Tải bản đầy đủ (.docx) (82 trang)

Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả nội soi phế quản huỳnh quang của bệnh nhân ung thư phế quản tại bệnh viện phổi trung ương năm 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (908.08 KB, 82 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư phổi hay ung thư phế quản là thuật ngữ để chỉ bệnh ác tính của
phổi xuất phát từ biểu mô niêm mạc phế quản, tiểu phế quản, phế nang, từ
các tuyến của phế quản, hoặc các thành phần khác của phổi [1].
Hiện nay trên thế giới cũng như Việt Nam, ung thư phế quản là nguyên
nhân hàng đầu của các trường hợp mắc bệnh và tử vong liên quan đến ung thư
(UT). Theo báo cáo thường niên năm 2015 của TCYTTG, UTPQ đứng hàng
thứ nhất về mắc và tử vong ở nam giới, trong khi nữ giới UTPQ đứng hàng
thứ hai sau UT vú. Tại Hoa Kỳ năm 2014, 224.210 người bệnh (NB) mắc mới
và 159.260 NB tử vong [2], [3].
Những hiểu biết về UTPQ cho thấy, đây là một bệnh lý ác tính, thường
tiến triển nhanh và di căn sớm. Mặc dù thế giới đã tốn kém rất nhiều thời
gian, công sức, tiền bạc nhằm nâng cao hiêu quả điều trị UTPQ nhưng cho
đến nay, khả năng điều trị và tiên lượng bệnh còn hạn chế. Phần lớn UTPQ
được chẩn đoán ở giai đoạn muộn, khi đã có di căn xa và tỉ lệ sống sót sau 5
năm khoảng 17%. Mặc dù ngày nay đã có nhiều tiến bộ trong chẩn đoán và
điều trị, nhưng kết quả điều trị bệnh còn nhiều hạn chế, thời gian sống thêm
của người bệnh (NB) còn ngắn, đặc biệt ở những NB được chẩn đoán và điều
trị ở giai đoạn muộn.
Chẩn đoán sớm là yếu tố then chốt góp phần làm giảm tử vong cho NB
bị UT nói chung và UTPQ nói riêng. Từ lâu, trên thế giới đã áp dụng nhiều
phương pháp sàng lọc chẩn đoán UTPQ giai đoạn sớm như xét nghiệm đờm
tìm tế bào ung thư ở những người có nguy cơ cao, cho độ nhạy 20-30%; sàng
lọc bằng chụp Xquang thường qui và CT liều thấp lồng ngực cho độ nhậy và
độ đặc hiệu tương đối cao không xác định được typ mô bệnh, tế bào một cách
thật chính xác.


2



Hiện nay nội soi phế quản (NSPQ) có vai trò quan trọng trong xác định
vị trí các tổn thương phế quản và sinh thiết để xác định typ mô bệnh. Tuy
nhiên, vị trí của ung thư (UT) biểu mô tại chỗ (carcinoma in situ), các tổn
thương loạn sản khó có thể xác định bằng nội soi phế quản (NSPQ) ánh sáng
trắng đơn thuần, thậm chí cả đối với chuyên gia nội soi kinh nghiệm. Để giải
quyết vấn đề này, nội soi phế quản huỳnh quang (NSPQHQ) ra đời, nó có thể
phát hiện được vị trí của những tổn thương tiền ung thư trên [3], [4].
Đánh giá được mức độ trầm trọng và những tổn thất mà UTPQ gây ra,
trong những năm qua, trên thế giới đã có rất nhiều công trình nghiên cứu ứng
dụng các kĩ thuật khoa học hiện đại vào việc chẩn đoán sớm UTPQ ở những
người có nguy cơ cao. Ở Việt Nam, kỹ thuật nội soi phế quản huỳnh quang
lần đầu tiên được tiến hành tại Bệnh Viện Phổi TƯ, có một số nghiên cứu
trước đó về nội soi phế quản huỳnh quang nhưng chưa có nghiên cứu nào
đánh giá giá trị NSPQHQ trong phát hiện ung thư phế quản ở những giai đoạn
sớm. Với những lý do trên đây, chúng tôi tiến hành đề tài: “Mô tả đặc điểm
lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả nội soi phế quản huỳnh quang của bệnh
nhân ung thư phế quản tại Bệnh Viện Phổi Trung Ương năm 2016” với 2
mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân ung thư
phế quản tại bệnh viện Phổi Trung Ương từ tháng 1/2016 đến
tháng 6/2016.
2. Nhận xét kết quả nội soi phế quản huỳnh quang trong chẩn đoán
ung thư phế quản.


3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN

1.1. Tình hình UTPQ
1.1.1.Tình hình UTPQ trên thế giới:
Các đặc điểm lâm sàng của UTPQ được Laenec (1781-1826), một bác
sĩ người Pháp mô tả lần đầu tiên trong y văn vào năm 1805. Hơn 100 năm
sau(1912), Adler I đã ghi nhận 375 trường hợp UTPQ.
Những nghiên cứu dịch tễ học ghi nhận, UTPQ vẫn là loại ung thư
thường gặp nhất và có tỷ lệ tử vong cao nhất trong các loại ung thư. Theo báo
cáo thường niên năm 2015 của TCYTTG, năm 2015 toàn thế giới có thêm
khoảng 14 triệu người mới mắc ung thư và khoảng 8,2 triệu người chết vì căn
bệnh này. Cũng theo báo cáo này, UTPQ đứng hàng đầu về số người mắc và
chết trong các loại ung thư. Các thống kê cho thấy, UTPQ đứng hàng thứ nhất
về mắc và tử vong ở nam giới, trong khi nữ giới UTPQ đứng hàng thứ hai.
Nếu so sánh, người ta sẽ thấy số ca mới mắc ung thư năm 2012 giảm 6% so
với năm 2010 và UTPQ giảm 19% ở nam giới tại các nước thu nhập cao,
trong khi lại tăng 10% ở nam giới khu vực Đông Nam Á và cả hau giới tại
khu vực Tây Thái Bình Dương (trừ các nước có thu nhập cao). Trước những
năm 2000, UTPQ ở các nước phát triển, có tỷ lệ mới mắc và chết cao hơn các
nước nghèo. Tuy nhiên, những năm sau này xu hướng lại ngược lại, UTPQ
cũng như các ung thư khác, tỷ lệ mới mắc và số người bệnh tử vong hàng
năm có xu hướng ngàu càng tăng ở các nước chậm phát triển hoặc các nước
nghèo [5], [6].
Tại Hoa Kỳ, UTP là loại ung thư có tỷ lệ tử vong cao nhất. Ước tính
năm 2015, Hoa Kỳ có 221.200 người mới mắc UTPQ được chẩn đoán và


