Tải bản đầy đủ (.docx) (129 trang)

QUẢN lý dạy học môn mỹ THUẬT tại các TRƯỜNG THCS QUẬN cầu GIẤY, THÀNH PHỐ hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (626.98 KB, 129 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ BAN

QUẢN LÝ DẠY HỌC MÔN MỸ THUẬT
TẠI CÁC TRƯỜNG THCS QUẬN CẦU GIẤY,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành

: Quản lý giáo dục

Mã số

: 60 14 01 14

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Khánh Đức

HÀ NỘI - 2016
1


MỤC LỤC

2


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ


1. Danh mục bảng

2. Danh mục biểu đồ
Biểu đồ 3.1: Tương quan giữa mức độ cần thiết và tính khả thi của các biện
pháp quản lý dạy học Mỹ thuật tại các trường THCS quận Cầu
Giấy..................92
3. Danh mục sơ đồ

3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam đang ở trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền
kinh tế- xã hội và hội nhập quốc tế. Hội nhập quốc tế để tận dụng , phát huy
các nguồn lực từ bên ngoài nhưng cũng đồng thời phát huy tối đa nội lực bên
trong để phát triển đất nước trên cơ sở bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa
giá trị tốt đẹp của dân tộc, con người Việt Nam.
Nghị quyết hội nghị lần thứ VIII, ban chấp hành Trung ương khóa XI
(NGhị quyết số 29- NQ/TW) về “ đổi mới căn bản, toàn diện giao dục và đào
tạo , đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế” đã xác định mục tiêu của
đổi mới giáo dục là tạo chuyển biến căn bản mạnh mẽ về chất lượng, hiệu
quả giáo dục, đào tạo; đáp xây dựng, bảo vệ tổ quốc và nhu cầu học tập của
nhân dân.; giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt
tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân …
Như vậy việc giáo dục phải đảm bảo phát triển toàn diện con người,
phát triển hài hòa đức, thể , mỹ.. phát huy toàn diện năng lực bản thân.
Là một bộ phận hợp thành của quá trình giáo dục, giáo dục Mỹ thuật
không thể đứng ngoài hay tách biệt khỏi quá trình giáo dục toàn diện nói

chung và giáo dục thẩm mỹ nói riêng. Đổi mới giáo dục nhằm hướng tới phát
triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực có chất lượng cao, trong đó
những hiểu biết và năng lực thẩm mỹ có ý nghĩa quan trọng trong việc đáp
ứng nhu cầu phát triển của xã hội và hòa nhập với thế giới.
Giáo dục Mỹ thuật phổ thông là một bộ phận không thể thiếu của giáo
dục toàn diện trong hệ thống giáo dục quốc dân. Trong đổi mới nội dung,
chương trình, phương pháp tổ chức dạy học và đánh giá trong giáo dục nói
chung và giáo dục Mỹ thuật phổ thông nói riêng, một mặt, cần có sự kế thừa
4


và phát huy những ưu điểm của chương trình giáo dục hiện tại. Mặt khác, cần
thiết phải coi trọng việc tiếp cận và học tập kinh nghiệm của nền giáo dục
hiện đại thế giới và khu vực. Từ đó, làm cơ sở để định hướng xây dựng
chương trình giáo dục phù hợp với thực tiễn xã hội và cho cả những giai đoạn
tiếp theo. Giáo dục Mỹ thuật là một bộ phận hợp thành của giáo dục toàn
diện, bởi vậy giáo dục Mỹ thuật trong các nhà trường phổ thông được xem là
môn học cơ bản – không thể thiếu.
Ngày nay, Mỹ thuật đã và đang khẳng định được vai trò cũng như
những chức năng hết sức thiết yếu với xã hội hiện đại. Và dạy học Mỹ thuật
trong các các nhà trường phổ thông đang ngày được quan tâm và từng bước
nâng cao chất lượng.
Là đơn vị đi đầu trong ngành giáo dục của Sở Giáo dục và đào tạo
thành phố Hà Nội, ban lãnh đạo phòng Giáo dục- Đào tạo quận Cầu Giấy
luôn định hướng cho các trường trong địa bàn quận chú ý quán triệt sâu sắc
mục tiêu giáo dục toàn diện của toàn ngành trong đó có giáo dục Mỹ thuật.
Chính vì vậy, các trường trong quận đều có những biện pháp quản lý
bồi dưỡng dạy học Mỹ thuật như: tạo điều kiện về kinh phí, thời gian đầu tư
cơ sở vật chất phòng học, tổ chức hoạt động ngoại khóa, đào tạo bồi dưỡng
giáo viên, khuyến khích học sinh, phụ huynh và một loạt những hoạt động

xuyên suốt và mang tính định kỳ khác. Việc đầu tư vào môn Mỹ thuật đã
bước đầu thành công và đem lại những hiệu quả nhất định không thể phủ
nhận.Tuy nhiên, công tác quản lý dạy học môn Mỹ thuật ở các trường THCS
còn nhiều hạn chế, bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới môn học quan
trọng và có tính đặc thù này.
Chính vì đặc thù bộ môn chuyên biệt lại có tầm ảnh hưởng liên quan
đến nhiều lĩnh vực, mục tiêu chung của một các nhà trường THCS…mà môn
Mỹ thuật rất cần có một cách quản lý phù hợp không quá cứng nhắc nhưng
5


cũng phải có đầy đủ nguyên tắc khoa học để đảm bảo sự phát triển hiệu quả.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài:“Quản lý dạy học môn Mỹ
thuật tại các trường trung học cơ sở Quận Cầu giấy, Thành phố Hà Nội”
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu hệ thống hóa cơ sở lý luận về quản lý dạy học
theo bộ môn ở trường THCS, khảo sát thực trạng dạy học và quản lý dạy học
môn Mỹ thuật tại các trường THCS quận Cầu Giấy, đề xuất biện pháp quản lý
dạy học môn Mỹ thuật tại các trường THCS quận Cầu Giấy đáp ứng yêu cầu
đổi mới giáo dục hiện nay.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy học môn Mỹ thuật tại các trường THCS quận Cầu Giấy.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý dạy học môn Mỹ thuật tại các trường THCS quận
Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
4. Giả thuyết khoa học
Hoạt động dạy học môn Mỹ thuật tại các trường THCS quận Cầu Giấy
còn trầm lắng, chưa khởi sắc. Nếu đề xuất và triển khai được các biện pháp
quản lý hoạt động dạy học bộ môn Mỹ thuật dựa trên chức năng-mục tiêu

quản lý, phù hợp với điều kiện các nhà trường và đặc thù bộ môn Mỹ thuật ở
trường THCS, sẽ góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả dạy học bộ môn
Mỹ thuật tại các trường THCS quận Cầu Giấy, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo
dục hiện nay.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý dạy học bộ môn Mỹ thuật
tại các trường THCS quận Cầu Giấy.

