Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

NHIỆM VỤ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI, QUYỀN CÔNG DÂN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN QUA THỰC TIỄN TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HUYỆN VỤ BẢN, TỈNH NAM ĐỊNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (392 KB, 106 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN HOÀNG NHUNG

NHIỆM VỤ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI,
QUYỀN CÔNG DÂN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN QUA THỰC TIỄN TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
HUYỆN VỤ BẢN, TỈNH NAM ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN HOÀNG NHUNG

NHIỆM VỤ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI,
QUYỀN CÔNG DÂN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN QUA THỰC TIỄN TẠI VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
HUYỆN VỤ BẢN, TỈNH NAM ĐỊNH

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TS Phạm Hồng Thái

Hà Nội - 2015




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn
thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo
quy đinh của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Người cam đoan

Trần Hoàng Nhung


LỜI CẢM ƠN
Luận văn là kết quả quá trình học tập, nghiên cứu ở nhà trường, kết hợp
với kinh nghiệm trong quá trình thực tiễn công tác, với sự cố gắng nỗ lực của
bản thân.
Lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới GS.TS
Phạm Hồng Thái là người trực tiếp hướng dẫn khoa học, đã tận tình hướng
dẫn cho tôi cả chuyên môn và phương pháp nghiên cứu và chỉ bảo cho tôi
nhiều kinh nghiệm trong thời gian thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cám ơn các thầy, cô giáo trong Khoa Luật trực thuộc
Đại học Quốc gia Hà Nội và bạn bè đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập
cũng như trong quá trình hoàn thành luận văn này.
Sau cùng, tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến gia đình đã luôn tạo điều
kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình học cũng như thực hiện luận văn.
Mặc dù với sự nỗ lực cố gắng của bản thân, luận văn không tránh khỏi

những thiếu sót. Tôi mong nhận được sự góp ý chân thành của các Thầy Cô,
đồng nghiệp và bạn bè để luận văn được hoàn thiện hơn.
Hà nội, ngày 10 tháng 9 năm 2015
Tác giả Luận văn

Trần Hoàng Nhung


MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC BẢNG


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là những giá trị cao quý nhất, được hình thành và kết
tinh từ nền văn hóa của các dân tộc trên thế giới. Đây là tiếng nói chung, mục
tiêu chung và phương tiện chung của toàn nhân loại để bảo vệ và thúc đẩy
nhân phẩm và hạnh phúc của mọi con người.
Quyền con người được chính thức pháp điển hóa trong luật quốc tế từ
sau Chiến tranh thế giới, quyền con người hiện đã trở thành một hệ thống các
tiêu chuẩn pháp luật quốc tế có tính chất khuyến cáo với mọi quốc gia và việc
tôn trọng, bảo vệ các quyền con người hiện đã trở thành thước đo căn bản về
trình độ văn minh của các nước và các dân tộc trên thế giới [9, tr.20].
Ở Việt Nam, cuộc cách mạng do Đảng cộng sản lãnh đạo mà người
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng không có mục đích gì khác hơn là
giành và giữ quyền con người cho toàn thể dân tộc. Việc quan tâm và thúc đẩy
đảm bảo quyền con người, quyền công dân luôn là ưu tiên của Đảng và Nhà
nước ta, được phản ánh nhất quán và xuyên suốt trong mọi chính sách, luật

pháp của Nhà nước ta từ trước tới nay.
Ngày nay, nước ta đang bước vào giai đoạn: Đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
nhà nước của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Song song đó,
cải cách tư pháp ở nước ta là một yêu cầu cấp bách, nhằm nâng cao hiệu quả
của công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm, đảm bảo các quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân, khắc phục tình trạng bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô
tội.
Trong giai đoạn hiện nay, với chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát
nhân dân theo quy định của pháp luật là thực hành quyền công tố, kiểm sát
hoạt động tư pháp. Trọng tâm của ngành kiểm sát nhân dân là: Phục vụ kịp
thời và hiệu quả nhiệm vụ chính trị của Đảng, Nhà nước, hoàn thiện và phát
1


huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường pháp chế, giữ vững và phát huy
bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đồng
thời tạo bước đột phá vững chắc nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống
Viện kiểm sát các cấp trong phòng, chống tội phạm. Nhất là tội phạm về an
ninh quốc gia, tội phạm có tổ chức; bảo vệ trật tự, kỷ cương, tôn trọng và bảo
vệ mọi quyền, tự do, lợi ích hợp pháp của công dân, quyền cơ bản của con
người. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát các cấp, thật sự là chỗ
dựa tin cậy của Đảng, của Nhà nước và của nhân dân.
Hệ thống Viện kiểm sát nhân dân nói chung và Viện kiểm sát nhân dân
huyện Vụ Bản nói riêng cũng không ngừng vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ
mà Đảng, Nhà nước đã giao phó. Thực hiện đúng các quy định của pháp luật
để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm
án hình sự. Không để xảy ra trường hợp Viện kiểm sát truy tố Tòa án tuyên
không phạm tội, phấn đấu không có trường hợp nào hủy án do có trách nhiệm
của Viện kiểm sát.

