Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Điều kiện giải ngân trong Hợp đồng tín dụng đầu tư của Nhà nước ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (746.18 KB, 74 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGÔ THẾ HIỆP

ĐIỀU KIỆN GIẢI NGÂN TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG ĐẦU TƯ
CỦA NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
UẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. TRẦN ĐÌNH HẢO

Hà Nội, 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, chưa được
công bố trong bất cứ một công trình nghiên cứu nào của người khác. Việc sử dụng kết
quả, trích dẫn tài liệu của người khác đảm bảo theo đúng các quy định. Các nội dung
trích dẫn và tham khảo các tài liệu, sách báo, thông tin được đăng tải trên các tác phẩm,
tạp chí và trang web theo danh mục tài liệu tham khảo của luận văn./.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Ngô Thế Hiệp


LỜI CẢM ƠN
Qua những năm tháng học tập chương trình đào tạo sau đại học, Tôi đã được
trang bị những kiến thức vô cùng quý báu, làm hành trang trong quá trình công tác.


Nhân dịp hoàn thành quyển luận văn, tôi xin gửi gắm lời biết ơn chân thành đến quý
Thầy, Cô là Giảng viên Học viện Khoa học xã hội đã tận tình giảng dạy và hướng dẫn
cho tôi nhiều kiến thức quý báu trong suốt thời gian theo học lớp Luật Kinh tế - Đợt
2/2016 tại Hà Nội.
Xin cảm ơn chân thành đến PGS.TS. Trần Đình Hảo đã tận tình hướng dẫn tôi
hoàn thành luận văn này.
Lời cảm ơn sâu sắc nhất đến Ban Lãnh đạo, các đồng nghiệp, gia đình, bạn bè,
người thân đã ủng hộ đã tạo điều kiện và nhiệt tình giúp đỡ để tôi trong suốt quá trình
học tập và nghiên cứu luận văn.
Trân trọng!
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2019

Tác giả luận văn

Ngô Thế Hiệp


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... ..1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG ĐẦU
TƯ VÀ ĐIỀU KIỆN GIẢI NGÂN TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG ĐẦU TƯ
CỦA NHÀ NƯỚC ...................................................................................................... ..9
1.1.

Lý luận về Hợp đồng Tín dụng đầu tư .................................................................. 9


1.2.

Những vẫn đề lý luận về điều kiện giải ngân trong Hợp đồng tín dụng đầu tư của

Nhà nước ....................................................................................................................... 23
1.3. Lý luận pháp luật về điều kiện giải ngân trong Hợp đồng tín dụng đầu tư của Nhà
nước…………………………………………………………………………………...30
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐIỀU KIỆN GIẢI NGÂN TRONG HỢP ĐỒNG
TÍN DỤNG ĐẦU TƯ CỦA NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM ........................................... 39
2.1.

Quy định của pháp luật về điều kiện giải ngân ................................................... 39

2.2.

Thực tiễn và kết quả thực thi các quy định về điều kiện giải ngân trong Hợp

đồng tín dụng đầu tư của Nhà nước tại Việt Nam ....................................................... 422
2.3.

Kết quả thực thi các quy định về điều kiện giải ngân trong hợp đồng tín dụng tại

các Tổ chức tín dụng trong nước và ngoài nước ......................................................... 522
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ ĐẢM BẢO
THỰC THI CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐIỀU KIỆN GIẢI NGÂN
TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG ĐẦU TƯ CỦA NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY .................................................................................................................. 59
3.1.

Phương hướng hoàn thiện và đảm bảo thực thi các quy định pháp luật về điều


kiện giải ngân trong Hợp đồng tín dụng đầu tư của Nhà nước ở Việt Nam hiện nay ... 59
3.2.

Các giải pháp hoàn thiện và đảm bảo thực thi các quy định pháp luật về điều

kiện giải ngân trong Hợp đồng tín dụng đầu tư của Nhà nước ở Việt Nam hiện
nay…………………………………………………………………………… ..... …..600
KẾT LUẬN ........................................................................................................................... 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 68


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

STT

Ký hiệu

Nguyên nghĩa

1

BLDS

Bộ Luật Dân sự

2

HĐQT


Hội đồng Quản trị

3

NHNN

Ngân hàng Nhà nước

4

TCTD

Tổ chức tín dụng

i


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nguồn vốn Tín dụng đầu tư của Nhà nước ở Việt Nam hiện nay là một hình
thức tín dụng đặc biệt, thường được dùng để hỗ trợ các dự án đầu tư phát triển của các
thành phần kinh tế thuộc một số ngành, lĩnh vực chương trình kinh tế lớn của Nhà
nước và các vùng khó khăn cần khuyến khích đầu tư, góp phần chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững, trong đó Nhà nước thực hiện quyết
định cho vay, giải ngân tín dụng không vì mục đích lợi nhuận mà hướng tới hiệu quả
và công bằng của nền kinh tế quốc gia. Đây là công cụ quan trọng của Chính phủ hỗ
trợ các dự án đầu tư phát triển xoá đói giảm nghèo, thực hiện mục tiêu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh nước ta đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế, yêu cầu liên quan đến thực hiện chính sách Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước càng đặt ra cấp thiết hơn. Đồng thời, yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát

triển cơ sở hạ tầng, khai thác các tiềm năng của các vùng, miền khó khăn - đặc biệt
khó khăn của đất nước cũng đòi hỏi phải nhanh, hoàn thiện Tín dụng đầu tư của Nhà
nước theo hướng hiệu quả hơn.
Thực tiễn thực hiện chính sách Tín dụng đầu tư của Nhà nước thì việc tăng
trưởng thông qua giải ngân tín dụng là yếu tố “sống còn”. Tuy nhiên, không có đồng
nghĩa với giải ngân bằng mọi giá, đòi hỏi kỹ năng của cán bộ thực hiện trong áp dụng
quy định của pháp luật về Tín dụng đầu tư của Nhà nước nói chung và đàm phán, ký
kết, thống nhất nội dung điều kiện giải ngân trong Hợp đồng tín dụng đầu tư của Nhà
nước nói riêng cần được quan tâm và không ngừng hoàn thiện tạo khung pháp lý quan
trọng, nâng cao trình độ, kỹ năng đàm phán, thống nhất nội dung hợp đồng với bên
vay tạo đà cho việc giải ngân đúng quy định của pháp luật, cơ chế góp phần hiệu quả
dự án sử dụng nguồn vốn vay của Nhà nước.
Các nghiên cứu liên quan đến áp dụng quy định của pháp luật, những cơ chế cụ
thể liên quan đến Tín dụng đầu tư của Nhà nước và cụ thể là quy định về điều kiện giải
ngân trong Hợp đồng tín dụng đầu tư. Trên cơ sở tìm hiểu lý luận, phân tích thực trạng
áp dụng của những quy định về điều kiện giải ngân trong Hợp đồng tín dụng đầu tư
của Nhà nước ở Việt Nam hiện nay và sau thời gian được học tập, nghiên cứu tại

