Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

GIÁO dục ý THỨC THẨM mỹ CHO SINH VIÊN TRƯỜNG đại học sư PHẠM hà nội HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (342.6 KB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
--------

DƯƠNG THỊ MƠ

GIÁO DỤC Ý THỨC THẨM MỸ
CHO SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC
SƯ PHẠM HÀ NỘI HIỆN NAY
Chuyên ngành : Triết học
Mã số

: 60 22 03 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Văn Chín

Hà Nội - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS.Phạm Văn Chín, có kế thừa một số kết quả liên quan
đã được công bố. Các số liệu, tài liệu trong luận văn là trung thực, đảm bảo
tính khách quan và có nguồn gốc, xuất sứ rõ ràng.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước hội đồng khoa học về luận
văn của mình.
Hà Nội, ngày…tháng…năm 2016
Tác giả


Dương Thị Mơ


LỜI CẢM ƠN
Em xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, phòng Sau đại học và các
phòng ban khác của trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo mọi điều kiện cho
em được học tập, nghiên cứu tại trường. Em xin chân thành cảm ơn các quý
thầy cô trong Ban chủ nhiệm khoa Triết học.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc nhất đến
PGS.TS Phạm Văn Chín, giảng viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội, đã tận
tâm hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành Luận
văn Thạc sĩ Triết học của mình.
Xin gửi lời cảm ơn tới bạn bè đã hết lòng quan tâm, giúp đỡ, động viên
tác giả trong quá trình học tập, nghiên cứu. Cảm ơn gia đình đã luôn là điểm
tựa vững chắc cả về mặt vật chất và tinh thần để em có thể học tập, làm việc
và hoàn thành luận văn của mình.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày…tháng…năm 2016
Tác giả

Dương Thị Mơ


MỤC LỤC
Nắm bắt tình hình đó, trường Đại học Sư phạm Hà Nội triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội
lần thứ XII của Đảng tiếp tục thực hiện đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo. Bên
cạnh đó Nhà trường sẽ tập trung vào các nhiệm vụ chính:...........................................................41


DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Khảo sát về xúc cảm thẩm mỹ.............................................................................................43
Bảng 2.2: Khảo sát về thị hiếu, tình cảm thẩm mỹ.............................................................................45
Bảng 2.3: Khảo sát về quan điểm thẩm mỹ của sinh viên..................................................................47
trường Đại học Sư phạm Hà Nội hiện nay...........................................................................................47
Bảng 2.4: Khảo sát tinh thần tham gia các hoạt động ngoại khóa.....................................................49


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giáo dục ý thức thẩm mỹ là một bộ phận quan trọng trong mỹ học Mác
– Lênin, có nhiệm vụ góp phần vào việc xây dựng nền văn hóa mới, con
người mới ở nước ta hiện nay mà mục tiêu quan trọng là đào tạo được một
chủ thể thẩm mỹ mới. Giáo dục ý thức thẩm mỹ không tách rời quá trình giáo
dục chung, nội dung tư tưởng của toàn bộ công tác giáo dục ý thức thẩm mỹ
thấm nhuần quan điểm nhân văn vì con người, vì các giá trị cao quý của con
người. Nó hướng tới việc hình thành những thị hiếu tốt, tình cảm phong phú,
lý tưởng thẩm mỹ cao đẹp để con người có sự phát triển hài hòa giữa cá nhân
với cộng đồng.
Anbectialeon Batixta là một trong những nhà đại biểu xuất sắc của mỹ
học phục hưng Ý cho rằng đối với con người “Cái đẹp là sự chan hòa, sự phối
hợp nhịp nhàng như thế nào đó giữa các phần trong cái tổng thể mà chúng tạo
thành” [50 ; 257]
Nhà toán học N.I.Lobasepxki cũng viết: Cái đẹp đó chính là cuộc sống.
Ông cho rằng: Việc giáo dục con người mới sẽ vô nghĩa nếu thiếu đi sự thống
nhất của văn hóa thẩm mỹ, văn hóa đạo đức và văn hóa trí tuệ.
Giáo dục chính trị tư tưởng, giáo dục đạo đức, giáo dục tri thức khoa học,
giáo dục thể chất, giáo dục lao động, giáo dục ý thức thẩm mỹ… Mỗi hình thức
này đều có những đặc trưng và nhiệm vụ riêng, song chúng liên kết với nhau
nhằm xây dựng nhân cách cao đẹp và lỗi sống văn minh cho con người.
Giáo dục ý thức thẩm mỹ thực chất là giáo dục về cái đẹp. Để thực hiện

một xã hội có văn hóa và phát triển hài hòa bền vững thì yêu cầu cốt yếu cần
phải giáo dục ý thức thẩm mỹ.
Giáo dục ý thức thẩm mỹ không chỉ hiểu trong lĩnh vực nghệ thuật mà
còn là giáo dục văn hóa, giáo dục đạo đức, lối sống nhân cách. Vì vậy trong
1


giai đoạn đổi mới ở nước ta hiện nay, giáo dục ý thức thẩm mỹ là một trong
những con đường hình thành nhân cách của con người hiện đại. Để thực hiện
tốt mục tiêu này, giáo dục ý thức thẩm mỹ cho lứa tuổi thanh thiếu niên được
xem là nhiệm vụ chiến lược trong hoạt động giáo dục của nhà trường, góp
phần giải quyết mối quan hệ giữa đạo đức – trí tuệ - thể chất và thẩm mỹ
trong sự phát triển con người ở các mục tiêu giáo dục.
Ngày nay bước sang thế kỉ XXI, thế giới đang chuyển mình với các
cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật, công nghệ thông tin bùng nổ mạnh mẽ.
Dưới ánh sáng của ba mươi năm đổi mới cùng với sự lãnh đạo tài tình của
Đảng Cộng sản Việt Nam, nền kinh tế đất nước không ngừng phát triển và
tăng trưởng. Nắm bắt thời cơ trong xu thế toàn cầu đó, Đảng và nhân dân ta
đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức để tiếp tục phát triển kinh tế - xã hội,
giữ vững ổn định chính trị của đất nước. Quá trình nỗ lực phấn đấu đó giúp
cho vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được cải thiện. Cùng
với sự gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, hứa hẹn sẽ mang đến cho
nền kinh tế của đất nước ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn.
Thành công đó là do nhiều nguyên nhân, song không thể phủ nhận
được vai trò của giáo dục, nâng cao nhận thức toàn xã hội. Đặc biệt chú trọng
đào tạo thế hệ trẻ đảm bảo cho sự phát triển bền vững trong nền kinh tế tri
thức. Thế hệ sinh viên hiện nay là lực lượng trí thức kế cận đông đảo với ước
mơ, hoài bão và sức trẻ nên thực tế đã có nhiều sinh viên Việt Nam đạt giải
thưởng cao trong các kỳ thi khoa học quốc tế như: giải thưởng công nghệ
thông tin, giải thể dục quốc tế… Cùng với đó sinh viên Việt Nam cũng để lại