Vấn đề bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong thực hành
quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp là vấn đề còn khá mới mẻ trong
nhận thức của công dân, cũng như việc tổ chức và đảm bảo quyền con người,
quyền công dân trong thực tế, đó là vấn đề khá phức tạp cần được nghiên cứu
một cách có hệ thống, toàn điện cả về lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ những vấn đề như vậy, trong khuôn khổ luận văn thạc sỹ
luật học, chọn đề tài “ Nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân
của Viện kiểm sát nhân dân - Qua thực tiễn tại Viện kiểm sát nhân dân
huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định” làm đề tài luận văn thạc sỹ là vấn đề có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quyền con người, quyền công dân và việc bảo vệ quyền con người,
quyền công dân là vấn đề cơ bản, được tất cả các quốc gia trên thế giới đặc
2


biệt quan tâm trong lĩnh vực nghiên cứu lý luận và thực tiễn. Trong lịch sử
phát triển của nhân loại, các giá trị về quyền con người và bảo vệ quyền con
người luôn gắn liền với những thành tựu mà nhân loại đạt được. Tuyên ngôn
thế giới về quyền con người được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm
1948 đã đánh dấu mốc phát triển của lịch sử nhân loại về quyền con người.
Đây là cơ sở cho việc hoàn thiện về lý luận cũng như thực tiễn của việc đảm
bảo quyền con người.
Trên thế giới, từ cơ sở Luật quốc tế về quyền con người, các khu vực
quốc gia đều xây dựng cho mình các thiết chế để đảm bảo và phát huy quyền
con người trên thực tế. Năm 1950, Ngoại trưởng các quốc gia thành viên
Cộng đồng Châu Âu ký Hiệp ước về quyền con người, vạch ra hệ thống bảo
vệ quyền con người cho tất cả các quốc gia thành viên của cộng đồng.
Ở Châu Á - Thái Bình Dương các tổ chức nhân quyền ở các quốc gia
lần lượt được thành lập ở các nước như: Philippines, Auatralias… để góp

phần bảo vệ quyền con người trong phạm vi quốc gia mình.
Cùng với các căn cứ pháp lý về quyền con người, các quan điểm, tư
tưởng và quy định pháp luật liên quan đến vấn đề này đã được phản ánh rất
phong phú và đa dạng như: tác phẩm “Nhân quyền, bảo vệ nhân quyền theo
Công ước quốc tế về dân sự và chính trị” của Lippman Matther, tạp chí Quốc
tế Califonia, số 10-1980; tác phẩm “Việc áp dụng Hiệp ước Châu Âu về nhân
quyền của Tòa án Pháp” của Steiner Eva, tạp chí Luật Kings Collages, số 61996; tác phẩm “Luật nhân quyền quốc tế liên quan đến phụ nữ, các ghi nhớ
từ các vụ án và bình luận” của Cook Rebeca J, tạp chí Vanderbilt Jourual of
Tran national law, số 23-1990…
Các tác phẩm trên đề cập đến các vấn đề lý luận về quyền con người
nói chung, quyền ở từng lĩnh vực nói riêng; về tổ chức và hoạt động thực tiễn
bảo vệ quyền con người ở các quốc gia trong Cộng đồng Châu Âu cũng như
các quốc gia tổ chức khác trên thế giới.
3


Việt Nam là thành viên của khoảng 1/3 số điều ước quốc tế hiện hành
về quyền con người do Liên hợp quốc ban hành, việc bảo vệ quyền con
người, quyền công dân nói chung và bảo vệ quyền con người, quyền công dân
nói riêng trong hoạt động tư pháp là vấn đề được Đảng, Nhà nước cùng các
nhà khoa học xã hội quan tâm nghiên cứu nhất là trong thời kỳ đổi mới. Các
cơ quan chủ yếu tham gia hoạt động nghiên cứu lý luận về quyền con người ở
Việt Nam trong thời gian qua bao gồm Ban Tư tưởng-Văn hóa trung ương, Bộ
ngoại giao, Bộ Tư pháp, Viện khoa học xã hội Việt Nam, Học viện Chính trịHành chính quốc gia Hồ Chí Minh (Viện nghiên cứu quyền con người và một
số viện nghiên cứu khác trực thuộc Học viện), Tạp chí Cộng sản, Ban chỉ đạo
nhân quyền của Chính phủ, Văn phòng Quốc Hội…
Về phương diện nghiên cứu lý luận, trong thập kỷ 2000, đáng kể nhất
là một số công trình nghiên cứu do Trung tâm nghiên cứu quyền con người
thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh thực hiện với sự hỗ trợ và
hợp tác của một số nhà tài trợ quốc tế, bao gồm các đề tài nghiên cứu: “Nhân