4

chiếm hàng đầu trong các loại ung thư, chiếm khoảng 13% [7] Nam giới
người da đen có tỷ lệ mắc bệnh và tử vong do UTPQ cao hơn nam giới da
trắng, trong khi tử vong do UTPQ ở nam giới có xu hướng giữ nguyên thì phụ

nữ lại tăng rõ rệt trong thập kỉ cuối cùng của thế kỉ XX. Viện sức khỏe Hoa
Kỳ ước tính năm 2010 chi phí cho chăm sóc người bệnh ung thư khoảng
124,6 tỷ USD và riêng chi phí cho người bệnh UTPQ chiếm 12,1 tỷ USD, ung
thư cũng làm mất đi 148,4 tỷ USD sản phẩm lao động và trong đó UTPQ làm
mất đi 36,1 tỷ [2], [8], [9], [10].
Tính trên toàn thế giới, hàng năm, số người tử vong do UTPQ bằng tổng
các trường hợp tử vong do ung thư tiền liệt tuyến, ung thư vú và ung thư đại
tràng.Theo số liệu của các ghi nhạn ung thư trên thế giới tỷ lệ mắc UTPQ ở nam
giới cao hơn nữ giới, xét riêng về yếu tốt gây UTPQ là thuốc là thì phơi nhiễm
với yếu tố này của nam và nữ cũng rất khác nhau, nam giới có tỉ lệ hút và nghiện
thuốc là cao hơn nữ giới, tuy nhiên trong những năm gần đây tỉ lệ hút thuốc ở nữ
có xu hướng gia tăng vì vậy làm thay đổi tỉ lệ mới mắc ung thư [11], [12].
1.1.2. Tình hình UTPQ tại Việt Nam
Hiện nay có những số liệu ghi nhận về ung thư tương đối chính xác và
có thể đại diện cho tình hình ung thư của cả nước. Tại Việt Nam, ghi nhận tại
thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 1995-1998, tỉ lệ mắc UTP chuẩn theo tuổi ở
nam là 26,9/100000 dân và ở nữ là 7,5/100000 dân. Tại Hà Nội, tỉ lệ mắc
chuẩn theo tuổi của UTP đã tăng từ 34/100000 dân(1998) lên 39,5/100000
dân(2001-2004) ở nam và 8,6(1998) lên 10,5/100000 dân (2001-2004) ở nữ.
Tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và một số tỉnh thành phía Bắc, UTPQ đừng
hàng đầu ở nam và đứng hàng thứ 3 ở nữ. Ở cả hai giới, tỉ lệ mới mắc UTP
bắt đầu tăng nhiều ở lứa tuổi sau 40, nam tăng nhiều hơn nữ. Tại Hà Nội, nam
giới nhóm tuổi 65-69 có tỉ lệ mới mắc UTP cao nhất [13], [14].
Theo Globocan 2012, tại Việt Nam, UTP và ung thư gan là 2 loại ung
thư gặp nhiều nhất ở nam giới. Ở nữ giới, UTP có tỷ lệ mắc chỉ sau ung thư


5

vú và ung thư cổ tử cung.

Ở nữ giới, xu hướng cũng tương tự như tình hình chung trên thế giới,
UTP đứng vào hàng thứ ba hoặc thứ tư trong số các loại ung thư. Tỉ lệ mắc
UTP ở nữ giới đứng sau ung thư vú, ung thư dạ dày(như ở Hà Nội, Hải
Phòng, Thái Nguyên) và có thể dưới ung thư cổ tử cun như ở Huế, Cần Thơ.
Tại khoa Hô Hấp – Bệnh Viện Bạch Mai, số các trường hợp UTP nhập
viện đều tăng hàng năm: từ 1969 đến 1972 có 89 trường hợp UTP, từ 1974
đến 1978 có 186 trường hợp, từ 1981 đến 1985 có 285 trường hợp, từ 1996
đến 2000 có 639 trường hợp, chiếm 16,6% tổng số các bệnh nhân điều trị,
đứng hàng thứ hai sau bệnh phổi tắc nghẽn [15].
1.2. Các yếu tố nguy cơ gây UTPQ
1.2.1. Thuốc lá.
Hàng năm, thuốc lá giết hại khoảng 3.000.000 người trên thế giới.
Những người hút thuốc có tuổi thọ trung bình ngắn hơn người không hút
thuốc 5-8 năm và làm tăng tỷ lệ tử vong 30-80%, chủ yếu do mắc bệnh UTP,
bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính và các bệnh tim mạch. Thuốc lá chứa hơn 4000
loại hóa chất, 200 loại có hại cho sức khỏe, khoảng hơn 60 chất chứa vòng
Hydrocarbon thơm như: 3-4 Benzopyren, các dẫn xuất Hydrocarbon đa vòng
có khí Nitow, Aldehyt, Nitrosamin, Ceton có tính chất gây ung thư [6], [16].
Hút thuốc lá được coi là yếu tố nguy cơ chính gây nên UTP, khoảng
90% trong số 660.000 ca được chẩn đoán UTP trên thế giới có hút thuốc lá.
Khoảng 87% UTP được nghĩ là do hút thuốc lá hoặc phơi nhiễm khói thuốc lá
thụ động. Mức độ tăng nguy cơ phụ thuộc vào: tuổi bắt đầu hút(hút càng sớm
nguy cơ càng cao), số bao năm(càng lớn nguy cơ càng cao), thời gian hút
càng dài (nguy cơ mắc bệnh càng lớn), hút thuốc nguy cơ UTP cao gấp 10 lần
so với người không hút thuốc. Theo Kthryn E.(2000), những người hút thuốc
lá 01 bao/ngày trong 40 năm có nguy cơ bị UTP cao hơn người hút 02


