Tải bản đầy đủ (.docx) (96 trang)

Đặc điểm lâm sàng và một số yếu tố liên quan giai đoạn khởi phát của rối loạn loạn thần cấp và nhất thời ở bệnh nhân điều trị nội trú tại viện sức khỏe tâm thần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (923.04 KB, 96 trang )

1
ĐẶT VẤN ĐỀ

Rối loạn loạn thần cấp và nhất thời là một nhóm rối loạn không đồng
nhất, khởi phát cấp tính và phát triển đầy đủ dưới 2 tuần, với triệu chứng loạn
thần rõ rệt như hoang tưởng, ảo giác và các rối loạn hành vi tác phong [1].
Đây là một rối loạn tâm thần hay gặp. Theo hệ thống chẩn đoán và phân loại
các rối loạn tâm thần của Mỹ lần thứ 5 (DSM – V), tỷ lệ rối loạn loạn thần
cấp chiếm 9% trong các rối loạn loạn thần đầu tiên [2].
Theo nhiều nghiên cứu cho thấy có khoảng hơn 50% bệnh nhân rối
loạn loạn thần cấp và nhất thời tiến triển thành các rối loạn tâm thần mạn tính
như tâm thần phân liệt, rối loạn phân liệt cảm xúc, rối loạn hoang tưởng dai
dẳng, rối loạn cảm xúc lưỡng cực. Và có một tỷ lệ sẽ tái phát đợt loạn thần
cấp tương tự [3], [4], [5] . Bên cạnh đó, rối loạn này ảnh hưởng nhiều đến
chất lượng cuộc sống của người bệnh.
Theo Primer A. (2002) [6], rối loạn loạn thần cấp và nhất thời điển hình
diễn biến qua ba giai đoạn bao gồm giai đoạn khởi phát, giai đoạn toàn phát
và giai đoạn hồi phục. Trong giai đoạn khởi phát, người bệnh phải trải qua các
thay đổi về cảm xúc, tư duy, nhận thức và hành vi. Các triệu chứng này rất
phong phú và đa dạng nhưng mơ hồ dễ nhâm lẫn với các rối loạn khác như rối
loạn lo âu,…
Như vậy việc phát hiện các triệu chứng ở giai đoạn khởi phát của rối
loạn loạn thần cấp và nhất thời sẽ giúp các thầy thuốc lâm sàng phát hiện sớm
để có các can thiệp phù hợp.
Trong khi đó, ở Việt Nam chưa có công trình nào nghiên cứu về đặc
điểm khởi phát của RLLT cấp và nhất thời, cũng như các yếu tố liên quan đến
khởi phát bệnh để giúp cho các thầy thuốc chẩn đoán đúng, sớm hơn, nâng
cao hiệu quả điều trị và tiên lượng bệnh. Chính vì những lý do trên, chúng tôi


2


thực hiện đề tài: “Đặc điểm lâm sàng và một số yếu tố liên quan giai đoạn
khởi phát của rối loạn loạn thần cấp và nhất thời ở bệnh nhân điều trị nội
trú tại Viện Sức khỏe Tâm thần”. Với mục tiêu sau:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng giai đoạn khởi phát của rối loạn loạn thần cấp
và nhất thời ở bệnh nhân điều trị nội trú tại Viện Sức khỏe Tâm thần.
2. Nhận xét một số yếu tố liên quan đến khởi phát của rối loạn loạn thần
cấp và nhất thời.


3
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Đại cương về rối loạn loạn thần cấp và nhất thời
1.1.1. Khái niệm
Rối loạn loạn thần cấp và nhất thời được đề cập từ cuối thế kỷ thứ XIX,
có nhiều quan điểm phân loại khác nhau.
Ngày nay, “rối loạn loạn thần cấp và nhất thời” là một nhóm rối loạn
không đồng nhất, thường xuất hiện trong mối quan hệ chặt chẽ với hoàn cảnh
hay sự kiện gây sang chấn. Bệnh cảnh khởi đầu cấp tính, phát triển đầy đủ
dưới 2 tuần, các triệu chứng loạn thần rõ rệt như hoang tưởng, ảo giác, hành
vi tác phong bị rối loạn nặng. Các triệu chứng loạn thần phong phú, luôn biến
đổi và đa dạng [1].
Bệnh cảnh lâm sàng rối loạn loạn thần cấp và nhất thời có đặc điểm:
- Khởi đầu cấp, trong vòng hai tuần, là nét định nghĩa cho toàn nhóm.
- Có những hội chứng điển hình;
-

và có thể có sang chấn tâm lý kết hợp.


Khởi đầu cấp được định nghĩa như là một sự biến đổi từ một trạng thái
không có những nét loạn thần sang một trạng thái loạn thần rõ rệt trong vòng
hai tuần hay ngắn hơn.
Các hội chứng điển hình là trạng thái biến đổi nhanh chóng và phong phú
ở đây gọi là "đa dạng" được xem là nổi bật trong các trạng thái loạn thần cấp
Sang chấn tâm lý có thể kết hợp với loạn thần cấp. Tuy nhiên, nhiều
nghiên cứu cho thấy tỷ lệ kết hợp với sang chấn tâm lý thấp [7], [8].
Rối loạn loạn thần cấp và nhất thời bao gồm ba giai đoạn: giai đoạn
khởi phát, giai đoạn toàn phát và giai đoạn hồi phục. Trong giai đoạn khởi


4
phát, người bệnh xuất hiện các triệu chứng về cảm xúc, tư duy, nhận thức và
hành vi trước khi xuất hiện các triệu chứng loạn thần rõ ràng như hoang
tưởng, ảo giác và các rối loạn hành vi [6].
1.1.2. Lịch sử các quan niệm về rối loạn loạn thần cấp và nhất thời
Các rối loạn loạn thần cấp và nhất thời được biết từ lâu trong các bảng
phân loại khác nhau trên thế giới.
Vào thế kỷ thứ XIX, các nhà tâm thần học Đức đã miêu tả thuật ngữ
“akute primiare Veruckheit”, gọi là paranoia acuta (paranoid cấp) do Karl
Westphal. Vào năm 1876 (công bố năm 1878), Westphal sử dụng thuật ngữ
này để mô tả dạng cấp tính của paranoia với sự bùng nổ của ảo giác, hoang
tưởng. Năm 1890, Meynert nhắc lại mô tả lâm sàng này với tên là amentia (sự
ngu si). Năm 1911, Bleuler phân tách ra thuật ngữ tâm thần phân liệt cấp từ
thuật ngữ tâm thần phân liệt. Năm 1916, dựa theo bệnh học tâm thần của Karl
Jaspers, nhà tâm thần học Đan Mạch Wimmer miêu tả rối loạn tâm thần do
căn nguyên tâm lý như là loạn thần phản ứng phát sinh sau sang chấn tâm
thần. Năm 1933, Kasamin đã miêu tả “loạn thần phân liệt cảm xúc cấp”, đã
gia tăng câu hỏi mối liên quan giữa tâm thần phân liệt và các bệnh lý cảm
xúc. Sau khoảng 5 năm, Langfeld đã phân biệt tâm thần phân liệt và ông gọi