6


5.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng công tác quản lý dạy học bộ môn
Mỹ thuật tại các trường THCS quận Cầu Giấy .
5.3. Đề xuất biện pháp quản lý dạy học môn Mỹ thuật tại các trường
THCS quận Cầu Giấy đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay .
6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài
- Nghiên cứu biện pháp quản lý dạy học môn Mỹ thuật tại các trường
THCS công lập Quận Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội.
- Số liệu sử dụng tính từ năm 2011 đến nay.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích, tổng hợp các tài
liệu,văn kiện, sách chuyên khảo về đổi mới giáo dục, về quản lý, quản lý giáo
dục, lý luận dạy học và quản lý dạy học.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: điều tra & khảo sát thực trạng
dạy học và quản lý dạy học Bộ môn Mỹ thuật ở một số trường THCS công lập
quận Cầu giấy, Hà Nội bằng phiếu hỏi.
7.3. Phương pháp chuyên gia: Lấy ý kiến chuyên gia.
7.4. Sử dụng một số phương pháp bổ trợ khác : thống kê và phân tích
số liệu.
8. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, danh mục tài liệu tham khảo
và các phụ lục, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về quản lý dạy học bộ môn Mỹ thuật tại
trường THCS, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay.
Chương 2. Thực trạng dạy học và quản lý hoạt động dạy học môn Mỹ
thuật tại các trường THCS quận cầu giấy, Hà Nội.
Chương 3. Biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn Mỹ thuật tại các
trường THCS quận cầu giấy, Hà Nội , đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay.
7


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ DẠY HỌC BỘ MÔN MỸ THUẬT
TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU ĐỔI MỚI
GIÁO DỤC HIỆN NAY
1.1.

Tổng quan nghiên cứu dạy học bộ môn Mỹ thuật tại trường trung học cơ
sở
1.1.1. Các nghiên cứu trên thế giới
Mỹ thuật là một môn học bắt buộc trong hệ thống giáo dục nói chung, giáo
dục phổ thông nói riêng (từ bậc học Tiểu học đến Trung học phổ thông). Điều này
được thể hiện ở cấu trúc chương trình các môn học và thời gian học sinh được học
Mỹ thuật trong các nhà trường phổ thông ở một số quốc gia như sau
* Hệ thống môn học trong chương trình giáo dục của các nước thuộc
OECD (1)
STT
1
2


Tên môn học
Đọc viết và Văn học
Mỹ thuật

STT
6
7

3

Khoa học

8

4
5

Tìm hiểu xã hội
Ngoại ngữ

9
10

Tên môn học
Công nghệ
Giáo dục thể chất
Nghệ thuật (Bao gồm cả Mỹ
thuật và Âm nhạc)
Tôn giáo
Thực hành và kỹ năng nghề


* Hệ thống môn học từng cấp học của các nước thuộc INCA(2):
. Cấp Trung học cơ sở
- Ngôn ngữ và Văn học

- Ngoại ngữ

- Mỹ thuật

- Nghệ thuật

- Khoa học Tự nhiên

- GD thể chất

- Khoa học Xã hội
- Kỹ năng sống
* Số giờ học sinh được học Mỹ thuật trong tuần

8

- Indonexia: 2 tiết/ tuần

- Hàn Quốc: 2 tiết/tuần

- Austradia: 3 tiết/ tuần

- Liên Bang Đức: 2 tiết/ tuần



- Nhật Bản: 2 tiết/ tuần

- Cộng hòa Litva: 2 tiết/ tuần…

* Các môn học được liên thông từ bậc Tiểu học đến Trung học phổ thông
-

Ngôn ngữ và Văn học
Khoa học Tự nhiên
Nghệ thuật

- Mỹ thuật
- Khoa học Xã hội
- GD thể chất

(1). Các nước thuộc OECD (Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế) gồm:
- Khu vực Châu Âu: Anh, Áo, Ba Lan, Bỉ, Bồ Đào Nha, Đan Mạch,
Đức, Estonia, Hà lan, Hungary, Hy Lạp, Iceland, Ireland, Luxembourg, Pháp,
Phần Lan, Cộng hòa séc, Slovakia, Slovenia, Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ,
Thụy Điển, Thụy Sĩ, Na Uy, Ý.
- Khu vực Châu Mỹ: Canada, Hoa Kỳ, Chile, Mexico.
- Khu vực Châu Á: Hàn Quốc, Israel, Nhật Bản.
- Khu vực Châu Đại Dương: New Zealand, Úc.
(2). INCA thuộc các nước Colombia, Ecuador, Peru, Chile.
Hàn Quốc là một trong những quốc gia tiên phong ở châu Á đã xây
dựng chính sách và chiến lược phát triển giáo dục văn hóa nghệ thuật.
*Giáo dục văn hóa nghệ thuật trong các nhà trường
Các môn học nghệ thuật từ lâu đã được giảng dạy trong hệ thống trường
phổ thông của Hàn Quốc. Tuy vậy, các môn này thường được coi là môn học
phụ, có vị trí rất thấp và không được học sinh, phụ huynh quan tâm. Bên cạnh

đó, giáo dục nghệ thuật trong các nhà trường thuần túy là việc dạy kỹ năng
thực hành nghệ thuật hơn là việc sử dụng nghệ thuật như phương tiện hữu
hiệu để thúc đẩy sự sáng tạo, trí tưởng tượng và các kỹ năng mềm ở người
học. Chính vì vậy, đẩy mạnh và đổi mới giáo dục văn hóa nghệ thuật trong
các nhà trường đã trở thành một trong những nội dung trọng tâm ở Hàn Quốc.
Chương trình “Đối tác sáng tạo” được xây dựng nhằm thiết lập mối
liên kết giữa trường học và đối tác ở địa phương như các nhóm nghệ sĩ, tổ
chức văn hóa nghệ thuật, trung tâm văn hóa để phục vụ hoạt động giáo dục
văn hóa nghệ thuật. Chương trình đã giúp các nhà trường gắn kết và khai thác
9