6


bao/ngày trong 20 năm.
Ở quy mô quần thể, mức tiêu thụ thuốc lá tăng lên cũng kéo theo tỉ lệ
mới mắc tăng lên vào khoảng thời gian 20-30 năm sau đó. Xu hướng sẽ là
ngược lại khi mức độ tiêu thụ thuốc lá giảm xuống. Ngoài ra, nhiều nghiên
cứu cũng chỉ ra rằng, những người không trực tiếp hút thuốc lá nhưng hít phải
khói thuốc, hay hút thuốc lá thụ động cũng sẽ có nguy cơ mắc UTP cao hơn
từ 1,4 - 2,0 lần [17].
1.2.2. Phơi nhiễm bụi, hóa chất trong lao động.
Có khoảng 15% UTP ở nam giới và 5% UTp ở nữ giới là do phơi
nhiễm nghề nghiệp. Nhiều tác nhân phơi nhiễm nghề nghiệp được phát hiện
làm tăng cao nguy cơ mắc UTP, trong đó lớn nhất là phơi nhiễm với amiăng.
Các nghiên cứu chỉ ra rằng, những công nhân không hút thuốc lá nhưng có
phơi nhiễm với amiăng có nguy cơ mắc UTP cao gấp 8 lần những công nhân
không hút thuốc lá và không phơi nhiễm với amiăng. Khi cộng hưởng với tình
trạng hút thuốc lá, nghĩa là vừa hút thuốc vừa phơi nhiễm với amiăng , nguy
cơ UTP có thể tăng lên gấp 45 lần so với nguy cơ của những người không hút
thuốc lá và không phơi nhiễm với amiăng.
Ngoài amiăng, nhiều phơi nhiễm hóa chất trong công nghiệp cũng được
cho rằng làm tăng nguy cơ mắc UTP. Những hóa chất này bao gồm asen,
sulfur, dioxide, ete, formandehyde, crôm, hydrocarbon thơm đa nguyên tử,
niken, silicat, sợi nhân tạo, radon và bức xạ ion hóa. Những phơi nhiễm này
liên quan đến nhiều ngành công nghiệp khác nhau như công nghiệp năng
lượng hạt nhân, chế tạo ô tô, đúc và luyện kim, kính, gốm, cách nhiệt, vật
liệu, hóa dầu, đóng tàu, sơn và khai mỏ [6], [16].
1.2.3. Ô nhiễm không khí.
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng, UTP ở khu vực đô thị phổ biến hơn khi
vực nông thôn. Có thể xu hường này tồn tại là do các yếu tố nhiễu như mức


7


độ phổ biến của tình trạng hút thuốc lá, phơi nhiễm nghề nghiệp. Tuy nhiên,
các nghiên cứu phân tích dựa trên kết quả tổng hợp từ nhiều nghiên cứu vẫn
cho rằng tình trạng ô nhiễm không khí ở khu vực đô thị cũng góp phần làm
tăng thêm nguy cơ mắc UTP.
1.2.4. Chế độ dinh dưỡng.
Có nhiều bằng chứng cho thấy chế độ dinh dưỡng với nhiều hoa quả và
rau xanh là yếu tố bảo vệ đối với nhiều loại ung thư, đặc biệt là UTP. Các loại
vitamin và khoáng chất có tác dụng giảm nguy cơ mắc ung thư như betacarotene và các loại carotenoid khác, vitamin A, E, selenium, C, D, canxi và
axit folic tự nhiên. Các thành phần này có tác động đến quá trình hình thành
ung thư bằng cách ngăn ngừa sự tổ hợp lại AND, kiểm soát hoạt động của
hormone tăng trưởng hay cải thiện mức độ phản ứng của hệ miễn dịch. Loại
vitamin có mối liên quan chặt chẽ nhất đối với UTP là beta-carotene(tiền chất
của vitamin A), vitamin A và các chất tổng hợp có cấu trúc vitamin A [16].
1.2.5. Các yếu tố nguy cơ khác.
Với yếu tô di truyền, một số nghiên cứu cho thấy những người có thành
viên khác trong gia đình mắc UTP có nguy cơ mắc cao hơn. Đặc điểm này có
thể do sự thừa hưởng của một đoạn gene trên nhiễm sắc thể 6q23-25, ảnh
hưởng đến tính mẫn cảm với UTP. Các gene này tác dộng đến khả năng chỉnh
sửa AND bị biến đổi và kiểm soát quá trình nhân lên của tế bào.
Tuổi: UTP hay gặp ở lứa tuổi 35-75, vơi đỉnh cao ở lứa tuổi 55-65.
Giới: Nam gặp nhiều hơn nữ, tỉ lệ nam/nữ khoảng 6:1. Tại Việt Nam, từ
trước năm 1994 tỉ lệ mắc nam/nữ khoảng 8:1; hiện nay tỉ lệ này chỉ còn 4:1.
Yếu tố gen trong UTP: UTPTBN và UTPKTBN khác nhau về đặc
trưng hình thái, phương pháp điều trị và tiên lượng. Sự khác nhau này có liên
quan đến những khác nhau về phân tử giữa các kiểu mô bệnh học, gồm cả
những gen có ản hưởng đến chu kỳ tế bào [6].


8


1.3. Triệu chứng lâm sàng
Triệu chứng lâm sàng của ung thư phổi biểu hiện qua 4 hội chứng: hội
chứng phế quản, hội chứng nhiễm trùng, hội chứng chèn ép (liên quan đến sự
lan tỏa tại chỗ hoặc vùng của khối u) và hội chứng cận ung thư.
1.3.1. Hội chứng phế quản
- Ho : ho là triệu chứng thường gặp (tỷ lệ 45-75% các trường hợp), tính
chất thay đổi, thường ho kéo dài, ho khan hoặc có đờm, không đáp ứng với ho
thông thường.
- Ho máu: gặp ở khoảng 27-50% các trường hợp, khối lượng thường ít,
ho máu lẫn đờm, thường xuất hiện vào buổi sáng, tăng dần, chuyển màu sắc
từ đỏ sang đen. Ho máu là dấu hiệu báo động giúp bác sĩ chỉ định soi phế
quản cho bệnh nhân. Một số trường hợp có thể ho ra máu lẫn mủ, đây alf dấu
hiệu chứng tỏ khối u dã bị hoại tử hoặc bội nhiễm.
- Khạc đờm: thường là đờm trong khi có ung thư phế quản phế nang.
Nếu có bội nhiễm sẽ có đờm xanh, vàng thường do viêm mủ sau tắc phế
quản.
- Khó thở: khó thở tăng dần do tắc phế quản hoặc do các biến chứng như
tràn dịch màng phổi, xẹp phổi...Tỷ lệ gặp trong ung thư phổi là 37-50%.
- Ngoài ra có thể nghe thấy tiếng ran rít, ran ngáy khi có tắc nghẽn phế
quản [1].
1.3.2. Hội chứng nhiễm trùng phế quản phổi cấp hoặc bán cấp.
- Viêm phổi, áp xe phổi sau chỗ hẹp phế quản do u chèn ép.
- Nhiễm khuẩn có thể kéo dài hay tái phát nhiều lần với các triệu chứng:
sốt, đau ngực, ho có đờm lẫn mủ, có hội chứng đông đặc, nghe phổi có ran rít
khu trú, ran ẩm, ran nổ, X-quang có hình ảnh viêm phổi, xét nghiệm có máu
lắng, bạch cầu và CRP tăng.
- Cần nghĩ tới ung thư phổi khi viêm phổi đã điều trị hết triệu chứng lâm



