Tải bản đầy đủ (.docx) (92 trang)

Đánh giá kết quả của tư vấn nhóm đối với bệnh nhân đái tháo đường typ 2 điều trị ngoại trú tại bệnh viện đa khoa thạch thất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 92 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, đái tháo đường nói riêng hay các bệnh nội tiết và rối loạn
chuyển hóa nói chung là một vấn đề y tế công cộng mang tính chất toàn cầu,
ảnh hưởng đến sức khoẻ của nhiều người, nhất là trong độ tuổi lao động trên
toàn thế giới [1]. Theo thông báo của Tổ chức Y tế thế giới, tốc độ phát triển
của bệnh đái tháo đường tăng nhanh trong những năm qua.
Theo WHO, năm 1985 có khoảng 30 triệu người mắc đái tháo đường
trên toàn cầu, năm 2004 có khoảng 98,9 triệu người mắc, tới nay khoảng 180
triệu người và con số đó có thể tăng gấp đôi lên tới 366 triệu người vào những
năm 2030 [2].Đây là một trong ba căn bệnh có tốc độ phát triển nhanh nhất và
là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở các nước đang
pháttriển.
Năm 2003, toàn thế giới có 171,4 triệu người mắc bệnh đái tháo đường,
dự đoán sẽ tăng gấp đôi vào năm 2030, mỗi ngày có khoảng 8.700 người chết
liên quan đến đái tháo đường [3]. Việt Nam không xếp vào 10 nước có tỷ lệ
mắc đái tháo đường cao nhưng lại là quốc gia có tốc độ phát triển bệnh nhanh.
Một nghiên cứu của Bệnh viện Nội tiết Trung ương vào cuối tháng 10 - 2008
cho thấy, tỷ lệ mắc đái tháo đường ở Việt Nam tăng nhanh từ 2,7% (năm
2001) lên 5% (năm 2008), trong đó có tới 65% người bệnh không biết mình
mắc bệnh [4].
Đái tháo đường là bệnh mang tính xã hội cao ở nhiều quốc gia bởi tốc độ
phát triển nhanh chóng, mức độ nguy hại đến sức khoẻ. Đái tháo đường còn
trở thành lực cản của sự phát triển, gánh nặng cho toàn xã hội khi mà mỗi
năm thế giới phải chi số tiền khổng lồ từ 232 tỷ đến 430 tỷ USD cho việc
phòng chống và điều trị [4], [5]. Việc phát hiện sớm và quản lý bệnh đái tháo
đường trong cộng đồng là vô cùng cần thiết. Nhiều y văn đã chứng minh rằng


2


bệnh đái tháo đường hoàn toàn có thể phòng và quản lý được, những người
mắc bệnh đái tháo đường nếu được quản lý, tư vấn truyền thông tăng hiểu biết về
bệnh và điều trị kịp thời bằng thuốc, chế độ ăn uống, luyện tập hợp lý sẽ giảm
nguy cơ mắc bệnh và làm chậm sự xuất hiện các biến chứng do bệnh gây nên [6].
Huyện Thạch Thất là một huyện nằm phía Tây của thành phố Hà Nội,
với đặc điểm có nhiều địa danh nối tiếng cùng với giao thông thuận lợi đang
ngày càng phát triển. Tốc độ độ phát triển kinh tế, đô thị hóa ở đây ngày một
nhanh, bên cạnh đó tỷ lệ mắc các bệnh không lây cũng tăng nhanh như đái
tháo đường, tim mạch, tăng huyết áp…. Bệnh viện đa khoa Thạch Thất là
bệnh viện chịu trách nhiệm chính trong việc chăm sóc sức khỏe của nhân dân
huyện Thạch Thất. Theo một thống kê mới nhất vào đầu tháng 6 năm 2017 thì
bệnh viện đang quản lý và điều trị thường xuyên hơn 1000 bệnh nhân ngoại
trú đái tháo đường và có xu hướng tăng lên trong thời gian gần đây [7] . Tại
Thạch Thất, chưa có nghiên cứu nào đầy đủ về thực trạng mắc bệnh đái tháo
đường, bên cạnh đó người dân có thể chưa có đầy đủ kiến thức về bệnh này.
Do đó, để có cơ sở khoa học cung cấp thông tin cho bệnh viện đa khoa Thạch
Thất nói riêng cũng như Sở Y tế Hà Nội nói chung nhằm xây dựng các giải
pháp quản lý, chăm sóc, các phương pháp phòng bệnh đái tháo đường, chúng
tôi thực hiện nghiên cứu: “Đánh giá kết quả của tư vấn nhóm đối với bệnh
nhân đái tháo đường typ 2 điều trị ngoại trú tại bệnh viện Đa khoa Thạch
Thất” với 2 mục tiêu sau:
1. Mô tả thực trạng kiến thức và tình trạng bệnh lý đái tháo đường của bệnh
nhân đái tháo đường điều trị ngoại trú tại bệnh viện Đa khoa Thạch Thất.
2. Đánh giá kết quả của tư vấn nhóm về chế độ ăn, luyện tập và sử dụng thuốc
đối với kiến thức và hiệu quả điều trị của nhóm bệnh nhân nghiên cứu.


3

Chương 1

TỔNG QUAN
1.1. Tổng quan về bệnh ĐTĐ.
1.1.1. Định nghĩa bệnh ĐTĐ.
Theo Hội ĐTĐ Mỹ (ADA), năm 2006, định nghĩa ĐTĐ: “ĐTĐ type 2 là
bệnh chuyển hóa đặc trưng bởi tăng đường huyết do sự phối hợp giữa kháng
insulin và thiếu đáp ứng insulin”[8].
Theo Liên đoàn ĐTĐ quốc tế (IDF) năm 2010: “ĐTĐ là nhóm những rối
loạn không đồng nhất gồm tăng đường huyết và rối loạn dung nạp glucose do
thiếu insulin, do giảm tác dụng của insulin hoặc cả hai. ĐTĐ type 2 đặc trưng
bởi kháng insulin và thiếu tương đối insulin, một trong hai rối loạn này có thể
xuất hiện ở thời điểm có triệu chứng lâm sàng bệnh ĐTĐ”[9].
Hiện nay, theo Tổ chức Y tế Thế giới: “ĐTĐ là một hội chứng biểu hiện
bằng sự tăng đường máu do hậu quả của việc mất hoàn toàn insulin hoặc là do
có liên quan đến sự suy yếu trong bài tiết hoặc hoạt động của insulin" [4].
1.1.2. Phân loại bệnh ĐTĐ
1.1.2.1. ĐTĐ type 1.
ĐTĐ type 1 chiếm tỷ lệ khoảng 5 - 10% tổng số bệnh nhân ĐTĐ thế
giới. Nguyên nhân do tế bào bê - ta bị phá hủy, gây nên sự thiếu hụt insulin
tuyệt đối cho cơ thể (nồng độ insulin giảm thấp hoặc mất hoàn toàn) [10].
ĐTĐtype 1 phụ thuộc nhiều vào yếu tố gen và thường được phát hiện
trước 40 tuổi.Nhiều bệnh nhân, đặc biệt là trẻ em và trẻ vị thành niên biểu
hiện nhiễm toan ceton là triệu chứng đầu tiên của bệnh.Đa số các trường hợp
được chẩn đoán bệnh ĐTĐtype 1 thường là người có thể trạng gầy, tuy nhiên
người béo cũng không loại trừ.Người bệnh ĐTĐtype 1 sẽ có đời sống phụ
thuộc insulin hoàn toàn.


