Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

TIEU LUAN TRIET HOC lý luận mác lênin, tư tưởng hồ chí minh về con người và vấn đề phát triển nguồn nhân lực ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.38 KB, 12 trang )

MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển con người là mục tiêu cao cả nhất của toàn nhân loại. Trước Các
Mác, vấn đề con người, bản chất con người chưa được giải đáp một cách khoa
học. Khi hình thành quan niệm duy vật lịch sử, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác
đã khẳng định vai trò cải tạo thế giới, làm nên lịch sử của con người. Bằng sự
phát triển toàn diện thì con người vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển lực
lượng sản xuất.
Với quan điểm như vậy thì chủ nghĩa Mác đã kết luận: Con người không
chỉ là chủ thể của hoạt động sản xuất vật chất, đóng vai trò quyết định trong sự
phát triển của lực lượng sản xuất, mà nó còn là chủ thể của quá trình lịch sử, của
tiến bộ xã hội. Đặc biệt khi xã hội loài người phát triển đến trình độ nền kinh tế
tri thức thì vai trò của con người đặc biệt quan trọng, vì con người tạo ra tri thức
mới, chứa đựng những tri thức mới.
Ở nước ta, từ đại hội Đảng lần thứ III đến nay, Đảng ta luôn xác định công
nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ.
Muốn thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, nâng cao đời sống nhân dân thì
không còn con đường nào khác là phải đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa-hiện
đại hóa. Để làm được điều đó, vấn đề cần được đặt lên hàng đầu đó là vấn đề
phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao kỹ thuật, công nghệ và trong đó đặc biệt
là phát triển nguồn nhân lực
Từ những lý nêu trên, tác giả chọn đề tài “Lý luận Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về con người và vấn đề phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam” để
nghiên cứu.

2.

3.
3.1.



Tình hình nghiên cứu đề tài
Tìm hiểu về con người, bản chất của con người theo lý luận Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh đã được nhiều tác giả, nhóm nghiên cứu. Riêng với chủ đề
này tôi, bên cạnh tìm hiểu lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con
người, tôi đặc biệt nhấn mạnh khả năng vận dụng lý luận vào vấn đề phát triển
nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay.
Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Mục đích
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận và khảo sát thực trạng phát triển nguồn
nhân lực ở Việt Nam, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của con
người và vấn đề phát triển nguồn nhân lục ở nước ta trong thời gian tới.
Nhiệm vụ

3.2.

Để thực hiện mục đích trên, tác giả tập trung giải quyết các nhiệm vụ cơ
bản sau đây:
-

Hệ thống hóa và làm rõ một số vấn đề lý luận triết học Mác về con người, bản
chất con người.
Khảo sát thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam thời gian qua.
1


4.

Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của con người, xây dựng
con người mới và vấn đề phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tác giả xác định đối tượng nghiên cứu là việc xây
dựng con người mới và vấn đề phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

5.

Đề tài tập trung nghiên cứu quan điểm, lý luận Mác-Lênin về con người, tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người toàn diện qua các thời kỳ; từ đó làm
tiền đề để phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam trong giai đoạn mới.
Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả dựa vào chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về con
người, phát triển nguồn nhân lực… để luận giải, phân tích các vấn đề lý luận và
thực tiễn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các
phương pháp: nghiên cứu tài liệu, phân tích - tổng hợp,..

6.

7.

Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài góp phần luận giải và làm rõ những vấn đề lý luận về con người, xây
dựng con người toàn diện theo quan điểm của Đảng, Nhà nước và phát nguồn

nhân lực ở Việt Nam hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các nhà lãnh đạo,
quản lý, cán bộ các cơ quan nhà nước.
Đề tài cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo và nghiên cứu cho
sinh viên các trường Đại học.
Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
được kết cấu thành 3 chương.
Chương I: Cơ sở lý luận triết học về con người
Chương II: Xây dựng con người mới và phát triển nguồn nhân lực ở Việt
Nam.
Chương III: Giải pháp phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam

2


NỘI DUNG
Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN TRIẾT HỌC VỀ CON NGƯỜI
QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊ NIN VỀ CON NGƯỜI
Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học
với mặt xã hội

I.
1.1.

Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học,
đồng thời khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh học
và yếu tố xã hội.