quyền: Lý luận và thực tiễn” (2000-2001), Hiến pháp, pháp luật và quyền con
người: Kinh nghiệm Việt Nam và Thụy Điển (2000-2001), Quyền con người:
Lý luận và thực tiễn ở Việt Nam và Australia (2003-2004), Lý luận và thực
tiễn về quyền con người ở Trung Quốc và Việt Nam (2004)…
Trong gần ba thập kỷ vừa qua, các cơ quan nghiên cứu đã tổ chức thực
hiện nhiều công trình nghiên cứu lý luận về quyền con người. Một số công
trình nghiên cứu quan trọng mà kết quả nghiên cứu đã được xã hội hóa như
Quyền con người, Quyền công dân trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam,
Trung tâm Thông tin Tư liệu trực thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, 1993; Quyền con người trong thế giới hiện đại, Phạm Khiêm Ích,
Hoàng Văn Hảo (Chủ biên), Viện thông tin khoa học xã hội, 1995; Tình hiểu
vấn đề nhân quyền trong thế giới hiện đại, PTS Chu Hồng Thanh (chủ biên),
Nhà xuất bản Lao động, 1996; Quyền con người ở Trung Quốc và Việt Nam:
4


Truyền thống, lý luận và thực tiễn, Trung tâm nghiên cứu quyền con người
thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, 2003; Con người và phát triển con người trong quan niệm của C.Mác và
Ph.Ăngghen, Hồ Sỹ Quý (Chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2003;
Sách trắng về thành tựu nhân quyền của Việt Nam, Bộ Ngoại giao, 2004; Tư
tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, Phạm Ngọc Anh (Chủ biên), Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, 2005; Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trong
khu vưc ASEAN - Trung tâm nghiên cứu quyền con người thuộc Khoa Luật,
Đại học Quốc gia Hà Nội, Nhà xuất bản Lao động xã hội, 2012; Bảo đảm
quyền con người trong pháp luật lao động Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2013; Luận văn thạc sĩ của tác giả Hà Thu Hương “Bảo vệ
quyền con người trong pháp luật trách nhiệm bồi thường nhà nước ở Việt
Nam”, 2014; Luận văn thạc sĩ của tác giả Ngô Thị Thanh “Bảo đảm quyền
con người trong hoạt động xét xử vụ án hình sự”, 2013; Luận văn thạc sĩ của

tác giả Phùng Thanh Mai “ Bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm và
các biện pháp tha miễn trong pháp luật hình sự”, 2014; Luận văn thạc sĩ của
tác giả Phan Thị Hương Giang “Bảo vệ quyền con người của bị can, bị cáo
trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, 2014….
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn về nhiệm vụ bảo vệ quyền con
người, quyền công dân của Viện kiểm sát nhân dân.
Đánh giá thực tiễn nhiệm vụ bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát
nhân dân huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát tại
địa phương để đảm bảo, bảo vệ quyền con người, quyền công dân
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện mục đích trên luận văn có nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
5


Nghiên cứu cơ sở lý luận về nhiệm vụ quyền con người, quyền công
dân của Viện kiểm sát nhân dân cụ thể là: làm rõ khái niệm quyền con người,
quyền công dân; làm rõ vấn đề nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công
dân của Viện kiểm sát; đánh giá được thực tiễn bảo vệ tại Viện kiểm sát huyện
Vụ Bản, chỉ ra những ưu điểm, những hạn chế. Đồng thời đặt ra những
khuyến nghị khoa học nhằm nâng cao trách nhiệm bảo vệ quyền con người,
quyền công dân của Viện kiểm sát nhân dân.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Bảo vệ quyền con người, quyền công dân khi Viện kiểm sát thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Nhiệm vụ của Viện Kiểm
sát trong việc bảo vệ quyền con người của bị can, bị cáo,bị hại, người làm
chứng, người chấp hành án, người bị tạm giam, tạm giữ; nguyên đơn dân sự,

bị đơn dân sự, người có quyền và nghĩa vụ liên quan trong quá trình tham gia
tố tụng.
Thực trạng hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư
pháp của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định và những giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền con người của Viện kiểm sát huyện.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn được giới hạn trên các vấn đề cơ bản
sau:
Cơ sở lý luận bảo vệ quyền con người, quyền công dân
Các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ quyền con
người trong thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của
Viện kiểm sát nhân dân.
Về thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân của
Viện kiểm sát nhân dân huyện Vụ Bản - tỉnh Nam Định