4
Có thể có các dưới nhóm:
- ĐTĐ qua trung gian miễn dịch.

- ĐTĐtype 1 không rõ nguyên nhân.
1.1.2.2. ĐTĐ type 2.
ĐTĐtype 2 chiếm tỷ lệ khoảng 90% ĐTĐ trên thế giới, thường gặp ở
người trưởng thành trên 40 tuổi. Nguy cơ mắc bệnh tăng dần theo tuổi. Tuy
nhiên, do có sự thay đổi nhanh chóng về lối sống, về thói quen ănuống, ĐTĐ
type 2 ở lứa tuổi trẻ đang có xu hướng phát triểnnhanh.
Đặc trưng của ĐTĐtype 2 là kháng insulin đi kèm với thiếu hụt tiết
insulin tương đối[11]. ĐTĐtype 2 thường được chẩn đoán rất muộn vì giai
đoạn đầu tăng glucose máu tiến triển âm thầm không có triệu chứng. Khi có
biểu hiện lâm sàng thường kèm theo các rối loạn khác về chuyển hoá lipid,
các biểu hiện bệnh lý về tim mạch, thần kinh, thận…, nhiều khi các biến
chứng này đã ở mức độ rất nặng.
Tại Việt Nam, tỷ lệ mắc ĐTĐtype 2 từ 80% đến 90% tổng số bệnh nhân bị
ĐTĐ và có thể phòng ngừa được nếu từ bỏ hoặc giảm các yếu tố nguy cơ [12].
Do đó, trong khuôn khổ luận án này chỉ đề cập bệnh tiền ĐTĐ - ĐTĐ type 2.
1.1.2.3. Đái tháo đường thai kỳ
Đái đường thai kỳ là ĐTĐ được chẩn đoán trong 3 tháng giữa hoặc 3
tháng cuối của thai kỳ và không có bằng chứng ĐTĐ typ 1, typ 2 trước đó.
Nếu phụ nữ có thai 3 tháng đầu được phát hiện tăng glucose huyết: chẩn đoán
là ĐTĐ chưa được chẩn đoán hoặc chưa được phát hiện và dùng tiêu chuẩn
chẩn đoán ĐTĐ như ở người không có thai[13].
1.1.2.4. Một số thể ĐTĐ hiếm gặp.
Nguyên nhân liên quan đến một số bệnh, thuốc, hoá chất.
- Khiếm khuyết chức năng tế bào bê - ta.
- Khiếm khuyết gen hoạt động của insulin.
- Bệnh tụy ngoại tiết: Viêm tụy, chấn thương, carcinom tụy…


5
- Các bệnh nội tiết: Hội chứng Cushing, cường năng tuyến giáp…

- Thuốc hoặc hóa chất.
- Các thể ít gặp qua trung gian miễn dịch.
1.1.3. Chẩn đoán bệnh ĐTĐ.
Quyết định 3319/QĐ-BYT ngày 19 tháng 10 năm 2017 về việc ban hành
tài liệu chuyên môn “Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị đái tháo đường typ 2”
của Bộ Y tế đã nêu rõ: Tiêu chuẩn chẩn đoán đái tháo đường (theo Hiệp Hội
Đái tháo đường Mỹ - ADA) dựa vào 1 trong 4 tiêu chuẩn sau đây[14]:
a) Glucose huyết tương lúc đói (fasting plasma glucose: FPG) ≥ 126
mg/dL (hay 7 mmol/L). Bệnh nhân phải nhịn ăn (không uống nước ngọt, có
thể uống nước lọc, nước đun sôi để nguội) ít nhất 8 giờ (thường phải nhịn đói
qua đêm từ 8 -14 giờ), hoặc:
b) Glucose huyết tương ở thời điểm sau 2 giờ làm nghiệm pháp dung nạp
glucose đường uống 75g (oral glucose tolerance test: OGTT) ≥ 200 mg/dL
(hay 11,1 mmol/L).
Nghiệm pháp dung nạp glucose đường uống phải được thực hiện theo
hướng dẫn của Tổ chức Y tế thế giới: Bệnh nhân nhịn đói từ nửa đêm trước
khi làm nghiệm pháp, dùng một lượng glucose tương đương với 75g glucose,
hòa tan trong 250-300 ml nước, uống trong 5 phút; trong 3 ngày trước đó
bệnh nhân ăn khẩu phần có khoảng 150-200 gam carbohydrat mỗi ngày.
c) HbA1c ≥ 6,5% (48 mmol/mol). Xét nghiệm này phải được thực hiện ở
phòng thí nghiệm được chuẩn hóa theo tiêu chuẩn quốc tế.
d) Ở bệnh nhân có triệu chứng kinh điển của tăng glucose huyết hoặc
mức glucose huyết tương ở thời điểm bất kỳ ≥ 200 mg/dL (hay 11,1 mmol/L).
Nếu không có triệu chứng kinh điển của tăng glucose huyết (bao gồm
tiểu nhiều, uống nhiều, ăn nhiều, sụt cân không rõ nguyên nhân), xét nghiệm
chẩn đoán a, b, d ở trên cần được thực hiện lặp lại lần 2 để xác định chẩn đoán.
Thời gian thực hiện xét nghiệm lần 2 sau lần thứ nhất có thể từ 1 đến 7 ngày.


6

Trong điều kiện thực tế tại Việt Nam, nên dùng phương pháp đơn giản
và hiệu quả để chẩn đoán đái tháo đường là định lượng glucose huyết tương
lúc đói 2 lần ≥ 126 mg/dL (hay 7 mmol/L). Nếu HbA1c được đo tại phòng xét
nghiệm được chuẩn hóa quốc tế, có thể đo HbA1c 2 lần để chẩn đoán ĐTĐ
1.1.4. Biến chứng của bệnh ĐTĐ.
ĐTĐ nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời bệnh sẽ tiến
triển nhanh chóng và xuất hiện các biến chứng cấp và mạn tính. Bệnh nhân có
thể tử vong do các biến chứng này.
1.1.5. Biến chứng cấp tính.
Biến chứng cấp tính thường là hậu quả của chẩn đoán muộn, nhiễm
khuẩn cấp tính hoặc điều trị không thích hợp.
Nhiễm toan ceton là biểu hiện nặng của rối loạn chuyển hóa glucid do
thiếu insulin gây tăng glucose máu, tăng phân hủy lipid, tăng sinh thể ceton
gây toan hóa tổ chức. Mặc dù y học hiện đại đã có nhiều tiến bộ về trang thiết
bị, điều trị và chăm sóc, tỷ lệ tử vong vẫn cao 5 - 10%.
Hôn mê tăng áp lực thẩm thấu là tình trạng rối loạn chuyển hóa glucose
nặng, đường huyết tăng cao. Hôn mê tăng áp lực thẩm thấu chiếm 5 - 10%. Ở
bệnh nhân ĐTĐtype 2 nhiều tuổi, tỷ lệ tử vong từ 30 - 50% [10]. Điều đó chứng
tỏ sự hiểu biết về bệnh ĐTĐ còn chưa được phổ biến trong cộng đồng.
1.1.6. Biến chứng mạn tính.
1.1.6.1. Biến chứng tim – mạch.
Bệnh lý tim mạch ở bệnh nhân ĐTĐ là biến chứng thường gặp và nguy
hiểm. Người ĐTĐ có bệnh tim mạch là 45%, nguy cơ mắc bệnh tim mạch gấp
2 - 4 lần so với người bình thường. Nguyên nhân tử vong do bệnh tim mạch
chung chiếm khoảng 75% tử vong ở người bệnh ĐTĐ, trong đó thiếu máu cơ
tim và nhồi máu cơ tim là nguyên nhân gây tử vong lớn nhất. Một nghiên cứu
được tiến hành trên 353 bệnh nhân ĐTĐtype 2 là người Mỹ gốc Mêxicô trong
8 năm thấy có 67 bệnh nhân tử vong và 60% là do bệnh mạch vành[4].



7
Tăng huyết áp thường gặp ở bệnh nhân ĐTĐ, tỷ lệ mắc bệnh chung của
tăng huyết áp ở bệnh nhân ĐTĐ gấp đôi so với người bình thường. Trong
ĐTĐtype 2, 50% ĐTĐ mới được chẩnđoán có tăng huyết áp [15][16].
Ngoàira,tỷlệbiếnchứngmạchnãoởbệnhnhânĐTĐgấp1,5-2 lần, viêm động
mạch chi dưới gấp 5 - 10 lần so với người bìnhthường.