“vốn văn hóa” phong phú đồng thời đóng góp vào sự phát triển chung ở mỗi
địa phương.
Để hỗ trợ giáo dục văn hóa nghệ thuật trong các nhà trường, chính phủ
Hàn Quốc đã triển khai Chương trình Nghệ sĩ ở trường học (Artist-in-school
Program) với trọng tâm là gửi nghệ sĩ đến làm việc tại các các nhà trường.
Những nghệ sĩ này đã mang lại làn gió mới trong giáo dục nghệ thuật tại
trường học khắp cả nước. Hiện nay, năm lĩnh vực nghệ thuật được chú trọng
trong các trường học Hàn Quốc là âm nhạc truyền thống, sân khấu, điện ảnh,
múa và phim hoạt hình. Đến năm 2007, đã có 16 địa phương tham
gia Chương trình Nghệ sĩ ở trường học. Chương trình này đang được tiếp tục
triển khai đồng thời có những tổng kết, đánh giá để rút ra bài học kinh nghiệm
cho giai đoạn tới
*Giáo dục văn hóa nghệ thuật tại cộng đồng
Giáo dục nghệ thuật tại cộng đồng còn gọi là giáo dục học tập suốt đời
được giành cho tất cả mọi người trong xã hội. Hiện nay, chính phủ Hàn Quốc
đang nỗ lực đưa chương trình giáo dục nghệ thuật tới đông đảo công chúng,
đặc biệt là các nhóm xã hội thiệt thòi. Ở đây, giáo dục văn hóa nghệ thuật
đồng nghĩa với việc đảm bảo phúc lợi văn hóa- xã hội cho toàn dân.

Bộ Văn hóa đã phối hợp với Bộ Tư pháp tổ chức các chương trình giáo
dục văn hóa nghệ thuật cho phạm nhân ở cơ sở giáo dưỡng và nhà tù. Các
chương trình giáo dục đã khuyến khích lòng tự trọng cá nhân, phục hồi nhân
phẩm, trợ giúp phạm nhân cải tạo và tái hòa nhập với xã hội. Bên cạnh đó, Bộ
Văn hóa còn hợp tác với Bộ Quốc phòng tổ chức các hoạt động giáo dục cho
quân nhân nhằm giúp họ thực hiện nghĩa vụ quân sự hiệu quả hơn và xây
dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong quân đội. Hàn Quốc cũng thực
hiện nhiều hoạt động giáo dục văn hóa nghệ thuật phong phú hỗ trợ những
người nhập cư vượt qua rào cản về văn hóa, ngôn ngữ để hòa nhập vào cộng
10


đồng. Ví dụ, chương trình sử dụng nghệ thuật múa giúp phụ nữ nước ngoài
lấy chồng Hàn Quốc hiểu về văn hóa Hàn Quốc đồng thời thể hiện bản sắc
văn hóa của riêng họ, vượt qua “cú sốc văn hóa” để thích nghi tốt với điều
kiện sống mới. Ngoài ra, còn có thể kể đến các chương trình giáo dục nghệ
thuật giành cho người cao tuổi, đối tượng hưởng trợ cấp an sinh xã hội. Tóm
lại, hoạt động giáo dục văn hóa nghệ thuật Hàn Quốc đã tiếp cận nhiều nhóm
dân chúng đa dạng và trợ giúp họ ứng phó tốt hơn với tình trạng cá nhân,
hướng tới một tương lai tốt đẹp.
[Tác giả: Phạm Bích Huyền- Đại học Văn Hóa Hà Nội- Tạp trí nghiên
cứu văn hóa số 6/2015]
Giống như nhiều nước phương Tây, các trường học tại Anh rất chú
trọng đến hoạt động ngoại khóa của học sinh. Họ quan niệm "Giáo dục là phải
toàn diện" và không muốn biến trường học thành nơi chỉ chuyên tổ chức thi
cử. Chính vì vậy, các hoạt động ngoại khóa được thiết kế vô cùng thực tế
nhưng không kém phần thú vị. Đối với nhiều học sinh, những kinh nghiệm
khi tham gia hoạt động ngoại khóa có thể đi theo họ suốt cuộc đời.
St Helen và St Katharine là trong số những trường tham gia vào Young
Enterprise, một chương trình quốc gia nhằm khuyến khích các em học sinh từ

lớp 10 trở lên tự thành lập và điều hành công ty của chính mình trong suốt
một năm học. Đó là thử thách khó nhằn đối với các doanh nhân trẻ, liên quan
đến sản xuất, tiếp thị, thuyết phục và xúc tiến bán hàng. Các chuyên gia tư
vấn kinh doanh cũng tham dự các cuộc họp hàng tuần của mỗi công ty với tư
cách như một cố vấn [theo Trace - Báo tri thức trẻ].
Tóm lại, tất cả những kiến thức, nội dung, hoạt động đa dạng khi được
tích hợp trong môn Mỹ thuật sẽ giúp nâng cao năng lực đánh giá của người
học. Các nước tiên tiến trên thế giới đã đang và luôn coi môn Mỹ thuật là bộ
môn không thể tiếu trong các nhà trường và áp dụng ở các bậc học phổ thông.
11


