rượu vang hay 330 ml bia [44] .
1.2.5. Thói quen hút thuốc lá
Trong thuốc lá có Nicotin, Nicotin kích thích hệ thần kinh giao cảm làm
co mạch ngoại vi gây THA. Hút 1 điếu thuốc lá HATT có thể tăng lên tới 11
mmHg, HATTr tăng lên tới 9 mmHg, kéo dài 20-30 phút. Hút nhiều có
thể có những cơn THA kịch phát nguy hiểm. Nicotin còn làm tăng nhịp
tim và THA, tăng nhu cầu oxy của các cơ tim. Các oxyt cacbon do hút
thuốc lá sinh ra làm giảm khả năng vận chuyển oxy của máu. Hút thuốc lá
còn là nguồn sản sinh ra các gốc tự do, tăng độ kết dính của tiểu cầu và
làm giảm các HDL- C [13].
Hút thuốc lá là một yếu tố đe doạ quan trọng của bệnh, vì nguy cơ mắc
bệnh mạch vành ở người THA có hút thuốc cao hơn 50-60% so với những
người THA không hút thuốc [61].
Nghiên cứu của Trần Đỗ Trinh cho kết quả nhóm người có THA, tỷ lệ
hút nhiều  8 điếu/ngày cao hơn nhóm người bình thường, nếu hút dưới 8
điếu trong ngày thì không khác nhau [55].
Nghiên cứu của Bùi Thanh Nghị cho thấy nhóm hút thuốc lá có tỷ lệ
THA cao gấp 3,04 lần so với nhóm không hút thuốc [44].
Olatunbosun S.T., Kaufman J.S., Cooper R.S. (2000 Arp) nghiên cứu

các số liệu về sinh xã hội học gồm tiền sử hút thuốc lá, uống rượu và mức
độ hoạt động thể lực hàng ngày của người dân thành thị ở châu Phi, kết


25
quả không thấy có sự liên quan giữa THA với hút thuốc lá, uống rượu và
luyện tập thường xuyên [75].
1.2.6 Tiền sử gia đình mắc bệnh tăng huyết áp
Trong nghiên cứu của Trần Đỗ Trinh 1989-1992 khi so sánh giữa 909
cặp của 2 nhóm THA và nhóm người bình thường, thấy tỷ lệ ở người THA có
người trong gia đình bị THA cao hơn ở nhóm đối chứng, đặc biệt là đối với
ông bà, bố mẹ và anh chị em (trực hệ)[55].
Theo nhiều thống kê cho thấy người da đen bị bệnh THA cao và nặng
hơn các chủng tộc khác. Yếu tố gia đình cũng có vai trò quan trọng. Những
gia đình có cha mẹ THA thì có sẵn nhiều gien chi phối quá trình điều hoà HA
và khi có tác động của các yếu tố bên ngoài thì dễ gây THA [7].
Năm 1995-1996, Trương Thanh Hương nghiên cứu 38 bệnh nhân THA
điều trị ngoại trú thì có 5/38 người có người trong gia đình bị THA [21].
Năm 1999, Phạm Gia Khải nghiên cứu 1221 trường hợp THA có 188
trường hợp có người trong gia đình bị THA: Có bố bị THA là 80/188, chiếm
tỷ lệ 42,55%, có mẹ bị THA là 71/188, chiếm tỷ lệ 37,76%, anh chị em ruột,
cô dì chú bác bị THA là 37/188, chiếm tỷ lệ 19,68% [27].
Nghiên cứu của Bùi Thanh Nghị nhóm trong gia đình có người bị THA có tỷ
lệ THA cao gấp 9,33 lần so với nhóm trong gia đình không có người THA [44]..
1.3. Những nghiên cứu về dịch tễ bệnh THA trên Thế giới và Việt Nam
1.3.1. Trên Thế giới
- Bệnh tăng huyết áp đã xuất hiện trên trái đất từ hơn 100 năm.
- Bệnh có thể xảy ra do 1 bệnh khác gọi là THA triệu chứng (THA
thứ phát), đa số không tìm được nguyên nhân được coi là THA nguyên
phát chiếm 90-95%.

- THA có tỷ lệ cao ở những nước có công nghiệp phát triển.


×