6


Giải pháp nhằm bảo vệ quyền con người, quyền công dân của Viện
kiểm sát nhân dân huyện Vụ Bản khi thực hiện chức năng thực hành quyền
công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về Nhà nước và pháp luật, về
đổi mới hoạt động của các cơ quan tư pháp, về bảo đảm, bảo vệ quyền con
người, quyền côn dân.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn, trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác - Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử), tác

giả sử dụng các phương pháp cụ thể sau: phương pháp phân tích, tổng hợp, so
sánh, thống kê, lịch sử, phương pháp đàm thoại (trao đổi ý kiến những người
làm công tác thực tiễn lâu năm), phương pháp khảo sát thực tiễn trong công
tác kiểm sát.
6. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn
Góp phần làm rõ cơ sở lý luận về bảo vệ quyền con người của cơ quan
kiểm sát.
Đánh giá thực tiễn về nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công
dân của Viện kiểm sát nhân dân nhân dân nói chung, của Viện Kiểm sát nhân
dân Huyện Vụ Bản, Tỉnh Nam Định, nhận diện những vi phạm quyền con
người, quyền công dân khi Viện kiểm sát thực hiện chức năng, nhiệm vụ;
Đề ra giải pháp trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân
trong họat động thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp nói
chung và ở Viện kiểm sát huyện Vụ Bản - tỉnh Nam Định nói riêng.
7


7. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ đóng góp cho các cơ quan bảo vệ pháp
luật nói chung, cho ngành Viện kiểm sát nói riêng trong thực hành quyền công
tố, kiểm sát hoạt động tư pháp một cách nhìn đích thực về “ Bảo vệ quyền con
người, quyền công dân” trong thực thi pháp luật.
Kết quả của luận văn có giá trị tham khảo trong công tác nghiên cứu,
giảng dạy ở các trường chuyên ngành luật và những ai quan tâm đến lĩnh vực
này.
8. Bố cục của luận văn
Luận văn gồm mở đầu, kết luận. Phần nội dung gồm 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền con người, quyền công dân
và bảo vệ quyền con người, quyền con dân của Viện kiểm sát nhân dân.
Chương 2: Nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân của

Viện kiểm sát nhân dân - Qua thực tiễn tại Viện kiểm sát nhân dân huyện Vụ
Bản, tỉnh Nam Định.
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng bảo vệ quyền con người,
quyền công dân của Viện kiểm sát nhân dân

8


CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI,
QUYỀN CÔNG DÂN VÀ BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI,
QUYỀN CÔNG DÂN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. Quan niệm về quyền con người, quyền công dân và bảo vệ
quyền con người, quyền công dân
1.1.1. Quyền con người và mối quan hệ giữa quyền con người và
quyền công dân
1.1.1.1. Quyền con người
Con người là vấn đề cơ bản nhất của mọi thời đại, cho nên quyền con
người luôn luôn trở thành nội dung quan trọng thu hút được sự quan tâm cả về
phương diện lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn của mỗi quốc gia, của
từng khu vực, mang tính toàn cầu
Quan niệm về quyền con người đã được các nhà tư tưởng bàn đến từ
thời cổ đại và không ngừng được phát triển, bổ sung cùng với quá trình phát
triển của lịch sử nhân loại. Khi bàn đến quyền con người Jaeque Mourgeon
trong cuốn “ Các quyền con người” đã cho rằng: Quyền con người trước hết
được hiểu là những đặc quyền tự nhiên mà con người có. Đó là khả năng hành
động có ý thức, trách nhiệm nhất là tự vệ. Nhưng bản thân đặc quyền (quyền
tự nhiên) chưa phải là quyền con người. Mà để đạt đến cái gọi là “quyền” thì
phải có yếu tố thứ hai là pháp luật. Chỉ khi được pháp luật ghi nhận thì các
đặc quyền của cá nhân mới trở thành đối tượng điều chỉnh của pháp luật mới

trở thành quyền con người” [18, tr.131]
Trên cơ sở quan niệm đúng đắn và khoa học về con người, chủ nghĩa
Mác đã xác định “con người” là “con người xã hội” bản chất của con người
trong tính hiện thực của nó là sự “tổng hòa các quan hệ xã hội”, cho nên
quyền con người thể hiện sâu sắc giá trị các quan hệ xã hội và hiển nhiên
mang bản chất đó” [2, tr. 11]
9