 Biến chứng thận.
Biến chứng thận do đái tháo đường là một trong những biến chứng
thường gặp, khởi phát bằng protein niệu, là nguyên nhân thường gặp nhất gây
suy thận giai đoạn cuối. Với người đái tháo đường typ 1, mười năm sau khi
biểu hiện bệnh thận rõ ràng, 50% tiến triển đến suy thận giai đoạn cuối và sau
20 năm sẽ có khoảng 75% số bệnh nhân trên cần chạy thận lọc máu chu kỳ.

 Bệnh lý mắt ở bệnh nhân ĐTĐ.
Đục thuỷ tinh thể là tổn thương thường gặp ở bệnh nhân đái tháo đường,
có vẻ tương quan với thời gian mắc bệnh và mức độ tăng đường huyết kéo
dài.Bệnh lý võng mạc đái tháo đường là nguyên nhân hàng đầu của mù ở
người 20 - 60 tuổi. Sau 20 năm mắc bệnh, hầu hết bệnh nhân ĐTĐvà khoảng
60% bệnh nhân ĐTĐtyp 2 có bệnh lý võng mạc do đái tháo đường.

 Bệnh lý thần kinh do ĐTĐ.
Bệnh thần kinh do ĐTĐ gặp khá phổ biến, ướctính khoảng30% bệnh
nhân ĐTĐ có biểu hiện biến chứng này. Ngườibệnh ĐTĐtype 2 thường có
biểu hiện thần kinh ngay tại thời điểm chẩn đoán.
Bệnh thần kinh do ĐTĐ thường được phân chia thành các hội chứng lớn
sau: Viêm đa dây thần kinh, bệnh đơn dây thần kinh, bệnh thần kinh thực vật,
bệnh thần kinh vận động gốcchi.

 Một số biến chứng khác.

- Bệnh lý bàn chân: Do sự phối hợp của tổn thương mạch máu, thần kinh
ngoại vi và cơ địa dễ nhiễm khuẩn do glucose máu tăng cao. Một thông báo


8
của WHO tháng 3 - 2005 cho thấy có tới 15% số người mắc bệnh ĐTĐ có
liên quan đến bệnh lý bàn chân, 20% số người phải nhập viện do nguyên nhân
bị loét chân. Bệnh nhân ĐTĐ phải cắt cụt chi dưới nhiều gấp 15 lần so với
người không bị ĐTĐ, chiếm 45 - 70% tổng số các trường hợp cắt cụt chân
[17]. Tỷ lệ cắt cụt của người bị biến chứng bàn chân ĐTĐ của Việt Nam cũng
khá cao, khoảng 40% tổng số người có bệnh lý bàn chân ĐTĐ[18].
- Nhiễm khuẩn: Bệnh nhân bị ĐTĐ thường nhạy cảm với tất cả các loại
nhiễm khuẩn do có nhiều yếu tố thuận lợi. Có thể gặp nhiễm khuẩn ở nhiều cơ
quan như: viêm đường tiết niệu, viêm răng lợi, viêm tủy xương, viêm túi mật
sinh hơi, nhiễm nấm … [19].
1.1.7. Phương pháp điều trị đái tháo đường type 2

Hình 1.1: Lựa chọn thuốc và phương pháo điều trị ĐTĐ type2


9
1.1.8. Các yếu tố liên quan đến bệnh ĐTĐ type 2.
1.1.8.1. Các yếu tố liên quan không thay đổi được.
- Dân tộc/chủng tộc: Mỗi chủng tộc người có tính nhạy cảm với ĐTĐ
type 2 khác nhau. Tần suất mắc ĐTĐ ở người Ấn gốc Á cũng cao hơn người
bản xứ ở Anh, Fiji, Nam Phi và trong vùng Caribê, những người bản xứ
Hawaii và Maori có tần suất ĐTĐ cao hơn những chủng tộc khác[20].
- Gia đình: ĐTĐ type 2 thường có liên quan đến tiền sử gia đình mắc
ĐTĐ. Nghiên cứu trên 573 người Bahrain từ 20 tuổi trở lên F.I. Zurba nhận
thấy có đến 41,7% trường hợp ĐTĐ có tiền sử gia đình có người mắc ĐTĐ,

trong khi đó ở nhóm người không mắc ĐTĐ tỷ lệ gia đình có người mắc ĐTĐ
chỉ từ 16% - 23,3% [21].
- Di truyền: ĐTĐ type 2 xảy ra trên anh em sinh đôi đồng hợp tử nhiều
hơn anh em sinh đôi dị hợp tử, điều này chứng tỏ yếu tố di truyền có vai trò quan
trọng trong việc quyết định tính nhạy cảm đối với bệnh ĐTĐ type 2 [11].
- Tuổi: tỷ lệ hiện mắc ĐTĐ type 2 tăng dần theo tuổi. Ở nhóm dân có tỷ
lệ mới mắc cao thì tỷ lệ hiện mắc ĐTĐ type 2 cao nhất ở nhóm người trẻ (2035 tuổi); trong khi ở các nhóm người khác tỷ lệ mới mắc và tỷ lệ hiện mắc cao
nhất ở lứa tuổi lớn hơn (55-74 tuổi). Nhìn chung tỷ lệ hiện mắc ĐTĐ type 2
giảm ở những người trên 75 tuổi do tỷ lệ tử vong cao ở nhóm người này. Ở
các nước đang phát triển, do tình trạng dân số trẻ hóa nên có nhiều trường hợp
ĐTĐ type 2 xảy ra ở lứa tuổi trẻ và trung niên[22].
- Sự phát triển của thai nhi: có mối liên quan giữa trọng lượng lúc sinh
và chuyển hóa glucose-insulin bất thường về sau. Những trẻ do mẹ mắc bệnh
ĐTĐ sinh ra thì có nguy cơ mắc ĐTĐ về sau gấp 3 lần những trẻ được sinh
trước khi mẹ mắc ĐTĐ. ĐTĐ xảy ra sớm ở những người có mẹ mắc ĐTĐ và
làm gia tăng hơn nữa nguy cơ mắc ĐTĐ cho những thế hệ tiếp theo[23].


10
1.1.8.2. Các yếu tố liên quan có thể thay đổi được.
- Béo phì:Là một đặc điểm thường đi kèm trong ĐTĐ type 2 và là một
yếu tố nguy cơ của tiền ĐTĐ type 2. Béo phì đã tăng nhanh ở nhiều nhóm dân
cư trong vài năm gần đây do hậu quả của sự tác động qua lại giữa yếu tố di
truyền và môi trường bao gồm: Rối loạn chuyển hóa, ít hoạt động thể lực, ăn
quá nhiều so với nhu cầu... Nhiều nghiên cứu cho thấy nguy cơ mắc ĐTĐtype
2 thấp nhất ở những người có BMI < 21 [24],[25]. Hơn nữa, béo phì là yếu tố
thuận lợi góp phần làm THA, tăng cholesterol máu, hạ thấp nồng độ HDL.C
và làm tăng glucose máu [26].
- Ít hoạt động thể lực: Nhiều nghiên cứu cho thấy tầm quan trọng của
việc không hoạt động thể lực trong việc hình thành tiền ĐTĐ type 2, lối sống

tĩnh tại đã kéo theo sự gia tăng tương ứng tỷ lệ béo phì. Không hoạt động là
nguyên nhân chính của bệnh tim mạch, bệnh mạch vành và tử vong, người
không hoạt động thể lực có khả năng dễ phát triển bệnh tim gấp đôi những
người có nhiều hoạt động[27].Vận động thể lực làm tăng nhạy cảm insulin và
dung nạp glucose. Đối tượng có tiền sử gia đình, bằng việc tập luyện và có lối
sống lành mạnh sẽ làm chậm lại, thậm chí phòng ngừa được sự khởi phát của
ĐTĐ lâm sàng [28].
- Chế độ ăn: Chế độ tiết thực với tiêu thụ nhiều rau, trái cây, cá, thịt gia
cầm và ngũ cốc, làm giảm nguy cơ ĐTĐ type 2. Số lượng lẫn chất lượng của
chất béo đều ảnh hưởng đến chuyển hóa glucose và sự nhạy cảm insulin.
Thức ăn có nhiều chất béo gây rối loạn chuyển hóa glucose bằng nhiều cơ chế
khác nhau như giảm khả năng gắn insulin vào thụ thể, gây rối loạn vận
chuyển glucose, giảm tổng hợp glycogen và tích tụ triglyceride ở cơ vân
[29].Một số nghiên cứu cho thấy ăn nhiều carbohydrate làm tăng tần suất mắc
ĐTĐ. Đặc biệt có rất nhiều nghiên cứu chứng tỏ ăn nhiều carbohydrate làm
giảm HDL vàlàm gia tăng triacylglycerol. [30]. Mục tiêu được đề xuất là nên