Với phương pháp biện chứng duy vật, triết học Mác nhận thức vấn đề con
người một cách toàn diện, cụ thể trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà
trước hết là vấn đề lao động sản xuất ra của cải vật chất.
Các Mác và Ph.Ăngghen đã nêu lên vai trò của lao động sản xuất ở con
người: “Có thể phân biệt con người với súc vật, bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói
chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng việc tự
phân biệt với xúc vật ngay từ khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu
sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy
định. Sản xuất ra những tư liệu sin hoạt của mình, như vậy, con người đã gián
tiếp sản xuất ra đời sống vật chất của mình”.
Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ
xã hội

1.2.

Con người vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau:
Quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con
người. Cả ba quan hệ đó, suy đến cùng, đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ
xã hội giữa người với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan
hệ khác và mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người.
Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử.
Sự phát triển xã hội loài người trong nền kinh tế tri thức

1.3.

Trong thời gian từ năm 1750 đến năm 1900 (thời kỳ cách mạng công
nghiệp), chủ nghĩa tư bản và công nghệ đã chinh phục toàn thế giới và tạo ra
một nền văn minh thế giới mới.
Sự biến đổi ý nghĩa của tri thức trải qua 3 giai đoạn:
-


-

Giai đoạn đầu (khoảng 100 năm), tri thức được áp dụng cho các công cụ sản
xuất, phương pháp sản xuất và sản phẩm. điều này tạo ra cuộc Cách mạng công
nghiệp đồng thời cũng tạo ra điều mà Mác gọi là các giai cấp mới, các cuộc đấu
tranh giai cấp và gắn liền với chúng là Chủ nghĩa cộng sản.
Giai đoạn thứ hai, bắt đầu từ khoảng cuối thế kỷ 19 và kết thúc vào Chiến tranh
thế giới thứ 2, tri thức được áp dụng cho tổ chức lao động.
3


-

Giai đoạn cuối cùng, tri thức được áp dụng cho chính bản thân tri thức. Đó là
cuộc cách mạng quản lý.
Vào thời Plato, có hai học thuyết ở phương Đông và hai học thuyết ở
phương Tây về ý nghĩa và chức năng của tri thức. Nhà hiền triết Socrates cho
rằng chức năng của tri thức là vì chính tri thức: sự phát triển của tri thức, đạo
đức và tinh thần của cá nhân. Tuy nhiên, nhà triết học Protagoras lại cho rằng
mục đích của tri thức là làm cho con người có tri thức, có thể hiểu được những
gì cần phải nói và làm thế nào để nói chúng. Theo Protagoras, tri thức có nghĩa
là logic, ngữ pháp và hùng biện.
Ở phương Đông, Khổng giáo cho rằng, tri thức là biết được những gì cần
nói và làm thế nào để nói chúng, là con đường dẫn đến tiến bộ và thành công.
Theo Đạo lão và phái Thiền (Phật giáo) thì tri thức là vì tri thức, và là con dường
đi đến sự thông thái và khôn ngoan.

II.


VAI TRÒ CỦA CHỦ NGHĨA MÁC VỀ CON NGƯỜI TRONG ĐỜI
SỐNG XÃ HỘI
Hệ tư tưởng Mácxít xóa bỏ dần sự thống trị của các loại tư tưởng tự phát,
lạc hậu, thấp kém trong con người cũ, mê tín dị đoan, các niềm tin mù quáng…
với sức mạnh có tính khoa học, học thuyết Mác-Lênin đã vạch rõ những yếu tố
phi khoa học, phi nhân đạo, các loại thế giới quan, nhân sinh quan sai lệch mà
trước đó đã làm mai một trí tuệ, tính tích cực trong con người của các hệ tư
tưởng truyền thống.
Sự chuyển đổi hệ tư tưởng dẫn đến chuyển đổi hệ giá trị của xã hội và giá
trị con người, con người từ chỗ phục tùng chuyển sang tự chủ, sáng tạo, từ chỗ
dựa trên tập quán chuyển sang lý trí, dân chủ chuyển sang tôn trọng cả cá tính và
bản lĩnh riêng. Các chuẩn mực mới của con người đòi hỏi không chỉ phát triển
từng mặt riêng rẻ mà phải là cá nhân phát triển hài hòa tính cách mạng của học
thuyết Mác xít khắc phục dần lối sống thụ động, hẹp hòi, làm cơ sở cho lối sống
tích cực vì xã hội, xây dựng cuộc sống mới, nhân cách mới.

III.