tên loạn thần dạng phân liệt, các nghiên cứu khác xuất hiện thuật ngữ ở DSMIV 295.40 – rối loạn dạng phân liệt hoặc rối loạn loạn thần cấp giống phân liệt
ở ICD-10 (F23.2). Năm 1961, Leonhard miêu tả thuật ngữ “loạn thần chu kỳ”
như là loạn thần nội sinh chia từ loạn thần phân liệt và từ hưng cảm và loạn
thần trầm cảm. Loạn thần chu kỳ có xu hướng lành tính và từng giai đoạn.
Tại Pháp, quan điểm của Bouffée délirance đưa tới một phân loại đặc
trưng của loạn thần cấp:
Năm 1895, Magnan và Legrain miêu tả Bouffée délirance hoặc délire
d’emblée (cơn hoang tưởng cấp) với các hoang tưởng đa dạng mạn tính. Năm


5
1954, Ey đã phát triển quan điểm Bouffée délirance và loạn thần cấp với các
hoang tưởng của Magnan thành chuyên đề ở hội nghị tâm thần học thế giới
lần thứ nhất [9].
Rối loạn loạn thần ngắn (Brief psychotic disorder) là một thuật ngữ
được sử dụng ở Hoa Kỳ từ DSM – IV (1952). Ngày nay, DSM – V (2013)
cũng để chỉ trạng thái rối loạn tâm thần cấp tính, diễn biến nhanh từ một ngày
đến một tháng. Rối loạn này có đặc điểm [2]:
- Khởi phát cấp tính kéo dài có thể một ngày nhưng dưới một tháng
- Lâm sàng biểu hiện các triệu chứng loạn thần như hoang tưởng, ảo
giác, các rối loạn hình thức tư duy (tư duy không liên quan, rời
rạc…) và các rối loạn hành vi hoặc căng trương lực.
- Rối loạn này không thỏa mãn tiêu chuẩn chẩn đoán các chẩn đoán
như rối loạn trầm cảm, rối loạn cảm xúc lưỡng cực, tâm thần phân
liệt,… Và không phải do tác dụng bệnh sinh của chất gây nghiện và
thuốc.
1.1.3. Chẩn đoán và phân loại
1.1.3.1. Chẩn đoán
Theo tiêu chuẩn chẩn đoán của bảng phân loại các rối loạn tâm thần và
hành vi thế giới lần thứ 10 với tiêu chuẩn chẩn đoán dành cho nghiên cứu

(1992) [7]:
G1. Có sự khởi phát cấp tính của hoang tưởng, ảo giác, ngôn ngữ
không thể hiểu được và không mạch lạc, hoặc bất cứ sự kết hợp nào của các
triệu chứng này. Khoảng thời gian giữa lần xuất hiện lần đầu tiên của bất cứ
các triệu chứng loạn thần nào và lúc biểu hiện đầy đủ toàn bộ rối loạn không
được vượt quá 2 tuần.
G2. Nếu có tình trạng nhất thời về sự nhận nhầm, bàng quang hoặc rối
loạn sự tập trung và chú ý thì chúng không đáp ứng đủ các tiêu chuẩn đối với


6
một tình trạng ý thức u ám do nguyên nhân thực tổn như đã được biệt định
trong mục F05-, tiêu chuẩn A.
G3. Rối loạn này không đáp ứng các tiêu chuẩn triệu chứng đối với một
giai đoạn hưng cảm(F30-), một giai đoạn trầm cảm (F32-) hoặc rối loạn trầm
cảm tái diễn (F33-).
G4. Không có đủ bằng chứng về việc sử dụng một chất tác động tâm
thần gần đây để đáp ứng đủ tiêu chuẩn đối với nhiễm độc cấp (F1x.0), sử
dụng gây hại (F1x.1), nghiện (F1x.2), hoặc các trạng thái cai (F1x.3 và
F1x.4). Sự sử dụng rượu hoặc ma túy liên tục ở liều lượng trung bình và hầu
như không đổi về khối lượng hoặc tần suất sử dụng ở mức làm bệnh nhân
quen với rượu hoặc ma túy thì không nhất thiết loại bỏ việc sử dụng mục F23.
G5. Các tiêu chuẩn loại trừ thường được sử dụng nhất, phải không có
rối loạn tâm thần thực tổn (F00-F09) hoặc các rối loạn chuyển hóa trầm trọng
ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương.
1.1.3.2. Phân loại
Trong phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 (1992), Rối loạn loạn thần cấp
và nhất thời được xếp vào mục F23. Trong đó lại phân chia thành các thể từ
F23.0 đến F23.9 [7], [8]:
 F23.0: rối loạn loạn thần cấp đa dạng không có triệu chứng của bệnh

tâm thần phân liệt, với đặc điểm:
- Khởi đầu phải cấp, từ trạng thái không loạn thần sang trạng thái loạn
thần rõ rệt trong vòng 2 tuần hay ngắn hơn.
- Phải có nhiều loại ảo giác hay hoang tưởng, thay đổi cả thể loại lẫn
cường độ, từ ngày này sang ngày khác hoặc trong cùng một ngày.
- Phải có một trạng thái cảm xúc thay đổi tương tự.
- Mặc dù có nhiều triệu chứng khác nhau, không một triệu chứng nào
xuất hiện đủ để trở thành tiêu chuẩn chẩn đoán của bệnh tâm thần phân liệt
(F20.-) hoặc giai đoạn hưng cảm (F30.-) hay trầm cảm (F32.-).