9

sàng mà hình ảnh X-quang vẫn tồn tại lâu [18], [19].
1.3.3. Hội chứng chèn ép liên quan đến sự lan tràn tại chỗ hay tai vùng
của khối u.
 Đau ngực: gặp ở 25-50% ung thư phổi, không có vị trí đau rõ rệt,
thường đau bên tổn thương, đau kiểu thần kinh liên sườn. Có khi đau quanh
bả vai, mặt trong cánh tay(hội chứng Pancost-Tobias) đó là trường hợp ung
thư ở đỉnh phổi. Đôi khi, triệu chứng đau ngực có thể làm người thầy thuốc
nhầm là đau thần kinh liên sườn.
 Hội chứng chèn ép tĩnh mạch chủ trên:
- Biểu hiện chung: nhức đầu, khó ngủ, làm việc trí óc chóng mệt, tím
mặt, mới đầu có thể chỉ tím môi, má, tai, tăng lên khi có ho và gắng sức. Sau
cùng cả nửa người trên tím ngắt, có lúc đỏ tía.
- Triệu chứng trên gặp nhiều ở ung thư tế bào nhỏ hơn là ung thư không
phải typ tế bào nhỏ và chiếm khoảng 20%.
- Phù: ở mặt, cổ, lồng ngực, có khi cả hai tay, cổ thường to bạnh(phù áo khoác).
- Tĩnh mạch cổ, tĩnh mạch dưới lưỡi to lên, tuần hoàn bang hệ phát triển.
- Các lưới tĩnh mạch nhỏ ở dưới da nở to, ngoằn ngoèo, đỏ hay tím.
 Hội chứng chèn ép thực quản: khó nuốt, nuốt đau.
 Chèn ép khí quản: tiếng thở rít, tiếng Wheezing.
 Triệu chứng chèn ép thần kinh.
1.3.4. Hội chứng cận ung thư


Dấu hiệu toàn thân:

-

Gầy sút, sốt nhẹ, mệt mỏi.


-

Đánh giá toàn trạng dựa theo tiêu chuẩn của TCYTTG (WHO):



0
Hoạt động bình thường.
1
Mệt, hoạt động bị hạn chế ít.
2
Nằm tại giường <50% thời gian ban ngày.
3
Nằm tại giường >50% thời gian ban ngày.
4
Liệt giường.
Các hội chứng cận ung thư:


10

-

Hội chứng Pierre - Marie.

-

Hội chứng nội tiết- thần kinh.




Hội chứng Schwartz- Barter.



Hội chứng Cushing.



Tăng canxi máu.



Chứng vú to ở nam giới. Do u tiết chất giống với HCG hay estrogen.

Hay gặp ở ung thư tế bào lớn và vú to 1 hoặc 2 bên.
Hội chứng Lambert- Eaton: Là hội chứng do rối loạn tự miễn do u có



vai trò như là kháng nguyên kích thích cơ thể sản xuất kháng thể chống lại.
-

Hội chứng cận ung thư huyết học[21]

-

Hội chứng da liễu[21]


1.3.5. Ung thư di căn xa
 Di căn não.
 Di căn xương.
 Di căn gan.
 Di căn tuyến thượng thận.
 Di căn hạch.
 Ngoài ra

còn có di căn da, mô mềm, tụy, ruột, buồn trứng và tuyến giáp…

[2], [20]
1.4. Cận lâm sàng
1.4.1. X-Quang ngực
Đây là xét nghiệm rất quan trọng và không thể thiếu trong chẩn đoán
ung thư phổi. Chụp X-Quang ngực có thể phát hiện các tổn thương có đường
kính từ 1cm trở lên, dưới 1cm thì khó xác định.
- Hình ảnh trực tiếp: đám mờ thường có đường kính trên 3cm, bờ không
rõ, có múi hoặc tua gai, ít khi thấy có vôi hóa trong đám mờ, nếu có thì thường


11

lệch tâm. Khi hoại tử có thể có hình hang thành dày, bờ trên trong gồ ghề.
- Hình ảnh gián tiếp: do u chèn ép vào đường thở tạo nên hình ảnh “khí
cạm”, xẹp phổi, viêm phổi dưới chỗ chít hẹp, hoặc chèn ép vào thần kinh
hoành gây liệt cơ hoành…
- Ngoài ra còn có thể thấy một số hình ảnh di căn trung thất, tràn dịch
màng phổi, hình ảnh xương sườn hay cột sống bị gặm… [1], [5]
1.4.2. Chụp cắt lớp vi tính ngực có tiêm thuốc cản quang tĩnh mạch
Thăm dò này rất có giá trị trong chẩn đoán và xếp giai đoạn TNM. Trên

phim chụp thấy rõ khối u phổi, hạch trung thất, có thể thấy u xâm lấn các
thành phần khác trong lồng ngực, tràn dịch màng phổi, màng tim, hủy xương
sườn, cột sống, xẹp phổi hoặc tổn thương kẽ.
Hình ảnh khối u hay những đám mờ nhỏ, có tỷ trọng cao, ngấm thuốc
cản quang mạnh và thải thuốc nhanh, có thể trên phim X- Quang ta không
phát hiện được.
1.4.3. Kỹ thuật thăm dò khác
- Thăm dò chức năng hô hấp đánh giá khả năng phẫu thuật.
- Siêu âm bụng, chụp cắt lớp vi tính hoặc cộng hưởng từ sọ não, xạ
hình xương toàn thân để đánh giá di căn của khối u.
- Định lượng các dấu ấn ung thư (CEA, Cyfra 21- 1,NSE…) để tiên
lượng và theo dõi tái phát sau mổ, ít có giá trị chẩn đoán xác định.
1.4.4. Nội soi khí- phế quản
Các phương pháp sàng lọc và chẩn đoán bằng xét nghiệm đờm, X
quang, dấu ấn khối u có độ nhậy và độ đặc hiệu tương đối cao cho từng loại tế
bào ung thư phế quản. Nhưng tất cả các phương pháp đó vẫn không xác định
một cách thật chính xác được typ mô bệnh, tế bào của ung thư phế quản [21].
Một phương pháp được đánh giá có vai trò quan trọng nhất trong việc