11
thêm đường ít hơn 10% năng lượng hàng ngày [31]. Mặc khác, những nghiên
cứutrênnhiều mẫu động vật khác nhau cho thấy gia tăng tiêu thụ đường sẽ dẫn
đến tăng huyết áp ngay cả sau khi kiểm soát cân nặng [32]. Một phân tích gộp
88 nghiên cứu cho thấy rằng liên quan giữa thức uống có đường làm tăng cân
ảnh hưởng rất nhiều trên giới nữ [33].
- Rượu bia:Lượng lớn alcohol tiêu thụ làm giảm hấp thụ Glucose qua
trung gian insulin và RLDNG, có lẽ do tác dụng độc của rượu trực tiếp lên tế
bào đảo tụy hay ức chế sự tiết insulin và tăng đề kháng insulin. Hơn nữa,
dùng nhiều alcohol làm tăng BMI và nguy cơ khác của ĐTĐ trong khi uống
rượu ít hoặc vừa làm giảm các nguy cơ này [30].
- Rối loạn lipid máu:sự gia tăng acid béo tự do (FFAs) huyết tương

đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển ĐTĐ type 2 thông qua cơ chế gây
kháng insulin. ĐTĐ type 2 phát triển bởi vì tế bào tụy không tiết đủ insulin để
bù cho tình trạng kháng insulin càng ngày càng tiến triển. [34]. Tuy nhiên, gia
tăng nồng độ axít béo tự do góp phần gây rối loạn tiết insulin chỉ trên đối
tượng có nguy cơ cao[35].
- Tăng huyết áp: tăng huyết áp (THA) là một trong những yếu tố nguy
cơ gây bệnh ĐTĐ type 2. Khoảng 2/3 người bệnh ĐTĐ có THA. Cả hai bệnh
ĐTĐ và THA đều làm tăng nguy cơ nhồi máu cơ tim. Hội ĐTĐ và Viện Y tế
Quốc gia Mỹ đề nghị người mắc ĐTĐ nên giữ huyết áp dưới 130/80 mmHg
và nên kiểm tra huyết áp ít nhất2 đến 4 lần trong một năm [36].
- Thay đổi lối sống:thay đổi thói quen ăn uống, tập thể dục thể thao,
quản lýcân nặng, ngừng hút thuốc lá, không uống nhiều bia rượu.
- Thuốc lá:hút thuốc lá có liên hệ đến sự đề kháng insulin, là yếu tố
nguy cơ của ĐTĐ type 2 ở cả nam lẫn nữ. Nghiên cứu cho rằng thuốc lá tăng
70% nguy cơ của ĐTĐ type 2 và ích lợi của việc ngừng hút thuốc lá đối với
ĐTĐ type 2 chỉ có thể thấy sau 5 năm còn để đạt được giống như người không
hút thuốc bao giờ thì thời gian ngừng hút phải trên 20 năm [28].


12
- Stress: stress cấp rõ ràng là có liên quan đến đề kháng insulin, tuy
nhiên sự đề kháng trong trường hợp này có khả năng hồi phục. Các nhà
nghiên cứu cho rằng glucocorticoid gia tăng lúc bị stress có thể đóng góp vào
sự đề kháng insulin. Stress tác động đến sự đề kháng insulin trực tiếp hay gián
tiếp thông qua tương tác với leptin dẫn đến tăng nồng độ leptin máu và ức chế
hoạt động của leptin, thúc đẩy tình trạng đề kháng leptin, góp phần vào sự đề
kháng insulin [30].
1.1.9. Dự phòng bệnh đái tháo đường.
1.1.9.1. Các biện pháp phòng, chống ĐTĐ trên thế giới.
Cách ngăn chặn phát triển thành bệnh ĐTĐ type 2, ở người lớn được

chẩn đoán tiền ĐTĐ, nếu thực hiện việc thay đổi hành vi lối sống có thể
phòng tránh và làm chậm quá trình bệnh tiến triển lên thành ĐTĐ type 2. Kết
quả từ chương trình phòng chống bệnh ĐTĐ của cơ quan về dịch vụ sức khỏe
và con người Hoa Kỳ (HHS) tiến hành trên 3.000 người cho thấy giảm từ 5 7% kg cân nặng có thể làm giảm 58% nguy cơ bệnh tiến triển lên ĐTĐ type
2. Có thể giảm cân bằng cách ăn kiêng (giảm chất béo và lượng calo ăn vào)
cũng như tập thể dục với mức độ vừa phải tối thiểu 150 phút một tuần (hầu
hết những người tham gia nghiên cứu chọn đi bộ).
Năm 1989, Hội nghị Y tế toàn cầu lần thứ 42 đã kêu gọi thế giới hành
động về phòng và kiểm soát bệnh ĐTĐ theo khung của Nghị quyết
WHA42.36 [37]. Sau sự kiện này, nhằm hưởng ứng tích cực lời kêu gọi trên
thế giới đã diễn ra những hành động như “Tuyên bố the St. Vincent ở Châu
Âu năm 1994”, “Tuyên bố và kế hoạch hành động của khu vực Tây Thái Bình
Dương năm 2000” tương tự là “Tuyên bố và chiến lược của khu vực cận
Sahara năm 2008” và “Tuyên bố Kathmandu trong năm 2008” [38]. Nghị
quyết WHA 42.36 có thể nói đã mở đầu cho sự phát triển của Chương trình
Phòng chống ĐTĐ ở cấp độ quốc gia. Các chương trình này ở mỗi nước là


13
phương tiện cho các quốc gia phân bổ nguồn lực một cách rõ ràng để ngăn
ngừa bệnh ĐTĐ và chăm sóc cho người bị ĐTĐ, có thể được xem như là một
cam kết của các nước để phòng chống bệnh ĐTĐ[38].
Vào năm 2006, Liên hợp quốc (UN) đã công bố Nghị quyết UN61/225
về phòng chống ĐTĐ với thông điệp kêu gọi: “Các nước thành viên xây dựng
chính sách quốc gia để điều trị, phòng chống và chăm sóc của bệnh ĐTĐ phù
hợp với sự phát triển bền vững của hệ thống chăm sóc sức khỏe của họ, tiến
đến thống nhất mục tiêu phát triển quốc tế bao gồm cả các mục tiêu phát triển
thiên niên kỷ”.
Liên đoàn ĐTĐ Quốc tế (IDF) đang phát triển mô hình hữu ích để hỗ trợ
các nước cần thiết kế một chương trình phòng chống bệnh ĐTĐ quốc gia.

Theo IDF, một thiết kế chương trình phòng chống ĐTĐ quốc gia phải bao gồm
những mục tiêu là nâng cao nhận thức cộng đồng xúc tiến quốc gia, truyền thông
và giáo dục; phòng ngừa cấp 1 nhằm giảm tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ; thay đổi hành vi
và điều trị nhằm phát hiện sớm bệnh làm giảm biến chứng, tử vong.
Mặc dù thay đổi lối sống có hiệu quả cao để phòng ngừa TĐTĐ - ĐTĐ
type 2, trong thời gian qua đã có một số khuyến cáo can thiệp bằng thuốc để
phòng ngừa TĐTĐ - ĐTĐ type 2. Vào thập niên 80, thuốc được sử dụng
Sulphonylurea, Tolbutamide cho những người có rối loạn dung nạp glucose.
Những năm gần đây Metformin, thuốc ức chế glucosidase là Acarbose, chất
ức chế lipase dạ dày ruột là Orlistat và Thiazolidinediones (TZDs) được
nghiên cứu điều trị TĐTĐ type2.
Căn cứ trên những nghiên cứu lâm sàng và những ý tưởng như sự dung
nạp và chi phí, Metformin được khuyến cáo là một lựa chọn điều trị nếu có
chỉ định điều trị TĐTĐ type 2 bằng thuốc. Đặc biệt, Metformin được chấp
nhận trên bệnh nhân dưới 60 tuổi với BMI từ 30 kg/m 2 trở lên căn cứ trên
những dữ liệu trong nghiên cứu của Chương trình Phòng ngừa ĐTĐ Mỹ.