7
Như vậy, nét đặc trưng của thể này là bệnh cảnh biến đổi đa dạng và
không ổn định.
 F23.1 rối loạn loạn thần cấp đa dạng có triệu chứng của bệnh tâm thần
phân liệt, với đặc điểm:
- Khởi bệnh cấp trong vòng 2 tuần lễ hoặc ngắn hơn.
- Các triệu chứng đáp ứng tiêu chuẩn của rối loạn loạn thần cấp đa dạng
không có triệu chứng của bệnh tâm thần phân liệt (F23.0). Thêm vào đó, đáp
ứng các tiêu chuẩn của Tâm thần phân liệt (F20) phải xuất hiện đa số thời
gian từ khi hình thành một bệnh cảnh loạn thần rõ rệt.
- Nếu các triệu chứng phân liệt kéo dài hơn 1 tháng thì phải đổi mã chẩn
đoán tâm thần phân liệt (F20).
 Rối loạn loạn thần cấp giống phân liệt (F23.2): thể loại bao gồm “tâm
thần phân liệt cấp không biệt định”, “rối loạn dạng phân liệt ngắn”. “phản ứng
phân liệt”. Với đặc điểm:
- Khởi bệnh cấp trong vòng 2 tuần lễ hoặc ngắn hơn.
- Các triệu chứng đáp ứng tiêu chuẩn chẩn đoán của bệnh tâm thần phân
liệt (F20) phải xuất hiện đa số thời gian từ khi hình thành một bệnh cảnh loạn
thần rõ rệt.

- Không có đầy đủ tiêu chuẩn chẩn đoán các rối loạn loạn thần cấp đa
dạng.
Nếu các triệu chứng tâm thần phân liệt tồn tại hơn 1 tháng thì phải đổi
sang chẩn đoán tâm thần phân liệt (F20).
 Rối loạn loạn thần cấp khác với hoang tưởng chiếm ưu thế (F23.3): thể
này bao gồm “Phản ứng Paranoid”, “loạn thần Paranoid tâm sinh”.
- Khởi bệnh cấp trong vòng 2 tuần lễ hoặc ngắn hơn.


8
- Trong cơn rối loạn tâm thần, các triệu chứng chủ yếu là hoang tưởng
hay ảo giác tương đối ổn định, nhưng không đáp ứng tiêu chuẩn chẩn đoán
của bệnh tâm thần phân liệt (F20). Phổ biến là hoang tưởng bị hại, hoang
tưởng liên hệ và các ảo giác thường là ảo thanh. Các hoang tưởng, ảo giác
xuất hiện trong đa số thời gian kể từ khi hình thành một trạng thái loạn thần rõ
rệt.
- Bệnh cảnh lâm sàng không đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn chẩn đoán tâm
thần phân liệt (F20) và các rối loạn loạn thần cấp đa dạng.
- Nếu các hoang tưởng kéo dài hơn 3 tháng thì phải đổi chẩn đoán “rối
loạn hoang tưởng dai dẳng” (F22). Nếu chỉ có ảo giác kéo dài hơn 3 tháng thì
đổi sang chẩn đoán “rối loạn loạn thần không thực tổn khác” (F28).
 Rối loạn loạn thần cấp và nhất thời khác (F23.8): các rối loạn loạn
thần cấp không xếp vào bất cứ thể bệnh nào kể trên thì ghi ở mục này.
 Rối loạn loạn thần cấp và nhất thời, không biệt định (F23.9): thể này
bao gồm cả loạn thần phản ứng ngắn không biệt định khác.
1.1.4. Dịch tễ của rối loạn loạn thần cấp và nhất thời
1.1.4.1. Tỷ lệ mắc
Tại Hoa kỳ, rối loạn loạn thần ngắn chiếm tỷ lệ 9% các trường hợp rối
loạn loạn thần lần đầu tiên [2].
Theo Castagnini A. và Foldager L. (2013) nghiên cứu về sự biến động tỷ

lệ mắc và tuổi khởi phát của rối loạn loạn thần cấp và nhất thời thực hiện ở tất
cả các bệnh nhân nội trú từ năm 1969 và bệnh nhân ngoại trú từ năm 1995
đến năm 2008 ở Đan Mạch cho thấy tỷ lệ rối loạn loạn thần cấp và nhất thời
là 6,7/100000 dân trên năm [11].
1.1.4.2. Tỷ lệ theo tuổi và giới
Theo một số tác giả trên thế giới rối loạn loạn thần cấp và nhất thời thường
gặp ở tuổi trẻ từ hay gặp ở nữ, lứa tuổi thường gặp ở 20-30 tuổi [12], [13].


9

1.1.4.3.Tỷ lệ tử vong và tự sát
Theo Augusto C. Castagnini & cs (2013) nghiên cứu đánh giá tử vong
của rối loạn loạn thần cấp và nhất thời, so sánh với rối loạn cảm xúc lưỡng
cực và tâm thần phân liệt cho kết quả theo dõi từ 1995-2008, tỷ lệ tử vong của
bệnh nhân mắc rối loạn loạn thần cấp và nhất thời là khoảng 5,6%, rối loạn
cảm xúc lưỡng cực và tâm thần phân liệt là 5,4% và 5,1% [14], [15]. Như vậy
tỷ lệ tử vong của bệnh nhân rối loạn loạn thần cấp và nhất thời, rối loạn cảm
xúc lưỡng cực và tâm thần phân liệt tương đương nhau. Có nhiều nguyên
nhân tử vong ở bệnh nhân rối loạn loạn thần cấp và nhất thời, trong đó tự sát
là nguyên nhân chính gây tử vong.
1.1.5. Bệnh nguyên và bệnh sinh:
1.1.5.1. Bệnh nguyên
Nguyên nhân gây bệnh hiện chưa sáng tỏ, nhưng có nhiều tố liên quan
đến rối loạn loạn thần cấp và nhất thời [12].
1.1.5.2. Bệnh sinh
Giả thuyết sinh học
Các chất dẫn truyền thần kinh
o Dopamin [16], [18]:
 Các con đường của dopamin quan trọng trong não:

- Con đường nhân đen thể vân liên quan đến kiểm soát vận động, các tác
dụng phụ ngoại tháp của thuốc an thần kinh.
- Con đường trung não hệ viền liên quan đến nhiều hành vi : cảm giác
hài lòng, hưng phấn mạnh mẽ khi lạm dụng chất (amphetamine, cocain),
hoang tưởng, ảo giác.
- Con đường trung não vỏ não liên quan đến nhận thức và cảm xúc