trong bạn bè quốc tế nhiều ấn tượng đẹp về cách ứng xử văn hóa xã hội.
Trong chương trình giáo dục Đại học hiện nay, các môn học liên quan
đến chương trình giáo dục ý thức, hành vi của người công dân, phát triển tâm
lực nhân cách con người cần được xem là nhiệm vụ chiến lược trong hoạt
2


động của nhà trường, góp phần giải quyết mối quan hệ giữa đạo đức - trí tuệ thể chất và thẩm mỹ trong sự phát triển con người ở các mục tiêu giáo dục.
Tuy nhiên, thực tế hiện nay ở các trường Đại học nói chung và trường
Đại học Sư phạm Hà Nội nói riêng, việc giáo dục ý thức thẩm mỹ vẫn chưa
thật sự được chú trọng đúng mức. Một bộ phận sinh viên vi phạm những
chuẩn giá trị thẩm mỹ trong xã hội hiện nay đã cho thấy điều đó.
Trước tình hình trên, việc nghiên cứu đề tài “Giáo dục ý thức thẩm mỹ
cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội hiện nay” là việc làm có ý
nghĩa thiết thực cả về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Giáo dục ý thức thẩm mỹ không phải là một chủ đề xa lạ mà là một chủ
đề được nhắc đến thường ngày trong bối cảnh xã hội hiện nay. Khi nói đến
vấn đề giáo dục ý thức thẩm mỹ cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà
Nội có một loạt các công trình nghiên cứu về thẩm mỹ, ý thức thẩm mỹ cơ
bản qua các thời gian lịch sử như: Nguyên lý mỹ học Mác – Lênin của tác giả
I.U Lukin và V.C Xcacherơcsiccôp; Mỹ học – khoa học về các quan hệ thẩm
mỹ của tác giả Đỗ Huy; Nguyên lý mỹ học Mác – Lênin của tác giả Vũ Minh
Tâm; Nguyên lý mỹ học Mác – Lênin của tác giả Đỗ Khang và Đỗ Huy; Giáo
dục thẩm mỹ và xây dựng con người mới của tác giả Lê Anh Trà; Đặng Vũ
Hoạt và Hà Thế Ngữ (1987), Giáo dục học tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội...
Tác giả các cuốn sách nêu trên thường có những ý kiến khác nhau về
giáo dục ý thức thẩm mỹ nhưng nhìn chung đều cho rằng giáo dục ý thức
thẩm mỹ mang tính định hướng các quy tắc, chuẩn mực đạo đức cho thế hệ
trẻ và việc giáo dục ý thức thẩm mỹ cho lớp trẻ sinh viên là một trong những

vấn đề được đặt lên vị trí hàng đầu trong quá trình xây dựng con người mới
và phát triển đất nước.
Trong cuốn Mỹ học – khoa học về các quan hệ thẩm mỹ, Đỗ Huy cho
rằng: Dù giáo dục có tính trường quy hay tự giáo dục, thì bản chất thật sự
3


của giáo dục thẩm mỹ cũng nhằm làm hình thành một chủ thể thẩm mỹ biết
hưởng thụ, đánh giá và sáng tạo trên mọi mặt của cuộc sống theo quy luật
của cái đẹp.
Trong việc giáo dục năng lực thẩm mỹ, hình thành và hoàn thiện nhân
cách của sinh viên, nhà trường giữ một vị trí, vai trò hết sức quan trọng. Bởi
đây là nơi các em được thụ hưởng nền giáo dục một cách hệ thống, hoàn
chỉnh và toàn diện nhất. Từ giảng đường trường Đại học Sư phạm Hà Nội –
cơ sở giáo dục đầu ngành về đào tạo giáo viên trong cả nước – lớp lớp đoàn
viên sinh viên đã được giáo dục, rèn luyện, trở thành những thầy cô giáo “vừa
hồng vừa chuyên”, góp phần to lớn vào sự nghiệp phát triển văn hoá - giáo
dục của nước nhà.
Lênin từng khẳng định rằng, giáo dục là “phạm trù vĩnh hằng” - tồn tại
mãi mãi cùng loài người, thế hệ trước phải truyền cho thế hệ sau các kinh
nghiệm lịch sử - xã hội, tạo nên sự tiến hóa không ngừng của loài người.
Trong cuốn Mỹ học cơ bản và nâng cao, M.F.Ôpxiannhicop quan niệm
về giáo dục thẩm mỹ bao gồm những phương pháp cơ bản là phương pháp tiếp
xúc trực tiếp với các giá trị thẩm mỹ và nghệ thuật; phương pháp gây ảnh hưởng
có mục đích đến việc học viên đánh giá các giá trị thẩm mỹ và tạo ra cho họ các
tiêu chuẩn giá trị cao; phương pháp tuyên truyền các tri thức văn hóa – thẩm mỹ
và nghệ thuật học; phương pháp tuyên truyền các tri thức Triết học – Mỹ học;
phương pháp hình thành dần dần người giáo viên ở sinh viên.
Trong Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thẩm mỹ cho thế hệ trẻ,
Nguyễn Chương Nhiếp, Trần Túy, Nguyễn Ngọc Thu cho rằng trong tư tưởng