Bộ môn này thật sự có những hiệu quả cần thiết trong giáo dục con người.
1.1.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam
Ngay từ những ngày đầu, giáo dục Việt Nam đã đưa Mỹ thuật vào
chương trình chính khóa. Trải qua nhiều gia đoạn và thờ kỳ, môn Mỹ thuật
vẫn luôn thể hiện được vai trò, giá trị nhất định. Đặc biệt trong giai đoạn “ đổi
mới căn bản và toàn diện” hiện nay. Có nhiều những nghiên cứu và dự án về
giáo dục Mỹ thuật trong các nhà trường.
Dự án Mô hình trường học mới tại Việt Nam (Dự án GPE-VNEN,
Global Partnership for Education – Viet Nam Escuela Nueva) là một Dự án về
sư phạm nhằm xây dựng và nhân rộng một kiểu mô hình các nhà trường tiên
tiến, hiện đại, phù hợp với mục tiêu phát triển và đặc điểm của giáo dục Việt
Nam, hiện nay đang đuợc triển khai thi điểm nhân rộng trong trong các
trường tiểu học và trung học cơ sở.
Mô hình trường học mới khởi nguồn từ Côlômbia từ những năm
1995-2000 để dạy học trong những lớp ghép ở vùng miền núi khó khăn, theo
nguyên tắc lấy học sinh làm trung tâm. Mô hình này vừa kế thừa những mặt
tích cực của mô hình trường học truyền thống, vừa có sự đổi mới căn bản về
mục tiêu đào tạo, nội dung chương trình, tài liệu học tập, phương pháp dạy –

học, cách đánh giá, cách tổ chức quản lí lớp học, cơ sở vật chất phục vụ cho
dạy – học.
Điểm nổi bật của mô hình này là đổi mới về các hoạt động sư phạm,
một trong những hoạt động đó là đổi mới về cách thức tổ chức lớp học. Theo
mô hình của trường học mới, quản lí lớp học là “Hội đồng tự quản học sinh”,
các “ban” trong lớp, do học sinh tự nguyện xung phong và được các bạn tín
nhiệm. Sự thành lập cũng như hiệu quả hoạt động của “Hội đồng tự quản học
sinh”, các “ban” rất cần sự tư vấn, khích lệ, giám sát của giáo viên, phụ
huynh, sự tích cực, trách nhiệm của học sinh. “Hội đồng tự quản học sinh” là
12


một biện pháp giúp học sinh được phát huy quyền làm chủ quá trình học tập,
giáo dục. Học sinh có điều kiện hiểu rõ quyền và trách nhiệm trong môi
trường giáo dục, được rèn các kĩ năng lãnh đạo, kĩ năng tham gia, hợp tác
trong các hoạt động.
Theo họa sĩ Lê Bá Dũng, “Mỹ thuật ứng dụng đang thâm nhập vào tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội mà không loại trừ ai. Hệ thống xã hội từ
kinh tế đến giáo dục, kiến trúc đến giao thông và thông tin đều đã chuyển qua
các quá trình kế hoạch hoá và quản lý khoa học, mà ở đó đều bộc lộ tinh thần
thẩm mỹ nhằm phát triển nền văn minh xã hội. Mỹ thuật ứng dụng đóng góp
không nhỏ vào sự phát triển kinh tế, văn hoá xã hội.
Theo nhà phê bình Đặng Thanh Mai, khoa phê bình Mỹ thuật ĐH Mỹ
thuật Hà Nội, môn Mỹ thuật sẽ giúp học sinh nâng cao năng lực nhận thức,
đạt được những hiểu biết quan trọng về họa sĩ (kiến thức về lịch sử nghệ
thuật), phân tích cảm xúc (phê bình nghệ thuật), cảm nhận về thẩm mỹ (mỹ
học), biểu hiện cảm xúc cá nhân thông qua việc vẽ tranh (sáng tạo).
Năng lực kỹ năng và kỹ thuật
Những trải nghiệm thực hành trong môn Mỹ thuật như vẽ tranh, nặn đồ
vật, cắt dán… sẽ giúp học sinh trở nên khéo léo hơn nhờ đó phát triển năng

lực kỹ năng và kỹ thuật. Quá trình học môn Mỹ thuật, học sinh học cách biểu
hiện cảm xúc bằng đường nét, màu sắc, hình khối mà dần dần có khả năng sử
dụng các kỹ thuật khác nhau như vẽ nét, hình, tô màu trên giấy, tạo hình và bố
cục sản phẩm Mỹ thuật 3 chiều, kỹ năng cắt, dán… Chỉ riêng với vẽ nét, học
sinh sẽ rèn luyện những kỹ thuật thể hiện các loại nét khác như như nét thanh,
nét thô; hoặc với vẽ hình được rèn luyện kỹ năng sử dụng bút để xây dựng các
hình có khả năng diễn đạt cảm xúc; pha trộn các màu cơ bản để tạo thành mầu
mới hay quá trình tạo khối từ các vật liệu khác nhau, học sinh sẽ biết cách
13


hoàn thiện và phát triển vật liệu thành sản phẩm Mỹ thuật. Ngoài ra còn phải
kể đến các kỹ thuật xử lý vật liệu, chất liệu trong quá trình thực hành các bài
tập Mỹ thuật.
Môn Mỹ thuật là môn học thiên nhiều về thực hành, thông qua thực
hành để nắm bắt kiến thức, do vậy học vẽ và tạo hình ba chiều sẽ giúp học
sinh phát triển được năng lực kỹ năng và kỹ thuật. John Dewey (1859-1952),
nhà giáo dục lỗi lạc với gia tài tư tưởng bao trùm đời sống trí tuệ nước Mỹ thế
kỷ XX, đã đặt nền tảng triết học cho giáo dục thực nghiệm. Theo đó, phương
pháp truyền đạt kiến thức sinh động và cảm hứng đối với người học là những
trải nghiệm của tất cả các giác quan, thông qua các bài học có sự kết hợp giữa
kiến thức và kỹ năng thực hành, nhờ đó phát huy được năng lực kỹ năng và
kỹ thuật của người học.
Năng lực biểu đạt
Nghệ thuật là một trong những phương thức biểu hiện cách nhìn, lối
nghĩ về thế giới. Thông qua việc vẽ tranh, nặn đồ vật, tạo hình sản phẩm trong
môn học Mỹ thuật, học sinh sẽ phát triển năng lực biểu đạt cảm xúc, suy nghĩ,
cách nhìn của mình về gia đình, bạn bè, các nhà trường và thế giới xung
quanh. Giáo dục Mỹ thuật ở các nước tiên tiến cho thấy, các bài học theo chủ
đề kết hợp với phương pháp học thảo luận mở ra cơ hội giảm thiểu áp lực của