10
- Con đường dưới đồi – tuyến yên liên quan đến nội tiết, sự tiết prolactin.
 Rối loạn dẫn truyền dopamin:
Hoạt động quá mức con đường trung não hồi viền gây ra các triệu chứng
dương tính như hoang tưởng, ảo giác ở bất kỳ bệnh loạn thần nào. Với triệu
chứng kích động hay thù địch do hệ serotonergic điều khiển sai lệch hệ [16].
Theo Mary V. Seeman & cs (2013) và Heike Tost (2009) khẳng định học
thuyết sự tăng nhạy cảm của hệ dopaminergic: hoạt động quá mức hệ
dopamin và tăng ái lực của thụ thể D2 có thể khởi động quá trình hình thành
hoang tưởng [19], [20].
o Serotonin
- Lịch sử nghiên cứu phát hiện thấy chất LSD (lysergic Diethylamide
axit) gây ra ảo giác như là 1 chất chủ vận với serotonin [21].
- Ở thể vân: serotonin phóng chiếu synap trực tiếp tới neuron dopamin và
gián tiếp qua neuron GABA. Tại neuron GABA: serotonin gắn với thụ thể
5HT2A làm giải phóng GABA và giảm giải phóng dopamin. Tương tự, khi
serotonin gắn với thụ thể 5HT2A trực tiếp tại neuron dopamin dẫn đến giảm
giải phóng dopamin. Ở cuống não: serotonin giải phóng tại nhân raphe gắn
với thụ thể 5HT2A tại neuron GABA dẫn đến tăng giải phóng GABA ở nhân
đen làm ức chế giải phóng dopamin đến thể vân. Kích thích 5HT2C: cơ chế
chống loạn thần mới do ức chế giải phóng Dopamin ở trung não hệ viền và
không gây hội chứng ngoại tháp [16].

o Glutamate [16]:
Bình thường đường phóng chiếu glutamate của con đường thân não vỏ não
có mối liên hệ với con đường trung não hồi viền của dopamin ở vùng mái bụng
(VTA) để điều hòa giải phóng dopamin ở nhân bèo. Nếu thụ thể glutamate
NMDA với neuron trung gian GABA giảm hoạt động dẫn tới con đường vỏ não
trung não tới vùng VTA tăng hoạt động, dẫn đến giải phóng quá mức glutamate


11
ở VTA. Và tăng hoạt động con đường dopamin trung não hồi viền ở nhân bèo và
gây nên các triệu chứng dương tính.
Vai trò của hệ trục dưới đồi – tuyến yên – tuyến thượng thận (HPA)
Trục HPA là một trong những hệ thống cơ bản làm giảm phản ứng sinh
lý đối với các căng thẳng tâm lý và sinh lý ở động vật có vú. Hệ trục HPA có
mối quan hệ mật thiết với hệ dopaminrgic, khi gặp stress cấp tính làm kích
hoạt hệ trục HPA làm tăng tỷ lệ tổng hợp và phóng thích dopamin ở nhân bèo, não
giữa và vỏ não trước trán khi tăng kéo dài gây tổn thương cấu trúc não, đặc biệt
hồi hải mã gây các rối loạn loạn thần. Theo các báo cáo cho thấy ở bệnh nhân tâm
thần phân liệt có tăng cao bất thường cortisol trong máu [22], [23].
Vai trò bất thường cấu trúc não
Theo 2 nhóm tác giả Jaya L. P. (2015) và Lynn M. và cộng sự (2015)
nghiên cứu có đối chứng về bất thường cấu trúc não trong bệnh nhân có giai đoạn
loạn thần đầu tiên, cho thấy bề dày của vỏ não trước trán trái ở mắt và vỏ não đai
trước trái mỏng rõ rệt ở bệnh nhân có giai đoạn loạn thần đầu tiên sau 1 năm theo
dõi. Và có tương quan nghịch giữa các triệu chứng dương tính với khối lượng chất
xám và độ dày của vỏ não vùng trán và thái dương [24], [25].
Theo nghiên cứu của Vita A. và cộng sự (2006) phân tích gộp về hình
thái não ở giai đoạn loạn thần đầu tiên của bệnh tâm thần phân liệt, dựa trên
22 bài nghiên cứu đưa ra kết luận tăng quá mức kích cỡ rõ rệt đã được chứng
minh cho tăng thể tích não thất ba và giảm thể tích toàn não và hồi hải mã có

liên quan đến giai đoạn đầu của tâm thần phân liệt [26].
. Vai trò của yếu tố nuôi dưỡng thần kinh (BDNF)
Yếu tố nuôi dưỡng thần kinh có nguồn gốc từ não (BDNF) là một
neurotrophin phân bố rộng rãi ở hệ thống thần kinh trung ương và nồng độ rất
cao trong vùng hippocampus và vỏ não trán trước (các vùng liên quan đến các
triệu chứng tâm thần phân liệt). BDNF có một vai trò quan trọng trong quá


12
trình phát triển não vì nó liên quan đến nhiều các chức năng thiết yếu, bao
gồm sinh tế bào thần kinh, biệt hóa tế bào thần kinh, sự sống còn và trưởng
thành bình thường của hệ thần kinh. BDNF cũng có một vai trò quan trọng
trong não người trưởng thành, điều chỉnh tính toàn vẹn nơ-ron, thúc đẩy sự
dẻo dai synap thần kinh, điều tiết tổng hợp, trao đổi chất và phóng thích các
chất dẫn truyền thần kinh (dopamin, axit γ aminobutyric, serotonin và
glutamate), và kiểm soát các quá trình mềm dẻo thần kinh. Theo Alba Toll và
cộng sự (2014) nghiên cứu tổng quan có hệ thống về mức độ của BDNF trong
giai đoạn loạn thần đầu tiên với 147 bài báo đưa ra kết luận nói chung có sự
giảm nồng độ BDNF ngoại vi ở bệnh nhân rối loạn loạn thần giai đoạn đầu
tiên [27], [28].
1.2. Đặc điểm lâm sàng của giai đoạn khởi phát của rối loạn loạn thần
cấp và nhất thời
Theo A. Primer (2002) [6], rối loạn loạn thần cấp và nhất thời điển hình
diễn biến qua 3 giai đoạn: giai đoạn khởi phát, giai đoạn toàn phát và giai
đoạn hồi phục. Trong giai đoạn khởi phát, bệnh nhân trải qua các triệu chứng
bao gồm: các thay đổi về cảm xúc, tư duy, nhận thức và hành vi mặc dù chưa
biểu hiện các triệu chứng loạn thần rõ ràng như hoang tưởng, ảo giác, các rối
loạn hành vi tác phong. Các triệu chứng này xuất hiện không tương xứng với
hoàn cảnh.
Giai đoạn khởi phát khác nhau giữa các cá thể, khoảng 80% bệnh nhân có

biểu hiện các triệu chứng khởi phát, còn lại khoảng 20 % số còn lại không trải
qua giai đoạn khởi phát, thời gian của giai đoạn này cũng khá thay đổi [29], [6],
[10]. Giai đoạn này triệu chứng khá dao động, xuất hiện tăng dần và chuyển dịch
theo thời gian. Các dấu hiệu và triệu chứng của giai đoạn này bao gồm:
1.2.1. Các thay đổi về cảm xúc


