Tải bản đầy đủ (.docx) (121 trang)

DẠY NGHỀ CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG đáp ỨNG yêu cầu xây DỰNG NÔNG THÔN mới ở HUYỆN THANH MIỆN TỈNH hải DƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 121 trang )

B GIO DC V O TO
TRNG I HC S PHM H NI


NGUYN TH T ANH

Dạy nghề cho ngời lao động
đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn
mới
ở huyện Thanh Miện - tỉnh Hải Dơng
Chuyờn ngnh : Giỏo dc v phỏt trin cng ng
Mó s

: Thớ im

LUN VN THC S KHOA HC GIO DC

Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS. Trn Th L Thu

1


Hà Nội, 2016
LỜI CẢM ƠN

Để thực hiện và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự quan tâm giúp
đỡ tận tình, sự đóng góp quý báu của nhiều cá nhân và tập thể
Tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Trần Thị Lệ Thu đã tận tình
hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn UBND huyện, các cơ quan chuyên môn thuộc
UBND huyện, các đoàn thể chính trị-xã hội huyện Thanh Miện; UBND các xã: Tân


Trào, Lê Hồng, Cao Thắng, Thanh Giang và Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp hướng
nghiệp dạy nghề Thanh Miện đã tạo điều kiện, cung cấp số liệu, tư liệu khách quan
giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin cảm ơn sự động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện của bạn bè, đồng nghiệp
và người thân trong quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài.
Một lần nữa, tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 06 năm 2016
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Tú Anh

2


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
BNN & PTNT
CNH - HĐH
CSSX
DN
HĐND
KHKT
KH - CN
KT – TH – HN - DN
LĐNT
LĐTB& XH
MTTQ
NTM
THCS
THPT

UBND
XHCN

3

Nghĩa là
Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn
Công nghiệp hóa – hiện đại hóa
Cơ sở sản xuất
Doanh nghiệp
Hội đồng nhân dân
Khoa học kỹ thuật
Khoa học – Công nghệ
Kỹ thuật – Tổng hợp – Hướng nghiệp – Dạy nghề
Lao động nông thôn
Lao động thương binh và xã hội
Mặt trận tổ quốc
Nông thôn mới
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông
Ủy ban nhân dân
Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC

4


DANH MỤC BẢNG


5


DANH MỤC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Phân loại lao động tại 4 xã
Biểu đồ 2.2: Lao động qua đào tạo phân theo giới tính tại 4 xã

6


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, nước ta có trên 90 triệu dân, trong đó có khoảng 48,2 triệu lao
động và hàng năm được bổ sung mới khoảng 1,5 triệu lao động. Lực lượng lao động
nông thôn là 35,9 triệu người, chiếm 74,46% lao động xã hội; lao động làm việc
trong nhóm ngành nông - lâm - ngư nghiệp là 21,8 triệu người chiếm 60,72%, còn
lại là lao động phi nông nghiệp (Nguồn: Tổng cục dạy nghề - Bộ Lao động thương
binh xã hội). Nông thôn được coi là khu vực cung cấp lao động chủ yếu cho nền
kinh tế. Song, thực tế lao động ở nông thôn nói chung đang chủ yếu tập trung vào
nông nghiệp độc canh, ít được đào tạo, thiếu kiến thức áp dụng khoa học công nghệ
vào sản xuất, thiếu việc làm trong thời gian nông nhàn do vậy năng suất lao động
thấp, thu nhập thấp và bấp bênh.
Thời gian nông nhàn hầu hết lao động trong lĩnh vực nông nghiệp trở thành
lao động phổ thông tự do ngay cả trong khu vực nông thôn và thành thị, thiếu thiết
bị bảo hộ lao động, làm việc trong điều kiện không an toàn, không được hưởng một
số quyền lợi của người lao động,…Vì vậy, đã xảy ra nhiều tai nạn đáng tiếc mà
không nhận được sự hỗ trợ từ xã hội và người sử dụng lao động. Việc di chuyển tự
do lao động từ nông thôn ra thành thị dẫn tới nhiều vấn đề xã hội nảy sinh, tệ nạn xã
hội, tội phạm có chiều hướng gia tăng. Nguyên nhân của tình trạng trên là do lao

động nông thôn chủ yếu là lao động phổ thông, tỉ lệ lao động được đào tạo, dạy
nghề thấp. Vì vậy, ngoài làm nông nghiệp, lao động nông thôn không có ngành,
nghề khác để phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống gia đình.
Nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của lao động nông thôn trong thực hiện
chính sách nông nghiệp, nông dân và nông thôn, tại Hội nghị lần thứ 7, Khoá X,
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày
05/8/2008, Nghị quyết chỉ rõ: “Không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
của dân cư nông thôn, hài hoà giữa các vùng, tạo sự chuyển biến nhanh hơn ở các
vùng còn nhiều khó khăn; nông dân được đào tạo có trình độ sản xuất ngang bằng

7


với các nước tiên tiến trong khu vực và đủ bản lĩnh chính trị, đóng vai trò làm chủ
nông thôn mới....Phấn đấu đến năm 2020 lao động nông nghiệp còn khoảng 30%
lao động xã hội, tỉ lệ lao động nông thôn qua đào tạo đạt trên 50%”. Để cụ thể hoá
Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Thủ tướng Chính
phủ đã phê duyệt đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020 “ Mục
tiêu giai đoạn 2011 – 2015, đào tạo nghề cho 5,2 triệu lao động nông thôn; giai đoạn
2016 – 2020, đào tạo cho 6,0 triệu lao động nông thôn”. Đó là đường lối, chính sách
đúng đắn và có ý nghĩa quan trọng nhằm đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp nông thôn, góp phần ổn định chính trị, phát triển kinh tế -xã
hội đất nước nhanh và bền vững. Đồng thời, nhằm thực hiện các nhiệm vụ mà Nghị
quyết số 26-NQ/TW đề ra, Chính phủ đã có Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày
16/4/2009 ban hành bộ tỉêu chí quốc gia về nông thôn mới, Quyết định 800/QĐTTg ngày 04/6/2010 phê duyệt chương trình Mục tiêu quốc gia về xây dựng nông
thôn mới 2010 - 2020.
Thanh Miện nằm cách trung tâm thành phố Hải Dương 25 km về phía Tây
Nam, có trục đường Quốc lộ 38B chạy qua trung tâm huyện. Đến nay, Thanh Miện
vẫn là huyện thuần nông, cơ cấu kinh tế năm 2010 là: Nông nghiêp, thuỷ sản 45,6
%; Công nghiệp, xây dựng 20,9%; Dịch vụ, thương mại 33,5 %. Dân số là 123.322