Hồ Chí Minh có ba hình thức giáo dục thẩm mỹ cơ bản: giáo dục thẩm mỹ
bằng lao động; giáo dục thẩm mỹ bằng tấm gương người tốt, việc tốt, giáo
dục thẩm mỹ bằng sách báo, văn hóa nghệ thuật cách mạng.
Trong Giáo dục học tập 2, Trần Thị Tuyết Oanh đã chỉ ra các con
đường giáo dục thẩm mỹ như: giáo dục nghệ thuật; giáo dục thẩm mỹ thông
4


qua dạy và học các bộ môn khoa học; giáo dục thẩm mỹ thông qua xây dựng
môi trường văn hóa lành mạnh trong gia đình, nhà trường và xã hội; giáo dục
cái đẹp tự nhiên.
Trong Đạo đức học – mỹ học và đời sống văn hóa nghệ thuật, Đỗ Huy
cho rằng trong nguyên lý giáo dục thẩm mỹ của chúng ta có bốn hình thức là
giáo dục bằng lao động, học tập tấm gương người tốt việc tốt; giáo dục bằng
nghệ thuật và giáo dục những quan điểm cơ bản của mỹ học Mác – Lênin.
Ngoài ra, còn có rất nhiều những công trình sách báo, tạp chí của nhiều
nhà nghiên cứu khác như: Giáo dục thẩm mỹ và xây dựng con người mới Việt
Nam của tác giả Lê Anh Trà; Cái đẹp – một giá trị của tác giả Đỗ Huy; Triết
học – những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy do tác giả Trần Đăng Sinh và
Đào Đức Doãn tuyển chọn, giới thiệu; Một số suy nghĩ về định hướng giá trị
thẩm mỹ với sự hình thành nhân cách văn hóa về chuẩn mực đánh giá giá trị
thẩm mỹ của tác giả Vũ Thị Kim Dung; Một số vấn đề giáo dục Việt Nam đầu
thế kỉ XXI của tác giả Phạm Minh Hạc; Bàn thêm về nội dung và hình thức
giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho học sinh, sinh viên hiện nay của tác giả Lê Hữu
Ái…v.v…Điều đó chứng tỏ giáo dục ý thức thẩm mỹ trong nhà trường hiện
nay đang có nhiều bức xúc được giới nghiên cứu và toàn thể xã hội đặc biệt
quan tâm. Thực tế kết quả của các hoạt động nghiên cứu đó đã đề xuất và gợi
mở nhiều hướng suy nghĩ, nhiều hướng triển khái cả về lý luận và thực tiễn
cho việc nghiên cứu tiếp theo về lĩnh vực này.
Nhìn chung, có rất nhiều các công trình nghiên cứu về vấn đề này.

Song, các công trình chủ yếu mang tính lồng ghép và vẫn chưa có công trình
nào giải quyết một cách có hệ thống và đầy đủ về vấn đề “Giáo dục ý thức
thẩm mỹ cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội hiện nay”
3. Mục đích nghiên cứu
- Mục đích: Trên cơ sở làm rõ vấn đề giáo dục ý thức thẩm mỹ và
thực trạng giáo dục ý thức thẩm mỹ cho sinh viên trường Đại học Sư phạm
5


Hà Nội, luận văn đề xuất một số giải pháp làm tốt hơn việc này trong giai
đoạn hiện nay.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
-Khách thể nghiên cứu:
Giáo dục ý thức thẩm mỹ cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
-Đối tượng nghiên cứu:
Sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
5. Giả thiết khoa học
Vai trò quan trọng không thể thiếu của việc giáo dục ý thức thẩm mỹ
cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội. từ việc thấy được tầm quan
trọng của giáo dục ý thức thẩm mỹ cho lớp trẻ sinh viên trường Đại học Sư
phạm Hà Nội mà đề xuất các giải pháp thiết thực nhằm khắc phục những hạn
chế đang tồn tại và phát huy những mặt tích cực trong quá trình rèn luyện bản
than của sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
6. Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ cơ sở khoa học của việc giáo dục ý thức thẩm mỹ cho sinh
viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội hiện nay
- Làm rõ thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục ý
thức thẩm mỹ cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội hiện nay
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Giáo dục ý thức thẩm mỹ cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà

Nội từ năm 2005 đến nay.
8. Phương pháp nghiên cứu
- Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Luận văn sử dụng phương pháp logic và lịch sử. Ngoài ra, luận văn
còn phối hợp sử dụng các phương pháp tiếp cận và nghiên cứu hệ thống,
Phương pháp phân tích tổng hợp, đối chiếu, so sánh…
6


9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và phần danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.
10. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn
- Những luận điểm cơ bản:
+ Lý luận chung về thẩm mỹ, ý thức thẩm mỹ và giáo dục ý thức thẩm mỹ.
+ Đặc điểm sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
+ Thực trạng công tác giáo dục ý thức thẩm mỹ cho thế hệ sinh viên
trường Đại học Sư phạm Hà Nội hiện nay.
+ Những giải pháp phát huy vai trò của công tác giáo dục ý thức thẩm
mỹ cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội hiện nay.
- Đóng góp mới của luận văn:
+ Về mặt lý luận: Góp phần làm sáng tỏ bản chất của giáo dục ý thức
thẩm mỹ cho sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội hiện nay.
+ Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng
làm tài liệu tham khảo cho việc học tập và nghiên cứu các môn học như: Mỹ
học, văn hóa học, xã hội học… Cũng như tìm hiểu và vận dụng giá trị của nó
vào đời sống xã hội góp phần xây dựng, hoàn thiện ý thức về cái đẹp của con
người Việt Nam hiện nay. Phát huy tối đa vai trò của nhà trường trong việc
khắc phục những hạn chế còn tồn tại trong môi trường sư phạm đồng thời, giữ

gìn và phát huy những giá trị truyền thống, thừa hưởng có chọn lọc những giá
trị mới phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội.