12

chẩn đoán sàng lọc và chấn đoán xác định UTPQ, đó là soi phế quản ống mềm.
Từ khi ra đời ở những năm cuối cuối của thế kỉ trước (năm 1968), soi
phế quản ống mềm đã mở ra một tiến bộ mới vượt bậc cho việc nghiên cứu
bệnh phổi phế quản nói chung và ung thư phế quản nói riêng. Ở các nước Âu,
Mỹ vào những năm 70 của thế kỉ trước cho đến nay soi phế quản ống mềm
được áp dụng rộng rãi. Ở Việt Nam soi phế quản ống mềm được triển khai áp
dụng đầu tiên năm 1983 ở một số ít bệnh viện, cho đến nay hầu hết các bệnh
viện lớn ở trung ương và các tỉnh có chuyên khoa hô hấp đều có kĩ thuật này.

Với tiến bộ của khoa học kỹ thuật ngày nay đã cho ra đời nhiều loại
máy soi phế quản trong đó có máy soi phế quản huỳnh quang.
Với tiến bộ của khoa học kỹ thuật ngày nay người ta sáng chế ra nhiều
loại máy soi phế quản, trong đó có máy soi phế quản huỳnh quang.
Lịch sử phát triển của hệ thống máy soi phế quản huỳnh quang khởi nguồn từ
sự tìm được tổ chức mô của người tự phát huỳng quang (năm 1911). Năm
1913 Sutro-Burmann đã chứng minh sự tự phát huỳnh quang của khối u và
mô bình thường có sự khác nhau. Năm 1961 Lipson và cộng sự đã tìm ra một
chất hấp thụ ánh sáng đó là Hematoporphyrin D (là một chất chuyển hóa nhân
Hem của hemoglobin). Ông dùng Hematoporphyrin D (HpD) tiêm vào tĩnh
mạch của người bệnh, sau 48 tiếng sau HpD được hấp phụ chọn lọc nhiều ở
khối u, sau đó dùng máy soi phế quản bằng ánh sáng Laser với bước sóng
63nm chiếu vào khối u, với nguyên lý phản ứng hóa học xảy ra giữa HpD và
ánh sáng laser tế bào khối dần dần hoại tử. Do tính độc và tác dụng không
mong muốn của HpD nhiều (bỏng da, niêm mạc phế quản, người bệnh không
được ra ngoài ánh sáng 1 tuần), người ta khuyến cáo không dùng phương
pháp này để chẩn đoán sàng lọc ung thư phế quản.
Năm 1993 Lam và cộng sự đã nghiên cứu và tìm ra sự tự phát huỳnh
quang mà không cần đến HpD bằng một hệ thống máy nội soi ánh sáng huỳnh


13

quang (light Imaging Fluorescence Endoscopie - LIFE).
Hệ thống LIFE được phát triển, dựa trên nguyên tắc mô loạn sản và mô ác
tính giảm tín hiệu tự phát quang so với mô bình thường. Khi nội soi phế quản
nếu bằng ánh sáng trắng các tổn thương tiền ung thư (loạn sản vừa, nặng hoặc
ác tính tại chỗ (CIS) không thể phát hiện được mà khi phủ ánh sáng huỳnh
quang thì thấy rõ tổn thương thể hiện bằng màu đỏ nâu, qua đó giúp bác sĩ nội
soi sinh thiết đúng vị trí tổn thương để xét nghiệm mô bệnh tế bào chẩn đoán

bệnh một cách chính xác
Một số nghiên cứu đã được thực hiện so sánh độ nhậy, độ đặc hiệu
chẩn đoán của nội soi phế quản sử dụng ánh sáng huỳnh quang (LIFE) so với
ánh sáng trắng trong chẩn đoán tổn thương tiền xâm lấn và xâm lấn sớm.
Đến năm 1998 chính Lam và cộng sự đã dụng hệ thống máy này của
hãng Olumpus Nhật Bản (có tên thương mại XILLIX) để tiến hành một
nghiên cứu đa trung tâm cho 173 bệnh nhân, mỗi bệnh nhân được tiến hành
soi phế quản ánh sáng trắng trước, ngay sau đó kiểm tra lại bằng soi ánh sáng
huỳnh quang và họ đã thu được 700 mẫu bệnh phẩm sinh thiết. Kết quả
nghiên cứu dưa ra kết luận: hiệu quả của nội soi phế quản huỳnh quang hơn
hẳn nội soi phế quản ánh sáng trắng, đối với tổn thương loạn sản vừa, loạn
sản nặng hoặc ung thư tại chỗ có độ nhạy 63% [22].
Trong nghiên cứu của Fuso L và cộng sự nhằm đánh giá khả năng
chẩn đoán của soi phế quản huỳnh quang trong việc phát hiện các tổn thương
tiền ung thư phế quản trong nhóm bệnh nhân ngẫu nhiên. Nghiên cứu được
tiến hành trên 93 bệnh nhân đã có một mẫu sinh thiết dương tính. 80 trường
hợp ung thư và 13 trương hợp là loạn sản. AFB có hình ảnh bất thường hoặc
nghi ngờ trong 85 bệnh nhân với độ nhậy 91,4%, độ đặc hiệu 50,7%. Trong
16 bệnh nhân có hình ảnh soi phế quản ánh sáng trắng bình thường, AFB xác
định được những vùng bất thường hoặc nghi ngờ, trong đó 1 trương hợp sinh