người, có 76.886 trong độ tuổi lao động trong đó chủ yếu là lao động nông thôn. Số
lao động đi làm kinh tế xa nhà trên 6 tháng, gồm cả lao động xuất khẩu là 16.800,
chiếm 21,85% lao động trong độ tuổi (Nguồn: Phòng Thống kê - UBND huyện
Thanh Miện). Mặc dù trong thời gian qua Huyện ủy – HĐND – UBND – Uỷ ban
MTTQ, các ngành, đoàn thể trong toàn huyện đã có nhiều biện pháp trong công tác
dạy nghề, bồi dưỡng kiến thức cho lao động nông thôn nhằm giải quyết việc làm,
nâng cao thu nhập cho người lao động. Song, khả năng tiếp nhận khoa học công
nghệ ứng dụng vào sản xuất của lao động nông thôn còn hạn chế dẫn đến năng xuất
lao động thấp, thu nhập thấp; tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp, lao động nông
thôn di chuyển ra thành phố và các khu công nghiệp tìm kiếm việc làm còn khá phổ

8


biến và chiếm tỉ lệ cao. Để góp phần giải quyết vấn đề này tôi tiến hành nghiên cứu
đề tài “Dạy nghề cho người lao động đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới
ở huyện Thanh Miện – tỉnh Hải Dương”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích thực trạng công tác dạy nghề và định hướng xây dựng
nông thôn mới. Đề xuất giải pháp đào tạo nghề nhằm góp phần nâng cao số lượng,
chất lượng lao động nông thôn được dạy nghề để phục vụ cho việc đáp ứng yêu cầu
xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Đào tạo nghề cho người lao động nông thôn trong độ tuổi lao động có nhu cầu
học nghề.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Dạy nghề cho người lao động trong xây dựng nông thôn mới ở huyện Thanh
Miện - tỉnh Hải Dương.
4. Giả thuyết khoa học

Dạy nghề cho người lao động tron xây dựng nông thôn mới trên địa bàn
huyện Thanh Miện - tỉnh Hải Dương đã đạt được những hiệu quả nhất định, tuy
nhiên vẫn còn rất nhiều hạn chế. . Nếu nghiên cứu, khảo sát thực trạng công tác dạy
nghề trên địa bàn huyện Thanh Miện và điều tra thực trạng dạy nghề hiện nay tại 4
xã, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp mang tính khoa học, phù hợp với thực
tiễn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả công tác dạy nghề trên địa bàn huyện Thanh
Miện – tỉnh Hải Dương.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của công tác dạy nghề cho người lao động
trong xây dựng nông thôn mới
5.2. Khảo sát, phân tích thực trạng dạy nghề cho người lao động trong xây
dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Thanh Miện – tỉnh Hải Dương.

9


5.3. Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác dạy nghề cho
người lao động trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Thanh Miện –
tỉnh Hải Dương.
6. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Thời gian: đề tài nghiên cứu thực trạng công tác dạy nghề lao động nông
thôn 3 năm qua từ năm 2012 đến năm 2015 và định hướng, đưa ra giải giáp cho
công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
Địa bàn nghiên cứu: nghiên cứu trên địa bàn huyện Thanh Miện, tỉnh Hải
Dương, trong đó lựa chọn điểm nghiên cứu đại diện ở 4/19 xã là: Tân Trào, Lê
Hồng, Cao Thắng và Thanh Giang.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp và hệ thống hóa những tài liệu có liên quan
đến vấn đề nghiên cứu của đề tài thông qua các văn bản của Nhà nước, Bộ lao động

thương binh và xã hội, Tổng cục dạy nghề, Bộ Giáo dục và Đào tạo, các tài liệu và
công trình nghiên cứu khoa học.
7.2. Phương pháp điều tra
Điều tra bằng phiếu hỏi, phỏng vấn người trong độ tuổi lao động, cán bộ
quản lý để có thể thu thập thông tin về thực trạng hoạt động đào tạo và công tác dạy
nghề cho người lao động trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Thanh
Miện – tỉnh Hải Dương.
7.3. Phương pháp chuyên gia
Dựa vào kinh nghiệm thực tiễn của lãnh đạo các cấp ủy Đảng, chính quyền,
các ban, ngành, đoàn thể, người lao động, cán bộ bằng cách phỏng vấn trực tiếp.
7.4. Phương pháp thống kê
Dùng phương pháp thống kê xử lý và phân tích những số liệu thu thập được
từ khảo sát thực trạng công tác dạy nghề cho người lao động.