7


Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC GIÁO DỤC Ý THỨC THẨM MỸ CHO
SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI HIỆN NAY
1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1 Khái niệm giáo dục thẩm mỹ và giáo dục ý thức thẩm mỹ
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, vấn đề giáo dục thẩm mỹ
và giáo dục ý thức thẩm mỹ đã xuất hiện từ rất lâu trong các nền văn minh
phương Đông và phương Tây. Cùng với giáo dục chính trị, giáo dục tri thức
khoa học, giáo dục thể chất, giáo dục ý thức thẩm mỹ đã góp phần xây dựng
nền văn hóa, con người mới ở nước ta và đào tạo nên những chủ thể thẩm mỹ
mới với nhân cách cao đẹp, có lối sống lành mạnh.
- Khái niệm giáo dục
“Giáo dục” được hiểu là quá trình hình thành và phát triển nhân cách
người giáo dục dưới quan hệ của những tác động sư phạm của nhà trường, chỉ
liên quan đến các mặt giáo dục như: trí học, đức học, mỹ dục, thể dục, giáo
dục lao động.
“Giáo dục” là vấn đề được quan tâm từ xa xưa, theo quá trình phát
triển của lịch sử xã hội. Giáo dục mang những nội hàm và ngoại diên khác
nhau, nhưng ngày càng được hoàn thiện về mặt lý luận. Đứng trước góc độ là
một động từ, giáo dục được hiểu là dạy bảo. Điều này trong chế độ chiếm hữu
nô lệ được thể hiện rất rõ nét, đó là sự dạy bảo của những tri thức được đúc
rút từ những kinh nghiệm. Cùng với sự phát triển của loài người, việc hình
thành chữ viết và sách (công cụ truyền tải thông tin) giáo dục được mở rộng
hơn trong thời kỳ xã hội phong kiến. Nó có nội hàm rộng hơn bởi giáo dục ở

thời kỳ này phần nào đã mang tính định hướng, tính kế thừa và phát triển.
Giáo dục không chỉ “giáo” (dạy bảo) mà còn hàm chứa nghĩa “dục” (khả năng
8


sáng tạo). Đến thời kỳ tư bản chủ nghĩa, với quan điểm con người làm trung
tâm trong mọi hoạt động kinh tế - chính trị, xã hội thì giáo dục được hiểu theo
nghĩa là sự truyền tải thông tin, tri thức một cách có mục đích, có định hướng
giữa con người với con người.
Trên phương diện là một bộ môn khoa học, giáo dục được hiểu là quá
trình hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch nhằm bồi dưỡng cho con
người ta những phẩm chất đạo đức, những tri thức cần thiết về tự nhiên và xã
hội cũng như những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết cho đời sống.
- Khái niệm thẩm mỹ
“Thẩm mỹ” theo tiếng Hán:
“Thẩm”: Xem xét
“Mỹ”: Đẹp
Thẩm mỹ “là cảm thụ và hiểu biết về cái đẹp”. [8; 922]
Thẩm mỹ là phạm trù Triết học nói về cái đẹp khách quan của tự nhiên,
xã hội và con người mà chúng ta đang đề cập tới.
Cái đẹp là trung tâm, bên cạnh cái đẹp là cái tốt, cái cao cả, cái anh
hùng. Những khái niệm tương phản là cái xấu, cái thấp hèn, cái bi…
Thẩm mỹ là giá trị khách quan vốn có của các đối tượng có trong tự
nhiên, trong xã hội và con người (đối tượng thẩm mỹ), được con người nhận
thức, đánh giá, thưởng thức và sáng tạo.
Thẩm mỹ có ý nghĩa rất lớn trong đời sống con người. Nhu cầu thẩm
mỹ là một trong những nhu cầu quan trọng của đời sống xã hội. Mỗi con
người đều có xu hướng vươn tới cái đẹp hoàn hảo, mong muốn cho cuộc
sống của mình ngày càng tốt hơn. Xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu
thẩm mỹ của con người ngày càng cao và họ càng sáng tạo ra nhiều giá trị

thẩm mỹ mới.
9


- Khái niệm giáo dục thẩm mỹ
“Giáo dục thẩm mỹ về bản chất là bồi dưỡng lòng khao khát, đưa cái
đẹp vào cuộc sống, tạo nên sự hài hòa giữa xã hội – con người tự nhiên, nâng
cao năng lực thụ cảm và sáng tạo ở con người, làm cho con người được phát
triển một cách hài hòa trong mọi hoạt động lao động cũng như nghỉ ngơi
trong quan hệ gia đình cũng như trong quan hệ xã hội” [13; 7]
Một số quan điểm lại cho rằng giáo dục thẩm mỹ là giáo dục cái đẹp,
giáo dục con người biết cảm thụ, lĩnh hội và sáng tạo cái đẹp. Quan điểm này
dường như bó hẹp rất nhiều nhiệm vụ của giáo dục thẩm mỹ bởi vì trong nội
hàm của giáo dục thẩm mỹ thì ngoài cái đẹp còn có cái bi, cái hài, cái cao cả,
cái thấp hèn. Nghĩa là trong mọi hoạt động sống của mình, con người đều có
thể “áp dụng thước đo thích hợp cho đối tượng. Do đó con người cũng nhào
nặn vật chất theo quy luật của cái đẹp”. [22; 93]
Bên cạnh đó lại có quan điểm cho rằng giáo dục thẩm mỹ là giáo dục
con người phát triển toàn diện, hài hòa. Quan điểm này đã nhầm lẫn giữa nội
dung bản chất của giáo dục thẩm mỹ với mục đích, mục tiêu của giáo dục
thẩm mỹ và không phân biệt được tính đặc trưng cá biệt của giáo dục thẩm
mỹ với các lĩnh vực giáo dục khác.
Giáo dục thẩm mỹ là một hệ thống lí thuyết về giáo dục cái đẹp và
nghệ thuật. Nó là một loại hình hoạt động có tổ chức, có quy trình từ việc xây
dựng mục tiêu, nội dung giáo dục. Lựa chọn con đường tốt nhất để đưa toàn
bộ những gì thuộc về nghệ thuật và cái đẹp đến với từng loại đối tượng khác
nhau giúp cho họ đồng hóa được những giá trị đó.
Theo Nguyên lý giáo dục thẩm mỹ của Mỹ học Mác – Lênin: “Luôn
quan tâm đến việc trau dồi tri thức thẩm mỹ cho người được giáo dục và đặt
ra những vấn đề phương pháp luận để mỗi người tự trau dồi tri thức cho mình.