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON NGƯỜI VÀ PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người được biểu hiện đa dạng và vô cùng
phong phú, thể hiện trong từng việc làm, cử chỉ và mối quan tâm của mỗi con
người. Tất cả đều toát lên tình yêu vô hạn, sự tôn trọng, thái độ bao dung và
niềm tin tuyệt đối vào con người. Trước lúc đi xa, trong bản Di chúc Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã căn dặn Đảng ta: ngay khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước thắng lợi thì “Đầu tiên là công việc đối với con người”, tức là phải có
chính sách xã hội đối với con người. Đó là những việc mà Đảng, Nhà nước ta đã
và đang thực hiện trong sự nghiệp đổi mới hiện nay

4



CHƯƠNG II
XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
Ở VIỆT NAM
I.

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI, CON
NGƯỜI PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN
1.1. Về xây dựng con người mới
Con người mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh là con người xã hội chủ nghĩa,
con người phát triển toàn diện để phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Chủ tịch Hồ
Chí Minh dùng khái niệm con người mới xã hội chủ nghĩa là để phân biệt con
người sống trong xã hội cũ, con người chưa được giác ngộ cách mạng, chưa được
trang bị lý luận cách mạng đúng đắn theo lập trường của giai cấp công nhân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xem xét con người trong mối quan hệ với xã
hội. Người đưa ra một định nghĩa về con người rất mộc mạc mà độc đáo: “ Chữ
người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào
cả nước. Rộng hơn nữa là cả loài người”. Với nghĩa đó, khái niệm con người đã
mang trong nó bản chất xã hội, phản ánh các quan hệ xã hội
Quan điểm về con người mới xã hội chủ nghĩa của Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn gắn với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Người vận dụng quan điểm
Mác xít về con người để xây dựng con người mới, những con người mang thế
giới quan và nhân sinh quan của chủ nghĩa Mác - Lênin, con người thấm nhuần
tư tưởng xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh.
Theo Người, để trở thành con người mới xã hội chủ nghĩa phải chú ý cả hai
phương diện. Một mặt, là sự phấn đấu vươn lên không ngừng của mỗi người
theo hướng tự giác đấu tranh với những mặt lạc hậu, mặt xấu vốn tồn tại như
mặt bản năng tự nhiên của con người, đồng thời học tập, tu dưỡng đạo đức cách
mạng được xem như tinh hoa văn hóa của nhân loại. Mặt khác, đó là sự tham gia

tích cực của con người vào việc cải tạo xã hội theo hướng xây dựng chủ nghĩa
xã hội, đối với nước ta là thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc, kết hợp với
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đó là hai mặt luôn gắn kết với nhau và “muốn có
chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa”.
1.2. Về xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện
Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện trong tư tưởng Hồ Chí
Minh phải thực hiện từng bước, từng nhiệm vụ cụ thể như sau:
Thứ nhất, chiến lược con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thứ hai, vai trò của giáo dục, đào tạo trong việc xây dựng con người Việt
Nam phát triển toàn diện.
Thứ ba, phương pháp xây dựng con người.

5


CHỦ TRƯƠNG CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ XÂY
DỰNG CON NGƯỜI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở
VIỆT NAM

II.

Quan điểm của Đảng về xây dựng con người phát triển toàn diện được thể
hiện thông qua Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII.
Thứ nhất, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành
mục tiêu của chiến lược phát triển, là một trong những nhiệm vụ tổng quát phát
triển đất nước 5 năm 2016 - 2020, đó là “xây dựng con người phát triển toàn
diện đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa”.
Thứ hai, gắn mục tiêu xây dựng, phát triển văn hóa với xây dựng con
người. Đây là bước phát triển trong tư duy lý luận của Đảng về lĩnh vực phát

triển con người sau 30 đổi mới. Đại hội XII khẳng định phương hướng phát triển
văn hóa là: “Xây dựng, phát triển văn hóa, con người... Gắn nhiệm vụ xây dựng
văn hóa, con người với nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước”, bởi vì con
người vừa là chủ thể sáng tạo văn hóa, đồng thời là sản phẩm của chính nền văn
hóa do mình sáng tạo ra.
Thứ ba, Đảng ta khẳng định, vấn đề xây dựng con người là bốn trong sáu
nhiệm vụ trung tâm của nhiệm kỳ Đại hội XII. Tại Đại hội XI, trong số 7 nhiệm
vụ được đề ra thì chỉ có một nhiệm vụ đề cập trực tiếp đến vấn đề con người, đó
là “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, hội nhập quốc tế của đất nước”. Đến Đại hội XII, trong 6 nhiệm vụ
trọng tâm cần thực hiện trong nhiệm kỳ này thì có tới 4 nhiệm vụ có đề cập tới
vấn đề con người, trong đó có 2 nhiệm vụ đề cập tới phát triển năng lực cho con
người.
Thứ tư, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện gắn với sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
III.
3.1.