10


8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn bao gồm 3 chương cụ thể như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận về dạy nghề cho người lao động trong xây dựng
nông thôn mới.
Chương 2: Thực trạng dạy nghề cho người lao động trong xây dựng nông
thôn mới ở huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương giai đoạn 2012 - 2015.
Chương 3: Đề xuất một số giải pháp nâng cao công tác dạy nghề cho người
lao trong xây dựng nông thôn mới ở huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương

11



Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DẠY NGHỀ CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1.1. Sơ lược lịch sử nghiên cứu về dạy nghề cho người lao động
1.1.1. Ở nước ngoài
Cuốn “Của cải của các dân tộc” năm 1776 cuốn sách kinh điển lớn đầu tiên
về thuyết kinh tế của nhà kinh tế học Adam Smitd cũng đã có nhiều quan tâm đến
vấn đề lao động khi ông dành khá nhiều cho những vấn đề về phân công lao động;
nguyên tắc chi phối việc phân công lao động, mức độ phân công lao động bị hạn
chế bởi quy mô của thị trường; tiền công lao động; tiền công và lợi nhuận trong
cách sử dụng lao động và vốn…Điều hết sức quan trọng là trong nghiên cứu của
mình khi đi tìm nguồn gốc tạo ra của cải của các dân tộc ông đã nhấn mạnh vai trò
của sự phân công lao động và cho rằng người ta chỉ trao đổi hàng hóa khi nhận thức
được là “chuyên môn hóa có lợi cho tất cả các bên”. Ông đã chứng minh kết quả
của việc phân công lao động bằng một thí dụ mà chính ông đã biết. Ông nhận thức
rằng, sự phân công lao động không những làm cho công việc của con người dễ chịu
hơn, họ làm được nhiều sản phẩm hơn mà nó còn tăng cường những quan hệ phụ
thuộc lẫn nhau trong xã hội. Những vấn đề cơ bản trên là nền tảng lý luận về
chuyển dịch cơ cấu lao động, coi đó như là tất yếu nếu muốn sản xuất phát triển, tạo
thêm của cải cho các dân tộc. Đây là cơ sở quan trọng cho sự nghiên cứu về phân
công lao động và tác động của nó đến nền kinh tế, trong đó có vấn đề đặt ra đối với
các hoạt động đào tạo nghề cho lao động nông thôn [15; 131-177].
Joseph E.Stinglitz là nhà kinh tế học, nhà giáo dục với tác phẩm “Kinh tế
công cộng” năm 1995 được ấn hành tại New York và London cũng đã có những
nghiên cứu về các vấn đề lao động và việc làm như vấn đề về thuế và tác động của
thuế đến lao động; những tác động đến lao động. Những nghiên cứu này được coi là
những nghiên cứu về sự tác động của các cá nhân tới chuyển dịch lao động gia đình
từ hoạt động kinh tế này sang hoạt động kinh tế khác. Đây là những vấn đề tạo lập
những cơ sở cho nghiên cứu về đào tạo nghề cho lao động nông thôn [16; 195-200].


12


Michael P.Todaro với tác phẩm “Kinh tế học cho thế giới thứ ba” năm 1998
đã giới thiệu kết quả nghiên cứu về những nguyên tắc, vấn đề và chính sách phát
triển…đã dành thời lượng đáng kể cho vấn đề nông nghiệp nông thôn, về lao động
và ảnh hưởng của nó đến phát triển kinh tế xã hội, những vấn đề về dân số, nghèo
đói và tấn công vào nghèo đói; vấn đề thất nghiệp những khía cạnh của một số vấn
đề toàn cầu; di cư từ nông thôn ra thành thị: lý thuyết và chính sách; nông nghiệp trì
trệ và các cơ cấu ruộng đất. Những vấn đề trên có thể tạo lập những cơ sở lý thuyết
cơ bản cho những vấn đề về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và vấn đề đào tạo nghề
cho lao động nông thôn của nhiều nước, trong đó có nước ta [18; 223-243].
E. Wayne Nafziger, trong tác phẩm “Kinh tế học cho thế giới thứ ba” năm 1998
đã có những phần nghiên cứu rất quan trọng liên quan đến chuyển dịch cơ cấu lao động
và giải quyết việc làm trong chuyển dịch cơ cấu lao động nông nghiệp, nông thôn như:
tài nguyên thiên nhiên, đất đai và khí hậu; sự nghèo đói ở nông thôn và chuyển đổi
nông nghiệp; việc làm, di cư và đô thị hóa; dân số phát triển [11; 125 - 143].
Như vậy, những công trình nghiên cứu ở nước ngoài không những chỉ ra các
vấn đề mang tính quy luật của các vấn đề liên quan đến lao động và người lao động,
mà có một số nội dung gợi mở những giải pháp giải quyết những vấn đề liên quan
đến lao động nông thôn, trong đó có đào tạo nghề cho người lao động. Chính những
yếu tố ấy sẽ đóng góp rất nhiều cho công trình nghiên cứu về dạy nghề cho trong
xây dựng nông thôn mới trong giai đoạn hiện nay.
1.1.2. Ở Việt Nam
Vấn đề đào tạo nghề và đào tạo nghề cho người lao động nông thôn đã được
đề cập nhiều trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước, các công trình nghiên cứu
khoa học dưới nhiều góc độ khác nhau.
Trần Thanh Đức trong tạp chí nghiên cứu và lý luận 10/2000 đã có bài viết
về “Nhân tố con người trong lực lượng lao động sản xuất hiện đại”, trong bài viết
tác giả đã nhấn mạnh vai trò của yếu tố con người trong lực lượng lao động sản xuất