13
Các biểu hiện về thay đổi cảm xúc rất phong phú và đa dạng. Nhưng lại
mơ hồ khó xác định. Các thay đổi có thể là trầm cảm, lo âu, căng thẳng, sợ
hãi, dễ cáu giận, tức giận hoặc thay đổi tâm trạng, có khi lại hưng phấn vui
vẻ, có khi lại thờ ơ không giao tiếp nói chuyện với ai, không quan tâm đến
mọi việc xảy ra xung quanh.
Sợ hãi là phản ứng cảm xúc cho mối đe dọa sắp xảy ra thật hay nhận
thức về mối đe dọa sắp xảy ra. Lo lắng là hiện tượng phản ứng tự nhiên (bình
thường) của con người trước những khó khăn và các mối đe dọa của tự nhiên, xã
hội dẫn đến các tín hiệu báo động, báo trước nguy hiểm sắp đến để sử dụng mọi
biện pháp để đương đầu. Ngoài ra, bệnh nhân có thể biểu hiện các cảm xúc đa
dạng từ buồn chán, hay nổi nóng, cáu giận, cảm xúc không ổn định, lúc khóc lúc
cười và có khi hưng phấn, vui vẻ, nói nhiều vấn đề) [17], [30].
1.2.2. Các thay đổi về tư duy, nhận thức
Các thay đổi về tư duy và nhận thức cũng rất đa dạng, phong phú. Nó thể
hiện những nét lạ lùng, khó hiểu trong những thay đổi tư duy của họ và làm
bệnh nhân mê mải trong những suy nghĩ của chính mình. Biểu hiện bằng sự
khó khăn trong tập trung và trí nhớ họ cảm thấy chậm lại hoặc tăng tốc,
những ý tưởng kỳ quặc, nói mơ hồ. Điều này dẫn đến bệnh nhân hay khó tập
trung trong học tập, làm việc dẫn đến kết quả học tập, cũng như lao động
giảm sút. Bệnh nhân hay quên hơn [6].
Theo Yung R. A. và cộng sự (1996), (2007) [13], [31] nghiên cứu về các
triệu chứng ở giai đoạn khởi phát của bệnh tâm thần phân liệt cho thấy các

thay đổi bất thường trong nhận thức của bệnh nhân rối loạn sự chú ý với bất
thường chính là giảm các kích thích bên ngoài, giảm khả năng lựa chọn thông
tin dẫn tới quá tải các thông tin, sự kiện. Tư duy bị gián đoạn, đầu óc trống
rỗng, khó suy nghĩ. Thay đổi mối bận tâm xung quanh và mơ mộng, giảm khả
năng trừu tượng Thay đổi về cảm nhận bản thân, người và thế giới xung


14
quanh: cảm giác nghi ngờ mơ hồ, cảm giác khác thường với những người
khác hoặc những thứ trong môi trường có thể có vẻ thay đổi. Người bệnh cảm
nhận thấy có điều gì lạ trong người, lo lắng chờ đợi một điều gì đến sẽ thay
đổi cuộc đời mình.
1.2.3. Thay đổi về cơ thể và tri giác
Theo nhiều tác giả cho thấy các triệu chứng tiền triệu hay gặp ở bệnh
nhân có giai đoạn khởi phát của tâm thần phân liệt như các rối loạn giấc ngủ,
thay đổi thèm ăn,phàn nàn về cơ thể, mất năng lượng hoặc giảm động lực làm
việc, tăng cảm giác và tri giác sai lệch.
Rối loạn giấc ngủ là hiện tượng hay gặp trong bệnh tâm thần, là một
yếu tố dự báo của các chức năng tâm thần bị suy yếu và triệu chứng loạn thần,
cũng như mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng loạn thần. Theo một số
nghiên cứu có từ 17,9-57,3% việc rối loạn giấc ngủ tác động tiêu cực nên rối
loạn tâm thần. Trong rối loạn giấc ngủ, có thể là khó đi vào giấc ngủ, tỉnh dậy
giữa đêm, thức dậy sớm, ngủ hay mơ…Tỷ lệ mất ngủ thường xuyên và những
cơn ác mộng thường xuyên tương ứng là 19% và 9%. Các rối loạn giấc ngủ
có thể gặp như khó khăn đi vào giấc, tỉnh giấc giữa đêm, thức dậy sớm và mất
ngủ cả đêm. Bệnh nhân thay đổi nhịp ngủ thức mất ngủ ban đêm nhưng ngủ
nhiều ban ngày [32], [33].
Bệnh nhân trong giai đoạn này thường biểu hiện rối loạn ăn uống, có
thể ăn kém thường do giảm ngon miệng, hoặc thay đổi thời gian ăn uống bệnh
nhân hay xao nhãng việc ăn uống, ăn uống trở nên thất thường, hoặc có khi

biểu hiện ăn nhiều.
Bên cạnh đó, người bệnh thường biểu hiện các triệu chứng cơ thể như
chóng mệt mỏi, khó chịu, đau đầu, mất ngủ, cảm giác khó khăn trong học tập
và công tác, khó khăn tiếp thu cái mới, đầu óc mù mờ như có màn sương che
phủ, khó suy nghĩ, cảm xúc lạnh nhạt, khó thích ứng với ngoại cảnh, giảm


15
dần các thích thú trước kia, bồn chồn lo lắng vô duyên vô cớ, dễ nổi khùng và
tiếp theo là cảm giác bị động, dường như đuối sức trước cuộc sống, không
theo kịp những thay đổi xung quanh. Một số bệnh nhân lại cảm thấy có những
biến đổi trong người thay đổi nét mặt hoặc màu da, cũng như bệnh nhân trở
nên sau sưa đọc các loại sách triết học, lí luận viển vông không phù hợp thực
tế [17]. Kèm theo đó bệnh nhân thoái hóa trong việc tự chăm sóc bản thân, xa
lánh bạn bè người thân [30].
Theo Yung R. A. và cộng sự (1996), (2007) [13], [31] nghiên cứu về các
triệu chứng của giai đoạn khởi của bệnh tâm thần phân liệt mô tả về các triệu
chứng cơ thể và rối loạn cảm giác, như sau các triệu chứng về căng thẳng tâm
thần không đặc hiệu như bệnh nhân than phiền lo âu, bồn chồn bất an, căng
thẳng và các triệu chứng cơ thể như than phiền cơ thể, kém ngon miệng, rối
loạn giấc ngủ và sút cân. Bên cạnh đó có những triệu chứng lâm sàng của
bệnh cảnh tâm thần phân liệt như sự nghi ngờ, cảm giác bàng hoàng, bối rối
và cảm giác môi trường bên ngoài lạ lùng, không thân thuộc. Rối loạn tri giác
như nhìn thấy vật thể thay đổi kích thước, màu sắc, độ sáng chuyển động (tri
giác sai thực tại), thay đổi cảm nhận bản thân, người khác xung quanh, tăng
cảm giác cá nhân (kích thích nhẹ mà bệnh nhân cho là quá mạnh, không chịu
đựng được, VD: không chịu được ánh sáng phòng ngủ, nghe tiếng động nhỏ
thành tiếng bom nổ ...) [34].
1.2.4. Thay đổi về hành vi, tác phong
Các thay đổi về hành vi tác phong bao gồm hành vi thay đổi, học tập và