3.2.

THỰC TRẠNG, ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở
VIỆT NAM
Thực trạng của vấn đề đào tạo, sử dụng và phát triển con người ở Việt
Nam
Lực lượng lao động trẻ dồi dào, cần cù, sáng tạo song chất lượng còn hạn
chế, sự bất hợp lý về phần công lao động, khó khăn về phân bố dân cư.
Ưu điểm
Cơ cấu lao động đang chuyển dịch theo hướng tăng lao đông công nghiệp,
lao động dịch vụ, lao động tri thức.
3.3. Một số hạn chế của nguồn nhân lực Việt Nam

Thứ nhất, thể chất của lực lượng lao động còn yếu: Về cơ bản, thể chất của
người lao động Việt Nam đã được cải thiện, nhưng còn thấp so với các nước
trong khu vực, thể hiện ở các khía cạnh tầm vóc, sức khoẻ, sức bền, khả năng
chịu áp lực…
6


3.4.

Thứ hai, trình độ của người lao động còn nhiều hạn chế, bất cập, do chất
lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng, miền,
địa phương của nguồn nhân lực chưa phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế
và nhu cầu của xã hội, gây lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội.
Thứ ba, thiếu đội ngũ công nhân, kỹ thuật viên lành nghề để đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của xã hội phát triển các ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam.
Thứ tư, về cơ bản đội ngũ lao động Việt Nam giỏi lý thuyết, nhưng kém về
năng lực thực hành và ứng dụng công nghệ cao vào quá trình lao động, kém về
ngoại ngữ và hạn chế trong việc thích nghi môi trường có áp lực cạnh tranh cao.
Thứ năm, khả năng làm việc theo nhóm, tính sáng tạo, chuyên nghiệp trong
quá trình lao động còn nhiều hạn chế, khả năng giao tiếp, năng lực giải quyết
xung đột trong quá trình lao động còn yếu kém.
Thứ sáu, tinh thần trách nhiệm trong công việc, đạo đức nghề nghiệp, đạo
đức công dân, văn hoá doanh nghiệp, ý thức tuân thủ kỷ luật lao động của một
bộ phận đáng kể người lao động chưa cao.
Nguyên nhân
3.4.1. Ưu điểm
Sự quan tâm của Đảng, Nhà nước về vấn đề phát triển con người, nguồn
nhân lực, lao động đáp ứng trong từng giai đoạn phát triển của đất nước.
Do đặc điểm của lao động Việt Nam: số lượng lao động lớn, đa số là lao
động trẻ, có thể lực, trí lực dồi dào. Thế hệ trẻ thích nghi nhanh với nền kinh tế

thị trường. Các lao động của thế hệ trước nhanh chóng thay đổi được nếp cũ
chấp nhận đào tạo lại.
3.4.2. Nguyên nhân của những hạn chế
Một là, quản lý Nhà nước về phát triển nguồn nhân lực còn nhiều vấn đề
bất cập so với yêu cầu. Chưa có một chiến lược phát triển nguồn nhân lực toàn
diện và dài hạn, mang tầm quốc gia để định hướng các cơ quan, đoàn thể cùng
phố hợp hành động.
Hai là, hệ thống giáo dục từ cấp phổ thông, đến đào tạo nghề, đại học, sau
đại học là lực lượng nòng cốt trong quá trình đào tạo và phát triển nguồn nhân
lực còn bộc lộ nhiều hạn chế, dù đã trải qua rất nhiều cải cách, đổi mới.
Ba là, quá trình hợp tác và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực phát triển
nguồn nhân lực chưa theo kịp quá trình hội nhập kinh tế, văn hoá, xã hội ngày
càng sâu rộng của Việt nam. Hệ thống giáo dục chưa bắt kịp với mô hình hệ
thống giáo dục và đào tạo nhân lực phổ biến của các nước trong khu vực và thế
giới. Đào tạo ngoại ngữ của Việt Nam còn nặng tính hình thức, lý thuyết nhưng
lại yếu kém trong thực hành.
Bốn là, nguồn lực quốc gia và khả năng đầu tư cho phát triển nhân lực của
phần lớn các gia đình còn hạn chế, chưa đáp ứng điều kiện tối thiểu để bảo đảm
chất lượng các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao.