hiện đại và nhấn mạnh yêu cầu của con người đáp ứng sự đòi hỏi của lực lượng sản

13


xuất hiện đại, trong đó có nhấn mạnh vai trò đào tạo của các tri thức, trình độ nghề
cho con người để đáp ứng các yếu tố đó [6; 34].
Nguyễn Quang Huề, Nguyễn Tuấn Doanh có bài viết về “Đào tạo nguồn
nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” trong Tạp chí Thông tin thị
trường lao động, số 2 – 1999. Các tác giả đã nêu bật xu thế của công ngiệp hóa, hiện
đại hóa và những vấn đề đặt ra cho vấn đề đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu
của CNH – HĐH [7; 35-39].
Năm 2000, Trương Văn Phúc có bài viết đăng trên Tạp chí Lao động – Xã
hội số 11/2000, với tiêu đề “Thực trạng lực lượng lao động 1996 – 2000 và một số
vấn đề cần quan tâm trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực 2001 – 2005”. Bài
viết đã tập trung phân tích thực trạng lực lượng lao động trên các mặt và biến động
của nó trong giai đoạn 1996 – 2000; nêu lên những thành tựu và những vấn đề đặt
ra cho phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2001 – 2005, trong đó vấn đề đào tạo
nghề được nhấn mạng như là một trong các giải pháp trọng yếu của hệ thống các
giải pháp [13; 32-36].
Năm 2000, Đại học Kinh tế Quốc dân xuất bản cuốn “Thực trạng và các giải
pháp phát triển kinh tế trang trại trong thời kì CNH, HĐH ở Việt Nam”, nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia. Tuy cuốn sách này tập trung vào các vấn đề của trang trại,
nhưng thực trạng về trình độ chuyên môn của các chủ trang trại, của các lao động
trong trang trại cũng được làm rõ; từ đó những vấn đề đặt ra cho việc nâng cao trình
độ cho chủ trang trại được nêu ra, đặc biệt các giải pháp liên quan đến đào tạo cho
chủ trang trại đã được đề xuất [8; 42-48]. Tuy nhiên, các vấn đề được trình bày trên
phạm vi cả nước và vấn đề đào tạo chủ trang trại chỉ thể hiện một bộ phận nhỏ của
nguồn lao động nông thôn. Vì vậy xét trên phương diện dạy nghề cho người lao
động trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn huyện Thanh Miện, tỉnh Hải

Dương sẽ có những khía cạnh và những vấn đề khác nhau so với công trình trên.
Năm 2000, GS. TS Phạm Đức Thành và TS Lê Doãn Khải đã xuất bản cuốn
“Quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở vùng Bắc Bộ nước ta” [17; 55-62]. Công trình khoa học trên đã hệ thống hóa cơ

14


sở khoa học của quá trình cơ cấu lao động theo hướng CNH – HĐH trong nông
nghiệp, nông thôn Việt Nam; đã đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động
theo hướng CNH – HĐH trong nông nghiệp, nông thôn ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ;
đã đưa ra các quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển dịch
cơ cấu lao động theo hướng CNH – HĐH trong nông nghiệp, nông thôn vùng Đồng
bằng Bắc Bộ đến 2010. Công trình nghiên cứu của tập thể tác giả đã tập trung vào
các vấn đề của chuyển dịch cơ cấu lao động trong điều kiện tác động của CNH –
HĐH. Nó chỉ đề cập đến nội dung nhỏ của đề tài luận văn. Hơn nữa đề tài lấy đối
tượng chính là cơ cấu lao động và sự tác động của CNH – HĐH. Vì vậy, tuy công
trình có những điểm liên quan với nội dung đề tài luận văn, nhưng không đề cập
đến vấn đề dạy nghề cho người lao động với tư cách là đối tượng nghiên cứu chính.
Năm 2003, Lê Thị Ái Lâm có công trình nghiên cứu xuất bản với tiêu đề
“Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào tạo: Kinh nghiệm Đông Á”.
Công trình nghiên cứu khá toàn diện về kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực
thông qua giáo dục và đào tạo của các nước Đông Á, trong đó kinh nghiệm của
Nhật Bản được nghiên cứu và tổng kết rất công phu. Những kết quả nghiên cứu có
thể tham khảo và vận dụng cho đào tạo nghề ở Việt Nam, nhất là kinh nghiệm đào
tạo nghề của các doanh nghiệp Nhật Bản [9; 25-42].
Năm 2004, PGS. TS Đỗ Minh Cương và TS Mạc Văn Tiến đã xuất bản cuốn
“Phát triển lao động kỹ thuật ở Việt Nam: Lý luận và thực tiễn”. Cuốn sách đã tập
trung nghiên cứu các vấn đề lý luận về phát triển lao động kỹ thuật gắn với chuyển
dịch cơ cấu lao động phục vụ CNH – HĐH đất nước. Phân tích, đánh giá thực trạng

phát triển lao động kỹ thuật ở Việt Nam và đề xuất định hướng và các giải pháp phát
triển lao động kỹ thuật ở Việt Nam đến năm 2010 [3; 11-40]. Đây là cuốn sách có
nhiều điểm bổ ích tham khảo cho nghiên cứu về đào tạo nghề cho lao động nông thôn
Việt Nam nói chung, và các vùng, tỉnh nói riêng. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu
này không đi sâu vào các vấn đề trực diện của dạy nghề cho lao động nông thôn.
Năm 2004 – 2005 Chương trình khoa học cấp Nhà nước mã số KX02 triển
khai đề tài “Con đường, bước đi và các giải pháp chiến lược để thực hiện công

15


nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn” do GS.TS Nguyễn Kế Tuấn làm
chủ nhiệm [20; 12-36]. Đề tài tập trung vào các vấn đề như: những vấn đề lý luận về
CNH – HĐH nông nghiệp và nông thôn; hội nhập kinh tế quốc tế của nông nghiệp
nông thôn và tác động đến việc thực hiện CNH – HĐH nông nghiệp và nông thôn;
con đường, bước đi và các giải pháp chiến lược đẩy nhanh quá trình CNH – HĐH
nông nghiệp và nông thôn. Đề tài đã hoàn thành vào năm 2005 và kết quả nghiên cứu
đã biên tập, xuất bản thành sách. Đây là công trình nghiên cứu mới nhất về CNH –
HĐH nông nghiệp và nông thôn. Tuy nhiên trong nghiên cứu, những vấn đề về dạy
nghề chỉ được đề cập như là những chịu sự ảnh hưởng của CNH – HĐH nông nghiệp
và nông thôn. Vì vậy, việc trình bày các vấn đề dạy nghề cho lao động nông thôn chỉ
là một bộ phận của giải pháp tạo việc làm cho người lao động nông thôn.
Năm 2005, đề tài về “Nghiên cứu thực trạng việc làm, thu nhập và đời sống
của người dân bị thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị và cho
nhu cầu công cộng, lợi ích quốc gia” do Chính phủ giao cho Đại học Kinh tế Quốc
dân được triển khai [12; 25 - 90]. Kết quả của đề tài đã được các nhà khoa học biên
tập và xuất bản thành sách. Trong hàng loạt các vấn đề được đề cập, vấn đề đào tạo
cho những người thu hồi đất đã được phân tích về thực trạng và đề xuất về phương
hướng và giải pháp hoàn thiện.
Trong “Chiến lược phát triển Nông nghiệp nông thôn đến năm 2010” của Bộ

Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng năm 2000, vấn đề đào tạo nghề cho lao
động nông thôn cũng đã được đề cập với các nội dung như: Sự cần thiết, nhu cầu đào
tạo, một số giải pháp chủ yếu cần triển khai để thực thi chiến lược [2; 1-25].
Th.S Nguyễn Xuân Bảo, viện Khoa học giáo dục Việt Nam, có những nghiên
cứu về đào tạo nghề và đưa ra những kết quả, những hạn chế của đào tào nghề. Đặc
biệt trong nghiên cứu, tác giả đã chỉ ra các nguyên nhân với sự nhấn mạnh về: hệ
thống đào tạo giáo viên nghề chưa đạt yêu cầu, với sự hạn chế về chất lượng đào tạo
của giáo viên dạy nghề là năng lực chuyên môn, kỹ năng giảng dạy thực hành còn
yếu, kiến thức và kỹ năng sư phạm còn hành chế, cùng với chương trình đào tạo còn
lạc hậu. Tác giả đã chỉ ra những bất hợp lý về cấu trúc chương trình khung và tác

16


động của nó đến đội ngũ sinh viên được đào tạo và đội ngũ này sau trở thành các
cán bộ đào tạo của các cơ sở dạy nghề: cấu trúc chương trình khung của các trường
đại học sư phạm kỹ thuật thường gồm 40% đào tạo đại cương, 60% dành cho giáo
dục nghề nghiệp (trong đó chỉ có 27,4% là kiến thức ngành). Từ chương trình
khung này, mỗi trường lại có những quy định khác nhau. Có trường thời gian sinh
viên thực tập sư phạm chỉ chiếm 1%, cơ sở ngành chiếm 15%, chuyên ngành 40%
nhưng đại cương chiếm 35% [1; 1-2].
Đặc biệt năm 2011, Viện nghiên cứu khoa học dạy nghề đã xuất bản cuốn
“Mô hình dạy nghề và giải quyết việc làm cho lao động ở khu vực chuyển đổi mục
đích sử dụng đất” Đây là cuốn sách được biên soạn dựa trên các tài liệu nghiên
cứu, các tài liệu thực tế thông qua các đề tài, đề án của viện và các tác giả, các cơ
quan trong và ngoài nước [21; 25-42]. Nội dung của công trình đề cập đến các vấn
đề chủ yếu của đô thi hóa và những hệ lụy với nông thôn Việt Nam; nhu cầu học
nghề của người lao động và những mô hình dạy nghề giải quyết việc làm cho các
nhóm lao động nông thôn khác nhau. Cuốn sách có nội dung gần nhất với nội
dung của luận văn. Tuy nhiên, trong công trình việc giới thiệu mô hình mới ở mức

khái quát, chưa có đánh giá tổng kết kỹ nên chưa có những khẳng định về hiệu quả
và mức độ áp dụng.
Cũng có rất nhiều những bài đọc đăng trên các báo và các tạp chí khác. Nội
dung cơ bản của các công trình trên có thể tổng quát ở một số vấn đề sau: (1)Vấn đề
đào tạo nghề cho người lao động nhằm giải quyết việc làm, giảm thất nghiệp.
(2)Đào tạo nghề cho người lao động nhằm chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế. (3)Đào tạo lao động công nhân kỹ thuật cao phục vụ
cho nhu cầu sản xuất trong nước và xuất khẩu lao động ra nước ngoài.
Khái quát những công trình nghiên cứu trên cho thấy: Tuy đã có nhiều
nghiên cứu về đào tạo nghề nói chung, đào tạo nghề cho người lao động nông thôn
vùng nói riêng và các vấn đề liên quan, song các công trình nghiên cứu trên chỉ
nghiên cứu về đào tạo, đào tạo nghề nói chung, hoặc nghiên cứu một vài lĩnh vực
của đào tạo nghề của từng vùng. Hiện chưa có công trình nào ở trong và ngoài nước

17


nghiên cứu một cách tổng thể và chi tiết về “Dạy nghề cho người lao động đáp ứng
yêu cầu xây dựng nông thôn mới ở huyện Thanh Miện – tỉnh Hải Dương”.
1.2. Một số vấn đề lý luận chung về dạy nghề cho người lao động trong
xây dựng nông thôn mới
1.2.1. Nghề và dạy nghề
1.2.1.1. Quan niệm về nghề
Theo quan niệm về “Nghề” ở mỗi quốc gia đều có sự khác nhau nhất định,
cho đến nay thuật ngữ “Nghề” được hiểu và định nghĩa theo nhiều cách khác nhau.
Khái niệm nghề ở Nga được định nghĩa: “Nghề là một loại hoạt động được
đòi hỏi có sự đào tạo nhất định và thường là nguồn gốc của sự sinh tồn”. Ở Pháp:
“Nghề là một loại lao động có thói quen về kỹ năng, kỹ xảo của con người có thể từ
đó tìm được phương tiện sống”. Ở Anh, nghề được định nghĩa: “Nghề là một công
việc chuyên môn đòi hỏi một sự đào tạo trong khoa học, nghệ thuật”. Còn ở Đức,