Rõ rang là muốn vươn tới đỉnh cao của cái đẹp trong lao động, trong học tập,
trong sáng tạo, trong đánh giá, trong thưởng thức…” [14; 32]
10


Bản chất của giáo dục thẩm mỹ theo quan điểm của mỹ học Mác –
Lênin gắn liền với các hoạt động sáng tạo, nghĩa là con người luôn hướng tới
những cái mới. Giáo dục thẩm mỹ làm hình thành nên tính năng động chủ thể
thẩm mỹ phát triển mạnh mẽ và tự do trên cơ sở nhân sinh quan và thế giới
quan đúng đắn.
Từ những phân tích trên đây, có thể đưa ra khái niệm về giáo dục thẩm
mỹ như sau: Giáo dục thẩm mỹ là một quá trình làm hình thành và phát triển
nhân cách xã hội chủ nghĩa về mặt thẩm mỹ, trong đó con người có năng lực
nhận thức, ý thức đúng đắn đối với đời sống thẩm mỹ của xã hội. Đồng thời
có khả năng tiếp nhận và sáng tạo cuộc sống theo quy luật của cái đẹp.
Giáo dục thẩm mỹ mang bản chất của sự hình thành thẩm mỹ là một
quá trình con người tự hình thành thẩm mỹ của mình thông qua lao động.
Đúng như Ăngghen khẳng định: Chỉ nhờ có lao động, nhờ thích ứng
được với các tác động ngày càng mới, nhờ di truyền sự phát triển đặc biệt đã
đạt được bằng cách như vậy của các bắp thịt của các gân cốt, và sau những
khoảng thời gian dài hơn, của cả xương nữa và cuối cùng nhờ đem sự tinh
luyện thừa hưởng được này mà tác động vào những động tác mới ngày càng
phức tạp hơn. Chỉ có như thế, tay người mới đạt trình độ hoàn thiện rất cao
đó, khiến nó có thể như một sức mạnh thần kỳ.
Khái niệm ý thức thẩm mỹ
- Khái niệm ý thức
V.I. Lê nin đã chỉ rõ: “Ý thức của con người không chỉ phản ánh thế
giới mà còn sáng tạo ra thế giới” [14; 35]
Khác với các quan điểm duy tâm, quan điểm siêu hình, chủ nghĩa duy vật
và chủ nghĩa duy vật biện chứng đã chỉ ra rằng: Ý thức là sự phản ánh hiện thực

khách quan vào bộ não của con người một cách năng động, sáng tạo.
Điều đó cho thấy, vật chất là cái có trước quyết định ý thức. Song, ý
thức lại tác động ngược trở lại thế giới khách quan, ý thức có tính độc lập
tương đối.
11


Từ những phân tích trên, tác giả đưa ra định nghĩa về ý thức như sau:
Ý thức là hình thức phản ánh tâm lý cao nhất chỉ có ở người, được
phản ánh bằng ngôn ngữ, là khả năng con người hiểu được các tri thức, các
hiểu biết mà con người đã tiếp thu được trong quá trình quan hệ qua lại với
thế giới khách quan.
- Khái niệm ý thức thẩm mỹ
Ý thức thẩm mỹ xét theo quan hệ tương tác của các thành phần trong
đặc tính xã hội của ý thức, ý thức thẩm mỹ là mối liên hệ hữu cơ giữa ý thức
thẩm mỹ xã hội và ý thức thẩm mỹ cá nhân.
“Ý thức thẩm mỹ xã hội là tổng thể các quan niệm, tư tưởng, lý thuyết
thẩm mỹ, tình cảm tâm lý, lý tưởng, thị hiếu thẩm mỹ, tư duy văn hóa thẩm
mỹ, nghệ thuật… thuộc đời sống tinh thần của xã hội, phản ánh hiện thực
khách quan trong những giai đoạn phát triển lịch sử - cụ thể khác nhau của
toàn xã hội”. [42; 107]
“Ý thức thẩm mỹ cá nhân là một chỉnh thể ý thức thẩm mỹ trong tính
đơn chất và độc đáo của nó thuộc một cá nhân riêng biệt”. [40; 109]
Ý thức thẩm mỹ là hình thành và phát triển về mặt thẩm mỹ con người
lao động mới với tư cách là chủ thể tiếp nhận và sáng tạo các giá trị thẩm mỹ
mang tính nhân văn, nhân đạo.
Ý thức thẩm mỹ là bộ phận hợp thành ý thức xã hội, là hình thức
phản ánh hiện thực khách quan trên lĩnh vực thẩm mỹ, ý thức thẩm mỹ chỉ
có ở con người.
Trong giáo trình Mỹ học và giáo dục thẩm mỹ (Nhà xuất bản giáo dục

– 2000) thì: Ý thức thẩm mỹ là một hình thái ý thức xã hội của con người,
phản ánh hiện thực khách quan trong dạng hình tượng thẩm mỹ nhằm đáp ứng
nhu cầu sáng tạo và tiếp nhận hiện thực theo quy luật của cái đẹp.
Theo khái niệm này ta có thể thấy rõ ý thức thẩm mỹ là một hình thái
của ý thức xã hội, phản ánh hiện thực khách quan có tính chủ động sáng tạo
12


theo quy luật của cái đẹp. Tuy nhiên, với khái niệm ý thức thẩm mỹ như trên
đã chưa chỉ ra được tính cụ thể của ý thức thẩm mỹ, và sự tác động trở lại của
ý thức thẩm mỹ với hiện thực khách quan.
Qua những phân tích như trên có thể đưa ra khái niệm ý thức thẩm mỹ
như sau:
Ý thức thẩm mỹ là một hình thái của ý thức xã hội phản ánh hiện thực
khách quan trong quan hệ với nhu cầu thưởng thức và sáng tạo cái đẹp bằng hình
tượng thẩm mỹ và tình cảm thẩm mỹ mang tính lịch sử - xã hội và tính cá thể.
Ý thức thẩm mỹ là một hình thái ý thức xã hội, nó cũng có hai mức độ,
cấp độ: tâm lí thẩm mỹ và tư tưởng thẩm mỹ. Tâm lí thẩm mỹ đó là các cảm
xúc, tâm trạng, tình cảm thẩm mỹ.
Ở cấp độ hệ tư tưởng, ý thức thẩm mỹ bộc lộ trong dạng quan điểm,
quan niệm, lý luận mỹ học. Các tư tưởng, quan điểm, quan niệm, lí luận mỹ
học là một bộ phận hợp thành của thế giới quan (của một nhóm xã hội nào đó,
của một giai tầng nào đó). Các quan điểm mỹ học phản ánh trong dạng
logích-lí luận bao gồm: nhu cầu thẩm mỹ của xã hội, khái quát hoạt động
thẩm mỹ, xây dựng khái niệm về bản chất cái đẹp, về thái độ thẩm mỹ của
con người, về bản chất của cảm xúc thẩm mỹ, về các hình thức nhận thức và
cải tạo thẩm mỹ đối với thế giới.
Ý thức thẩm mỹ cũng giống như tất cả các hình thái ý thức xã hội khác
mang tính thế giới quan, lịch sử phát triển của tư tuởng mỹ học bộc lộ trong
cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật, xét cho cùng nó