7


CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
I.

YÊU CẦU ĐỐI VỚI NGUỒN NHÂN LỰC VIỆT NAM TRONG BỐI
CẢNH HỘI NHẬP

Nhằm đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
và hội nhập quốc tế, từ bối cảnh trong nước, quá trình phát triển nguồn nhân lực
Việt nam đang đứng trước những yêu cầu cấp thiết sau:
- Bảo đảm nguồn nhân lực là một trong ba khâu đột phá cho công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã được đề ra trong Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020: chú trọng phát triển theo chiều sâu,
tăng cường ứng dụng khoa học và công nghệ; chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực
hiện tái cấu trúc nền kinh tế; tăng năng suất lao động, tiết kiệm trong sử dụng
mọi nguồn lực.
- Nguồn nhân lực phải có năng lực thích ứng với tình trạng nguồn tài
nguyên thiên nhiên ngày càng khan hiếm và sự sụt giảm các nguồn đầu tư tài
chính; phải được đào tạo đầy đủ và toàn diện để có khả năng cạnh tranh và tham
gia lao động ở nước ngoài trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; đồng thời có
đủ năng lực để tham gia với cộng đồng quốc tế giải quyết những vấn đề mang
tính toàn cầu và khu vực.
II. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG NGUỒN NHÂN LỰC
VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
Một là, tiếp tục đổi mới quản lý Nhà nước. Tập trung hoàn thiện bộ máy
quản lý phát triển nguồn nhân lực, đổi mới phương pháp quản lý, nâng cao năng
lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động bộ máy quản lý về phát triển nguồn nhân
lực. Đổi mới các chính sách, cơ chế, công cụ phát triển và quản lý nguồn nhân
lực bao gồm các nội dung về môi trường làm việc, chính sách việc làm, thu
nhập, bảo hiểm, bảo trợ xã hội, điều kiện nhà ở và các điều kiện sinh sống, định
cư, chú ý các chính sách đối với bộ phận nhân lực chất lượng cao, nhân tài.
Hai là, bảo đảm nguồn lực tài chính. Phân bổ và sử dụng hợp lý Ngân sách
Nhà nước dành cho phát triển nhân lực quốc gia đến năm 2020. Cần xây dựng
kế hoạch phân bổ ngân sách nhà nước theo hướng tập trung đẩy mạnh thực hiện
các chương trình, dự án đào tạo theo mục tiêu ưu tiên và thực hiện công bằng xã
hội. Đẩy mạnh xã hội hoá để tăng cường huy động các nguồn vốn cho phát triển
nhân lực. Nhà nước có cơ chế, chính sách để huy động các nguồn vốn của người

dân đầu tư và đóng góp cho phát triển nhân lực bằng các hình thức:
- Trực tiếp đầu tư xây dựng cơ sở giáo dục, đào tạo, cơ sở y tế, văn hoá, thể
dục thể thao;

8


- Hình thành các quỹ hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực, huy động, phát huy
vai trò, đóng góp của doanh nghiệp đối với sự phát triển nhân lực;
- Đẩy mạnh và tạo cơ chế phù hợp để thu hút các nguồn vốn nước ngoài
cho phát triển nhân lực Việt Nam. Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn của nước
ngoài hỗ trợ phát triển nhân lực (ODA);
- Thu hút đầu tư trực tiếp (FDI) của nước ngoài cho phát triển nhân lực
(đầu tư trực tiếp xây dựng các cơ sở giáo dục, đào tạo, bệnh viện, trung tâm thể
thao…).
Ba là, đẩy mạnh cải cách giáo dục. Đây là nhiệm vụ then chốt, giải pháp
chủ yếu, là quốc sách hàng đầu để phát triển nhân lực Việt Nam trong giai đoạn
từ nay đến 2020 và những thời kỳ tiếp theo. Một số nội dung chính trong quá
trình đổi mới hệ thống giáo dục và đào tạo Việt Nam bao gồm:
- Hoàn thiện hệ thống giáo dục theo hướng mở, hội nhập, thúc đẩy phân
tầng, phân luồng, khuyến khích học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập;
- Mở rộng giáo dục mầm non, phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở
với chất lượng ngày càng cao. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các
trường dạy nghề và đào tạo chuyên nghiệp. Quy hoạch và thực hiện quy hoạch
mạng lưới trường đại học, cao đẳng và dạy nghề trong cả nước;
- Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, sách giáo khoa phổ thông,
khung chương trình đào tạo ở bậc đại học và giáo dục nghề nghiệp, phương
pháp dạy và học ở tất cả các cấp theo hướng phát huy tư duy sáng tạo, năng lực
tự học, tự nghiên cứu, tăng thời gian thực hành, tập trung vào những nội dung,
nâng cao chất lượng đào tạo ngoại ngữ;