khái niệm nghề là: “Nghề là một loại hoạt động cần thiết cho xã hội ở một lĩnh vực
lao động nhất định, đòi hỏi phải được đào tạo ở trình độ nào đó” [4; 9]. Như vậy,
nghề là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử phổ biến, gắn chặt với sự phân công
lao động, với tiến bộ khoa học kỹ thuật và văn minh nhân loại.
Ở Việt Nam, nhiều định nghĩa nghề được đưa ra xong chưa được thống nhất,
tập hợp lại “Nghề” được quan niệm: “Nghề là một tập hợp lao động do sự phân
công lao động xã hội quy định mà giá trị của nó trao đổi được. Nghề mang tính
tương đối, nó phát sinh, phát triển hay mất đi do trình độ của nền sản xuất hay do
nhu cầu của xã hội” [3; 15]. Những cũng có quan niệm cho rằng, những chuyên
môn có những đặc điểm chung, gần giống nhau được xếp thành một nhóm chuyên
môn và được gọi là “Nghề”. Nghề là tập hợp của một nhóm chuyên môn cùng loại,
gần giống nhau.
Mặc dù khái niệm nghề được hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau song chúng
ta có thể thấy một số nét đặc trưng nhất định: (1) Nghề là hoạt động, là công việc
lao động của con người được lặp đi lặp lại. (2) Nghề được hình thành do sự phân
công lao động xã hội, phù hợp với yêu cầu của xã hội và là phương tiện để sinh

18


sống. (3) Nghề là lao động kỹ năng, kỹ xảo chuyên biệt có giá trị trao đổi trong xã
hội, đòi hỏi phải có quá trình đào tạo nhất định. Vì vậy, đào tạo nghề, dạy nghề là
yêu cầu tất yếu bắt nguồn từ chính bản chất, đặc trưng của nó.
1.2.1.2. Quan niệm về “Dạy nghề”
Đào tạo nghề là thuật ngữ trong nhóm các vấn đề nâng cao chất lượng nguồn
lao động. Nói tới nâng cao chất lượng nguồn lao động có thuật ngữ đào tạo nghề.
Thuật ngữ này được hiểu theo các phạm vi khác nhau. Theo từ điển Bách khoa toàn
thư: “Đào tạo đề cập đến việc dạy các kỹ năng thực hành, nghề nghiệp hay kiến
thức liên quan đến một lĩnh vực cụ thể, để người học lĩnh hội và nắm vững những
tri thức, kĩ năng, nghề nghiệp một cách có hệ thống để chuẩn bị cho người đó thích

nghi với cuộc sống và khả năng đảm nhận một công việc nhất định” [19; 2].
Có nhiều dạng đào tạo, tùy theo tiêu chí xem xét có thể phân thành: đào tạo
cơ bản và đào tạo chuyên sâu; đào tạo chuyên môn và đào tạo nghề; đào tạo ban đầu
và đào tạo lại; đào tạo tập trung và đào tạo tại chức, đào tạo từ xa; đào tạo qua
trường lớp và tự đào tạo,…Như vậy, đào tạo nghề là một trong các dạng đào tạo
nâng cao chất lượng nguồn lao động.
Đào tạo nghề bao gồm hai quá trình có quan hệ hữu cơ với nhau không thể
tách rời, đó là: Dạy nghề và học nghề. Vì vậy, trong nhiều trường hợp dạy nghề và
đào tạo nghề được đồng nhất với nhau trong diễn đạt của các văn bản. Dạy nghề
hiểu theo nghĩa chung nhất là tổng thể các hoạt động truyền nghề đến người hoc
nghề. Hiểu theo nghĩa đầy đủ, đó là quá trình giảng viên truyền bá những kiến thức
về lý thuyết và thực hành để các học viên có được một trình độ, kỹ năng, kỹ xảo, sự
khéo léo, thành thục nhất định về nghề nghiệp. Học nghề là quá trình tiếp thu những
kiến thức về lý thuyết và thực hành của người lao động để đạt được một trình độ
nghề nghiệp nhất định.
Dạy nghề: là những hoạt động giúp cho người học có được các kiến thức về
lý thuyết và kĩ năng thực hành một số nghề nào đó để sau một thời gian nhất định
người học có thể đạt được một trình độ để tự hành nghề, tìm việc làm hoặc tiếp tục
học tập nâng cao tay nghề theo những chuẩn mực mới. Dạy nghề có 3 giai đoạn cơ

19


bản: (1) Dạy nghề cho người chưa biết gì về nghề trở thành người bán lành nghề.
(2) Dạy nghề cho người bán lành nghề trở thành người lành nghề. (3) Dạy nghề cho
người lành nghề trở thành những người lành nghề ở trình độ cao.
Ở Việt Nam có tồn tại các quan niệm: Đào tạo được hiểu là quá trình hoạt
động có mục đích, có tổ chức, nhằm hình thành và phát triển có hệ thống các tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo, thái độ,…để hoàn thiện nhân cách cho mỗi cá nhân, tạo tiền
đề cho họ có thể vào đời hành nghề một cách có năng xuất và hiệu quả. Đào tạo

được thực hiện bởi các loại hình tổ chức chuyên ngành nhằm thay đổi hành vi và
thái độ làm việc của con người, tạo cho họ khả năng đáp ứng tiêu chuẩn và hiệu quả
của công việc chuyên môn.
Đào tạo nghề là quá trình trang bị kiến thức nhất định về trình độ chuyên
môn nghiệp vụ cho người lao động để họ có thể đảm nhận một công việc nhất định.
Hay nói cách khác đó là quá trình truyền đạt, lĩnh hội những kiến thức và kỹ năng
cần thiết để người lao động có thể thực hiện một công việc nào đó trong tương lai.
Đào tạo nghề là những hoạt động giúp cho người học có được các kiến thức
về lý thuyết và kỹ năng thực hành một số nghề nào đó sau một thời gian nhất định
người học có thể đạt được một trình độ để tự hành nghề, tìm việc làm hoặc tiếp tục
học tập nâng cao tay nghề theo những chuẩn mực mới.
Theo tài liệu của Bộ Lao động thương binh và xã hội xuất bản năm 2002 thì
đào tạo nghề được hiểu: "Đào tạo nghề là hoạt động nhằm trang bị cho người lao
động những kiến thức, kĩ năng và thái độ lao động cần thiết để người lao động sau
khi hoàn thành khoá học hành được một nghề trong xã hội".
Như vậy, khái niệm này đã không chỉ dừng lại ở trang bị những kiến thức kĩ
năng cơ bản mà còn đề cập đến thái độ lao động cơ bản. Điều này, thể hiện tính
nhân văn, tinh thần xã hội chủ nghĩa, đề cao người lao động ngay trong quan
niệm về lao động chứ không chỉ coi lao động là một nguồn "Vốn nhân lực", coi
công nhân như cái máy sản xuất. Nó cũng thể hiện sự đầy đủ hơn về vấn đề tinh
thần và kỉ luật lao động - một yêu cầu vô cùng quan trọng trong hoạt động sản xuất
với công nghệ và kĩ thuật tiên tiến hiện nay.