14
Heikes K.E. (2008) đề nghị một công cụ sàng lọc không can thiệp TĐTĐ và
ĐTĐ chưa được chẩn đoán trong dân số Mỹ có 8 biến số bao gồm tuổi, vòng
bụng, yếu tố di truyền, chiều cao, dân tộc, tăng huyết áp, tiền sử gia đình và
tập thể dục[39].
Tóm lại, Liên đoàn ĐTĐ Quốc tế và các Hội ĐTĐ của nhiều nước trên
thế giới đang quan tâm đặc biệt đến bệnh tiền ĐTĐ, ĐTĐ type 2 và nỗ lực
can thiệp nhằm giảm tỷ lệ mắc bệnh nâng cao sức khỏe cộng đồng.
1.1.9.2. Các biện pháp phòng, chống ĐTĐ ở Việt Nam.
Hiện, cả nước có trên 2 triệu người mắc ĐTĐ type 2, 3% dân số. Còn theo
kết quả một cuộc điều tra sơ bộ mới đây tại Hà Nội, Thái Nguyên, Thái Bình,
Nghệ An, có tới 16,3% số người từ 25 tuổi trở lên mắc bệnh tăng huyết áp. Vì

thế, việc cần làm trước mắt là phải đánh giá và sàng lọc những đối tượng có
nguy cơ cao tại cộng đồng và cơ sở y tế nhằm phát hiện sớm những người mắc
bệnh không lây nhiễm; tập trung xây dựng các mô hình trọng điểm về phòng
chống bệnh không lây nhiễm dựa vào cộng đồng.
ĐTĐ là căn bệnh nguy hiểm đến tính mạng con người và gây nhiều tổn
thất kinh tế cho xã hội do chi phí điều trị rất cao. Bệnh ĐTĐ, trong đó chủ yếu
là ĐTĐ type 2 với 85- 95%. Đây là bệnh do tác động qua lại của cả 2 yếu tố là
di truyền và môi trường. Một hướng phòng chống bệnh được chú ý là việc can
thiệp lối sống cộng đồng, thay đổi hành vi ăn uống sinh hoạt (thay đổi chế độ
ăn thừa đạm, mỡ, chất béo bằng sinh hoạt ăn, ngủ điều độ, vận động thể lực
hợp lý) được coi là giải pháp dự phòng hiệu quả, ngăn ngừa tình trạng gia tăng
tỷ lệ người mắc ĐTĐ hiện nay.
Tình hình quản lý bệnh ĐTĐ ở nước ta còn nhiều hạn chế, mạng lưới y
tế quản lý bệnh ĐTĐ chưa phủ khắp toàn quốc, mà mới tập trung ở một vài
trung tâm y tế lớn của quốc gia; số cán bộ có khả năng khám và điều trị bệnh
ĐTĐ còn thiếu về mặt số lượng và hạn chế về mặt kiến thức; trang bị để chẩn


15
đoán và theo dõi bệnh nhân còn lạc hậu; bệnh nhân thường được chẩn đoán ở
giai đoạn muộn và nhiều biến chứng. Một nghiên cứu ở Yên Bái tỷ lệ bệnh
ĐTĐ lần lượt 69,7%; 80,6% không được phát hiện và điều trị; Tại Nghệ An tỷ
lệ bệnh ĐTĐ 69,7%; có 64% không được phát hiện và điều trị [40]. Nhận
thức của cộng đồng về bệnh ĐTĐ và phòng bệnh còn nhiều hạn chế. Người
mắc bệnh ĐTĐ còn bi quan trong điều trị do thấy rằng điều trị ít có hiệu quả.
Những người có yếu tố nguy cơ thì không biết những nguy cơ mắc bệnh của
mình cũng như kiến thức về phòng bệnh[41].
Theo nghiên cứu của Nguyễn Văn Lành, Nguyễn Văn Tập và cộng sự
được làm năm 2012 – 2013 để đánh giá hiệu quả một số biện pháp can thiệp
cộng đồng phòng, chống đái tháo dường ở người Khmer từ 45 tuổi trở lên tại

tỉnh Hậu Giang thì có kết quả tương đối khả quan. Sau can thiệp, hiểu biết
yếu tố nguy cơ về bệnh ĐTĐ tăng lên với hiệu quả can thiệp (HQCT) là
43,8%; hiểu biết về khám phát hiện bệnh - HQCT 11,9%; biết cách phòng
chống bệnh - HQCT 5,5%; hạn chế ăn ngọt - HQCT 35,3%; hạn chế ăn mỡ HQCT 43,2%; hạn chế ăn chất béo - HQCT 0,2%; tăng cường ăn rau, trái cây
- HQCT 63,4%, hạn chế ăn sau 20 giờ - HQCT 27,7%. Kết quả cũng cho
thấy: Giảm tỷ lệ hiện mắc ĐTĐ của nhóm can thiệp (12,3% giảm xuống
9,9%) với HQCT là 13,1%. Giảm tỷ lệ hiện mắc tiền ĐTĐ của nhóm can
thiệp (22,3% giảm xuống 12,5%), HQCT là 38,4%. Trạm y tế xã có khả năng
thực hiện có kết quả phòng, chống ĐTĐ cho người dân tộc Khmer với nguồn
lực huy động tại cộng đồng [42].
Một nghiên cứu khác được thực hiện năm 2014, tác giả Bùi Công Đức
và các cộng sự đã so sánh kiến thức, thái độ, thực hành của người dân phường
Phú Diễn – Hà Nội trước và sau can thiệp bằng hoạt động truyền thông. Kết
quả cho thấy sự thay đổi đáng kể về kiến thức của người dân về bệnh ĐTĐ,
100% bệnh nhân sau tuyên truyền biết được ít nhất một yếu tố nguy cơ hoặc


16
một biện pháp dự phòng bệnh. Hầu hết thái độ của người dân cho rằng ĐTĐ
là bệnh nguy hiểm và cần có biện pháp ăn uống và hoạt động thể lực hợp lý
để phòng bệnh. Ý thức của người dân ăn các loại thực phẩm có lợi cho sức
khỏe (dầu thực vật, thịt gia cầm bỏ da, cá, rau) và tăng cường hoạt động thể
lực được nâng lên sau 06 tháng tuyên truyền [43].
Chương trình phòng chống một số bệnh không lây nhiễm giai đoạn 2002
- 2010, có đề cập đến mục tiêu giảm tỷ lệ mắc, biến chứng và tử vong của
bệnh ĐTĐ. Để chống bệnh ĐTĐ có hiệu quả, không thể chỉ trông chờ vào cơ
quan y tế, vào kỹ thuật tiên tiến, mà toàn xã hội phải tự thấy có trách nhiệm,
từ việc tuyên truyền giáo dục, đến việc cải tiến công nghệ thực phẩm, thay đổi
lối sống, thực hiện chế độ ăn uống hợp lý kết hợp với gia tăng vận động. Điều
này không chỉ để phòng bệnh ĐTĐ mà còn góp phần vào việc phòng ngừa các

bệnh mạn tính không lây khác (bệnh tăng huyết áp, ung thư, tim mạch,...) và
giúp nâng cao chất lượng cuộc sống của cộng đồng.
Không những thế, chưa có nghiên cứu nào đánh giá hiệu quả việc truyền
thông giáo dục sức khỏe cho người dân, nâng cao kiến thức cũng như cải
thiện được tình trạng bệnh lý tại địa bàn huyện Thạch Thất nói riêng và thành
phố Hà Nội nói chung.
Bên cạnh rất nhiều những công trình nghiên cứu dịch tễ học có rất ít
nghiên cứu công bố về kết quả can thiệp tại Việt Nam. Nghiên cứu của Tạ
Văn Bình và cs (2004) trên đối tượng mắc bệnh ĐTĐ cho kết quả có sự thay
đổi tích cực về kiến thức, thái độ, hành vi tự chăm sóc sau khi được giáo dục
[44]. Tác giả Nguyễn Vinh Quang (2007) nghiên cứu hiệu quả can thiệp trên
cộng đồng tại Nam Định, Thái Bình từ năm 2002 đến 2004 cho thấy có sự
thay đổi theo chiều hướng tích cực về nhận thức và hành vi, giảm tỷ lệ tiến
triển từ TĐTĐ sang ĐTĐ, giảm chỉ số BMI và HbA1c sau can thiệp 18 tháng [45].