việc tiếp nhận thông tin một chiều từ giáo viên, kích thích tư duy sáng tạo,
năng lực biểu đạt, trình bày vấn đề, giải quyết vấn đề của người học. Nói cách
khác, giờ học Mỹ thuật khi được tổ chức khoa học và hợp lý sẽ kích thích các
giác quan và giúp học sinh phát triển năng lực biểu đạt. Lấy ví dụ, bài 4
Đường nét, Hình khối, và màu sắc (Lines, Shapes, and Colors) trong
cuốn Creating Art 25, sách giáo khoa Mỹ thuật của Philipines, không chỉ giúp
học sinh học về các yếu tố tạo hình cơ bản mà còn giúp học sinh học cách
biểu hiện cảm xúc và trình bày ý tưởng. Trong phần bài tập yêu cầu học sinh
14


nghĩ về từ “Giận” (Anger), tiếp đó là câu hỏi “Khi bạn nghĩ đến từ này, màu
gì xuất hiện trong tâm trí bạn? Hãy sử dụng màu đó để vẽ một đường nét và
hình để biểu hiện sự giận dữ.” Tương tự, bài tập tiếp theo yêu cầu học sinh
tìm màu biểu đạt về hòa bình, sử dụng màu đó để vẽ đường nét và hình biểu
hiện về hòa bình.
Như vậy, học sinh có thể thông qua các bài tập Mỹ thuật học cách trình
bày cảm xúc, ước mơ, cách nhìn nhận của mình về sự kiện hay con người.
Nghiên cứu của các nhà khoa học đã chỉ ra rằng giáo dục nghệ thuật nói
chung và Mỹ thuật nói riêng nuôi dưỡng sự phát triển não bộ, đặc biệt là chức
năng não phải, về sáng tạo và trực quan. Điều quan trọng là giáo dục nghệ
thuật dạy tư duy hơn là nhận câu trả lời đúng, chính xác. Trên cơ sở các bài
tập Mỹ thuật, học sinh tìm hiểu vấn đề, và trình bày cách giải thích theo cách
riêng bằng đường nét, hình khối và màu sắc… Học sinh không chỉ phát triển
năng lực biểu đạt thông qua phương tiện, ngôn ngữ Mỹ thuật mà còn cả năng
lực biểu đạt ngôn ngữ, nét mặt, cử chỉ, hành vi.
Năng lực giao tiếp
Các mô hình bài học được thiết kế theo kiểu vẽ cùng nhau, xây dựng
câu chuyện, trình diễn, sắm vai, tạo hình Mỹ thuật ba chiều… không chỉ tạo
hứng thú mà còn phát triển năng lực giao tiếp của học sinh. Trong tất cả các

bài học trên, học sinh đều phải tiến hành các bước như trình bày ý tưởng, trao
đổi, thảo luận... Những hoạt động này giúp học sinh phát triển năng lực giao
tiếp như biết lắng nghe, đối thoại, và chia sẻ. Nói cách khác, quá trình tác
động trao đổi thông tin, cảm xúc qua lại giữa học sinh với học sinh, giữa học
sinh với giáo viên sẽ rèn luyện kỹ năng, năng lực giao tiếp của học sinh.
Sự tham gia tích cực vào các bài học sẽ giúp học sinh trở nên tự tin
hơn, tiếp thu kinh nghiệm của người xung quanh để trở thành vốn sống, kinh
nghiệm của bản thân, giúp hình thành và phát triển tâm lý cá nhân. Sự tiếp
15


xúc và tranh luận giữa các học sinh trong lớp tạo nên sự ganh đua, một sự
kích thích, tạo cảm hứng và động lực học tập cho mỗi học sinh. Đồng thời,
học sinh cũng được học và phát triển các kỹ năng trong giao tiếp với bạn bè,
với giáo viên, biết đồng cảm trong giao tiếp, biết đặt mình vào vị trí của đối
tượng giao tiếp, biết cùng suy nghĩ với đối tượng giao tiếp để tạo ra sự
“đồng điệu”.
Năng lực đánh giá
Ngoài những năng lực nói trên, môn Mỹ thuật còn giúp học sinh phát
triển năng lực đánh giá. Bài 1 trong cuốn Appreciating Art 5, sách giáo khoa
Mỹ thuật của Philipines, hướng dẫn học sinh từng bước cảm thụ về các vật
xung quanh, được mở đầu như sau:
Rất nhiều thứ xung quanh chúng ta dường như được cấu tạo từ nét không có gì khác! Thẳng hay quanh co, chúng uốn lượn, xoắn vặn, cuộn tròn,
hoặc biến mất trong không gian.
Bạn có thể nghĩ xem những gì như đất, không khí, và nước dường như
được làm từ những loại đường nét khác? Những chuyển động nào mà các
đường đó có thể gợi ra?
Vậy về những đồ vật bạn đang sử dụng thì sao? Bạn có thể phân biệt
được loại đường nét nào của mỗi loại? Bạn có thể vẽ hướng và chuyển động
của nó trong không gian?

Trong ví dụ vừa nêu, có thể thấy rằng học sinh sẽ nhận biết về nét,
đồng thời đánh giá được sự biểu hiện các loại nét. Với yêu cầu của mỗi bài
học về việc khám phá, nhận biết, và cảm thụ các yếu tố tạo hình, học sinh
được rèn luyện năng lực cảm thụ thẩm mỹ. Bên cạnh đó, những bài tập về
thưởng thức nghệ thuật cũng sẽ giúp nâng cao năng lực đánh giá của mỗi học
sinh, chẳng hạn học sinh sẽ hiểu được rằng khi nghệ sĩ vẽ tranh, họ làm điều
đó vì có lý do hoặc mục đích. Nói cách khác, nghệ sĩ kể cho chúng ta nghe