20


Luật dạy nghề năm 2006: “Dạy nghề là hoạt động dạy và học nhằm trang bị
kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để có thể
tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa học”[10; 2]. Trong
nghiên cứu tôi sẽ sử dụng khái niệm “Dạy nghề” trong Luật dạy nghề để phục vụ

cho quá trình làm luận văn.
1.2.1.3. Mạng lưới dạy nghề
Năm 1975, có 185 cơ sy nghềvăn.ạy nghề” trong Luật dạy nghề để phụcvà
thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học nghề để có thể tìm được việc làm
hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa học nghĩa, đề cao người lao động
ngay trong quan niệm về lao đ khắp ở tất cả các Bộ, ngành, địa phương và cơ sở
dạy nghề bên cạnh xí nghiệp, công- nông -lâm trường đáp ứng nhu cầu học
nghề trong cả nước.
Thời kì từ năm 1987 đến 1992 công tác quản lí dạy nghề do vụ dạy nghề
đảm nhiệm. Từ năm 1992 đến tháng 6/1998 công việc này chỉ còn một phần trong
vụ trung học chuyên nghiệp và dạy nghề đảm nhiệm. Thời kì này công tác dạy nghề
ít được quan tâm, đầu tư và phát triển, hệ thống dạy nghề ngày càng thu hẹp lại cả
về số lượng lẫn quy mô đào tạo, năm 1998 số trường dạy nghề chỉ còn 129
trường (giảm 56% so với năm 1986).
Trước nhu cầu cấp bách phát triển nguồn nhân lực của công cuộc đổi
mới và bước vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tổng
cục dạy nghề được thành lập theo Nghị quyết số 33/1998 ngày 23/5/1998 nhằm
giúp Bộ trưởng Bộ Lao động thương binh và xã hội quản lí nhà nước về công tác
đào tạo nghề trên phạm vi cả nước. Sau một số năm thực hiện, tính đến cuối năm
2001 mạng lưới trường dạy nghề đã được mở rộng và đa dạng hoá với nhiều hình
thức, trong đó:
+ 137 trưu cầu cấp bách phát triển nguồn nhân lực của công cuộc đổi mới
+ 149 trung tâm dạy nghề trong đó có 78 trung tâm dạy nghề quận, huyện.
+ 150 trung tâm dịch vụ việc làm có dạy nghề.
+ Trên 300 trung tâm giáo dục kĩ thuật tổng hợp hướng nghiệp thường xuyên
tham gia đào tạo nghề ngắn hạn.

21



+ Hàng nghìn lng tâm giáo dục kĩ thuật tổng hợp hướng nghiệp thường
xuyên tham gia
Tuy nhiên, sự phân bổ các trường theo ngành cũng chưa hợp lí, các ngành
chủ yếu ở ngành công nghiệp, xây dựng. Năm 1998, số lượng trường thuộc ngành
công nghiệp chiếm 38,5%, ngành xây dựng là 18,5%, ngành giao thông là 16,4%,
trong khi đó ngành nông nghiệp là ngành chiếm trên 62% lực lượng lao động xã hội
nhưng chỉ có 13,7% số lượng dạy nghề. (Nguồn: Bộ LĐTB & XH: "Định hướng
phát triển đào tạo nghề đến năm 2010", Hà Nội 2002).
Theo báo cáo của Tổng cục dạy nghề (Bộ Lao động – TB&XH), qua 5 năm
triển khai Luật dạy nghề và các văn bản hướng dẫn thi hành, hoạt động dạy nghề đã
có những bước chuyển biến và đem lại hiệu quả cho toàn xã hội. Kết quả sau 5 năm
thi hành Luật dạy nghề, mạng lưới cơ sở dạy nghề được phát triển rộng khắp ở 63
tỉnh, thành phố và trên 600 huyện, quận, thị xã, các khu vực công nghiệp, khu chế
xuất, làng nghề. Mạng lưới cơ sở dạy nghề mở rộng, phân bố tương đối hợp lý ở các
ngành kinh tế, địa phương, vùng miền. Tính đến cuối năm 2011, cả nước có 136
trường cao đẳng nghề, 307 trường Trung cấp nghề, 849 trung tâm dạy nghề và hơn
1.000 cơ sở khác tham gia dạy nghề, tăng 1,5 lần so với năm 2006.
1.2.1.4. Dạy nghề cho người lao động nông thôn
Nông thôn là vùng lãnh thổ rộng lớn, trong đó hoạt động nông nghiệp đóng
vai trò chủ yếu và quan trọng, nông dân là bộ phận dân cư chủ yếu của nguồn lao
động nông thôn. Sự khác nhau giữa khái niệm đào tạo nghề nói chung và đào tạo
nghề cho lao động nông thôn là ở đối tượng của đào tạo nghề - những người lao
động nông thôn và những điều kiện gắn với quá trình đào tạo nghề đó.
Lao động nông thôn là những người thuộc lực lượng lao động và hoạt động
trong hệ thống kinh tế nông thôn. Lao động nông thôn là những người dân không
phân biệt giới tính, tổ chức, cá nhân sinh sống ở vùng nông thôn, có độ tuổi từ 15
trở lên, hoạt động sản xuất ở nông thôn (Điều 3 – Luật Lao động). Trong đó bao
gồm những người đủ các yếu tố về thể chất, tâm sinh lý trong độ tuổi lao động theo
quy định của Luật lao động và những người ngoài độ tuổi lao động có khả năng