phản ánh cuộc đấu tranh của các lực lượng xã hội thù địch.
Như vậy, ý thức thẩm mỹ là một bộ phận cấu thành ý thức xã hội nhưng
không đồng nhất với các hình thái ý thức xã hội khác mà nó có tính độc lập
tương đối. Bởi vì nó phản ánh hiện thực trong quan hệ với nhu cầu thưởng
thức sáng tạo cái đẹp tạo ra giá trị thẩm mỹ từ hoạt động thẩm mỹ. Ý thức
13


thẩm mỹ có tác động tích cực đối với đời sống xã hội, là một nhân tố sáng tạo
tích cực của con người đối với đời sống thẩm mỹ của chính mình. Chính ý
thức thẩm mỹ đã sáng tạo hiện thực xã hội theo quy luật cái đẹp, sáng tạo con
người có tính nhân văn. Là một yếu tố thực hiện chức năng phản ánh hiện
thực khách quan nên sự ra đời của ý thức thẩm mỹ là tất yếu khách quan dựa
trên các cơ sở vật chất và bộ não con người thông qua mối quan hệ tác động
qua lại giữa con người với tự nhiên và xã hội.
- Khái niệm giáo dục ý thức thẩm mỹ
Giáo dục ý thức thẩm mỹ là một bộ phận cơ bản trong tổng thể các mặt
của quá trình giáo dục sư phạm góp phần nhằm hình thành con người với tính
cách chủ thể tích cực, sáng tạo của xã hội công nghiệp, hiện đại theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Giáo dục ý thức thẩm mỹ là hoạt động thực tiễn, xuất
phát từ nhu cầu lợi ích và mục đích hướng tới chân – thiện – mỹ, cái tốt, cái
xấu để từ đó con người có những hành vi ứng xử đạo đức mang tính chuẩn
mực, văn minh theo quy luật cái đẹp.
1.1.2 Đặc điểm và vai trò của giáo dục ý thức thẩm mỹ
- Đặc điểm của giáo dục ý thức thẩm mỹ
Là một hình thái ý thức xã hội, ý thức thẩm mỹ cũng giống như bất kỳ
một hình thái ý thức thức nào khác. Mọi nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch
sử đều được vận dụng cho ý thức thẩm mỹ. Như mọi hiện tượng ý thức khác,
ý thức thẩm mỹ nảy sinh, hình thành và phát triển trên cơ sở thực tiễn đời
sống xã hội.

Biểu hiện của ý thức thẩm mỹ thông qua:
Thứ nhất, xúc cảm thẩm mỹ:
Xúc cảm thẩm mỹ là khả năng rung cảm của con người trước những ấn
tượng thẩm mĩ được nhận thức, là sự rung động của tâm hồn con người trải
qua quá trình thụ cảm cái đẹp, cái cao cả, cái bi, cái hài, trong cuộc sống.
14


Trong cuộc sống, người ta thường có những thích thú, khoái cảm:
Khoái cảm uống rượu ngon, khoái cảm đọc thơ, xem tranh, nghe hát... Bác Hồ
từng viết:
Trong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ
Xúc cảm thẩm mỹ có khả năng phản ánh được những giá trị không mang
tính thực dụng. Ðó là giá trị tinh thần, tình cảm. Nó vượt ra khỏi khuôn khổ của
sự vui sướng chỉ do thỏa mãn những nhu cầu thuần túy bản năng sinh lý hay
thực dụng. Cảm xúc thẩm mỹ là cảm xúc vô tư, không vụ lợi. Do đó, cảm xúc
thẩm mỹ đã trở thành biểu tượng rất quan trọng của sự phát triển tính người
trong con người với tư cách là thuộc tính giống loài ở nhân cách con người.
Thứ hai, tình cảm thẩm mỹ:
Là sự phát triển cao hơn của cảm xúc thẩm mỹ nó chỉ có ở con người,
con người không những cảm nhận giá trị thẩm mỹ mà nó còn sáng tạo ra giá
trị thẩm mỹ phục vụ cho con người. Tình cảm thẩm mỹ có nội dung nhân đạo
và tiến bộ phản ánh tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, cụ thể là luôn
hướng tới cái tốt, cái đẹp, cái cao cả, oai hùng.
Tình cảm thẩm mỹ thường bắt đầu bằng xúc cảm thẩm mỹ có tính chất
sơ bộ. Đó là phản xạ thẩm mỹ không chủ định, nhất thời và biến đổi phụ
thuộc vào tình huống. Phản xạ này đưa ý thức con người vào quan hệ thẩm

mỹ và trên cơ cở đó hình thành một tình cảm bền vững tích cực.
Thứ ba, biểu tượng thẩm mỹ:
Là những hình ảnh, ấn tượng tương đối toàn vẹn về một sự vật, hiện
tượng được lưu giữ lại trong bộ não con người và có khả năng tái tạo lại khi
được tác động về mặt thẩm mỹ.