làm việc kém đi, trở nên ít hoạt động, cô lập hơn, giảm quan tâm đến xã hội
xung quanh.
Các rối loạn hành vi tác phong này không tương xứng với hoàn cảnh,
bao gồm sững sờ, đờ đẫn hay kích động tâm thần vận động. Hành vi tác
phong tương ứng với hoang tưởng như thái độ say đắm, trốn chạy, đập phá,


16
hành động mang tính chất kỳ cục, tấn công người khác hay tự sát có thể xảy
ra. Đôi khi có căng trương lực [8]. Tuy nhiên, các thay đổi này không đặc
trưng.
Các triệu chứng khác như: lời nói bất thường, nói mơ hồ khó hiểu, thay
đổi hành vi tác phong, suy giảm trong học tập, công việc hoặc vai trò nhiệm
vụ khác, cách ly xã hội hơn, hành vi kỳ dị, kích động, xung động, hành vi gây
rối, có thể có ý tưởng và hành vi tự sát.
Theo Yung R. A. và cộng sự (1996), (2007) [13], [31] đã đưa ra danh
sách 9 triệu chứng khởi phát gợi ý giai đoạn khởi phát của tâm thần phân liệt
là mất khả năng phân chia sự chú ý, tư duy gián đoạn, tư duy bị chèn ép, rối
loạn hình thức ngôn ngữ, rối loạn tư duy trừu tượng, ý tưởng liên hệ không ổn
định, sự chú ý quá chi tiết.
1.3. Các yếu tố liên quan đến khởi phát rối loạn loạn thần cấp và nhất thời
1.3.1. Yếu tố gia đình
Một số nghiên cứu cho thấy một số bệnh nhân rối loạn loạn thần cấp và
nhất thời có liên quan tiền sử gia đình có rối loạn cảm xúc, tâm thần phân liệt
[2], [12].
Theo Salokangas R.K.R.và cộng sự (2008) về tổng quan phát hiện và can
thiệp sớm rối loạn loạn thần cho thấy nguy cơ cao gấp 10 lần nếu người có
quan hệ họ hàng đời thứ nhất bị tâm thần phân liệt. Và yếu tố di truyền của
bệnh tâm thần phân liệt ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển bệnh tật sau này
của cá nhân [35].

1.3.2. Vai trò của nhân cách
Một số nét nhân cách ở bệnh nhân rối loạn loạn thần cấp và nhất thời
như [34], [37], [38]:
- Nhân cách dạng phân liệt: khép kín, không cởi mở, ít quan hệ, đa
nghi…


17
- Nhân cách phân ly: dễ xúc động, hay tưởng tượng, thích được quan
tâm, chiều chuộng…
- Nhân cách lo âu: hay lo lắng, suy nghĩ, chi ly, cầu toàn,…
- Nhân cách ranh giới: không rõ ràng hình ảnh bản thân, dễ bị liên hệ đến
mối quan hệ căng thẳng, không ổn định, các cơn khủng hoảng cảm xúc, các
hành động hủy hoại bản thân.
Theo nghiên cứu của Patrick Keown & cs (2002) cho thấy có 52% bệnh
nhân đủ tiêu chuẩn chẩn đoán một hoặc hai rối loạn nhân cách [37]. Theo
nghiên cứu của Marija Rusaka & cs (2015), tỷ lệ rối loạn loạn thần cấp và nhất
thời đồng diễn với các rối loạn nhân cách khác nhau, như nhân cách nghi bệnh
(13,5%), trầm cảm (17,5%), dạng phân liệt (18,9%) [39]. Theo Jergensen P,
Bennedsen & cs (1996) nhận định có 1 tỷ lệ cao (63%) rối loạn nhân cách được
bộc lộ sau khi rối loạn loạn thần cấp và nhất thời ổn định [40].
1.3.3. Vai trò của sang chấn tâm lý
Theo ICD-10, có một tỷ lệ nhất định các rối loạn loạn thần cấp và nhất
thời kết hợp với sang chấn. Các sự kiện gây sang chấn có thể là tang tóc, mất
mát tài sản lớn, sang chấn trong chiến đấu, bị khủng bố bị tra tấn, cũng như sự
tan vỡ trong tình cảm lứa đôi, gia đình. Các sự kiện hoặc hoàn cảnh gây sang
chấn có thể thúc đẩy nên rối loạn loạn thần cấp. Các dạng sang chấn tác động
vào một người có nhân cách bị tổn thương thì dễ gây nên các rối loạn tâm
thần [34].
Các loại sang chấn tâm lý bao gồm [34]:

- Các sang chấn tâm thần rất mạnh gọi là choáng tâm thần, tức là
những trường hợp đe dọa tính mạng, bản năng sinh tồn bị căng
thẳng cao độ, sinh mạng chính trị bị tiêu tan, tình cảm bị đảo lộn,
như: bị bắt giam, người yêu bị tai nạn, chia tay,...


18
- Các sang chấn kéo dài: ít gặp, nhưng cũng nhưng cũng có gây ra
loạn thần phản ứng: quá chênh lệch giữa lý tưởng và hiện thực, luôn
chung sống với một người hoàn toàn không thích hợp và thường
xuyên mâu thuẫn,...
Theo Berger G. và cộng sự (2006), thực hiện nghiên cứu sang chấn tâm
lý, vùng dưới đồi, trục HPA liên quan đến sự phát triển của các rối loạn loạn
thần, cho thấy vùng dưới đồi và rối loạn chức năng hệ trục HPA có liên quan
đến sự khởi phát và duy trì của các rối loạn loạn thần. Đánh giá theo chiều
dọc các yếu tố này ở những người trẻ tuổi ở mức cao nguy cơ rối loạn tâm
thần và các rối loạn tâm thần giai đoạn đầu [23]. Theo nghiên cứu của Das S.
K. và cộng sự (2001) cho thấy có 32,5% bệnh nhân có sang chấn tâm lý trong
vòng 2 tuần trước khi khởi phát rối loạn loạn thần cấp và nhất thời được ghi
nhận trên lâm sàng [41]. Theo Nguyễn Hữu Chiến (2008) tỷ lệ kết hợp với
sang chấn tâm lý là 19,33%. Các sang chấn hay gặp như: mâu thuẫn gia đình
(24,14%), mất người thân (13,79%), mất tài sản (13,79%), trắc trở tình yêu
(13,79%) và các loại khác (người thân đau ốm, …) [42].
1.3.4. Các yếu tố khác
Theo Raimo K. S. và cộng sự (2008) về tổng quan phát hiện và can thiệp sớm
rối loạn loạn thần cho thấy [35]:
- Yếu tố nguy cơ thời kỳ chu sinh và phát triển tâm thần: nhiều nghiên
cứu chỉ ra rằng nhiều người phát triển tâm thần phân liệt được tiếp xúc
với nhiều các sự kiện căng thẳng trong thời kỳ chu sinh như mẹ bị căng
thẳng trầm trọng, mẹ bị trầm cảm thai sản, tiếp xúc cúm và các bệnh