22


tham gia sản xuất, trong một thời gian nhất định họ hoàn thành công việc với kết
quả đạt được một cách tốt nhất.
Kết hợp từ khái niệm về dạy nghề và khái niệm lao động nông thôn như đã
trình bày ở trên, trong nghiên cứu này chúng tôi sử dụng khái niệm: “Đào tạo nghề
cho lao động nông thôn là quá trình kết hợp giữa dạy nghề và học nghề, đó là quá
trình giảng viên truyền bá những kiến thức về lý thuyết và thực hành để những người
lao động nông thôn có được một trình độ, kỹ năng, kỹ xảo, sự khéo léo, thành thục
nhất định về nghề nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội nông thôn”.
Dạy nghề cho người lao động nông thôn có tầm quan trọng đặc biệt, vừa có
tính nhân văn vừa có tính xã hội rất cao, có vai trò quan trọng đối với phát triển vốn
con người, nguồn nhân lực, tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập cho con
người lao động, giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội, góp phần phát triển kinh
tế - xã hội bền vững. Dạy nghề là một trong những giải pháp đột phá của chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội, nhằm đào tạo nguồn nhân lực, phát triển nhanh đội ngũ
lao động kỹ thuật trực tiếp, phục vụ CNH - HĐH đất nước; góp phần bảo đảm an
sinh xã hội. Thực tiễn quá trình phát triển kinh tế tại Việt Nam, khi lao động nông
thôn được sử dụng tốt thì kinh tế phát triển nhanh và bền vững, tránh rơi vào “cái
bẫy” đẩy nhanh CNH, không chú trọng đến phát triển nông nghiệp, nông thôn đã có
những thời điểm rơi vào tình trạng khó khăn, gấy lãng phí sức lao động nông thôn
và kéo theo hệ quả thu nhập lao động nông thôn thấp, mất ổn định xã hội. Vì vậy,
dạy nghề và nâng cao chất lượng dạy nghề cho lao động nói chung và lao động
nông thôn nói riêng là yêu cầu cấp bách của nên kinh tế, dạy nghề được coi là quốc
sách hàng đầu.
1.2.2 Xây dựng nông thôn mới và yêu cầu đối với lao động
1.2.2.1 Nông thôn mới và tiêu chí xác định nông thôn mới
Từ các quan điểm về phân công lao động xã hội của C.Mác và Ăngghen, về
nông thôn của tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO)...cho thấy, nông thôn là

nơi sinh sống của tập hợp dân cư, trong đó có nhiều nông dân, tham gia vào các
hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường trong một thể chế chính trị nhất định,

23


chịu ảnh hưởng của các tổ chức khác, phân biệt với đô thị. Điểm đặc thù của nông
thôn nước ta hiện nay là phân công lao động xã hội chưa cao, trình độ chuyên môn
thấp, nông nghiệp chiếm tỷ lệ cao; đa dạng về điều kiện tự nhiên, môi trường sinh
thái; có quan hệ họ tộc, gia đình khá chặt chẽ với những quy định cụ thể của từng
họ tộc, gia đình, còn những người ngoài họ tộc cùng chung sống luôn có tinh thần
điều kiện giúp đỡ nhau tạo nên tình làng, nghĩa xóm lâu bền. Trong mối quan hệ
ứng xử giữa con người với con người ở nông thôn Việt Nam, các hành vi của mỗi cá
nhân thường được đặt trong các thiết chế xã hội (gia đình, dòng họ, làng xóm,...)
làm cho vai trò của cộng đồng trở nên mạnh mẽ và cá nhân trở nên nhỏ bé. Sức
mạnh của cộng đồng làng xã thể hiện cả trong quan hệ giữa các thành viên và
những thành viên ngoài cộng đồng.
Nông thôn là nơi lưu giữ và bảo tồn những di sản văn hóa quốc gia như
phong tục tập quán cổ truyền về đời sống, lễ hội, sản xuất nông nghiệp, ngành nghề
truyền thống, các di tích lịch sử, văn hóa, các danh lam thắng cảnh...
Về nông thôn có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng đa số đều khá thống
nhất khi khẳng định nông thôn mới phải có kinh tế phát triển, đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân được nâng cao, dân trí cao, bản sắc văn hóa dân tộc được gìn giữ,
tái tạo.
Ngày 04 tháng 06 năm 2010 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
800/QĐ – TTg về phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông
thôn mới giai đoạn 2010-2020. Tại quyết định này, mục tiêu chung của Chương
trình được xác định là: “Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn
nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ; gắn phát triển nông thôn với

đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân
tộc; môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh trật tự được giữ vững; đời sống vật
chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao; theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.

24


Như vậy, mô hình nông thôn mới là tổng thể những đặc điểm, cấu trúc tạo
thành một kiểu tổ chức nông thôn theo tiêu chí mới, đáp ứng tính tiên tiến ở 5 nội dung:
Nội dung tổ chức nông thôn mới

Làng xã
văn minh,
sạch đẹp,
hạ tầng
hiện đại

Sản xuất
phát triển
bền hướng
theo hướng
hàng hóa

Đời sống vật
chất, tinh thần
của người dân
ngày càng
được nâng
cao


Bản sắc văn
hóa dân tộc
được giữ
gìn, phát
triển

Được quản
lý tốt, dân
chủ ngày
càng được
nâng cao

Sơ đồ 1.1: Mô hình tổ chức nông thôn mới
Để xây dựng nông thôn với 05 nội dung trên, Thủ tướng Chính phủ đã ký
quyết định số 491/QĐ – TTg ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới bao
gồm 19 tiêu chí:

25


×