14

thiết dương tính. 13 trường hợp được phát hiện qua soi AFB có kết quả mô
học là loạn sản và 1 trương hợp tổn thương ung thư biểu mô tế bào nhỏ. Như
vậy soi phế quản huỳnh quang cho thấy có độ nhậy cao, tăng khả năng chẩn
đoán soi với WLB trong xác định các tổn thương tiền ung thư phế quản, cho
thấy tính hữu dụng của nó trong chẩn đoán sớm ung thư phổi [23].
Trong nghiên cứu của Chiyo M và cộng sự về đánh giá hiệu quả phát

hiện các tổn thương tiền ung thư phế quản của hệ thống soi phế quản hình ảnh
tự phát quang (AFI). Nghiên cứu tiến hành trên 32 bệnh nhân nghi ngờ hoặc
đã biết là ung thư phổi. soi phế quản ánh sáng trắng thông thường (WLB) và
soi phế quản huỳnh quang (LIFE) được thực hiện trước khi sử dụng AFI.
WLB và LIFE phát hiện 62 tổn thương, bao gồm ung thư phổi (n=2), loạn
sản vẩy (n=30), và viêm phế quản (n=30). Bằng cách sử dụng AFI, 24 tổn
thương loạn sản và 2 tổn thương ung thư là máu đỏ tươi, trong khi 25 tổn
thương viêm phế quản là màu xanh. Độ nhậy của tổn thương loạn sản phát
hiện bởi LIFE và AFI tương ứng là 96,7% và 80%. Độ đặc hiệu của AFI
(83,3%) cao hơn đáng kể so với LIFE (36,6%) (p=0,0005) [24].
Trong nghiên cứu của Ikeda N và cộng sự về phát hiện sớm các tổn
thương phế quản qua soi phế quản huỳnh quang (SAFE 3000, Pentax, Tokyo).
Trong 154 bệnh nhân nghiên cứu, có 83 trương hợp đã biết ung thư phổi hoặc
nghi ngờ, 46 trương hợp có bất thương tế bào học đờm, 10 trương hợp tiếp
theo phẫu thuật ung thư phổi và 15 người nghiện thuốc là nặng có triệu chứng
đương hô hấp.Soi phế quản ánh sáng trắng và/hoặc huỳnh quang phát hiện bất
thường ở 166 vị trí và được sinh thiết để đánh giá mối quan hệ giữa phát hiện
qua nội soi và kết quả mô bệnh học. Độ nhậy của soi phế quản ánh sáng trắng
đối với CIS + loạn sản là 65% và 90% trong soi phế quản huỳnh quang [25].
Như vậy có thể thấy rằng soi phế quản huỳnh quang có độ nhạy cao
hơn vì nó có khả năng phát hiện những tổn thương niêm mạc phế quản khi độ


15

dày của lớp niêm mạc chỉ hơn độ dày bình thường 0,2mm và đường kính tổn
thương bề mặt niêm mạc phế quản chỉ một vài mm trong khi đó soi phế quản
ánh sáng trắng khó hoặc không thể phát hiện được những tổn thương dạng
này. Chính vì vậy nghiên cứu dùng kỹ thuật nội soi phế quản huỳnh quang
cho những đối tượng nguy cơ cao (những người nghiện hút thuốc lá và những

người hít phải khói thuốc lá lâu năm, tiếp xúc tại nhà hoặc nơi làm việc với
khí radon hoặc amiăng và những người có tiền sử xạ trị hoặc có tiền sử gia
đình bị ung thư phổi...) để phát hiện ung thư phế quản giai đoạn sớm (tiền
ung thư, tiền xâm lấn hoặc ung thư tại chỗ) mà soi phế quản thông thường
khó, hoặc không phát hiện được [15], [26], [27].
1.4.5. Sinh thiết xuyên thành ngực
Sinh thiết phổi xuyên thành ngực dưới sự hướng dẫn của siêu âm, XQ
hoặc CLVT là những phương pháp rất có giá trị để chẩn đoán tế bào và mô
bệnh học cho những BN có nghi ngờ tổn thương ác tính ở phổi. STXTN có
vai trò đặc biệt quan trọng trong chẩn đoán các u ở ngoại vi, khi mà nội soi
phế quản không tiếp cận được. Hiện nay, kỹ thuật STXTN dưới hướng dẫn
của chụp CLVT được coi kỹ thuật có giá trị chẩn đoán cao và an toàn cho
những tổn thương ở phổi và trung thất.
1.5. Phân loại mô bệnh học.
1.5.1. Ý nghĩa của phân loại mô bệnh học ung thư phổi.
Do tính phổ biến và độ ác tính cao, kết quả điều trị hạn chế nên UTP
được nghiên cứu từ rất sớm và khá kĩ lưỡng. Một trong những vấn đề quan
tâm của các nhà lâm sàng và bệnh học là việc định type mô bệnh học. Từ
những năm đầu của thế kỉ XX, các nhà y học đã cố gắng tìm hiểu nguồn gốc,
sự biệt hóa, các thành phần của mô u (Marchesani- 1924) và đưa ra những
khái niệm đầu tiên về định type mô bệnh học cho loại ung thư này.


16

1.5.2. Phân loại mô bệnh học của ung thư phổi
Theo phân loại của Tổ chức Y tế thế giới 1999, UTP chia làm 9 typ.
- Ung thư biểu mô vảy(UTBMV).
- Ung thư biểu mô tế bào nhỏ.
- Ung thư biểu mô tuyến.

- Ung thư biểu mô tế bào lớn.
- Ung thư biểu mô tuyến - vảy.
- Ung thư biểu mô với các thành phần đa hình, sacom và dạng sacom.
- U cacxinoit.
- Ung thư biểu mô typ tuyến nước bọt.
-

Ung thư biểu mô không xếp loại.

1.5.3. Chẩn đoán giai đoạn ung thư không tế bào nhỏ theo AJCC VÀ UICC
2009.
T: Khối u nguyên phát
Tx
Không đánh giá được khối u.
Tis
Khối u khu trú tại chỗ.
T0
Không thấy khối u nguyên phát.
Khối U < 3cm, được bao bọc bởi phổi hoặc màng phổi tạng, không
T1

T2

xâm lấn PQ thùy.
T1a
Khối u < 2cm.
T1b
2cm < Khối u <3cm.
Tiss
Khối u bề mặt kích thước bất kỳ nhưng không vượt quá

thành khí quản hoặc PQ gốc.
3cm < Khối u < 7cm hoặc có bất kỳ đặc điểm
- Xâm lấn vào màng phổi tạng.
- Tổn thương tại PQ cách carina >= 2cm.