Trên cơ sở các quan niệm về quyền con người năm 1776, lần đầu tiên
quyền con người được ghi nhận trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ “Tất cả
mọi người sinh ra đều có quyền được bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được, trong đó có quyền sống, quyền tự do và mưu
cầu hạnh phúc”
Năm 1791, trong tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền Pháp, quyền
con người từng bước được quốc gia thừa nhận và quy định trong pháp luật
của nước mình. Ở nước ta, vấn đề quyền con người đã được nghiên cứu và
phản ánh một cách phong phú và đa dạng thể hiện trong các văn kiện của
Đảng, Nhà nước và các văn bản pháp luật.
Theo từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng “Quyền con
người là các quyền tất yếu mà con người phải được hưởng và các quốc gia
phải tôn trọng” [10, tr.338].
Vì vậy theo quan niệm chung hiện nay “Quyền con người là những giá
trị, năng lực, nhu cầu vốn có và chỉ có ở con người với tư cách là thành viên
của cộng đồng nhân loại được thể chế hóa bằng pháp luật quốc gia và các
thỏa thuận pháp lý quốc tế” [10, tr.26].
Quyền con người nhìn từ góc độ nào thì cũng được xác định như là
những chuẩn mực được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân thủ. Do điều
kiện kinh tế, chính trị - xã hội ở các châu lục, các quốc gia phát triển không
giống nhau nên các ở các quốc gia khác nhau thì năng lực, nhu cầu của mỗi

thành viên xã hội sẽ không giống nhau mà phụ thuộc vào điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội nhất định mà thành viên đó sinh sống. Cho nên ở các quốc
gia quyền con người được thể hiện thành quyền công dân và được đảm bảo
thực hiện bởi hệ thống pháp luật quốc gia đó.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề này, khoa học pháp lý đã
chia quyền con người theo các lĩnh vực hoạt động của đời sống con người
thành các nhóm:
10


Nhóm quyền tự do dân chủ về chính trị, bao gồm: Quyền bầu cử, quyền
ứng cử; quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội; quyền bình đẳng
nam nữ; quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; quyền được thông tin; quyền tự
do tín ngưỡng.
Nhóm quyền dân sự (quyền tự do cá nhân), bao gồm: Quyền tự do đi
lại cư trú trong nước; quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước; quyền
bất khả xâm phạm về thân thể; quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng,
sức khỏe, danh dự và nhân phẩm; quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; quyền
được an toàn và bí mật về thư tín, điện thoại, điện báo; quyền khiếu nại, tố
cáo…
Nhóm các quyền về kinh tế, xã hội, bao gồm: Quyền lao động, quyền
tự do kinh doanh; quyền sở hữu hợp pháp về thừa kế; quyền học tập; quyền
nghiên cứu, phát minh sáng chế; quyền được bảo vệ sức khỏe; quyền được
bảo vệ hôn nhân, gia đình; quyền trẻ em; quyền người già…
Quyền phát triển: quyền phát triển được Ủy ban Liên hợp quốc chuẩn
bị từ năm 1981, được thông qua tại kỳ họp thứ 41 của Đại hội đồng Liên hợp
quốc ngày 4/2/1986 dưới hình thức Tuyên ngôn toàn cầu về phát triển. Đó là
quyền của các quốc gia, dân tộc đối với chủ quyền trên lãnh thổ của mình
như: Quyền tự do lựa chọn các thể chế chính trị, kinh tế, quyền được trợ giúp
về kỹ thuật và tài chính từ các tổ chức quốc tế và các quốc gia khác trên cơ sở

tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.
Quyền được sống trong hòa bình và môi trường trong sạch: Quyền này
đang là vấn đề cấp bách của các quốc gia, khu vực và cộng đồng trên thế giới.
Pháp luật quốc tế ngày càng quan tâm đến các vấn đề liên quan đến cuộc sống
hòa bình của con người như vấn đề giải trừ quân bị, loại trừ vũ khí hạt nhân,
ngăn chặn các cuộc xung đột, thành lập các Tòa án quốc tế để xét xử tội diệt
chủng. Cùng với sự phát triển công nghệ, loài người đang đứng trước nguy cơ
11


suy thoái và ô nhiễm môi trường ngày càng nặng nề. Để con người sống trong
môi trường trong sạch cần thiết phải đảm bảo: Quyền được thông tin và nâng
cao nhận thức của con người về môi trường; Quyền được tham gia hoạch định
các chính sách và thể chế bảo vệ môi trường; Quyền đuợc đền bù thiệt hại do
sự hủy hoại môi trường gây ra.
1.1.1.2. Mối quan hệ giữa quyền con người và quyền công dân
Cách mạng tư sản thắng lợi, ách thống trị “Vương quyền”, “thần
quyền” của chế độ phong kiến và thế lực Nhà thờ bị lật đổ, cùng với sự ra đời
của Nhà nước tư sản, khái niệm quyền con người, quyền công dân ra đời. Lúc
này người dân trong một quốc gia được xác định là công dân trong xã hội
công dân và được hưởng các quyền công dân do pháp luật quy định. Vì thế, là
sản phẩm của cách mạng tư sản, quyền công dân được xác định trong các văn
bản pháp lý quan trọng nhất của các Nhà nước tư sản lúc bấy giờ như: Tuyên
ngôn độc lập nước Mỹ năm 1976, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền nước
Pháp năm 1789, Luật về quyền công dân ở Anh …
Ngày nay cùng với Quyền con người, quyền công dân đã được hầu hết
các quốc gia trên thế giới ghi nhận trong bản Hiến pháp và hệ thống pháp luật
của nhà nước mình và được đảm bảo thực hiện trong đời sống thực tiễn
Cho nên, có thể xác định “Quyền công dân là quyền con người, là
những giá trị gắn liền với một nhà nước nhất định và được nhà nước đó bảo