16


một câu chuyện bằng ngôn ngữ nghệ thuật. Một số hình vẽ đặc biệt để kể
chuyện trong khi các hình khác là để giải thích câu chuyện. Học sinh cũng sẽ
thấy được sự khác nhau về cách biểu hiện hình thức nghệ thuật của nghệ sĩ.
Đặc biệt với những câu hỏi thảo luận để học sinh được tự do trình bày cảm
nhận của mình về nội dung hay hình thức tác phẩm nghệ thuật sẽ phát huy
khả năng tự đánh giá vấn đề của người học. Tóm lại, tất cả những kiến thức,
nội dung, hoạt động đa dạng khi được tích hợp trong môn Mỹ thuật sẽ giúp
nâng cao năng lực đánh giá của người học.
Trong bối cảnh thế giới vận động và phát triển không ngừng , giáo
dục tất yếu phải nâng cao hơn nữa giáo dục toàn diện người h ọc. Môn
Mỹ thuật cũng không nằm ngoài guồng quay đó, đổi m ới, c ập nhật , phát
huy, hơn nữa là khẳng định vị thế trong đời sống xã hội. Việc quản lý bộ
môn cũng cần có những biện pháp mới đảm để đảm bảo phát tri ển ch ất
lượng chuyên môn và phát huy thế mạnh. Chính vì thế, th ời gian qua đã
có một số tác giả nghiên cứu về biện pháp quản lý hoạt đ ộng d ạy h ọc
bộ môn Mỹ thuật. Cụ thể:” Biện pháp quản lý hoạt động dạy học bộ
môn Mỹ thuật tại các trường THCS trên địa bàn quận Hải Châu, thành
phố Đà Nẵng” của tác giả Trình Quang Long năm 2013 ; ti ểu lu ận “M ột
số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn Mỹ thuật ở

Tiểu học” của tác giả Nguyễn Thị Ngọc Thảo trường tiểu học Vĩnh
Lương năm 2009; “Biện pháp quản lý hoạt động dạy học môn mỹ thu ật
ở các trường tiểu học trên địa bàn thành phố Hà Nội” của tác giả Nguy ễn
Thái Phong năm 2015… Tác giả Vũ Minh Tâm với; Mỹ học và giáo dục
thẩm mỹ , nhóm tác giả Nguyễn Quốc Toản, Đàm Luyện; Đổi mới
phương
dạy học mĩ thuật.

17

pháp


Một số luận văn thạc sĩ QLGD cũng đề cập đến vấn đề này
như: Trần Thanh Bình; Một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao
chất lượng giảng dạy ở trường Đại học nghệ thuật.
Các đề tài nghiên cứu nói trên đã có sự tổng kết về lý luận và đưa ra
các giải pháp khá cụ thể cho việc quản lý hoạt động dạy học mỹ thuật. Tuy
nhiên các nghiên cứu trên chủ yếu đưa ra các biện pháp nhằm ổn định và nâng
cao chất lượng, ít đi sâu vào sự linh hoạt thay đổi để thích ứng với yêu cầu đổi
mới giáo dục rõ nét hiện nay.
Trên địa bàn quận Cầu Giấy Thành phố Hà Nội chưa có đề tài nghiên
cứu chuyên sâu về biện pháp quản lý hoạt động dạy học bộ môn Mỹ thuật
THCS. Quản lý hoạt động dạy học môn Mỹ thuật nói riêng và các bộ môn nói
chung đáp ứng yêu cầu đổi mới nằm trong khuôn khổ các kế hoạch phát triển
Giáo dục của quận, của Thành phố. Vì vậy rất cần thiết phải có khảo sát thực
tiễn, nghiên cứu cơ sở lý luận để thực hiện xây dựng biện pháp quản lý một
cách khoa học, có tính khả thi và hiệu quả, phù hợp với thực tiễn địa bàn của
một quận ở cửa ngõ phía Tây của Thành phố Hà Nội.
1.2.


Cơ sở lý luận về hoạt động động dạy học môn Mỹ thuật ở trường THCS
1.2.1. Khái niệm về hoạt động dạy học môn Mỹ thuật
1.2.1.1. Hoạt động dạy học
Hoạt động dạy học bao hàm hai hoạt động tương hỗ cơ bản là hoạt
động dạy (của GV) và hoạt động học (của HS) .Khi xem xét HĐDH, có nhiều
cách tiếp cận khác nhau như tiếp cận hướng vào hoạt động dạy của thầy hoặc
tiếp cận hướng vào hoạt động học của trò. Dạy học hướng vào hoạt động học
của trò thì trọng tâm của HĐDH được đặt vào hoạt động học của HS chứ
không phải vào hoạt động dạy của GV. Nói cách khác, GV là người tổ chức
việc học, gợi cho HS khám phá và tạo dựng kiến thức, tạo ra các môi trường
học tập mạnh mẽ; nâng cao chất lượng học tập, v.v…

18


Như vậy, HĐDH là hệ thống những hành động phối hợp, tương tác giữa
GV và HS, trong đó, dưới tác động chủ đạo của GV, HS tự giác, tích cực, chủ
động lĩnh hội hệ thống tri thức khoa học, kỹ năng, kỹ xảo, phát triển năng lực
nhận thức, năng lực hành động, hình thành thế giới quan khoa học và những
phẩm chất của nhân cách.
1.2.1.2. Mỹ thuật
Mỹ thuật hiểu nghĩa đơn giản là "nghệ thuật của cái đẹp" ("mỹ", theo
tiếng Hán-Việt, nghĩa là "đẹp").Theo cách nhìn khác, từ "Mỹ thuật" (đẹp +
nghệ thuật) chỉ cái đẹp do con người hoặc thiên nhiên tạo ra mà mắt người
nhìn thấy được. Vì lý do này người ta còn dùng từ "nghệ thuật thị giác" để nói
về Mỹ thuật.
Có nhiều cấp độ thưởng thức cái đẹp, phụ thuộc vào sự hiểu
biết, khiếu thẩm mỹ và ý thích của riêng từng người. Do đó, quan niệm
về mỹ thuật cũng chưa nhất quán theo một chuẩn mực nào.

Tuy nhiên, một tác phẩm được đánh giá là có phần mĩ thu ật bi ểu
hiện tốt thì ít nhiều tác phẩm đó phải có âm vang về tính kinh viện, hàn
lâm.
Theo từ điển từ vựng mỹ học của Étienne Souriau - 1990, tiêu
chuẩn mỹ thuật mang tính kinh viện gồm có: nhạy cảm, mang t ới cho
người thưởng thức nhiều cảm xúc; diễn đạt tốt không gian trong tranh,
thời gian; mức độ diễn tả đạt tới một trong các loại hình mỹ học. Ví dụ:
thông qua ngôn ngữ tạo hình, tác giả diễn đạt thành công một tác ph ẩm
mang tính triết lý sâu sắc, cho dù các hình tượng trong tranh mang
tính trừu tượng hoặc tượng trưng.