17

- Xẹp phổi tắc nghẽn lan toả tới rốn phổi nhưng không tổn
thương toàn bộ phổi.
T2a
3cm < khối u < 5cm.
T2b
5cm < khối u < 7cm.
Khối U > 7cm hoặc có bất kỳ đặc điểm.
- Xâm lấn trực tiếp vào màng phổi trung thất thành ngực, vòm
hoành, TK hoành, màng ngoài tim.

T3

- Tổn thương PQ cách carina < 2cm.
- Xẹp phổi, viêm tắc nghẽn toàn bộ phổi.
- Xuất hiện khối u khác ở cùng thùy.
Khối u có kích thước bất kỳ nhưng xâm lấn vào tim và mạch máu

T4

lớn, TK thanh quản quặt ngược, thực quản, thân các đốt sống,carina

Xuất hiện khối u khác ở thùy khác cùng bên.

N: di căn hạch
Nx
No

Không xác định được di căn hạch.
Không có di căn hạch.
Di căn hạch lympho quanh PQ, và/hoặc hạch quanh rốn phổi cùng

N1

bên và những hạch ở trong phổi, kể cả tổn thương xâm lấn trực tiếp.
Di căn vào hạch trung thất cùng bên và hạch dưới carina.
Di căn hạch trung thất đối bên, hạch rốn phổi đối bên, hạch thượng

N2
N3

đòn, hạch cơ thang cùng bên hoặc đối bên.
M: di căn
Mx
Không xác định được di căn.
M0
Không có di căn xa.
Có khối u khác ở thùy phổi đối bên .
M1a

Hoặc khối u với những khối khác ở màng phổi và sự lan tràn màng

M1b


phổi ác tính.
Di căn xa.

1.5.4. Phân loại giai đoạn của ung thư phổi theo UICC 2009.
Giai đoạn
Ia

T
T1a

N
N0

M
M0


18

Ib
IIa
IIb
IIIa
IIIb
IV

.

T1b
T2a

T1a,b
T2a
T2b
T2b
T3
T1-3
T3
T4
T4
T1-4
T bất kỳ

N0
N0
N1
N1
N0
N1
N0
N2
N1
N0,1
N2
N3
N bất kỳ

M0
M0
M0
M0

M0
M0
M0
M0
M0
M0
M0
M0
M1a.b


19

CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại Bệnh viện Phổi Trung Ương.
Thời gian nghiên cứu: từ tháng 01/2016 đến tháng 06/2016
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Tất cả các hồ sơ bệnh án của các bệnh nhân được chẩn đoán ung thư phế
quản trong 6 tháng đầu năm 2016 tại bệnh viện phổi TW.
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh án nghiên cứu
- Những bệnh nhân có bệnh án đã được chẩn đoán UTPQ qua kết quả
mô bệnh học tại bệnh viện phổi TW, có được soi phế quản huỳnh quang.
- Có đầy đủ các xét nghiệm liên quan.
2.1.2 Tiêu chuẩn loại trừ
- Các hồ sơ của bệnh nhân ung thư phế quản không có đầy đủ xét
nghiệm, không có kết quả soi phế quản huỳnh quang.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu:

- Nghiên cứu mô tả lâm sàng cắt ngang hồi cứu dựa trên hồ sơ bệnh án
tại bệnh viện Phổi Trung Ương từ tháng 1/2016 đến tháng 6/2016.
2.2.2. Phương pháp chọn mẫu:
Chọn mẫu theo phương pháp chọn mẫu toàn bộ, không xác suất(mẫu
thuận tiện) có chủ đích (những bệnh nhân được soi phế quản huỳnh quang).
2.3. Nội dung nghiên cứu
2.3.1. Nghiên cứu về các thông tin chung
+ Tuổi, giới
+ Ngày vào được hỏi bệnh và khám bệnh, được NSPQ huỳnh quang


20

+ Tiền sử tiếp xúc các yếu tố nguy cơ.
+ Tiền sử hút thuốc lá
+ Tiền sử các bệnh nội khoa
+ Tiền sử gia đình có người mắc ung thư
Các thông tin thu thập được ghi chép theo một mẫu bệnh án nghiên cứu
2.3.2. Nghiên cứu về các đặc điểm lâm sàng
+ Lý do vào viện: đau ngực, ho kéo dài, ho ra máu, khó thở, nấc, nuốt
nghẹn, khàn tiếng, gầy sút cân, sốt, mệt mỏi.
+ Triệu chứng lâm sàng:
+ Triệu chứng toàn thân: gầy sút cân, sốt, hạch ngoại biên.
+ Triệu chứng cơ năng: đau ngực, ho kéo dài, ho ra máu, khó thở, nấc,
nuốt nghẹn, khàn tiếng.
+ Triệu chứng thực thể: HC cận u, HC Pieerre Marie, HC chèn ép
TMCT, HC 3 giảm, HC Pancoast Tobias, các triệu chứng nghe phổi (ran nổ,
ẩm, rít, ngáy)
2.3.3. Nghiên cứu về đặc điểm tổn thương Xquang phổi thẳng
+ Hình ảnh tổn thương trên XQ: mô tả các dạng tổn thương mờ dạng u,

tổn thương nốt, thâm nhiễm, tràn dịch màng phổi, xẹp phổi, trung thất, thả
bóng 2 bên, áp xe phổi. Hình dạng các khối u, bờ, mật độ, phá hủy, xâm lấn...
+ Vị trí tổn thương: 2 phổi, phổi trái, phổi phải
2.3.4. Nghiên cứu về đặc điểm tổn thương trên phim CLVT ngực.
+ Hình thái tổn thương trên phim chụp CLVT: u, hạch trung thất, xâm
lấn của khối u, TDMP, xẹp phổi, áp xe phổi.
+ Vị trí tổn thương trên phim CLVT: thùy trên P, thùy giữa P, thùy dưới
P, thùy trên T, thùy dưới T.
+ Tính chất xâm lấn của khối u vào: phế quản gốc, tim và mạch máu