1


trường Học viện Khoa học xã hội và thời gian công tác tôi đã được trang bị những kiến
thức lý thuyết, thực tiễn khá đầy đủ và cần thiết liên quan đến quy định về điều kiện
giải ngân. Vì vậy, tôi lựa chọn đề tài: "Điều kiện giải ngân trong Hợp đồng tín dụng
đầu tư của Nhà nước ở Việt Nam hiện nay".
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Các nghiên cứu về lý luận, thực tế liên quan đến hoạt động Tín dụng
đầu tư của Nhà nước
Trong khoảng 10 năm trở lại đây, đã có nhiều các nghiên cứu về thực tiễn liên
quan đến hoạt động Tín dụng đầu tư của Nhà nước, lý luận về mô hình Ngân hàng

phát triển trên thế giới và tại Việt Nam cụ thể:
-

Năm 2007, Luận án tiến sỹ Nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư

phát triển của Nhà nước của tác giả Trần Công Hòa (2007, Đại học Kinh tế quốc dân)
đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước; xây dựng cơ sở lý luận về hiệu quả hoạt động Tín dụng đầu tư phát triển của
Nhà nước, hệ thống các chỉ tiêu đánh giá và phương pháp đánh giá hiệu quả một cách
toàn diện trên cả phương diện định tính và định lượng. Luận án đã phân tích được thực
trạng hiệu quả hoạt động Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước giai đoạn 2000 2006 ở cả tầm vi mô và vĩ mô, trong đó đặc biệt nhấn mạnh những điểm mới về
đánh giá theo phương pháp định lượng trên cơ sở sử dụng mô hình toán kinh tế và
toán thống kê. Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, tác
giả đã đề xuất các giải pháp và kiến nghị cụ thể mang tính dài hạn phù hợp với
môi trường kinh tế, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng đầu tư phát triển
của Nhà nước trên đầy đủ các phương diện. Đặc biệt, Luận án đã đề xuất hệ thống
gồm 10 nhóm giải pháp chiến lược nhằm nâng cao hiệu quả và phát triển hoạt
động của Ngân hàng phát triển Việt Nam, một tổ chức tín dụng đặc biệt trong hệ
thống các tổ chức tài chính ngân hàng.
-

Năm 2008, Luận văn thạc sỹ Giải pháp nâng cao hiệu quả điều hành lãi

suất của Chính phủ đối với Ngân hàng phát triển Việt Nam trong điều kiện hội nhập
của tác giả Lâm Hồng Anh (2008, Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh) đã hệ thống hóa
những những vấn đề lý luận cơ bản về lãi suất, cơ chế điều hành lãi suất của Chính
phủ đối với Ngân hàng phát triển Việt Nam giai đoạn 2000 - 2007; Luận văn cũng đã

2



phân tích và đánh giá hiệu quả hoạt động điều hành lãi suất của Chính phủ đối với
Ngân hàng phát triển Việt Nam trong giai đoạn này, qua đó rút ra các hạn chế, phân
tích nguyên nhân của các hạn chế đó. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao
hiệu quả điều hành lãi suất của Chính phủ đối với Ngân hàng phát triển trong điều kiện
hội nhập.
-

Năm 2012, Luận án tiến sỹ Nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng

Phát triển Việt Nam của tác giả Trương Thị Hoài Linh (Đại học kinh tế quốc dân) đã
hệ thống hóa những những vấn đề lý luận cơ bản về Ngân hàng phát triển Việt Nam;
xây dựng hệ thống các chỉ tiêu về hiệu quả xã hội và hiệu quả tài chính của Ngân hàng
phát triển Việt Nam đồng thời đưa ra kinh nghiệm hoạt động có hiệu quả của các mô
hình Ngân hàng phát triển trên thế giới để vận dụng phù hợp vào Việt Nam. Luận án
cũng đã phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động của Ngân hàng phát triển Việt
Nam trong giai đoạn từ năm 2006 - 2010, qua đó rút ra các hạn chế trong hoạt động
của ngân hàng, phân tích nguyên nhân của các hạn chế đó, trên cơ sở đó, đề xuất một
số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động.
-

Năm 2012, Luận văn thạc sỹ Hoàn thiện hoạt động Tín dụng đầu tư tại

Ngân hàng phát triển Việt Nam của tác giả Vũ Mạnh Tân (2012, Học viện Ngân hàng)
đã phân tích thực trạng hoạt động Tín dụng đầu tư của Nhà nước ở Hội sở chính Ngân
hàng phát triển Việt Nam trong giai đoạn 2006 - 2010; Đề xuất các giải pháp tổng thể
nhằm đổi mới hoạt động Tín dụng đầu tư của Nhà nước ở Hội sở chính Ngân hàng
phát triển Việt Nam đồng thời đưa ra những kiến nghị đối với Ngân hàng phát triển
Việt Nam, các cấp Chính quyền, các ngành có liên quan về chính sách, quy định và
thực hiện các giải pháp bổ trợ cho việc đổi mới hoạt động Tín dụng đầu tư của Nhà

nước tại Hội sở chính Ngân hàng phát triển Việt Nam.
-

Năm 2017, Luận văn thạc sỹ Hoạt động tín dụng cho lĩnh vực Tín dụng đầu

tư của Nhà nước tại Ngân hàng phát triển Việt Nam của tác giả Đào Hải Nam (2017,
Đại học Kinh tế - Đại học Quốc Gia Hà Nội) đã phân tích thực trạng hoạt động Tín
dụng đầu tư của Nhà nước ở Hội sở chính Ngân hàng phát triển Việt Nam trong giai
đoạn 2012 - 2016; Nêu lên thực trạng kết quả thực hiện Tín dụng đầu tư của Nhà nước
tại Ngân hàng phát triển Việt Nam trong 05 năm (giai đoạn 2012-2016), đề xuất giải

3


pháp nâng cao hiệu quả hoạt động Tín dụng đầu tư của Nhà nước tại Ngân hàng phát
triển Việt Nam.
-

Về mô hình Ngân hàng phát triển, TS. Phạm Văn Bốn - Giám đốc Trung

tâm Đào tạo và Nghiên cứu khoa học Ngân hàng phát triển Việt Nam (2013) trong
nghiên cứu của mình, khẳng định Ngân hàng phát triển Việt Nam phải được hiểu là
một “Ngân hàng” của Chính phủ (hiểu theo nghĩa hình thức tổ chức, quản trị của Ngân
hàng phát triển Việt Nam) và “ngân hàng” này thực hiện nhiệm vụ quản lý vốn Tín
dụng đầu tư của Nhà nước nên nó đồng thời là “công cụ tài chính” của Nhà nước (hiểu
theo mục tiêu hoạt động). Giai đoạn những năm 90 của thế kỷ 20 khi Việt Nam bắt đầu
bước vào công cuộc đổi mới, cùng với việc tổ chức lại hệ thống ngân hàng, Chính phủ
đã có định hướng xóa bỏ dần bao cấp thông qua việc cấp phát từ Ngân sách Nhà nước
(NSNN). Tín dụng đầu tư theo kế hoạch Nhà nước ban đầu được giao cho Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam thực hiện. Tuy nhiên, cùng với sự ra đời của Luật