nhiễm virút khác trước khi sinh. Nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương
trong thời thơ ấu tăng nguy cơ bệnh tâm thần phân liệt bắt đầu ở người
lớn (OR = 4.8) hoặc các rối loạn khác (OR = 6,9).


19
- Nhận thức: Các nghiên cứu dựa trên dân số cho thấy rằng một tỷ lệ trí
thông minh thấp (IQ) là một yếu tố nguy cơ cho tâm thần phân liệt và
các rối loạn tâm thần khác.
1.4.Một số nghiên cứu trong và ngoài nước
1.4.1. Nghiên cứu trong nước
 Theo Nguyễn Hữu Chiến (2008) [42] nghiên cứu trên 150 bệnh nhân
chẩn đoán rối loạn loạn thần cấp và nhất thời, cho thấy:
o Tuổi phát bệnh của rối loạn này là 30,9 ± 11,85, phần lớn gặp ở tuổi từ
15 đến 34 (64%). Tiền sử gia đình bị rối loạn tâm thần chiếm 21,33%.
o Thời gian khởi phát ngắn chỉ 6,7 ± 6,2 ngày, hầu hết khởi phát > 48h
(62%).
 Theo Lê Thị Tố Uyên (2010) [43] nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và
một số yếu tố liên quan đến bệnh tâm thần phân liệt ở lứa tuổi thanh thiếu
niên cho thấy có khoảng một nửa số trường hợp khởi phát từ từ với biểu hiện
như: rối loạn cảm xúc (26,7%), than phiền cơ thể như đau đầu, mệt mỏi, khó
chịu (20%), giảm sút học tập, thu hẹp giao tiếp, ám ảnh,…
1.4.2. Nghiên cứu nước ngoài
Theo Yung R.A. và cộng sự (1996) [13] nghiên cứu trên 21 bệnh nhân
giai đoạn loạn thần đầu tiên, với kết quả
- Các triệu chứng tâm thần: lo âu(85,7%), lo sợ, kích thích (85,7%)và ám
ảnh nghi thức (19%).
- Triệu chứng cảm xúc: bồn chán (76,2%), bị tội (38,1%), hưng phấn
(23,8%), cảm xúc không ổn đinh (42,9%)
- Thay đổi nhận thức: giảm tập trung chú ý vấn đề trí nhớ (71,4%), suy

nghĩ gián đoạn, ý tưởng tự sát.
- Triệu chứng khác: mất điều khiển (66,7%), mệt mỏi giảm năng lượng
(61,9%), tăng năng lượng (38,1%).


20
- Triệu chứng cơ thể: đau cơ thể (85,7%), sút cân kém ngon miêng
(47.6%)…
- Triệu chứng về tri giác: thay đổi nhận cảm bản thân, người khác và
xung quanh (61,9%), hành vi kỳ dị, khó hiểu (9,5%). …
Theo Rajkumar R.P. và cộng sự (2016) [44], kết quả cho thấy:
- Tuổi mắc trung bình = 25.19 ± 8.32 tuổi.
- Tỷ lệ giới: nam/nữ=1/3.
- Khởi phát giai đoạn đầu tiên chiếm 81,25%, tái phát lại 18,75%.
- Sự có mặt của sang chấn tâm lý là 31,75%.
- Rối loạn cảm xúc hay gặp nhất là cáu gắt (62,5%).
- Rối loạn hình thức tư duy hay gặp chiếm 50%.


21
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Địa điểm: Viện Sức khỏe Tâm thần – Bệnh viện Bạch Mai
- Thời gian: từ tháng 10/2016 đến tháng 8/2017.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
2.2.1. Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng nghiên cứu
Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán xác định rối loạn loạn thần cấp và
nhất thời (F23) theo ICD 10 – 1992 của Tổ chức Y tế Thế giới và điều trị nội
trú tại Viện Sức khỏe Tâm thần – Bệnh viện Bạch Mai.

2.2.2. Tiêu chuẩn loại trừ
- Những bệnh nhân có bệnh tổn thương não: chấn thương sọ não, u não,
mê sảng, động kinh, mất trí, tai biến mạch máu não trong tiền sử và hiện tại.
- Bệnh nhân đủ tiêu chuẩn nghiện chất và bệnh thực thể nặng kèm theo
mà không hợp tác được nghiên cứu.
- Những bệnh nhân và người nhà không đồng ý tham gia hợp tác nghiên
cứu.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu
Sử dụng phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang, có hồi cứu.
2.3.2. Công thức tính cỡ mẫu nghiên cứu
- Cỡ mẫu đối tượng nghiên cứu được tính theo công thức tính cỡ mẫu
nghiên cứu đặc điểm lâm sàng.