17
1.1.10. Các công trình nghiên cứu về Đái tháo đường
1.1.10.1. Tình hình nghiên cứu về ĐTĐ trên thế giới.
Theo thông báo của Tổ chức Y tế thế giới, tốc độ phát triển của bệnh
ĐTĐ tăng nhanh trong những năm qua.ĐTĐtype 2 đang là một cuộc khủng
hoảng trên toàn cầu đe dọa sức khỏe và kinh tế cho tất cả các quốc gia, đặc
biệt là những nước phát triển. Nguyên nhân đầu tiên của sự gia tăng bệnh
ĐTĐ trong cộng đồng là do tình trạng đô thị hóa nhanh chóng, thay đổi tình
trạng dinh dưỡng và gia tăng lối sống tĩnh tại. Sự gia tăng bệnh ĐTĐ ở Châu
Á được đặc trưng là mức BMI thấp và trẻ tuổi so với dân số da trắng [46],
[47]. Nghiên cứu Frank B. cho thấy dinh dưỡng kém trong tử cung và trong
thời thơ ấu cùng với dinh dưỡng dư thừa trong cuộc sống sau này có thể góp
phần vào sự gia tăng bệnh ĐTĐ hiện tại trong dân số Châu Á[46].
Bảng 1.1. Mười quốc gia có số người mắc bệnh ĐTĐ cao nhất năm 2000

và ước tính năm 2003 [48]
Năm 2000
Số người mắc
STT
Quốc gia
bệnh ĐTĐ
(Triệu người)
1
Ấn Độ
31,7
2
Trung Quốc
20,8
3
Mỹ
17,7
4
Indonesia
8,4
5
Nhật Bản
6,8
6
Pakistan
5,2
7
Nga
4,6
8
Brazil

4,6
9
Ý
4,3
10 Bangladesh
3,2

Năm 2030
Số người mắc
Quốc gia
bệnh ĐTĐ
(Triệu người)
Ấn Độ
79,4
Trung Quốc
42,3
Mỹ
30,3
Indonesia
21,3
Pakistan
13,9
Brazil
11,3
Bangladesh
11,1
Nhật Bản
8,9
Philippines
7,8

Ai Cập
6,7

Tỷ lệ mắc tiền ĐTĐ - ĐTĐ thay đổi nhiều theo từng nghiên cứu, một
phần do tiêu chuẩn chẩn đoán ĐTĐ thay đổi từ mức 140 mg/dl (7,8 mmol/l)


18
xuống mức 126 mg/dl (7,0 mmol/l) và tiêu chuẩn chẩn đoán TĐTĐ từ 110
mg/dl (6,1 mmol/l) xuống 100 mg/dl (5,6 mmol/l) nhưng cũng do tỷ lệ TĐTĐ
– ĐTĐ gia tăng trong cộng đồng.
Tình hình ĐTĐ trên thế giới gia tăng rất nhanh theo Liên đoàn ĐTĐ
Quốc tế, bệnh ĐTĐ hiện nay trên thế giới khoảng 285 triệu người và ước tính
sẽ tăng nhanh trong những năm tới, dự đoán đến năm 2030 có khoảng 438
triệu người mắc bệnh ĐTĐ. Điều đáng quan tâm là tỷ lệ mắc bệnh gặp nhiều
ở các nước có thu nhập từ thấp đến trung bình với 2/3 trường hợp ĐTĐ xảy ra
ở những nước có thu nhập từ thấp đến trung bình. Năm 2010, số người giảm
dung nạp glucose khoảng 344 triệu người, dự đoán con số này tăng lên
khoảng 472 triệu người vào năm 2030 [46]. Đối với bệnh ĐTĐ ngày nay khi
phát hiện thì bệnh nhân đã có rất nhiều biến chứng, thực tế cho thấy khi phát
hiện bệnh ĐTĐ trên 50% bệnh nhân này đã có biến chứng tim mạch. Điều đó
chứng tỏ biến chứng trên bệnh nhân ĐTĐ đã xảy ra khi bệnh nhân ở giai đoạn
tiền ĐTĐ, chưa có triệu chứng lâm sàng [49].
Tại Mỹ, năm 2010, khoảng 1,9 triệu người Mỹ được lần đầu tiên chẩn
đoán ĐTĐ. Năm 2011, số người mắc bệnh ĐTĐ rất cao khoảng 26 triệu người
tương đương 8,3% trong tổng số người Mỹ mắc ĐTĐ và khoảng 79 triệu
người trưởng thành mắc TĐTĐ tương đương 11,3% tuổi từ 20 trở lên.
Khoảng 27% người bệnh ĐTĐ tương đương 7 triệu người Mỹ không biết là
họ bị bệnh [50].Nghiên cứu của Chương trình Phòng ngừa ĐTĐ Mỹ cho thấy
rằng một chế độ ăn kỹ lưỡng và can thiệp tập luyện làm giảm xảy ra ĐTĐ

type2 khoảng 58% trong số 1.079 người với GDNG được theo dõi trong 2,8
năm và so sánh với nhóm chứng chỉ thực hiện lời khuyên thay đổi lối sống và
giả dược [51].
Vùng Đông Nam Á có tỷ lệ rối loạn glucose lúc đói cao nhất vào năm
2003, và tỷ lệ rối loạn glucose lúc đói sẽ là 13,5% vào 2025. Khoảng 15%


19
người ở vùng khác sẽ bị ĐTĐ hoặc rối loạn glucose lúc đói vào năm 2025.
Khoảng 2% đến 14% (trung bình khoảng 5%) người có rối loạn glucose lúc
đói tiến triển thành ĐTĐ type 2 mỗi năm [52]. Linstrom J. nghiên cứu thuần
tập trên 4.435 đối tượng, dùng thang điểm có 7 biến số: tuổi, BMI, vòng
bụng, đã hoặc đang dùng thuốc hạ huyết áp, tiền sử tăng glucose máu, vận
động thể lực dưới 4 giờ/tuần, và tiết thực nhiều rau, quả. Thời gian theo dõi5
năm cho kết quả với số điểm trên 9 test này có độ nhạy là 0,78 và 0,81; độ đặc
hiệu là 0,77 và 0,76; giá trị tiên đoán dương là 0,13 và 0,05 [53].
Nghiên cứu ở Da Qing, Trung Quốc (1997 – 2003) trên 110.660 đối
tượng từ 33 trung tâm y tế được sàng lọc bằng nghiệm pháp dung nạp glucose
tìm ra 577 đối tượng đạt tiêu chuẩn giảm dung nạp glucose theo tiêu chuẩn
của TCYTTG, và được chia làm 3 nhóm can thiệp gồm chế độ ăn, vận động
thể lực và cả hai yếu tố trên. Nghiên cứu sau 6 năm can thiệp dự phòng đã
giảm nguy cơ tiến triển thành ĐTĐ type 2 ở cả 3 nhóm lần lượt là 31%, 46%
và 42%[54].
Nghiên cứu phòng ngừa ĐTĐ ở Phần Lan (2003) trên 522 người trung
niên thừa cân có GDNG, mục tiêu của nhóm can thiệp là làm giảm cân, giảm
chế độ ăn nhiều mỡ, tăng vận động thể lực và ăn nhiều chất xơ. Kết quả có
cải thiện đáng kể từng mục tiêu can thiệp sau 1 đến 3 năm, cân nặng giảm 4,5
kg (sau 1 năm) và 3,5kg (sau 3 năm) và ở nhóm chứng là 1,0 kg và 0,9 kg.
Sau một năm can thiệp có sự cải thiện đáng kể về lâm sàng và các chỉ số về
chuyển hóa. Chỉ số glucose máu giảm ở nhóm rối loạn glucose lúc đói (-0,2

so với 0,3 mmol/l), và chỉ số HbA1c (-0,1% so với 0,1%)[55].
Nhìn chung, thay đổi lối sống là bảo đảm và rất hiệu quả để phòng ngừa
ĐTĐ type 2 và làm giảm nguy cơ tim mạch ở những người bị TĐTĐ type 2
[56]. Những nghiên cứu trên chứng minh rằng TĐTĐ – ĐTĐ type 2 có thể
phòng ngừa được bằng thay đổi lối sống hoặc bằng thuốc.
Theo một nghiên cứu tại Campuchia (2005) ở lứa tuổi từ 25 tuổi trở lên
mắc ĐTĐ tại Siemreap là 5% và ở Kampomg Cham là 11% [57].