Khuyến khích đầu tư trong nước (1994), cùng với chủ trương tách tín dụng thương mại
ra khỏi tín dụng Nhà nước, năm 1995 Tổng cục đầu tư phát triển thuộc Bộ Tài chính
đã chính thức được giao đảm nhận nhiệm vụ tín dụng đầu tư của nhà nước và năm
1996 Tổng cục Đầu tư phát triển còn được giao thêm nhiệm vụ quản lý Quỹ Hỗ trợ
đầu tư quốc gia. Đây thực chất là Quỹ hỗ trợ đầu tư của Nhà nước, một tổ chức riêng
biệt quản lý nguồn vốn tín dụng Nhà nước. Đầu năm 2000, cùng với việc tổ chức lại
Tổng cục Đầu tư phát triển, Quỹ Hỗ trợ phát triển chính thức ra đời, đánh dấu bước
ngặt quan trọng trong việc hợp nhất tín dụng đầu tư của Nhà nước. Về nguyên tắc,
Quỹ Hỗ trợ phát triển là tổ chức tài chính Nhà nước duy nhất thực hiện việc quản lý
nguồn vốn Tín dụng đầu tư và Tín dụng xuất khẩu của Nhà nước, ngoại trừ những dự
án đầu tư trước đây sử dụng nguồn vốn Tín dụng đầu tư của Nhà nước do một số Ngân
hàng thương mại nhà nước thực hiện thì nay sẽ không mở rộng thêm các dự án mới mà
chỉ tiếp tục quản lý và thu hồi nợ vay. Đến năm 2006, Quỹ Hỗ trợ phát triển lại một
lẫn nữa được tổ chức lại thành Ngân hàng phát triển Việt Nam cho phù hợp với thông
lệ quốc tế, trước khi Việt Nam chính thức gia nhập và thực hiện các cam kết của tổ
chức thương mại quốc tế (WTO) vào đầu năm 2007. Bắt đầu ra đời ở lục địa Châu Âu,
trong đó Pháp là nơi mà các ngân hàng toàn cầu đầu tiên được thành lập (năm 1852),
sau đó cũng rất thành công ở Đức và Ý. Khi mới thành lập, các ngân hàng này chủ yếu

4


là hỗ trợ cho công nghiệp thông qua tài trợ một khối lượng vốn lớn cho các ngành này.
Kane (1975) định nghĩa Ngân hàng phát triển là "trung gian tài chính tài trợ vốn trung
và dài hạn cho các dự án phát triển kinh tế và cung ứng các dịch vụ liên quan".
Panizza (2004) lại nhấn mạnh "Ngân hàng phát triển là các thể chế tài chính với hoạt
động chủ yếu là cung cấp vốn trung và dài hạn cho các dự án tạo ra sản phẩm chiến
lược và do vậy ít được tài trợ bởi khu vực tư nhân". Dù thế nào, cả hai đều thống nhất
với nhau ở vai trò của Ngân hàng phát triển trong tài trợ vốn trung và dài hạn cho các
dự án. Tuy nhiên, bản chất thực sự của Ngân hàng phát triển đã được đề cập tới trước

đó rất lâu bởi Joshep Schumpeter (1912), ông đã khẳng định rằng ngân hàng và doanh
nghiệp là hai tác nhân quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, đồng thời, ông
cũng là một trong những người tiên phong chắc chắn rằng phát triển tài chính tạo nên
sự phát triển kinh tế, thị trường tài chính phát triển sẽ thúc đẩy sự tăng trưởng thông
qua tài trợ vốn cho các doanh nghiệp và các dự án nhằm đem lại sự sinh lời cao. Theo
báo cáo của Ngân hàng thế giới năm 1989, mô hình phổ biến nhất của các trung gian
tài chính phi Ngân hàng ở các nước đang phát triển là tổ chức tài chính phát triển. Các
tổ chức này nhận được phần lớn các yêu cầu tài trợ của họ từ Chính phủ hoặc các nhà
tài trợ nước ngoài. Họ tài trợ vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ
vốn không thể nhận được tài trợ từ các Ngân hàng thương mại. Trong suốt những năm
70, các yêu cầu tài trợ đối với các tổ chức này đã được mở rộng ra đối với các lĩnh vực
ưu tiên. Sử dụng nguồn vốn của Chính phủ, các tổ chức này tăng cường tài trợ cho các
món vay với tỷ lệ sinh lời thấp hoặc/và nhiều rủi ro. Một vai trò khác của các tổ chức
tài chính phát triển là lấp đầy "những chỗ trống" trong thị trường vốn thông qua huy
động vốn cho đầu tư. Kitchen (1986) đã nhận định "ở các nước, nơi mà trung gian tài
chính bị giới hạn về số lượng và giới hạn trong hoạt động tài trợ theo chính sách, nơi
mà hoạt động của các doanh nghiệp chỉ nhằm thu được lợi nhuận "chóng vánh", và nơi
mà sự an toàn của các món cho vay bị giới hạn thì sự có mặt của các tổ chức tài chính
phát triển là cần thiết, thực tế này "ngập tràn" ở các nước đang phát triển". Mô hình
phổ biến nhất của các tổ chức tài chính phát triển là các Ngân hàng phát triển quốc gia
- các Ngân hàng tài trợ vốn trung và dài hạn cho các dự án phát triển trong lĩnh vực
công nghiệp và nông nghiệp. Nhiệm vụ trọng tâm của các Ngân hàng này đã được
Chính phủ quy định là tìm kiếm, thẩm định, xúc tiến, tài trợ và thực hiện các dự án đó.

5


Tóm lại, Ngân hàng phát triển là công cụ chính sách của Chính phủ các nước để thực
thi công cuộc đầu tư phát triển dài hạn.
2.2. Khoảng trống nghiên cứu

Những công trình nghiên cứu trên là tư liệu quý báu cả về lý luận và thực tiễn
cho việc nghiên cứu các đề tài liên quan đến hoạt động Tín dụng đầu tư của Nhà nước.
Tuy nhiên, các đề tài chủ yếu tập trung vào lĩnh vực quản trị, chưa có các công trình
nghiên cứu trong lĩnh vực luật, căn cứ pháp lý hoạt động, điều kiện giải ngân.., cụ thể
tác giả có thể chỉ ra một số khoảng trống của các công trình nghiên cứu nêu trên như:
- Các công trình nghiên cứu ở phạm vi Chi nhánh: chưa khắc họa được bức
tranh tổng thể về hoạt động Tín dụng đầu tư trong cả hệ thống Ngân hàng phát triển
Việt Nam, các giải pháp được đưa ra đa phần không thuộc thẩm quyền quyết định của
Ban lãnh đạo Chi nhánh.
- Các công trình nghiên cứu ở phạm vi toàn hệ thống: các công trình nghiên
cứu này đã được thực hiện từ khá lâu, không còn thực sự phù hợp với tình hình Ngân
hàng phát triển Việt Nam ở giai đoạn hiện nay. Ngân hàng phát triển Việt Nam đã
chính thức hoạt động theo mô hình Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do
Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ (Bộ Tài chính là đơn vị thực hiện quyền và nghĩa
vụ của Chủ sở hữu theo ủy quyền) kể từ khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết
định số 1515/QĐ-TTg ngày 03/9/2015 về việc ban hành điều lệ tổ chức và hoạt động
của Ngân hàng phát triển Việt Nam.
- Chưa có công trình, đề tài nghiên cứu quy định pháp luật hoặc triển khai quy
định của pháp luật về điều kiện giải ngân trong Hợp đồng Tín dụng đầu tư.
Vì vậy, đề tài "Điều kiện giải ngân trong Hợp đồng tín dụng đầu tư của Nhà
nước ở Việt Nam hiện nay" sẽ tiếp tục là vấn đề cấp thiết để nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu làm sáng tỏ những
vấn đề lý luận về Hợp đồng tín đụng đầu tư và điều kiện giải ngân trong hợp đồng tín
dụng đầu tư của Nhà nước ở Việt Nam hiện nay, đánh giá thực trạng điều kiện giải
ngân trong hợp đồng tín dụng đầu tư của Nhà nước theo pháp luật ở Việt Nam để đề
xuất những giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả

6



thực thi pháp luật về điều kiện giải ngân trong hợp đồng tín dụng đầu tư của Nhà nước
ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn được xác
định là:
- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về Hợp đồng tín dụng đầu tư của Nhà
nước và điều kiện giải ngân trong Hợp đồng tín dụng đầu tư của Nhà nước ở Việt Nam
hiện nay.
- Đánh giá thực trạng áp dụng quy định điều kiện giải ngân trong Hợp đồng tín
dụng đầu tư của Nhà nước theo pháp luật ở Việt Nam. Phân tích kết quả thực tiễn thi
hành pháp luật về điều kiện giải ngân trong hợp đồng tín dụng đầu tư của Nhà nước
theo pháp luật ở Việt Nam.
- Đưa ra được những phương hướng, giải pháp hoàn thiện và thực thi các quy
định pháp luật về điều kiện giải ngân trong Hợp đồng tín dụng đầu tư của Nhà nước ở
Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Là những vấn đề lý luận và việc thực thi các quy định của pháp luật về Hợp
đồng tín dụng đầu tư và quy định điều kiện giải ngân trong Hợp đồng tín dụng đầu tư
của Nhà nước ở Việt Nam.
Kết quả thực hiện các quy định của pháp luật tại Việt Nam
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về không gian: Đơn vị thực hiện việc cho vay, thu nợ và khách hàng vay
nguồn vốn Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
- Về thời gian: Giai đoạn 1 (2012-2016) và giai đoạn 2 (2017-2018).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận:
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, vận dụng các quan

điểm khách quan để đánh giá sự vật, hiện tượng trong trạng thái luôn vận động và phát
triển; sử dụng các lý thuyết áp dụng quy định để xem xét các vấn đề.

7


5.2. Phương pháp nghiên cứu:
- Sử dụng Phương pháp phân tích, tổng hợp, và
- Phương pháp so sánh, đối chiếu.
- Ngoài ra luận văn còn sử dụng phương pháp thống kê, thu thập và phân tích
số liệu để làm rõ những nội dung liên quan.
- Các số liệu sử dụng trong luận văn là những số liệu của các báo cáo và đề tài
nghiên cứu đã công bố chính thức.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận:

Luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ vấn đề lý luận và thực tiễn việc áp dụng quy
định pháp luật về Hợp đồng Tín dụng đầu tư và điều kiện giải ngân trong Hợp đồng tín
dụng đầu tư của Nhà nước, thể hiện rõ mối quan hệ giữa quy định của pháp luật với
thực thi các quy định của pháp luật.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn:

Phản ánh thực tiễn áp dụng để thấy rõ các vấn đề ưu, nhược điểm khi áp dụng,
thực thi các quy định về điều kiện giải ngân trong Hợp đồng tín dụng đầu tư của Nhà
nước; đồng thời đề xuất giải pháp liên quan đến việc đảm bảo thực thi của pháp luật về
Hợp đồng tín dụng tín dụng đầu tư và điều kiện giải ngân trong Tín dụng đầu tư của
Nhà nước ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục viết tắt, danh mục bảng biểu,
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, kết cấu luận văn chia làm 3 chương:

- Chương 1: Những vấn đề lý luận về Hợp đồng Tín dụng đầu tư và điều kiện
giải ngân trong Tín dụng đầu tư của Nhà nước.
- Chương 2: Thực trạng điều kiện giải ngân trong Hợp đồng Tín dụng đầu tư
của Nhà nước ở Việt Nam.
- Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện và đảm bảo thực thi các quy
định pháp luật về điều kiện giải ngân trong Hợp đồng tín dụng đầu tư của Nhà nước ở
Việt Nam hiện nay.

8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG ĐẦU TƯ VÀ
ĐIỀU KIỆN GIẢI NGÂN TRONG HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG ĐẦU TƯ
CỦA NHÀ NƯỚC
1.1. Lý luận về Hợp đồng Tín dụng đầu tư
1.1.1. Lý luận chung về Hợp đồng
1.1.1.1. Khái niệm Hợp đồng
Trong đời sống xã hội, Hợp đồng được coi là chế định pháp lý rất phổ biến, đối
với giới luật gia, Hợp đồng là một trong những khái niệm trung tâm của luật dân sự.
Khác với các nước khác (tại Châu Âu, Châu Mỹ….), tại Việt Nam, khái niệm, nội
dung Hợp đồng không được quan tâm đúng mức, kể cả một số bộ cổ luật được đánh
giá rất cao (như Bộ Luật Hồng Đức, Bộ Luật Gia Long) thì khái niệm “Hợp đồng”
hoặc “khế ước” cũng không được quan tâm, quy định thậm chí còn chứa đựng khá
nhiều các quy định mang tính bất bình đẳng và chế tài đối với người vi phạm phần lớn
thể hiện tính chất pháp luật hình sự, không phù hợp với bản chất quan hệ dân sự. Kể từ
khi thay đổi toàn diện đất nước (từ 1986) với xu thế hội nhập tất yếu với châu lục, thế
giới, đặc biệt việc ban hành Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 và Pháp lệnh Hợp
đồng dân sự năm 1991 về lập pháp đẽ đánh dấu bước đi đột phá khẳng định vai trò của
Hợp đồng nói chung trong đời sống xã hội, cũng như quyết tâm Đảng, Nhà nước trong

việc xây dựng khung pháp luật điều chỉnh nền kinh tế thị trường. Đến thời điểm Bộ
Luật Dân sự (BLDS) 1995, 2005 và hơn cả là BLDS năm 2015 ra đời đã thực sự đánh
dấu vị trí pháp lý xứng đáng trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Khái niệm Hợp đồng: Điều 385 BLDS năm 2015 quy định: “Hợp đồng là sự
thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân
sự”, quy định của BLDS năm 2015 đã nêu rõ Hợp đồng là giao dịch phổ biến nhất
trong đời sống xã hội và là căn cứ cơ bản làm phát sinh nghĩa vụ. Thực tế, Hợp đồng
tồn tại vô cùng phong phú, đa dạng về loại, hình thức, có trường hợp tồn tại dưới hình
thức bằng miệng.