21

lớn, màng phổi lá tạng, thành ngực, cơ hoành, đốt sống.
+ Vị trí hạch trên phim chụp CLVT: quanh PQ hoặc rốn phổi cùng bên,
trung thất cùng bên, rốn phổi đối bên, trung thất đối bên.
2.3.5. Nghiên cứu về nội soi phế quản huỳnh quang
- Kết quả nội soi phế quản ánh sáng huynh quang:
+ Tất cả các bệnh nhân được soi phế quản theo quy trình của Khoa Nội
soi Bệnh viện Phổi TƯ. Phương pháp sinh thiết qua nội soi như sau:
Hỏi tiền sử, bệnh sử, thăm khám lâm sàng và cận lâm sàng trước,
trong và sau thủ thuật. Tiến hành nôi soi phế quản bằng máy nội soi phế quản
huỳnh quang (hãng Karl Storz)
BN gây tê tai chỗ, nội soi thăm khám lần lượt từ thanh quản, khí quản,
carina và các phế quản thùy và phân thùy 2 bên. Tiến hành thủ thuật nội soi
qua giai đoạn, giai đoạn đầu với ánh sáng trắng. Trong giai đoạn này, quan sát
toàn bộ bề mặt niêm mạc của cây khí quản, đánh giá và phân loại tổn thương.
Sau đó chuyển thiết bi sang chế độ ánh sáng huỳnh quang và quan sát lại toàn
bộ bề mặt niêm mạc cây khí phế quản. Trong trường hợp bình thường, trên
hình ảnh nội soi huỳnh quang có màu xanh lá cây, trog trường hợp bất

thường, hình ảnh nội soi huỳnh quang cho vùng giảm tín hiệu màu đỏ nâu.
Tiến hành sinh thiết vào vị trí giảm tín hiệu trên ánh sáng huỳnh quang để làm
xét nghiệm mô bệnh học đồng thời:
+ Mô tả hình thái tổn thương trong soi phế quản: thâm nhiễm, u sùi, đè
ép từ ngoài vào.
+ Mô tả vị trí tổn thương trong soi phế quản: thùy trên P, thùy giữa P,
thùy dưới P, PQ gốc P, thùy trên T, thùy dưới T, PQ gốc T, khí quản, carina bè
to.
Trong trường hợp nội soi phế quản ánh sáng huỳnh quang cho kết quả
bình thường thì chúng tôi sinh thiết cựa phế quản thuỳ có chứa tổn thương


22

(nếu phim lồng ngực có tổn thương), hoặc sinh thiết một cựa phế quản thuỳ
bất kỳ nào của 2 phổi làm một (01) xét nghiệm mô học. Sau kết thúc thủ
thuật, bệnh nhân được theo dõi để đánh giá các tai biến của thủ thuật.
- Giai đoạn lâm sàng theo AJCC 2010: dựa trên lâm sàng, Xquang phổi thẳng
– nghiêng, CT Scanner lồng ngực, bụng, não, MRI, xạ hình xương…
- Hình ảnh tổn thương trên NSPQ huỳnh quang:

Hình 2. 1: Phủ ánh sáng huỳnh quang trên vùng tổn thương phát hiện qua
nôi soi ánh sáng trắng

Hình 2.2: Hình ảnh giảm tín hiệu của ánh sáng huỳnh quang ở vùng ánh
sáng trắng không phát hiện thương tổn
2.4. Kỹ thuật khống chế sai số
+ Thống nhất biểu mẫu thu thập thông tin cho tất cả các bệnh nhân
nghiên cứu.
+ Thống nhất tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân.



23

2.5. Phân tích số liệu
- Tất cả các số liệu được tính theo phần trăm (%), giá trị trung bình, độ
lệch chuẩn theo từng đặc điểm của biến số nghiên cứu (định tính,
định lượng).
- Các so sánh và kiểm định được sử dụng bằng test

2

hoặc T-Student

với p<0,05.
- Sau đó tính độ nhậy (Se), độ đặc hiệu (Sp) cuả NSPQ huỳnh quang
theo phương pháp của Housset (1992)
Công thức tính Se, Sp của kỹ thuật.
Dương tính thật
Độ nhạy: Se

=

%
Dương tính thật + Âm tính giả

Độ đặc hiệu: Sp=

Âm tính thật
Âm tính thật + Dương tính giả


%

- Các thông tin thu thập được nhập và phân tích theo chương trình
phân mềm SPSS 20.0 của Tổ chức Y tế Thế giới.
2.6. Đạo đức trong nghiên cứu
+ Có sự cho phép của bệnh viện.
+ Danh sách bệnh nhân không nêu tên đầy đủ.
+ Kết quả nghiên cứu chỉ để áp dụng phục vụ khám và điều trị cho bệnh nhân.
2.7. Hạn chế trong nghiên cứu
Là nghiên cứu hồi cứu, số lượng bệnh nhân theo tiêu chuẩn lựa chọn
không nhiều.


24

CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1 Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu:
Gồm 105 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn được đưa vào nghiên cứu.
3.1.1. Phân bố bệnh nhân theo tuổi và giới

Giới
26.50%
Nam
Nữ
73.50%

Biểu đồ 3.1: Phân bố bệnh nhân theo giới
Nhận xét: Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ bệnh nhân nam chiếm ưu thế

lớn với tỷ lệ 73%, bệnh nhân nữ chiếm 27%.
Bảng 3.1. Phân bố bệnh nhân theo nhóm tuổi (n= 105)
TT
1
2
3
4
5

Độ tuổi
 40
41 - 50
51 - 60
61 - 70
>70
Tổng

Số bệnh nhân
5
11
37
38
14
105

Tỷ lệ %
4,8
10,5
35,2
36,2

13,3
100


25

Nhận xét: Độ tuổi trung bình của bệnh nhân UTPQ là 60,1 ± 10,1. Độ tuổi
gặp nhiều nhất trong nhóm bệnh nhân từ 61-70 tuổi chiếm 36,2%. Độ tuổi
gặp ít nhất trong nhóm bệnh nhân <40 tuổi chiếm 4,8%.
3.1.2. Phân bố bệnh nhân theo nghề nghiệp
43.8
45
40
31.4

35
30
25
20

14.3

15
5.7

10

4.8

5

0

Làm ruộng

Viên chức

Hưu trí

Công nhân

Tự do

Biểu đồ 3.2. Phân bố bệnh nhân theo nghề nghiệp
Nhận xét : Phân bố nghề nghiệp trên bệnh nhân UTPQ cao nhất ở nhóm bệnh
nhân làm ruộng chiếm 43,8%, thấp nhất ở nhóm bệnh nhân làm nghề công
nhân, chiếm 4,8%.


×