- Đổi mới phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp học, bậc học. Thực hiện
kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học. Cải cách mục tiêu,
nội dung, hình thức kiểm tra, thi và đánh giá kết quả giáo dục và đào tạo, đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin;
- Đổi mới chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục; nâng cao chất
lượng nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ vào giáo dục và đào tạo;
- Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực
chất lượng cao là một đột phá chiến lược. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát
huy nhân tài, đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức.
Bốn là, chủ động hội nhập. Để có thể hội nhập sâu hơn vào môi trường
kinh doanh và phát triển quốc tế với mục tiêu phát triển bền vững nguồn nhân
lực chúng ta cần chủ động hội nhập với những định hướng cơ bản là:
- Xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về phát triển nguồn
nhân lực phù hợp với trình độ phát triển của Việt Nam nhưng không trái với
thông lệ và luật pháp quốc tế về lĩnh vực này mà chúng ta tham gia, ký kết, cam
kết thực hiện;
9


- Thiết lập khung trình độ quốc gia phù hợp với khu vực và thế giới. Xây
dựng lộ trình nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục và đào tạo để đạt
được khung trình độ quốc gia đã xây dựng, phù hợp chuẩn quốc tế và đặc thù
Việt Nam;
- Tham gia kiểm định quốc tế chương trình đào tạo. Thực hiện đánh giá và
quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, liên kết, trao đổi về giáo dục và đào
tạo đại học, sau đại học và các đề tài, dự án nghiên cứu khoa học, công nghệ
giữa các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam và thế giới;
- Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà giáo, nhà khoa
học có tài năng và kinh nghiệm của nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài
tham gia vào quá trình đào tạo nhân lực đại học và nghiên cứu khoa học, công

nghệ tại các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam;
- Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ từ ngân sách nhà nước và huy động
các nguồn lực xã hội, kêu gọi đầu tư nước ngoài, thu hút các trường đại học, dạy
nghề có đẳng cấp quốc tế vào Việt Nam hoạt động.

10


KẾT LUẬN
Ngày nay, với cuộc cách mạng kỹ thuật công nghệ hiện đại đã dần dần đi
đến khẳng định sự phát triển con người là yếu tố quyết định của mọi sự phát
triển. Trong sự phát triển của con người đặc biệt nhấn mạnh vai trò trí tuệ và đi
liền với nó là vai trò của giáo dục đào tạo nguồn lực con người.
Trong các kỳ đại hội, Đảng và Nhà nước đề ra chủ trương xây dựng nước ta
trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 là hoàn toàn đúng đắn và sáng suốt
bởi những chủ trương đó xuất phát từ trình độ và hoàn cảnh cụ thể của đất nước
ta về các mặt. nước ta đang thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
phát triển kinh tế đất nước đã khơi dậy năng lực sáng tạo, tính chủ động của con
người. từ một nước nghèo nàn về cơ sở vật chất, lạc hậu về khoa học kỹ thuật thì
nay ta được đảm bảo cho dân được ấm no và còn có sản phẩm dư thừa để xuất
khẩu. Đối với sự nghiệp đổi mới của nước ta phải coi con người là nhân tố quyết
định. Từ đó phải nâng cao dân trí cũng như chuẩn bị tốt nguồn nhân lực hội đủ
trí tuệ và nghị lực, tay nghề và công nghệ, ý thức và tâm hồn thấm đượm bản sắc
dân tộc, khoa học và ý chí; thực hiện sự chuyển mình từ một nước nông nghiệp
thành nước công nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Có thể nói, sự thành công hay thất bại, tận dụng tốt thời cơ, vận hội hay
vượt qua nguy cơ, thách thức từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 ở Việt Nam
hiện nay phụ thuộc một cách quyết định vào phương thức khai thác nguồn lực
con người, nhất là việc xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.


11


Tµi liÖu tham kh¶o
1.
2.
3.

Giáo trình triết học
Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020.
Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII.

12



×