9


1.1.1.2. Đặc điểm
Thứ nhất, phải có ít nhất hai bên chủ thể, khác với giao dịch là hành vi pháp lý
đơn phương thể hiện ý chí của chỉ một bên chủ thể (như di chúc, hứa thưởng, thư
mời….) thì Hợp đồng phải là sự thể hiện ý chí của ít nhất hai bên chủ thể. Cụ thể cần
có sự tham gia của hai bên trong quan hệ Hợp đồng chứ không phải là hai người mỗi
bên có thể bao gồm một hoặc nhiều người. Tuy nhiên, khẳng định “phải có ít nhất hai
bên chủ thể” vì một hợp đồng có thể bao gồm ba, bốn bên, trường hợp này gọi chung
là Hợp đồng đa phương (đối với Hợp đồng tín dụng gồm hơn 1 Tổ chức tín dụng cho
vay thì được gọi là cho vay hợp vốn).
Thứ hai, phải có sự thống nhất ý chí giữa các bên, điều này thể hiện ở chi tiết,
không thể một bên chủ thể đưa ý chí đơn phương mà hình thành nên nội dung hợp
đồng. Ví dụ: Hợp đồng tín dụng thì Bên cho vay đưa ra quyền kiểm tra mục đích sử
dụng vốn vay khi mục đích cho vay mua máy móc thiết bị, thì Bên vay có quyền được
nhận vốn vay đúng ngày tháng năm thỏa thuận hoặc đúng ngày mở tín dụng thư (L/C Letter of Credit)…, trường hợp này Bên còn lại không đồng ý/chấp nhận thì không thể
hình thành Hợp đồng. Hợp đồng chỉ có thể hình thành khi sự thỏa thuận của các bên
đạt được đến sự thống nhất, ý chí của hai bên cùng đồng thuận, cùng chấp nhận một
hậu quả pháp lý sẽ hình thành khi hợp đồng được giao kết.

Thứ ba, sự thỏa thuận Hợp đồng phải có hậu quả pháp lý làm xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Nội dung này thể hiện không phải mọi sự thỏa
thuận và có thống nhất ý chí của hai hay nhiều bên thì đều hình thành nên Hợp đồng
(trường hợp giấy đăng ký kết hôn, thỏa thuận hẹn….), chỉ những thỏa thuận có hậu
quả pháp lý nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự mới
hình thành nên Hợp đồng.
So sánh, đối chiếu với quy định về Hợp đồng tại BLDS năm 2015 với BLDS
năm 2005 thì định nghĩa về Hợp đồng đã thật sự tiến bộ khi bỏ đi cụm từ “dân sự”,
việc này rất hợp lý khi khái niệm Hợp đồng vừa thể hiện sự ngắn gọn, súc tích vừa
mang tính khái quát cao được hiểu là bao gồm tất cả các loại Hợp đồng theo nghĩa
rộng (Hợp đồng dân sự, Hợp đồng lao động, Hợp đồng kinh tế, Hợp đồng chuyển giao
công nghệ…..) chứ không chỉ là các Hợp đồng dân sự theo nghĩa hẹp đơn thuần. Quy

10


định này cũng tạo sự thống nhất, tránh chồng chéo của nội dung các văn bản và cũng
thể hiện được sự bao quát của BLDS là đạo luật gốc của hệ thống luật tư.
1.1.2. Hợp đồng tín dụng đầu tư của Nhà nước
1.1.2.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại Hợp đồng tín dụng đầu tư của
Nhà nước
* Khái niệm Hợp đồng tín dụng đầu tư của Nhà nước
Tín dụng là hoạt động quan trọng và đặc trưng của hệ thống các Tổ chức tín
dụng và mang tính rủi ro rất cao. Vì vậy, chất lượng hoạt động tín dụng mang ý nghĩa
sống còn đối với sự tồn tại và phát triển của hệ thống Tổ chức tín dụng (trong đó có Tổ
chức tín dụng) cũng như toàn bộ nền kinh tế. Theo Jane. P. Mallor, A. James Marres
trong cuốn "Môi trường pháp luật cho kinh doanh" thì thuật ngữ tín dụng có rất nhiều
nghĩa. Thuật ngữ này thường được dùng để chỉ các giao dịch trong đó hàng hóa được
bán, dịch vụ được cung ứng hoặc tiền được cho vay để đổi lấy lời hứa về hoàn trả
trong tương lai [53, tr. 534]. Về bản chất pháp lý, tín dụng là giao dịch tài sản (tiền,

hàng hóa) giữa bên cung ứng tín dụng và bên nhận tín dụng. Trong đó, bên cung ứng
tín dụng chuyển giao tài sản cho bên nhận cung ứng tín dụng sử dụng trong khoảng
thời gian nhất định theo thỏa thuận trên cơ sở hoàn trả vốn gốc và lãi. Trong đời sống
xã hội, tín dụng do nhiều loại chủ thể thực hiện. Tùy thuộc vào chủ thể cung ứng tín
dụng mà tín dụng có thể phân chia thành các loại như: Tín dụng đầu tư của nhà nước, tín
dụng Ngân hàng thương mại, tín dụng hợp tác, tín dụng quốc tế....liên quan trực tiếp đến
Đề tài, người viết chỉ tập trung vào Hợp đồng Tín dụng đầu tư của Nhà nước.
Về khái niệm Hợp đồng tín dụng đầu tư, nằm trong khái niệm Hợp đồng tín
dụng nói chung, cụ thể trong cuốn "Từ điển thuật ngữ Tài chính tín dụng" của Viện
Khoa học Tài chính, Bộ Tài chính có nêu: "Hợp đồng tín dụng là văn bản ghi nhận
những cam kết giữa người cho vay và người vay về những điều kiện của tín dụng như
số tiền vay, phương thức cấp vốn vay, thời hạn vay, phương thức thu nợ, mức lãi suất,
loại hình lãi suất, phương thức thu lãi" [49, tr. 163]. Về cơ bản, định nghĩa này có nội
dung tương tự như định nghĩa trong các văn bản pháp luật, chỉ nêu ra các yêu cầu về
nội dung của hợp đồng tín dụng ngân hàng. Trong cuốn "Giáo trình Luật ngân hàng
Việt Nam", tác giả Nguyễn Tuyến đưa ra định nghĩa: Hợp đồng tín dụng là sự thỏa

11


thuận chung bằng văn bản giữa Tổ chức tín dụng (bên cho vay) với tổ chức, cá nhân có
đủ những điều kiện vay do luật định (bên vay), theo đó, Tổ chức tín dụng thỏa thuận
ứng trước một số tiền cho bên vay sử dụng trong một thời hạn nhất định, với điều kiện
có hoàn trả cả gốc và lãi, dựa trên sự tín nhiệm [16, tr. 91]. Định nghĩa này đã đề cập
được các dấu hiệu cơ bản của hợp đồng tín dụng ngân hàng trên các phương diện: chủ
thể (bên cho vay là Tổ chức tín dụng, bên vay là tổ chức, cá nhân) đối tượng của hợp
đồng (tiền), nguyên tắc cơ bản của quan hệ hợp đồng (điều kiện hoàn trả tiền vay).
Cũng về định nghĩa Hợp đồng tín dụng, Luật Ngân hàng Ba Lan năm 1989 có quy
định: “một hiệp định tín dụng ràng buộc ngân hàng dành một khoản tiền sẵn có xác
định cho người vay trong thời hạn đã thỏa thuận theo hiệp định và người cho vay cam