hộ bằng pháp luật đối với người mang quốc tịch nước đó, thể hiện mối liên hệ
pháp lý cơ bản giữa mỗi cá nhân công dân với một nhà nước cụ thể”
Quyền con người và quyền công dân là hai khái niệm không đồng nhất.
Quyền con người là phẩm giá, nhu cầu, lợi ích và năng lực vốn có và chỉ có ở
con người với tư cách là thành viên của cộng đồng nhân loại, được thể chế
hóa trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Còn quyền công dân thực
chất cũng là quyền con người được quốc gia ghi nhận và bảo hộ bằng hệ
12


thống pháp luật của quốc gia đối với công dân nước đó, thể hiện mối quan hệ
pháp lý giữa công dân với nhà nước đó. Quyền công dân chính là sự thể chế
hóa quyền con người để phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị xã hội của
mỗi quốc gia. Việc xác định quyền con người và quyền công dân nằm trong
một thể thống nhất đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng các chế định
pháp lý về quyền con người, quyền công dân trong hệ thống pháp luật của các
quốc gia
Trong lịch sử xã hội loài người, sự hình thành và phát triển quyền con
người và quyền công dân được gắn liền với thành quả của cuộc đấu tranh giai
cấp và cách mạng xã hội. Nó phản ánh nhân loại tự đấu tranh giải phóng cho
mình, làm chủ tự nhiên, làm chủ xã hội. Vì thế nó luôn được xác định là tiêu
điểm của các cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh chính trị và tư tưởng.
Ngày nay, quyền con người và quyền công dân đã trở thành tiêu chí cơ
bản để đánh giá trình độ phát triển của một chế độ xã hội - về sự văn minh,
nhân đạo hay kém văn minh, lạc hậu, đồng thời đó là cơ sở để các quốc gia tổ
chức thiết lập các quan hệ quốc tế, vì lợi ích của các bên và lợi ích của bộ
phận và toàn cộng đồng nhân loại. Cho nên, có thể nói quyền con người trong
từng quốc gia là quyền công dân của chính quốc gia đó.
1.1.2. Bảo vệ quyền con người, quyền công dân của Viện kiểm sát
nhân dân

Viện kiểm sát là cơ quan tiến hành tố tụng hình sự, thực hiện chức năng
thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình
sự, có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ pháp luật, pháp chế, bảo vệ quyền
con người. Việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân của Viện kiểm sát
trong tố tụng hình sự được thể hiện trong đấu tranh chống tội phạm, phát hiện
kịp thời để đưa ra xử lý nghiêm minh trước pháp luật đối với người phạm tội
xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp, trong đó có các quyền của con

13


người. Đồng thời bảo đảm các quyền của con người (của người bị tình nghi, bị
can, bị cáo, người bị kết án) không bị pháp luật tước bỏ được tôn trọng.
Bảo vệ quyền con người, quyền công dân qua hoạt động thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ
án hình sự.
Viện kiểm sát là cơ quan duy nhất được giao chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố và kiểm
sát điều tra được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án hình sự và trong suốt quá
trình điều tra các vụ án hình sự.
Công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án hình sự
của Viện kiểm sát nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố,
điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không
làm oan người vô tội; không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm
giam, bị hạn chế các quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tài
sản, tự do, danh dự và nhân phẩm một cách trái pháp luật; việc điều tra được
khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật; những vi phạm
pháp luật trong quá trình điều tra được phát hiện kịp thời; khắc phục và xử lý
nghiêm minh; việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị can phải có căn cứ
và đúng pháp luật.

Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, Viện kiểm sát có
nhiệm vụ, quyền hạn: Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan
điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can;
đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra; khi xét
thấy cần thiết, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của
pháp luật; yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều tra viên theo
quy định của pháp luật; nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì
khởi tố về hình sự; quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp bắt,
14


tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác; quyết định phê chuẩn,
quyết định không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra theo quy
định của pháp luật. Trường hợp không phê chuẩn thì trong quyết định không
phê chuẩn phải nêu rõ lý do; huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái
pháp luật của Cơ quan điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can; quyết
định việc truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Khi thực hiện công tác kiểm sát điều tra, Viện kiểm sát có nhiệm vụ,
quyền hạn: Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập
hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người
tham gia tố tụng; giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra; yêu cầu
Cơ quan điều tra khắc phục vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra; yêu
cầu Cơ quan điều tra cung cấp tài liệu cần thiết về vi phạm pháp luật của Điều
tra viên; yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra xử lý nghiêm minh Điều tra
viên vi phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra; kiến nghị với cơ quan, tổ
chức và đơn vị hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi
phạm pháp luật.
Theo các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, các biện pháp sau đây
có thể được Viện kiểm sát sử dụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người bị tình nghi, bị can trong giai đoạn điều tra:

Nếu thấy quyết định khởi tố vụ án của Cơ quan điều tra rõ ràng là không
có căn cứ thì Viện kiểm sát ra văn bản yêu cầu cơ quan đã khởi tố ra quyết định
huỷ bỏ hoặc ra quyết định huỷ bỏ quyết định khởi tố vụ án theo quy định tại
khoản 2 Điều 109 Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành;
Nếu thấy quyết định khởi tố bị can của Cơ quan điều tra chưa rõ căn cứ
xác định bị can phạm tội Viện kiểm sát yêu cầu cơ quan đã khởi tố bổ sung tài
liệu, chứng cứ làm rõ căn cứ khởi tố. Viện kiểm sát có thể hỏi cung bị can, lấy
lời khai người làm chứng, người bị hại để làm rõ căn cứ khởi tố bị can trước
quyết định việc phê chuẩn hay huỷ bỏ quyết định khởi tố bị can.
15


Nếu hết thời hạn tạm giữ vẫn không đủ căn cứ phê chuẩn quyết định
khởi tố bị can đối với người đang bị tạm giữ thì Viện kiểm sát ra quyết định
huỷ bỏ quyết định khởi tố bị can và yêu cầu cơ quan đã khởi tố bị can trả tự
do ngay cho người bị tạm giữ.
Nếu qua nghiên cứu hồ sơ thấy có dấu hiệu của việc lạm dụng việc bắt
khẩn cấp, tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ chưa thể hiện rõ căn cứ để bắt khẩn
cấp hoặc người bị bắt không nhận tội, các chứng cứ trong hồ sơ có mâu thuẫn,
người bị bắt là người nước ngoài, người có chức sắc trong tôn giáo, người có
uy tín trong đồng bào dân tộc ít người hoặc trong trường hợp cần thiết khác
thì Viện kiểm sát trực tiếp gặp, hỏi người bị bắt trước quyết định việc phê
chuẩn hay không phê chuẩn việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp.
Nếu xét thấy việc gia hạn tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần
thiết thì ra quyết định không phê chuẩn quyết định gia hạn tạm giữ và yêu cầu
người đã ra quyết định tạm giữ trả tự do ngay cho người bị tạm giữ theo quy
định tại Điều 87 Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành.
Khi nhận được hồ sơ xin phê chuẩn lệnh tạm giam, nếu thấy chưa rõ căn
cứ thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra bổ sung tài liệu chứng cứ làm rõ
căn cứ để xem xét, quyết định việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn.

Nếu còn thời hạn tạm giam nhưng thấy biện pháp tạm giam đối với bị
can không còn cần thiết thì Viện kiểm sát đề nghị Cơ quan điều tra ra quyết
định huỷ bỏ biện pháp tạm giam hoặc thay thế bằng một biện pháp ngăn chặn
khác hoặc Viện kiểm sát trực tiếp huỷ bỏ biện pháp tạm giam đối với bị can.
Trong quá trình điều tra vụ án, Viện kiểm sát có thể trực tiếp gặp, hỏi
cung bị can khi thấy bị can kêu oan, lời khai của bị can trước sau không thống
nhất, lúc nhận tội, lúc chối tội; bị can khiếu nại về việc điều tra; có căn cứ để
nghi ngờ về tính xác thực trong lời khai bị can hoặc trường hợp bị can bị khởi
tố về tội đặc biệt nghiêm trọng. Sau khi kết thúc điều tra, nhận hồ sơ vụ án từ
16


Cơ quan điều tra chuyển sang, Viện kiểm sát có thể trực tiếp hỏi cung bị can
để kiểm tra tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Trong quá trình kiểm sát điều tra, nếu thấy có mâu thuẫn trong lời khai
giữa bị can, người bị hại, người làm chứng, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, hoặc khi cần thiết phải
nhận dạng người hay đồ vật, Kiểm sát viên yêu cầu Điều tra viên tiến hành
việc đối chất hoặc nhận dạng.
Trong quá trình kiểm sát điều tra, khi xác định bắt buộc phải có người
bào chữa theo quy định tại khoản 2 Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự hiện hành
mà bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa,
thì Viện kiểm sát phải yêu cầu Cơ quan điều tra yêu cầu Đoàn luật sư phân
công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa
cho thành viên của tổ chức mình.
Sau khi nhận được kết luận điều tra cùng hồ sơ vụ án do Cơ quan điều
tra chuyển sang, nếu có một trong những căn cứ xác định bị can không phạm
tội; bị can phạm tội nhưng thuộc trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người
bị hại và người bị hại không yêu cầu hoặc rút yêu cầu hoặc có căn cứ để