19


Mỹ thuật là môn nghệ thuật có ngôn ngữ riêng, muốn học hay hi ểu
đúng về môn này cần phải hiểu ngôn ngữ của nó.
Đôi khi ta còn gặp thuật ngữ "mỹ thuật" trên sân khấu và trong
cuộc sống hằng ngày.
Từ "mỹ thuật" còn được dùng khi phân biệt những ngành lớn của
hội hoạ: mỹ thuật ứng dụng, mỹ thuật công nghiệp, mỹ thuật trang trí...;
mỗi ngành có một đặc thù riêng về kỹ thuật thể hiện và giá trị sử dụng.
Trên thế giới, và ở cả Việt Nam, những người hoạt động trong
ngành thường chỉ thừa nhận khái niệm mỹ thuật theo nghĩa hàn lâm và
có sự phân biệt rõ rệt giữa mỹ thuật với thủ công mỹ nghệ và mỹ thuật
ứng dụng. và đơn giản hơn:mỹ thuật là những đường nét được con
người tự quy ước với nhau theo cảm nhận được sử dụng để biểu lộ thế
giới thực tại gián tiếp qua 1 chất liệu nào đó theo một cách riêng của
mỗi người cho là đẹp
Mỹ thuật bao gồm một số lĩnh vực nghệ thuật thị giác như:
Hội họa: nghệ thuật tạo hình trên bề mặt 2 chiều một cách tr ực




tiếp. Các tác phẩm hội họa mang tính độc bản. Hội họa được coi là m ảng
quan trọng của mỹ thuật.
Đồ họa: là nghệ thuật tạo hình trên bề mặt 2 chiều một cách gián



tiếp qua các kỹ thuật in ấn, vì vậy một tác phẩm đ ồ họa th ường có
nhiều bản sao.
Điêu khắc: là nghệ thuật tạo hình trong không gian ba chiều



(tượng tròn) hoặc hai chiều (chạm khắc, chạm nổi).

20


Đây là khái niệm theo nghĩa hàn lâm, là khái niệm c ơ bản nh ất và
là cơ sở để đánh giá các tác phẩm mỹ thuật [1].
Hiểu rộng ra, cái gì thuộc nghệ thuật thị giác thì cũng đ ược coi là
thuộc mỹ thuật. Đặc biệt những xu hướng mỹ thuật đương đại xuất
hiện từ khoảng thập niên 1960 bao gồm:


Nghệ thuật Sắp đặt (Installation art)




Nghệ thuật Trình diễn (Performance art)



Nghệ thuật Hình thể (Body art)



Nghệ thuật Đại chúng (Popart)
...và nhiều loại hình khác nữa.
1.2.2. Vị trí, vai trò của môn mỹ thuật ở trường Trung học cơ sở
Ngày nay cái đẹp đã trở thành một trong những nhu cầu thiết yếu của
cuộc sống con người, tất cả phục vụ cho con người đều cần đẹp về cả hình thể
màu sắc và khi cuộc sóng ngày càng cao thì cái đẹp lại càng trở nên quan
trọng, có thể nói nó đóng góp một phần đáng kể vào phát triển nền kinh tế
quốc dân. Với mục tiêu là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí
tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân,
tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, giáo dục thẩm mỹ có
mục tiêu là phát triển năng lực, thẩm mỹ cho mỗi thành viên trong xã hội, góp
phần quan trọng vào việc hình thành con người mới, sự phát triển năng lực
thẩm mỹ sẽ giúp con người biết nhận thức và đánh giá, biết vận động và sáng
tạo theo quy định cái đẹp, giáo dục thẩm mỹ ở trường phổ thông được thực
hiện chủ yếu trong các giờ chính khóa và trong các hoạt động ngoại khóa của
21


các nhà trường. Có thể nói gần như mọi hoạt động của học sinh đều có sự
đóng góp của mỹ thuật: trang phục, trang trí khung cảnh, trang điểm, trình

diễn văn nghệ, hội trại…Học sinh đặc biệt hào hứng với các sân chơi này.
Những kiến thức kỹ năng mỹ thuật luôn được học sinh vận dụng và thể hiện
trong cuộc sống hàng ngày càng chứng tỏ được vị trí quan trọng của môn mỹ
thuật trong các nhà trường.
Xuất phát từ những mục tiêu trên môn mỹ thuật ở trường phổ thông có
những nhiệm vụ sau:
- Giáo dục thẩm mỹ cho học sinh thông qua ngôn ngữ tạo hình: vẻ đẹp
của bố cục, hình tượng, đường nét, màu sắc...
- Cung cấp một số kiến thức phổ thông về mỹ thuật để qua đó học sinh
để giải quyết các bài tập trong chương trình theo khả năng nhận thức và cảm
nhận riêng.
- Học sinh nhận thức sâu sắc hơn về vẻ đẹp và giỏ trị của nền mỹ thuật
dân tộc.
- Giúp học sinh tiếp thu có hiệu quả hơn tri thức ở các môn học khác vì
các môn học có liên quan, móc nối với nhau, hơn nữa mỹ thuật tạo điều kiện
cho học sinh suy nghĩ, sáng tạo để có nhiều cách thể hiện khác nhau cho bài
tập sẽ giúp các em học tốt hơn các môn khác.
- Định hướng cho một bộ phận nhỏ học sinh học tiếp ngành mỹ thuật,
hay tạo điều kiện cho một số học sinh thi vào các trường chuyên nghiệp có
liên quan đến mỹ thuật.

22


Dạy mỹ thuật ở trường phổ thông nói chung, ở trưởng trung học cơ sở
nói riêng là góp phần xây dựng thẩm mỹ cho xã hội, mọi người đều hướng
đến cái đẹp, biết tạo ra cái đẹp, thưởng thức cái đẹp theo ý mình sẽ làm cho
cuộc sống ngày càng trở nên tốt đẹp, phong phú và hài hoà hơn.
1.2.3. Đặc điểm dạy học môn Mỹ thuật đáp ứng yêu cầu đ ổi
mới giáo dục hiện nay.