kết sử dụng khoản tín dụng đó, hoàn trả số lượng tín dụng đã được sử dụng cùng với
số lãi cộng dồn trong phạm vi ngày hoàn trả đã thỏa thuận và hoàn trả một số phí hoa
hòng cho việc phát hành đó” (Điều 27).
Về bản chất pháp lý, Hợp đồng tín dụng là một dạng của hợp đồng vay tài sản.
Theo đó, Điều 463 BLDS năm 2015 quy định “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận
giữa các bên, theo đó bên cho vay giao cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải
hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải
trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”.
Chi tiết các quy định của pháp luật, có thể định nghĩa “Hợp đồng tín dụng
đầu tư của Nhà nước là văn bản ghi nhận những cam kết giữa người cho vay và
người vay (đối tượng được vay vốn theo quy định) về những điều kiện của tín dụng
như số tiền vay, phương thức cấp vốn vay, thời hạn vay, phương thức thu nợ, mức
lãi suất, loại hình lãi suất, phương thức thu lãi” nhưng mục đích cho vay của không
vì mục đích lợi nhuận, mục đích lợi nhuận đối với hoạt động cho vay của Ngân
hàng thương mại/tổ chức tín dụng thông thường là điều kiện tiên quyết khi thực
hiện cho vay thông thường.
Trong quá trình cho vay/thu nợ, Hợp đồng tín dụng đầu tư của Nhà nước đóng
vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động cho vay, góp phần đẩy mạnh nền kinh tế,
tuy nhiên cũng không loại trừ quan hệ tín dụng đầu tư của Nhà nước cũng là quan hệ
vay mượn nguồn vốn và cũng phát sinh tranh chấp từ Hợp đồng tín dụng đầu tư gây

12


thiệt hại cho các chủ thể, song cho đến nay chưa có một văn bản pháp luật nào của
Nhà nước đưa ra một khái niệm chính thức về Hợp đồng tín dụng đầu tư mà chỉ tập
trung chủ yếu vào việc liệt kê các nội dung chủ yếu của Hợp đồng tín dụng nói chung
như: điều kiện vay, mục đích sử dụng tiền vay, lãi suất, thời hạn vay, điều kiện giải
ngân, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam kết
khác được các bên thỏa thuận.

* Đặc điểm của Hợp đồng tín dụng đầu tư của Nhà nước
Với định nghĩa trên thì Hợp đồng tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có
một số đặc điểm như sau:
Thứ nhất, về chủ thể, Ngân hàng phát triển Việt Nam là tổ chức tín dụng với
tư cách, vai trò thực hiện cho vay (bên cho vay). Khi tham gia quan hệ Hợp đồng
tín dụng đầu tư, Ngân hàng phát triển Việt Nam được thực hiện hành vi cho vay
mang tính chuyên nghiệp. Đặc điểm này cho phép phân biệt Hợp đồng tín dụng đầu
tư với Hợp đồng tín dụng/thỏa thuận cho vay hoặc Hợp đồng vay tài sản trong các
giao dịch dân sự thông thường.
Thứ hai, đối tượng của Hợp đồng tín dụng đầu tư của Nhà nước là vốn tiền tệ,
nhưng có mục đích cho vay được quy định rõ ràng trong Hợp đồng tín dụng đầu tư
(đầu tư tài sản cố định: máy móc thiết bị, hạng mục xây dựng, xây lắp….). Khoản tiền
vay mà Ngân hàng phát triển Việt Nam cấp cho khách hàng thường thông qua chuyển
khoản (do giá trị lớn) trừ một số trường hợp đặc biệt mục đích cho vay giải ngân giải
phóng mặt bằng/hoặc chăm sóc rừng (tại địa bàn khó khăn).
Thứ ba, quan hệ Hợp đồng tín dụng đầu tư của Nhà nước là loại quan hệ kéo
dài về thời gian vay vốn (cho vay trung hoặc dài hạn), chính việc kéo dài về mặt thời
gian của quan hệ Hợp đồng này tạo ra sự tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao liên quan đến việc
thu hồi vốn cho vay, điều này chính là rào cản lớn đối với doanh nghiệp vay vốn muốn
tiếp cận vay tại Ngân hàng thương mại.
Thứ tư, trong các Hợp đồng tín dụng nói chung luôn quy định lãi suất, tuy nhiên
là lãi suất tín dụng đầu tư (do Bộ Tài chính công bố) thấp hơn lãi suất cho vay của
Ngân hàng thương mại, điều này là điểm khác biệt của Hợp đồng tín dụng đầu tư với
Hợp đồng tín dụng/thỏa thuận cho vay thông thường tại Ngân hàng thương mại hoặc

13


Hợp đồng vay tài sản không đòi hỏi phải có lợi nhuận (các bên tự nguyện thỏa thuận).
Thứ năm, Hợp đồng tín dụng đầu tư tương đồng với Hợp đồng tín dụng/thỏa

thuận cho vay thông thường có đặc điểm là hợp đồng ưng thuận hiệu lực hợp đồng
phát sinh ngay khi các bên đã hoàn tất việc ký kết bằng hình thức văn bản, tuy nhiên
việc phát sinh lãi suất theo thỏa thuận phải trả thường được tính từ ngày nhận khoản
giải ngân.
Thứ sáu, một điểm tương đồng khác của Hợp đồng tín dụng đầu tư của Nhà
nước với Hợp đồng tín dụng/thỏa thuận cho vay thông thường là rủi ro của Hợp đồng
tín dụng đầu tư không chỉ ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của Ngân hàng phát triển
Việt Nam mà còn ảnh hưởng đến lợi ích của bên gửi tiền (nguồn vốn huy động của
Ngân hàng phát triển Việt Nam là các tổ chức như: Tiết kiệm bưu điện, Kho bạc hoặc
nguồn huy động từ bán trái phiếu do Chính phủ bảo lãnh…..). Do vậy, nếu khoản cho
vay không thu hồi được vốn, Ngân hàng phát triển sẽ có nguy cơ mất khả năng chi trả
cho bên gửi tiền, đe dọa đến sự sống còn của ngân hàng, ảnh hưởng đến nền kinh tế,
uy tín của Chính phủ, Nhà nước đối với thị trường trong nước và quốc tế.
Thứ bảy, Hợp đồng tín dụng đầu tư của Nhà nước luôn bằng văn bản, điều này
xuất phát từ tính rủi ro cao của Hợp đồng tín dụng đầu tư và tầm quan trọng, điều này
phù hợp với quy định của Luật Ngân hàng của hầu hết các nước trên thế giới khi quy
định hợp đồng tín dụng phải được ký kết bằng văn bản, như Điều 37 Luật Ngân hàng
thương mại Trung Quốc, Điều 27.1 Luật Ngân hàng Ba Lan. Ở Việt Nam, quy định
này được ghi nhận trong Điều 23 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 31/12/2016
của Ngân hàng Nhà nước quy định về hoạt động cho vay của Tổ chức tín dụng, Chi
nhánh Ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng. Đây là một quy định nhằm đảm bảo
tính chặt chẽ, rõ ràng cho Hợp đồng tín dụng/thỏa thuận cho vay nói chung, là cơ sở
pháp lý quan trọng để giải quyết tranh chấp (nếu có).
Có thể đánh giá, Hợp đồng tín dụng đầu tư là cơ sở pháp lý trực tiếp, quan trọng
giữa Ngân hàng phát triển Việt Nam (ngân hàng thực hiện nghiệp vụ Tín dụng đầu tư
của Nhà nước) và doanh nghiệp vay vốn (khách hàng) nhằm thể hiện ý chí trong việc
thiết lập quan hệ tín dụng, đồng thời xác định cụ thể và ràng buộc trách nhiệm thực