miễn trách nhiệm hình sự đối với bị can thì Viện kiểm sát ra quyết định đình
chỉ vụ án.
Với nhiệm vụ, quyền hạn và các biện pháp thực hiện trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự, Viện kiểm sát vừa là người quyết định việc truy tố
người phạm tội trước Tòa án để xét xử, bảo đảm nguyên tắc, bất cứ hành vi
phạm tội nào xâm phạm đến quyền con người đều phải được phát hiện, xử lý
trước pháp luật, vừa bảo đảm các hoạt động điều tra, các biện pháp tư pháp áp
dụng đối với người bị tình nghi, bị can, bị cáo được tuân thủ đúng quy định
của pháp luật. Như vậy, sự tham gia của Viện kiểm sát trong giai đọan điều tra
17


vụ án hình sự để thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra nhằm bảo đảm
mọi hành vi phạm tội và người phạm tội đều được phát hiện, xử lý theo quy
định của pháp luật; đồng thời, bảo đảm việc điều tra tuân thủ đúng pháp luật,
mọi hoạt động xâm phạm đến các quyền của con người không bị pháp luật
tước bỏ đều phải được phát hiện và xử lý.
Bảo vệ quyền con người, quyền công dân qua hoạt động thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án
hình sự.
Với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, Viện kiểm sát có trách
nhiệm bảo đảm việc truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để
lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội, việc xét xử đúng
pháp luật, nghiêm minh, kịp thời.
Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, Viện
kiểm sát có các nhiệm vụ và quyền hạn: Đọc cáo trạng và trình bày ý kiến bổ
sung, nếu có; tham gia xét hỏi tại phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm; thực hiện
việc luận tội đối với bị cáo tại phiên toà sơ thẩm, phát biểu quan điểm về việc
giải quyết vụ án tại phiên toà phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm; tranh luận

với bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà
sơ thẩm, phúc thẩm; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử
của Toà án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố
tụng; kiểm sát các bản án, biên bản phiên toà và quyết định của Toà án theo
quy định của pháp luật; yêu cầu Toà án cùng cấp và cấp dưới chuyển hồ sơ
những vụ án hình sự để xem xét, quyết định việc kháng nghị; kháng nghị theo
thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án hoặc quyết định của
Toà án theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự; tạm đình chỉ thi hành bản
án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm; cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào
18


chữa; ra các quyết định và tiến hành các hoạt động tố tụng khác theo quy định
của pháp luật tố tụng hình sự.
Theo các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, các biện pháp sau đây
có thể được Viện kiểm sát sử dụng để bảo vệ quyền con người, phát hiện,
phòng ngừa và khắc phục những sai lầm trong giai đoạn xét xử, bảo vệ quyền
và lợi ích của bị cáo:
Trước khi xét xử, Viện kiểm sát có thể gặp bị cáo để hỏi cung đối với
những trường hợp: Vụ án có bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược
điểm về tâm thần hoặc thể chất, vụ án có bị cáo mà Kiểm sát viên đề nghị xử
phạt tù chung thân hoặc tử hình, lời khai của các bị cáo trong vụ án có mâu
thuẫn, bị cáo kêu oan hoặc những trường hợp Viện kiểm sát thấy cần thiết.
Trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát có thể tổ chức thực nghiệm
điều tra bằng cách cho dựng lại hiện trường diễn lại hành vi, tình huống.
Trước khi mở phiên toà, nếu thấy việc truy tố không đúng, Viện kiểm
sát có thể rút một phần hay toàn bộ quyết định truy tố. Trường hợp rút toàn bộ
quyết định truy tố thì đề nghị Toà án đình chỉ vụ án.
Tại phiên toà, sau khi xét hỏi nếu có căn cứ rút một phần hay toàn bộ

quyết định truy tố; có tình tiết mới theo hướng có lợi cho bị cáo làm thay đổi
quyết định truy tố thì Kiểm sát viên rút quyết định truy tố. Trường hợp tình
tiết mới đưa ra tại phiên toà có căn cứ để kết luận về một tội danh khác nặng
hơn thì Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử hoãn phiên toà.
Kiểm sát viên kiểm sát việc chấp hành các thủ tục tố tụng tại phiên toà
của Hội đồng xét xử, thư ký Toà án và những người tham gia tố tụng từ khi
bắt đầu đến khi kết thúc phiên toà, nhằm bảo đảm quyền lợi và nghĩa vụ của
những người tham gia tố tụng, bảo đảm cho việc xét xử được công minh đúng
pháp luật.
Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử hoãn phiên toà trong các trường
hợp: Bị cáo vắng mặt có lý do chính đáng; người bào chữa vắng mặt theo quy
19


×