22
Cỡ mẫu được tính theo công thức “Ước tính một tỉ lệ trong quần thể”
[46].
n=Z2(1-/2)
Trong đó:
n: Cỡ mẫu tối thiểu.
: Mức ý nghĩa thống kê.
Z2(1-/2): Hệ số tin cậy.
Khi  bằng 0,05 (độ tin cậy 95%) thì Z2(1-/2) bằng 1,962.
p: Xác suất triệu chứng rối loạn cảm xúc (cáu gắt) 62,5% theo
Rajkumar R.P. và cộng sự [40].
�: mức sai lệch tương đối giữa tham số mẫu và tham số quần thể, lấy
giá trị bằng 0,2. Thay vào công thức ta được :
0,625(1- 0,625)
n = 1,962

(0,625.0,2)2
- Cỡ mẫu nghiên cứu: tối thiểu n ≈ 58 bệnh nhân.
- Nghiên cứu của chúng tôi thực hiện trên cỡ mẫu là 75 bệnh nhân.
2.3.3. Cách tiến hành:
+ Bước 1: xây dựng công cụ và bệnh án nghiên cứu
+ Bước 2: phỏng vấn bệnh nhân và người thân, khám bệnh nhân để phát
hiện triệu chứng khởi phát và yếu tố liên quan khởi phát rối loạn loạn thần
cấp và nhất thời.
2.4. Biến số nghiên cứu:
 Đặc điểm chung : Tuổi, giới, nghề nghiệp, nơi ở, trình độ học vấn, tình
trạng hôn nhân, tình trạng kinh tế, hoàn cảnh gia đình, tỷ lệ mã bệnh rối loạn
loạn thần cấp


23
 Đặc điểm lâm sàng giai đoạn khởi phát rối loạn loạn thần cấp và nhất
thời:
oThời gian khởi phát
o Các triệu chứng rối loạn bản năng:
o Rối loạn giấc ngủ
o Rối loạn ăn uống
o Đặc điểm rối loạn cảm xúc: lo âu, buồn chán, hưng phấn, cáu gắt, cảm
xúc không ổn định, thờ ơ.
o Đặc điểm rối loạn hành vi: tăng hoạt động, giảm hoạt động, kích
động, không tiếp xúc, hành vi kỳ dị.
o Đặc điểm rối loạn nhận thức, tư duy: giảm tập trung, chú ý, trí nhớ,
giảm quan tâm xung quanh.
o Đặc điểm triệu chứng cơ thể: than phiền cơ thể, sút cân, mệt mỏi,
giảm năng lượng, triệu chứng thần kinh thực vật, bồn chồn bứt rứt.
o Đặc điểm triệu chứng cảm giác tri giác

o Đặc điểm một số triệu chứng khác
 Một số yếu tố liên quan khởi phát: sang chấn tâm lý, yếu tố tiền sử gia
đình, nét tính cách.
2.5. Phương pháp thu thập thông tin
2.5.1. Phỏng vấn theo bộ câu hỏi, bệnh án nghiên cứu sẵn có:
Tiếp xúc với bệnh nhân và người thân trong gia đình, bạn bè để khai thác
các thông tin về bệnh của bệnh nhân, tiền sử cá nhân, gia đình và các vấn đề
có liên quan.
- Tiền sử gia đình: xem trong gia đình bệnh nhân có người nào có rối
loạn tâm thần: trầm cảm, hưng cảm, tâm thần phân liệt, loạn thần.


24
- Tiền sử bản thân:
+ Tìm hiểu quá trình mang thai, sinh đẻ, phát triển thể chất và tâm thần
từ nhỏ của bệnh nhân, đặc điểm về nhân cách, các mối quan hệ trong gia đình,
xã hội,… nhằm thu thập các thông tin về đặc điểm cấu trúc nhân cách, đặc
điểm các yếu tố nguy cơ liên quan đến rối loạn loạn thần cấp, các biểu hiện
tâm lý cảm xúc, hành vi gần đây
+ Tiền sử các bệnh lý về rối loạn tâm thần không?
+ Khai thác sang chấn tâm lý, những mâu thuẫn trong gia đình, xã hội,
nghỉ hưu, thiệt hại kinh tế, mất người thân, …
+ Khai thác bệnh lý cơ thể đi kèm và tiền sử sử dụng chất kích thích.
- Hỏi bệnh sử:
+ Cần khải thác tỉ mỉ từ lúc bệnh nhân xuất hiện các triệu chứng bất
thường về sức khỏe (rối loạn giấc ngủ, ăn uống không ngon miệng, …) cho
tới lúc nhập viện.
+ Hoàn cảnh xuất hiện, diễn biến và mức độ biểu hiện các triệu chứng
+ Bệnh nhân đã được khám và điều trị ở đâu trước khi đến chuyên khoa
tâm thần.

+ Thời gian từ khi có triệu chứng đến lúc bệnh nhân vào Viện Sức khỏe
Tâm thần điều trị
- Khám lâm sàng:
o Quan sát bệnh nhân toàn diện từ nét mặt, giọng nói, cử chỉ, dáng điệu,
trang phục, thái độ trong lúc giao tiếp với người xung quanh.
o Khám tâm thần:
 Đặc biệt chú ý khai thác các rối loạn cảm xúc, tư duy, hanh vi.
 Thăm khám bệnh nhân mỗi ngày để theo dõi diễ biến, sự thuyên giảm
các triệu chứng, khả năng đáp ứng với thuốc điều trị, tác dụng không mong
muốn


25
o Khám thực thể: phát hiện và đánh giá các bệnh lý cơ thể, bệnh lý thần
kinh.
2.5.2. Các công cụ dùng trong nghiên cứu:
+ Bệnh án nghiên cứu: Bệnh án nghiên cứu được xây dựng theo mẫu
bệnh án nghiên cứu riêng với đầy đủ thông tin cần thiết cho mục tiêu nghiên
cứu đặt ra. Mẫu bệnh án chuyên biệt được thiết lâp phù hợp với mục tiêu và
nội dung nghiên cứu. Tất cả các bệnh nhân đều được làm hồ sơ theo mẫu
bệnh án nghiên cứu thống nhất.
+ Tham khảo hồ sơ bệnh án điều trị để bổ sung thông tin thu thập từ
phỏng vấn và ghi nhận.
+ Các xét nghiệm cơ bản: xét nghiệm sinh hóa, huyết học.
2.6. Phương pháp xử lý số liệu:
- Nhập số liệu, xử lí số liệu theo phần mềm toán học SPSS 16.0
- Sử dụng test 2, Phi – Cramer’V, tỷ lệ %, chỉ số, tần suất.
2.7. Đạo đức nghiên cứu
* Nghiên cứu chỉ là mô tả lâm sàng, không can thiệp nên không làm ảnh
hưởng đến kết quả điều trị bệnh nhân. Các thông tin do đối tượng nghiên cứu

cung cấp được đảm bảo giữ bí mật.
* Bệnh nhân và người nhà bệnh nhân được giải thích rõ mục tiêu và
phương pháp nghiên cứu, tự nguyện tham gia vào nghiên cứu và có quyền rút
khỏi nghiên cứu. Nghiên cứu không làm ảnh hưởng đến uy tín của bệnh nhân
và gia đình bệnh nhân.
* Kết quả nghiên cứu, ý kiến đề xuất nhằm mục đích nâng cao chất lượng
phục vụ cho người bệnh.
* Luận văn được hội đồng chấm đề cương của Trường Đại học Y Hà Nội
thông qua.


×