14



hiện của mỗi bên, phù hợp với quy định của pháp luật Tín dụng đầu tư của Nhà nước
hiện hành.
* Phân loại Hợp đồng tín dụng đầu tư của Nhà nước
Tùy thuộc vào các tiêu chí, tính chất Hợp đồng tín dụng đầu tư phát triển của
Nhà nước có cách phân loại, cụ thể:
Nếu căn cứ vào thời hạn cho vay, Hợp đồng tín dụng đầu tư của Nhà nước chia
thành 02 loại chính:
- Hợp đồng tín dụng đầu tư trung hạn: là loại Hợp đồng tín dụng đầu tư có
thời gian từ 01 đến 03 năm gắn với mục đích vay vốn, số tiền vay không lớn phù hợp
với dự án vay, thời gian thu hồi vốn nhanh. Trên thực tế, số lượng Hợp đồng tín dụng
đầu tư trung hạn chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng số lượng Hợp đồng tín dụng đầu
tư đã ký tại Ngân hàng phát triển Việt Nam.
- Hợp đồng tín dụng đầu tư dài hạn: là loại Hợp đồng tín dụng đầu tư có thời
gian trên 03 năm, loại hợp đồng này chiểm tỷ trọng lớn về số lượng hợp đồng tại Ngân
hàng phát triển Việt Nam gắn với các dự án quy mô lớn, số vốn vay lớn, thời gian thu
hồi vốn kéo dài.
Nếu căn cứ vào yếu tố bảo đảm tiền vay, Hợp đồng tín dụng đầu tư của Nhà
nước chia là 02 loại:
- Hợp đồng tín dụng đầu tư có tài sản bảo đảm: đây là loại Hợp đồng Tín
dụng đầu tư chiếm tỷ trọng lớn trên tổng số hợp đồng tại Ngân hàng phát triển Việt
Nam, được pháp luật quy định rất cụ thể “tài sản bảo đảm là tài sản hình thành từ vốn
vay”, ngoài ra, tùy thuộc vào kết quả thẩm định, ngân hàng có yêu cầu khách hàng vay
vốn có thêm tài sản bảo đảm.
- Hợp đồng tín dụng đầu tư không có tài sản bảo: áp dụng chủ yếu đối với dự
án đặc thù khi tài sản hình thành được chuyển hóa cho Bên thứ ba (không phải thuộc
sở hữu của khách hàng vay vốn) và được pháp luật quy định hoặc đặc biệt do Chính
phủ quy định, loại hợp đồng này chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng số lượng Hợp
đồng tín dụng đầu tư tại Ngân hàng phát triển Việt Nam, như Dự án xây dựng hạ tầng
nông thôn, đường xá….


15


1.1.2.2. Yêu cầu đối với Hợp đồng tín dụng đầu tư của Nhà nước
Về nguyên tắc xây dựng hợp đồng, cũng như các hợp đồng dân sự nói chung,
Hợp đồng tín dụng đầu tư phải được xây dựng trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và
không vi phạm điều cấm, hoặc các quy định cấm/hạn chế của pháp luật dân sự, pháp
luật đặc thù quy định về tín dụng đầu tư.
Về chủ thể ký kết, Hợp đồng tín dụng đầu tư của Nhà nước như đã nêu tại phần
đặc điểm, phải được lập thành văn bản và được người có thẩm quyền ký, cụ thể về chủ
thể ký kết hợp đồng phải là người đại diện có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có thẩm
quyền ký kết, do vậy, chủ thể ký kết có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy
quyền. Việc xem xét tư cách chủ thể của doanh nghiệp vay vốn là một vấn đề rất quan
trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu lực của Hợp đồng tín dụng đầu tư, đây chính là cơ
sở để xem xét tính hiệu lực của hợp đồng. Trong trường hợp này, ngân hàng phải yêu cầu
cán bộ tín dụng phải rà soát/thẩm định, đề nghị bổ sung các thủ tục pháp lý phù hợp để
chủ thể ký kết Hợp đồng tín dụng đầu tưu của Nhà nước đúng quy định của pháp luật.
Việc xem nhẹ vấn đề chủ thể, không xác định đúng tư cách chủ thể có thể dẫn đến việc ký
Hợp đồng tín dụng đầu tư không đúng thẩm quyền, có nhưng hậu quả pháp lý nặng nề
thậm chí gây thiệt hại cho nguồn vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước.
Về nội dung hợp đồng, Hợp đồng tín dụng đầu tư của Nhà nước phải có đầy đủ
các điều khoản chủ yếu theo quy định của pháp luật và được cụ thể hóa những nội
dung cần thiết, phù hợp với quan hệ giữa các bên. Nội dung hợp đồng phải đảm bảo
tuân thủ đúng quy định pháp luật, văn bản nội bộ của ngân hàng. Theo quy định của
pháp luật, nội dung chủ yếu của Hợp đồng tín đụng đầu tư của Nhà nước (theo quy
định của pháp luật về Hợp đồng) thì các điều khoản của hợp đồng phải có các nội dung
cụ thể về số tiền vay, mục đích sử dụng tiền vay, phương thức cho vay, thời hạn cho
vay, hình thức bảo đảm, lãi suất, điều kiện giải ngân và những cam kết khác được các
bên thỏa thuận.

1.1.3. Nội dung Hợp đồng tín dụng đầu tư của Nhà nước
Hợp đồng tín dụng đầu tư của Nhà nước là sự thỏa thuận của các bên chủ thể về
việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ liên quan đến việc vay và cho vay

16


vốn tín dụng đầu tư, như đã nêu, Hợp đồng tín dụng đầu tư phải được lập thành văn
bản và có tối thiểu các nội dung theo quy định của pháp luật:
- Tên, địa chỉ, mã số doanh nghiệp của tổ chức tín dụng cho vay; tên, địa chỉ,
số chứng minh nhân dân hoặc thẻ căn cước hoặc hộ chiếu hoặc mã số doanh nghiệp
của khách hàng;
- Số tiền cho vay; hạn mức cho vay đối với trường hợp cho vay theo hạn mức;
hạn mức cho vay dự phòng đối với trường hợp cho vay theo hạn mức cho vay dự
phòng; hạn mức thấu chi đối với trường hợp cho vay theo hạn mức thấu chi trên tài
khoản thanh toán;
- Mục đích sử dụng vốn vay;
- Đồng tiền cho vay, đồng tiền trả nợ;
- Phương thức cho vay;
- Thời hạn cho vay; thời hạn duy trì hạn mức đối với trường hợp cho vay theo
hạn mức, thời hạn hiệu lực của hạn mức cho vay dự phòng đối với trường hợp cho vay
theo hạn mức cho vay dự phòng, hoặc thời hạn duy trì hạn mức thấu chi đối với trường
hợp cho vay theo hạn mức thấu chi trên tài khoản thanh toán;
- Lãi suất cho vay theo thỏa thuận và mức lãi suất quy đổi theo tỷ lệ %/năm
tính theo số dư nợ cho vay thực tế và thời gian duy trì số dư nợ cho vay thực tế đó theo
quy định của pháp luật; nguyên tắc và các yếu tố xác định lãi suất, thời điểm xác định
lãi suất cho vay đối với trường hợp áp dụng lãi suất cho vay có điều chỉnh; lãi suất áp
dụng đối với dư nợ gốc bị quá hạn; lãi suất áp dụng đối với lãi chậm trả; loại phí liên
quan đến khoản vay và mức phí áp dụng;
- Giải ngân vốn cho vay và việc sử dụng phương tiện thanh toán để giải ngân