15


Biểu tượng thẩm mỹ được cấu thành từ cảm xúc thẩm mỹ và tình cảm
thẩm mỹ. Biểu tượng thẩm mỹ đóng vai trò quan trọng trong nhận thức và
sáng tạo ra cái đẹp, vừa là kho lưu trữ các xúc cảm thẩm mỹ và tình cảm thẩm
mỹ vừa là trung tâm truyền đạt thông tin thẩm mỹ. Là nền tảng cơ bản cho sự
hình thành thị hiếu thẩm mỹ.
Thứ tư, thị hiếu thẩm mỹ:
Là một bộ phận quan trọng của năng lực thẩm mỹ. Là sở thích của con
người về phương diện thẩm mỹ. Ðó là thái độ bằng lòng, hứng thú trước cái
đẹp, cái cái cao cả, cái thẩm mỹ.
Thị hiếu thẩm mỹ được hình thành thông qua quá trình tác động qua lại
giữa con người với tự nhiên và xã hội thông qua việc đánh giá về cái đẹp.
Thông qua thị hiếu thẩm mỹ có thể phần nào đánh giá được ý thức thẩm mỹ
cũng như tính cách của chủ thể thẩm mỹ.
Thứ năm, quan điểm thẩm mỹ:
Là tập hợp những ý kiến của chủ thể về đối tượng thẩm mỹ. Quan điểm
thẩm mỹ là sự thể hiện tập trung của ý thức thẩm mỹ, vì từ những cảm xúc,
tình cảm thẩm mỹ, những biểu tượng và thị hiếu thẩm mỹ mang lại nhiều lần
như thế ở chủ thể thẩm mỹ mới hình thành quan điểm thẩm mỹ.
Quan điểm thẩm mỹ là luận điểm, những lý luận được tập hợp lại thông
qua quá trình hình thành lâu dài mới có được, chi phối hoạt động thẩm mỹ
của chủ thể thẩm mỹ cho nên nó là một yếu tố tương đối bền vững trong ý

thức của chủ thể và là cơ sở khái quát nên lý tưởng thẩm mỹ.
Thứ sáu, lý tưởng thẩm mỹ:
Là biểu hiện cao nhất của ý thức thẩm mỹ. Lý tưởng thẩm mỹ là khát
vọng, hoài bão vươn tới cái đẹp với các giá trị chân – thiện – mỹ. Trong lý
tưởng thẩm mỹ có sự thống nhất của quan điểm thẩm mỹ và hiện thực thẩm

16


mỹ đang diễn ra và cả sự định hướng cho sự vươn tới của hiện thực đó trong
tương lai.
Lý tưởng thẩm mỹ là hứng thú vô tư, không vụ lợi, hiệu quả của lý
tưởng thẩm mỹ là sự thanh khiết hóa tâm hồn con người. Lý tưởng thẩm mỹ
trong nghệ thuật chưa bao giờ là những con người của tham vọng vật chất và
quyền lực vị kỷ, mà là những con người đẹp tuyệt đối, rất vị tha.
Lý tưởng thẩm mỹ là mục tiêu cao xa, nhưng hiệu quả của nó lại rất
thiết thực, gần gũi. Là tấm gương sáng để con người soi mình vào và tự sửa
lại mình một cách tự nguyện.
Mỗi con người sống trong một thời đại, một xã hội nhất định đều cần
và phải có lý tưởng. Lý tưởng là hạt nhân thiêng liêng và cao quý nhất của
con người. Người thiếu lý tưởng thì nghị lực sống nhỏ bé, nhân cách tầm
thường, trong mọi con người đều có lý tưởng để đạp bằng mọi khó khăn,
vươn lên phía trước.
Qua những phân tích ở trên cho thấy những yếu tố cấu thành nên ý thức
thẩm mỹ có sự thống nhất biện chứng với nhau và có tính độc lập tương đối,
chúng bổ sung cho nhau. Ý thức thẩm mỹ là một hình thái ý thức xã hội đặc
thù , phản ánh tồn tại xã hội một cách độc đáo và có tính vượt trước tồn tại xã
hội thông qua việc hưởng thụ và sáng tạo theo quy luật cái đẹp.
Ngoài ra, đặc điểm của giáo dục ý thức thẩm mỹ khác với mọi phương
tiện giáo dục khác chính là ở bản chất của cái thẩm mỹ.

Theo quan điểm của các nhà mỹ học Mác – Lênin, giáo dục ý thức
thẩm mỹ là giáo dục mang tính tổng hợp. Giáo dục trí tuệ không tách rời giáo
dục ý thức cũng như giáo dục đạo đức có liên hệ bản chất với giáo dục ý thức
thẩm mỹ. Do đó, giáo dục ý thức thẩm mỹ đồng tham gia làm hoàn thiện các
lĩnh vực giáo dục khác.

17


Để có thể hiểu rõ hơn đặc điểm của giáo dục ý thức thẩm mỹ nhằm làm
sáng rõ bản chất của giáo dục ý thức thẩm mỹ là gì? chúng ta cần chỉ ra
những điểm cốt yếu cơ bản sau:
Một là, giáo dục ý thức thẩm mỹ mang tính cá nhân và xã hội:
Cũng như các hình thái ý thức khác, ý thức thẩm mỹ có thuộc tính xã
hội chung, hay ý thức thẩm mỹ là một thuộc tính của tồn tại xã hội. Với tư
cách là một biểu hiện đặc thù của tinh thần xã hội, ý thức thẩm mỹ do đời
sống vật chất xã hội quy định về nội dung, tính chất ,chức năng và giá trị, cơ
chế phát sinh, phát triển. Đồng thời bản thân ý thức thẩm mỹ cũng có tính độc
lập tương đối với các quy luật vận động, liên hệ và phát triển nội tại của nó.
Trên cái nền của sự tác động qua lại với tồn tại xã hội, xét theo quan hệ tương
tác của các thành phần trong đặc tính xã hội của ý thức, ý thức thẩm mỹ là
mối liên hệ hữu cơ giữa ý thức thẩm mỹ cá nhân và ý thức thẩm mỹ xã hội.
Tính cá nhân: ý thức thẩm mỹ cá nhân là một chỉnh thể ý thức thẩm mỹ
trong tính đơn chất và độc đáo của nó thuộc một cá nhân riêng biệt. Tính
“riêng” (và cũng là tính đối lập trong liên hệ thống nhất với ý thức thẩm mỹ
xã hội). Việc giáo dục ý thức thẩm mỹ phụ thuộc vào các đặc điểm về sinh lý,
tâm lý cá nhân, điều kiện kinh tế và văn hóa của từng cá nhân. Giáo dục ý
thức thẩm mỹ liên quan mật thiết đến việc hình thành nhân cách cá nhân và có
mục tiêu trước hết là hình thành chủ thể thẩm mỹ. Việc giáo dục ý thức thẩm
mỹ giúp con người cá nhân ngày càng hoàn thiện hơn trong đời sống thẩm mỹ