HĐDH môn Mỹ thuật là hoạt động kép gồm hoạt động dạy của GV Mỹ
thuật và hoạt động học môn Mỹ thuật của HS. Trong đó, hoạt động dạy của
GV Mỹ thuật giữ vai trò chủ đạo, truyền thụ, tổ chức, điều khiển, hướng đến
hoạt động học môn Mỹ thuật của HS, thúc đẩy và làm cho việc học môn Mỹ
thuật của HS thành công. Nhờ hoạt động dạy của GV mà HS được tiếp xúc,
giao lưu, tham gia vào các hoạt động học tập như thảo luận nhóm, thực hành,
áp dụng các kiến thức mỹ thuật vào thực tế... Điều đó góp phần mở rộng nhãn
quan, tầm hiểu biết của HS. Đồng thời GV cũng đòi hỏi HS phải nhanh nhẹn,
khéo léo cải tiến phương pháp học tập, cải tiến hoạt động học tập của mình để
thích ứng với từng nội dung bài học. Trong trường hợp đó, HS THCS đặc biệt
là HS đầu cấp học sẽ gặp những khó khăn nhất định đòi hỏi người GV phải
tính đến để giúp HS tìm cách khắc phục. Vì lứa tuổi học sinh THCS là lứa
tuổi thiếu niên, lứa tuổi có những thay đổi rất lớn về tâm sinh lý. Điều đó có
liên quan đến việc xây dựng lại một cách cơ bản hoạt động dạy phù hợp với
tâm lý của HS. Vì vậy đòi hỏi người GV phải có những điều chỉnh mang tính
chất quyết định trong hoạt động dạy, nếu vẫn áp dụng những hình thức và
PPDH cũ cho bậc học này sẽ dẫn đến việc học sinh tỏ ra không bằng lòng
dưới nhiều biểu hiện khác nhau.
Hoạt động học môn Mỹ thuật của HS giữ vai trò chủ động, lĩnh hội, tự
giác, tích cực, độc lập và sáng tạo nhằm lĩnh hội những kiến thức Mỹ thuật

23


học cơ bản, hình thành kĩ năng và thái độ tương ứng, tạo lập những phẩm chất
nhân cách. Hoạt động học môn Mỹ thuật của HS THCS diễn ra ở trình độ cao
hơn, phong phú hơn, hoàn thiện hơn, biểu hiện ở những nội dung sau:
+ Động cơ học tập môn Mỹ thuật của HS THCS rất phong phú, đa
dạng, nhưng chưa bền vững, nhiều khi còn thể hiện mâu thuẫn. Đối với các
em HS ở trường THCS học mỹ thuật tương đối khó, nó đòi hỏi HS cần phải

nắm vững kiến thức hội họa cơ bản và hệ thống, làm nhiều bài tập nhưng đa
số các em ít để ý đến vấn đề này, thường tập trung vào một chi tiết mà một
sản phẩm hội họa đẹp đòi hỏi vẻ đẹp tổng thể nhiều mặt.
+ Thái độ học tập của HS THCS đối với môn Mỹ thuật cũng rất khác
nhau. Các em đều ý thức được tầm quan trọng và sự cần thiết của môn Mỹ
thuật, nhưng thái độ rất khác nhau: có em tích cực, có trách nhiệm cao, có em
rất lười biếng, thờ ơ …
+ Phương thức học tập môn Mỹ thuật của HS THCS có những nét
khác biệt so với HS tiểu học, mầm non.
Ở tiểu học, hoạt động học tập môn Mỹ thuật diễn ra theo phương thức
học và hành, học- hành gắn với nhau qua đó để hình thành các kỹ năng cần thiết.
+ Nội dung học tập môn Mỹ thuật ở THCS được mở rộng và chuyên
sâu hơn. Bởi vì, THCS là cấp học có tính lý luận gắn với thực hành nhiều theo
từng môn học, có tính chuyên sâu, từng bước HS nắm được những khái niệm
mỹ học và nhận thức được các quy luật về tự nhiên, xã hội và con người.
+ Mỹ thuật là môn học nghệ thuật, nó đòi hỏi sự sáng tạo ra cái đẹp
thông qua ngôn ngữ tạo hình bố cục, hình mảng, đường nét, màu sắc, đậm
nhạt. Cũng bởi vì Mỹ thuật là môn học sáng tạo, tạo ra cái đẹp, nên phương
pháp dạy học cần tạo cho học sinh hứng thú và say mê môn học không gò ép
khiên cưỡng. Ngoài ra, đối tượng của mỹ thuật là tất cả sự vật hiện tượng tồn

24


tại xung quanh chúng ta, dù là thực tế hay tưởng tượng, nên trực quan là một
trong những phương pháp trọng yếu của mỹ thuật song song với phương pháp
thực hành.
Môn Mỹ thuật bồi dưỡng, rèn luyện khả năng thẩm mỹ cho học sinh.
nó mang nhiều cảm tính, bởi nói tới mỹ thuật là nói tới sự cảm thụ, thưởng
thức, đánh giá và sáng tạo.

Tóm lại, từ những đặc điểm nêu trên cho thấy hoạt động dạy của GV và
hoạt động học môn Mỹ thuật của HS ở trường THCS có những nét rất riêng
và đặc thù, do vậy HĐDH môn Mỹ thuật cũng phải chú ý đến những nét
riêng đó và mang nét đặc trưng của cấp học trong dạy học môn Mỹ thuật ở
trường THCS.
1.2.4. Đổi mới hoạt động dạy học môn Mỹ thuật ở trường
Trung học cơ sở
1.2.4.1. Về mục tiêu dạy học môn Mỹ thuật
a) Mục tiêu chung môn Mỹ thuật
Giáo dục mỹ thuật ở trung học cơ sở không nhằm đào tạo hoạ sỹ hay
những người chuyên làm nghề mỹ thuật mà giáo dục thẩm mỹ cho học sinh là
chủ yếu, tạo điều kiện cho học sinh tiếp xúc, làm quen, thưởng thức cái đẹp,
tập tạo ra cái đẹp, vận dụng cái đẹp vào sinh hoạt học tập hàng ngày và những
công việc mai sau. Môn mỹ thuật nâng cao năng lực, quan sát, khả năng tư
duy hình tượng sáng tạo bồi dưỡng, phương pháp làm việc khoa học, nhằm
hình thành ở học sinh phẩm chất con người lao động mới, đáp ứng đòi hỏi của
xã hội phát triển ngày càng cao.
b) Mục tiêu của bài học môn Mỹ thuật
Mục tiêu bài học của môn Mỹ thuật ở cấp THCS thay đổi theo các yêu cầu:
25


×