20
1.1.10.2. Tình hình nghiên cứu ĐTĐ ở Việt Nam.
Ở Việt Nam, sau nhiều năm đổi mới, kinh tế tăng trưởng nhanh đã phần
nào cải thiện cuộc sống và sức khoẻ cộng đồng.Song chúng ta nhận thấy rằng
sự biến đổi sâu sắc trong lối sống, đặc biệt của cư dân các đô thị như Hà Nội,
Thành phố Hồ Chí Minh. Xe máy, ô tô gần như đã thay thế xe đạp, các công
việc cần đến sức cơ bắp đã có đội ngũ người giúp việc làm thay. Mất cân bằng
trong việc nhận năng lượng và tiêu thụ năng lượng là yếu tố nguy cơ cho các
bệnh béo phì, tăng huyết áp, tăng mỡ máu vàbệnh ĐTĐ phát triển.
Theo Nguyễn Huy Cường, năm 1999 – 2001, đã tiến hành điều tra 3.555
người từ 15 tuổi trở lên với xét nghiệm glucose mao mạch lúc 17 giờ có trị số
trên 105 mg/dl rồi tiếp tục làm nghiệm pháp dung nạp glucose ghi nhận tỷ lệ
mắc bệnh ĐTĐ chung ở nội và ngoại thành Hà Nội là 2,42%. Trong đó 64%
mới phát hiện, tỷ lệ nội thành là 4,31% và ngoại thành là 0,61% và GDNG ở
nội thành là 3,27% và ngoại thành là 1,56% [58]. Nguyễn Hứa Quang,
Nguyễn Hải Thủy (2004 – 2005) nghiên cứu trên 101 đối tượng từ 40 tuổi trở
lên là con của bệnh nhân ĐTĐ type 2. Các đối tượng được tiến hành làm
nghiệm pháp dung nạp glucose ghi nhận tỷ lệ tăng glucose máu là 36,63%,
trong đó ĐTĐ là 18,81% và GDNG là 17,82%. Tỷ lệ này cao hơn trong các
nghiên cứu trong cộng đồng cùng độ tuổi[59].
Từ năm 2003 đến năm 2009 có nhiều công trình điều tra dịch tễ học

ĐTĐ trong nước trên nhiều tỉnh thành cho nhiều kết quả khác nhau. Theo điều
tra ĐTĐ toàn quốc cuối năm 2008, tỷ lệ mắc ĐTĐ tăng gần gấp đôi năm 2002
(5,0% so với 2,7%) và tỷ lệ này tăng nhanh ở các thành phố lớn (4,0% năm
2000 so với 7,2% năm 2008) [60]. Tại Trà Vinh, nghiên cứu năm 2004 cho kết
quả tỷ lệ bệnh ĐTĐ ở người trên 35 tuổi là 3,7% [61].
Năm2002,theođiềutratrênphạmvitoànquốcởlứatuổitừ30 -64củaBệnh viện
Nội tiết Trung ương, tỷ lệ mắc ĐTĐchung cho cả nước là 2,7%,ở các thành phố


21
4,4%, vùng đồng bằng ven biển 2,2% và miền núi 2,1%[4]. Một nghiên cứu
được tiến hành trên 2394 đối tượng từ 30 - 64 tuổi đang sinh sống tại 4 thành
phố lớn là Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh thấy rằng
tỷ lệ mắc ĐTĐlà 4,6% - 4,9% [15]. Đa số bệnh nhân ĐTĐ không được chẩn
đoán và điềutrị.
Theo nghiên cứu của Đặng Thị Ngọc - Đỗ Trung Quân tại bệnh viện
Bạch Mai, tỷ lệ ĐTĐtype 2 chiếm 81,5%; tỷ lệ ĐTĐtype 1 chiếm 18,5%; tỷ lệ
nữ chiếm 61,2%; tỷ lệ nam chiếm 38,8% [62]. Nghiên cứu của Lê Minh Sứ
tại Thanh Hóa; Vũ Huy Chiến tại Thái Bình, Hồ Văn Hiệu tại Nghệ An cho tỷ
lệ mắc ĐTĐ lần lượt là 4%; 4,3% và 3% [63],[64],[65].
Tại tỉnh Hậu Giang, năm 2009, nghiên cứu tỷ lệ bệnh ĐTĐ lứa tuổi từ 40
– 69 tuổi là 9,8% và ở nhóm dân tộc khác là 11,8% [66]. Theo Trần Minh
Long và cộng sự (2010) nghiên cứu tại Nghệ An, tỷ lệ ĐTĐtype 2 ở người từ
30 – 69 tuổi là 9,37% và tỷ lệ tiền ĐTĐ là 17,97% [67]. Tại Trà Vinh, Cao Mỹ
Phượng năm 2012 nghiên cứu về bệnh ĐTĐ đã cho kết quả tỷ lệ bệnh ĐTĐ
tương đương ở người trên 45 tuổi là 9,5% và tiền ĐTĐ có tỷ lệ cao hơn 19,3%
[68]. Nghiên cứu của Ngô Thanh Nguyên và cs (2012), nghiên cứu tình hình
ĐTĐ ở đối tượng từ 30 tuổi trở lên tại thành phố Biên Hòa năm 2011 cho thấy
tỷ lệ mắc ĐTĐ người 30 trở lên là 8,1%, trong đó nữ là 51,9% và nam là
48,1% [69]. Những công trình điều tra dịch tễ trên cho tỷ lệ mắc tiền ĐTĐ,

ĐTĐ không giống nhau do đối tượng nghiên cứu khác nhau, thời điểm khác
nhau và tiêu chuẩn chẩn đoán thayđổi.
Một nghiên cứu được thực hiện trên 2402 người dân từ 30-69 tuổi sống
tại Hà Nội năm 2014 của Hoàng Đức Hạnh đã cho kết quả tỷ lệ hiện mắc
bệnh ĐTĐ là 7,9% (nội thành: 9,2%; ngoại thành: 7,3%). Tỷ lệ mắc bệnh
ĐTĐ tăng dần theo tuổi, cao nhất ở nhóm tuổi 60-69 (12,4%); tỷ lệ mắc bệnh
ĐTĐ ở nam cao hơn nữ (8,6% và 7,5%). Tỷ lệ hiện mắc tiền ĐTĐ là 27,4%;