xã hội.
Tính xã hội: ý thức thẩm mỹ xã hội là tổng thể các quan niệm, tư
tưởng, lý thuyết thẩm mỹ, tình cảm, tâm lý, tư tưởng, thị hiếu thẩm mỹ, tư
duy văn hóa thẩm mỹ, nghệ thuật… thuộc đời sống tinh thần của xã hội,
phản ánh hiện thực vật chất trong những giai đoạn phát triển lịch sử, cụ thể
khác nhau của toàn bộ xã hội.
18


Tính xã hội thể hiện các sở thích các phản ứng thẩm mỹ là có tính cá
nhân nhưng nó không tách khỏi các thước đo xã hội. Giáo dục ý thức thẩm
mỹ làm cho chủ thể thẩm mỹ được phát triển phong phú, đa dạng trong sự
phát triển chung của xã hội. Trong khi giáo dục ý thức thẩm mỹ làm hình
thành một chủ thể thẩm mỹ biết hưởng thụ, đánh giá, sáng tạo cái đẹp phải
thống nhất giữa lý tưởng thẩm mỹ cá nhân với lý tưởng thẩm mỹ xã hội. Giáo
dục ý thức thẩm mỹ xã hội là cái vốn có bên trong con người, bởi vì con
người là chủ thể đồng thời là khách thể của tồn tại xã hội. Cũng như quan hệ
cá nhân – xã hội nói chung, mọi “biểu hiện sinh hoạt” của ý thức thẩm mỹ cá
nhân” đều là biểu hiện và sự khẳng định của sinh hoạt xã hội” vì “cá nhân là
thực thể xã hội”; trong đó mỗi quan hệ của các cá nhân là một biểu hiện của
đời sống cá nhân hiện thực…, một biểu hiện xác định. Do vậy, để giáo dục tốt
ý thức thẩm mỹ cho xã hội thì phải xâm nhập vào từng cá nhân, trở thành một
mặt, một bản chất của ý thức thẩm mỹ cá nhân, tồn tại trong mối liên hệ với ý
thức thẩm mỹ cá nhân, thông qua ý thức thẩm mỹ cá nhân, và ngược lại, ý
thức thẩm mỹ cá nhân chỉ tồn tại trong mối liên hệ đưa đến ý thức thẩm mỹ
xã hội. Khâu trung gian của mối liên hệ phức tạp và sinh động này chính là ý
thức thẩm mỹ tập đoàn, giai cấp, dân tộc và thời đại. Điều đó cho thấy không
thể có ý thức cá nhân thuần túy, tuyệt đối cũng như không thể có ý thức thẩm
mỹ xã hội thuần túy tuyệt đối.
Hai là, giáo dục ý thức thẩm mỹ mang tính tổng hợp và sáng tạo

Giáo dục ý thức thẩm mỹ để nhân cách con người luôn cao đẹp trong
mọi sự thay đổi, trong những hoàn cảnh mới là một vấn đề không hề đơn
giản. Sự hình thành ý thức thẩm mỹ được giáo dục qua nhiều giai đoạn; từ
tuổi ấu thơ cho tới trường đời. Để giáo dục ý thức thẩm mỹ cần kết hợp nhiều
hình thức linh hoạt. Công tác giáo dục ý thức thẩm mỹ đòi hỏi phát triển cả
chiều rộng và chiều sâu, cả nội dung lẫn hình thức.

19


Thực hiện được mục tiêu đó, cần phải mở rộng các hình thức sinh hoạt
văn hóa cộng đồng, thêm nhiều sân chơi, phù hợp với từng địa phương, nâng
cao hơn nữa đời sống tinh thần, năng lực thẩm mỹ cho họ.
Cần đặc biệt chú ý giáo dục ý thức thẩm mỹ trong nhà trường, nâng cao
nhận thức cho mỗi thành viên trong trường bằng con đường thẩm mỹ. Khuyến
khích các bạn sinh viên trẻ tham gia vào nhiều hoạt động sinh hoạt, vui chơi
giải trí vừa mang đậm nét truyền thống, lại vừa có tính sáng tạo phù hợp với
lứa tuổi thời đại.
Giáo dục ý thức thẩm mỹ trong nhà trường được xem là hạt nhân của
giáo dục, cần được tổ chức giảng dạy và học tập nghiêm túc. Chú ý trau dồi
văn hóa cảm quan cho sinh viên thông qua tất cả các môn học… Giáo dục
lòng yêu thiên nhiên, con người, quê hương, đất nước cho thế hệ trẻ các em
sinh viên.
Trong thực tiễn cuộc sống cần phải nhân rộng những gương điển hình,
người tốt việc tốt kết hợp với phương pháp nêu gương để góp phần mở rộng
những thị hiếu cao đẹp.
Trong xu thế hội nhập và phát triển hiện nay, bên cạnh việc tiếp thu tinh
hoa văn hóa nhân loại, chúng ta đã gặp không ít khó khăn vì những văn hóa
phẩm độc hại xâm nhập vào nước ta, làm tổn hại đến những giá trị truyền
thống. Vì vậy việc bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống là nhiệm vụ

cần thiết và cấp bách.
Tạo ra một môi trường văn hóa lành mạnh cho lớp trẻ sinh viên, đồng
thời nâng cao trình độ nhận thức và thị hiếu nghệ thuật của sinh viên chúng ta
cần định hướng tích cực cho các bạn trẻ ấy thông qua nghệ thuật, hoạt động
phê bình... là những nhiệm vụ quan trọng của văn hóa thẩm mỹ và văn hóa
nghệ thuật.
Việc xây dựng và thực hiện chiến lược giáo dục ý thức thẩm mỹ cho
thế hệ trẻ đặc biệt là sinh viên sư phạm trong nền kinh tế mới cần có sự chỉ
20


×