22
(nội thành: 27,7%; ngoại thành: 27,0%; nữ 30,3%; nam 24,3%). Tỷ lệ người
bệnh mắc bệnh ĐTĐ trong cộng đồng không được phát hiện lên tới 61,8%
(nội thành 50,0%; ngoại thành 74,5%). Tỷ lệ hiện mắc bệnh ĐTĐ tuýp 2 và
tiền ĐTĐ của người dân Hà Nội từ 30 – 69 tuổi, năm 2014 cao hơn so với tỷ
lệ chung trên toàn quốc [70].
1.1.10.3. Các nghiên cứu kiến thức của người dân về bệnh ĐTĐ.
Nghiên cứu của Nguyễn Trung Kiên, Lưu Thị Hồng Vân trên 130 bệnh
nhân của Bệnh viện Đa khoa huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu cho thấy tỷ lệ
người bệnh có kiến thức tốt về các yếu tố nguy cơ, triệu chứng, chế độ dinh
dưỡng, chế độ luyện tập, dùng thuốc và các biến chứng của bệnh lần lượt là
30,0%; 68,46%; 16,15%; 88,46%; 95,38% và 23,08% [71].
Một nghiên cứu khác tại Hậu Giang năm 2011 của Trần Văn Hải trên
2400 đối tượng là người dân có độ tuổi từ 30 – 64 tuổi cho kế quả là: tỷ lệ
bệnh ĐTĐ là 10,3%. Có 25,9% đối tượng có kiến thức và thực hành đúng,
người có kiến thức đúng thì thực hành tốt hơn so với người không có kiến
thức đúng (54,8% so với 15,8%) [72].
Tại Thái Bình, tác giả Lã Ngọc Quang và Nguyễn Quốc Việt đã thực
hiện nghiên cứu trên 582 người dân trong độ tuổi 30-64 tuổi ở 22 xã vào
tháng 3 năm 2011 cho thấy kết quả có 6,7% hiện mắc ĐTĐ; có 50% đối tượng
không có kiến thức về nguy cơ của bệnh; 60% đối tượng được hỏi cho rằng

bệnh có thể chữa khỏi được [73].
Nghiên cứu của Võ Thị Kim Anh và cộng sự được thực hiện tại các cơ
sở y tế tư nhân tại tỉnh Bình Dương cho thấy kết quả 43,03% tổng số người
bệnh có kiến thức đúng về bệnh ĐTĐ, trong đó, người bệnh có kiến thức chưa
đúng thấp nhất liên quan đến kiến thức sử dụng thuốc hạ đường huyết
(39,3%) và nguy cơ mắc các bệnh khác của người bệnh ĐTĐ (43,53%). Tìm
thấy mối liên quan giữa kiến thức chung đúng và nhu cầu cung cấp thông tin,


23
tập thể dục thể thao, tham gia câulạ c bộ, đọc sách báo và giao lưu hàng xóm,
bạn bè [74].
Các nghiên cứu trên đây phần nào góp tiếng nói trong lãnh vực dịch tễ
học ĐTĐ và y học dự phòng. Tỷ lệ mắc TĐTĐ – ĐTĐ có vẻ rất khác nhau
giữa các vùng trong nước, tỷ lệ mắc TĐTĐ – ĐTĐ thay đổi nhiều theo từng
nghiên cứu có thể do đối tượng khác nhau, tiêu chuẩn chẩn đoán của TĐTĐ –
ĐTĐ thay đổi cùng với tình trạng đô thị hóa nhanh chóng, kinh tế xã hội phát
triển, lối sống tĩnh tại hưởng thụ dẫn đến con người tiếp xúc nhiều yếu tố
nguy cơ trong cộng đồng làm gia tăng tỷ lệ mắc bệnh TĐTĐ - ĐTĐ trong
những năm gần đây.
1.1.11. Một số đặc điểm của địa bàn nghiên cứu.

Hình 1.2 Bản đồ huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội
Huyện Thạch Thất nằm ở phía tây thành phố Hà Nội, là một vùng quê
bán sơn địa, núi đá vôi xen lẫn với đồng bằng.Hiện nay trên địa bàn huyện đã


24
và đang phát triển về kinh tế, xã hội nhanh chóng. Quá trình đô thị hóa đã
hiện hữu rất rõ ràng ở nơi đây: với một số khu đô thị cao cấp như: khu công

nghệ cao Hòa Lạc, khu đô thị sinh thái Xanh Villas… Với địa thế thuận lợi về
giao thông như có quốc lộ 21, một phần quốc lộ 32 và đại lộ Thăng Long đi
qua, huyện Thạch Thất đang phát triển hơn từng ngày.
Đi đôi với sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa thì kéo theo nhiều vấn đề
về sức khỏe, trong đó là các bệnh không truyền nhiễm nói chung và bệnh
ĐTĐ nói riêng. Trên địa bàn huyện có Bệnh viện đa khoa Thạch Thất chịu
trách nhiệm chăm sóc sức khỏe chính cho 189.527 người dân trên diện tích
đất là 184,6 km2. Hiện tại, Bệnh viện Đa khoa Thạch Thất có 230 giường với
công suất sử dụng đạt 121,5%, số giường thực kê là 374 giường với công suất
là 74,7%. Tổng số lượt bệnh nhân khám ngoại trú tính đến cuối năm 2016 là
59.754 lượt và 7.184 lượt điều trị nội trú. Riêng về bệnh nhân ĐTĐ thì bệnh
viện đang quản lý và điều trị hàng tháng cho hơn 1000 bệnh nhân. Tuy nhiên
về số lượng cán bộ chuyên trách của bệnh viện thì chỉ có 6 bác sỹ ( trong đó
có 2 bác sỹ y học cổ truyền, 2 bác sỹ chuyên khoa Nội, 2 người còn lại đang
đi học), 14 điều dưỡng viên[7]. Với lực lượng nhân viên mỏng cũng như số
lượng khám chữa bệnh cũng như quản lý bệnh nhân ĐTĐ đông sẽ gặp không
ít khó khăn trong hiệu quả điều trị bệnh. Bên cạnh đó, theo xu thế và nhịp độ
phát triển của xã hội thì ngày càng gia tăng bệnh ĐTĐ trong cộng đồng dân
cư. Bên cạnh đó, về phía bệnh viện chưa có nghiên cứu nào về thực trạng
bệnh ĐTĐ cũng như kiến thức của người dân về căn bệnh này. Do đó, chúng
tôi nghiên cứu đề tài này để hiểu rõ hơn thực trạng bệnh lý ĐTĐ hiện nay của
bệnh viện, cùng với đó là đánh giá hiệu quả của việc truyền thông giáo dục
sức khỏe trong điều trị bệnh, từ đó rút ra những giải pháp và những phương
án điều trị tốt nhất cho bệnh nhân.


25

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 8 năm 2017 đến tháng 7 năm 2018.
2.2. Địa điểm nghiên cứu
Khoa khám bệnh, Bệnh viện Đa khoa Thạch Thất.
2.3. Đối tượng nghiên cứu
Bệnh nhân khám chữa bệnh ngoại trú theo chương trình quản lý bệnh
ĐTĐ tại Phòng khám của bệnh viện Đa khoa Thạch Thất.
2.3.1. Tiêu chuẩn lựa chọn
- Bệnh nhân được chẩn đoán xác định mắc bệnh đái tháo đường khi có ít
nhất 1 trong 4 tiêu chuẩn theo Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị Đái tháo
đường typ2 của Bộ Y tế (ban hành kèm theo Quyết định số 3319/QĐ-BYT
ngày 19 tháng 7 năm 2017 của Bộ trưởng Bộ Y tế) dựa trên ADA 2015 [14]:
• Tiêu chuẩn 1: Glucose máu lúc đói ≥ 126mg/dL (7,0 mmol/L)
• Tiêu chuẩn 2: Glucose máu sau 2 giờ làm nghiệm pháp dung nạp 75g
glucose ≥ 200 mg/dL (11,1 mmol/L).
• Tiêu chuẩn 3: Glucose máu bất kỳ ≥ 200mg/dL (11,1 mmol/L) và có
các triệu chứng kinh điển của tăng đường huyết.
• Tiêu chuẩn 4: Nồng độ HbA1C ≥ 6,5%. (Xét nghiệm này phải được
thực hiện ở labo bằng phương pháp chuẩn theo chứng chỉ NGSP và tiêu chuẩn
để khảo nghiệm Kiểm soát tiểu đường và các biến chứng có thể). Do bệnh viện
chưa đủ điều kiện làm xét nghiệm này nên bỏ qua tiêu chuẩn trên đây.
- Đối tượng nghiên cứu có khả năng cung cấp đầy đủ thông tin, điều trị
ngoại trú hàng tháng bệnh đái tháo đường tại Bệnh viện đa khoa Thạch Thất.
- Không mắc các bệnh lý về tâm thần và thần kinh.
- Đồng ý tham gia nghiên cứu.


×