vốn cho vay;
- Việc trả nợ gốc, lãi tiền vay và thứ tự thu hồi nợ gốc, lãi tiền vay; trả nợ
trước hạn;
- Cơ cấu lại thời hạn trả nợ; chuyển nợ quá hạn đối với số dư nợ gốc mà khách
hàng không trả được nợ đúng hạn theo thỏa thuận và không được tổ chức tín dụng
chấp thuận cơ cấu lại thời hạn trả nợ; hình thức và nội dung thông báo chuyển nợ quá
hạn theo quy định của pháp luật;

17


- Trách nhiệm của khách hàng trong việc phối hợp với tổ chức tín dụng và
cung cấp các tài liệu liên quan đến khoản vay để tổ chức tín dụng thực hiện thẩm
định và quyết định cho vay, kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay và trả nợ của
khách hàng;
- Các trường hợp chấm dứt cho vay; thu nợ trước hạn; chuyển nợ quá hạn đối
với số dư nợ gốc mà khách hàng không trả được nợ trước hạn khi tổ chức tín dụng
chấm dứt cho vay, thu hồi nợ trước hạn; hình thức và nội dung thông báo chấm dứt
cho vay, thu hồi nợ trước hạn;
- Xử lý nợ vay; phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại; quyền và trách nhiệm
của các bên;
- Hiệu lực của thỏa thuận cho vay.
- Ngoài các nội dung được quy định nêu trên, các bên có thể thỏa thuận các nội
dung khác phù hợp với quy định nêu trên và quy định của pháp luật có liên quan.
Sự thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng nói chung và Hợp đồng tín dụng đầu tư
của Nhà nước nói riêng so với các hợp đồng dân sự thông thường có sự hạn chế hơn
bởi pháp luật đưa ra các nội dung tối thiểu phải có. Nhiều ý kiến còn cho rằng, không
có sự tự do thỏa thuận, thể hiện ý chí của các bên, đặc biệt là bên vay vốn. Theo đánh
giá của tác giả với các quy định của pháp luật như trên, các bên hoàn toàn có thể thỏa
thuận, thống nhất ý chí giữa bên cho vay và khách hàng vay vốn, không ảnh hưởng

đến yếu tố tự nguyện, tự do thỏa thuận khi các quy định của pháp luật hướng đến việc
đảm bảo thu hồi, an toàn cho hoạt động tín dụng đầu tư của Nhà nước khách hàng có
toàn quyền chọn lựa ký/không ký hợp đồng trong quá trình đàm phán, ký kết, thực
hiện Hợp đồng tín dụng đầu tư của Nhà nước.
1.1.4. Bộ mẫu Hợp đồng tín dụng đầu tư của Nhà nước
Trong quá trình thẩm định, quyết định cho vay, giải ngân vốn tín dụng đầu tư
của Nhà nước, Ngân hàng phát triển Việt Nam đến thời điểm hiện tại có gần 15 năm
hoạt động cho vay nguồn vốn tín dụng đầu tư tại các tỉnh, thành phố, với chức năng,
nhiệm vụ theo chiến lược phát triển đến năm 2020 và tầm nhìn năm 2030 được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 369/QĐ-TTg ngày 28/2/2013. Theo đó,
Ngân hàng phát triển Việt Nam là ngân hàng chính sách hoạt động không vì mục đích lợi

18


nhuận, góp phần thực hiện chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
trong từng thời kỳ, phải tiêu chuẩn hóa quy trình nghiệp vụ, hoàn thiện mô hình quản trị
phù hợp, hoạt động ngân hàng của Ngân hàng phát triển phải tuân thủ cả Luật Ngân sách
Nhà nước và Luật các Tổ chức tín dụng đồng thời phù hợp với lộ trình tái cơ cấu hoạt
động, triển khai Nghị định số 32/2017/NĐ-CP của Chính phủ về tín dụng đầu tư của Nhà
nước. Với đặc thù nhiều khách hàng/Chủ đầu tư là doanh nghiệp thành lập để vay vốn,
vận hành dự án tín dụng đầu tư (do dự án thường có quy mô, số vốn vay rất lớn), nên việc
Ngân hàng phát triển Việt Nam sau khi thẩm định, duyệt vay, thực hiện ký kết hợp đồng
tín dụng đầu tư chủ động dự thảo nội dung hợp đồng tín dụng là cần thiết và phù hợp, hỗ
trợ các bên nhanh chóng có cơ sở thảo luận, thỏa thuận, chốt các nội dung phù hợp với
quy định của pháp luật.
Hiện tại, Ngân hàng phát triển Việt Nam đang sử dụng hợp đồng theo mẫu
trong giao kết và đang thực hiện nghiêm túc các yêu cầu của pháp luật như: Niêm yết
công khai hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung về cho vay tại trụ sở và đăng
tải trên trang thông tin điện tử của Ngân hàng phát triển Việt Nam (website:

vdb.gov.vn); Cung cấp đầy đủ thông tin về hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch
chung cho doanh nghiệp vay vốn biết trước khi ký kết thỏa thuận cho vay và có xác
nhận của khách hàng về việc đã được ngân hàng cung cấp đầy đủ thông tin.
Trong luận văn, tác giả tóm tắt một số Bộ mẫu hợp đồng áp dụng tại Ngân hàng
phát triển Việt Nam từ năm 2008 đến nay để thấy rõ hơn các thay đổi về biểu biểu mẫu
hợp đồng tín dụng đầu tư gắn với từng thời kỳ, phù hợp với quy định của pháp luật
như thế nào, cụ thể:
* Giai đoạn từ 24/3/2008 đến 06/12/2010 (Quyết định số 134/QĐ-NHPT
ngày 24/3/2008 ban hành Bộ mẫu Hợp đồng tại Ngân hàng phát triển Việt Nam)
Đến thời điểm 24/3/2008, với tên gọi Ngân hàng phát triển Việt Nam (thay
thế cho tên gọi Quỹ Hỗ trợ phát triển trước đây) đã ban hành Quyết định 134/QĐNHPT và có hiệu lực kể từ ngày ký chính thức thay thế Quyết định số 109/QĐHTPT ngày 14/3/2006 của Tổng Giám đốc Quỹ Hỗ trợ phát triển về việc ban hành
mẫu hợp đồng của hệ thống Quỹ Hỗ trợ phát triển; bãi bỏ hoàn toàn hiệu lực Công

19


văn số 548/HTPT-PC ngày 14/3/2006 của Quỹ Hỗ trợ phát triển về việc hướng
dẫn sử dụng mẫu hợp đồng.
Căn cứ vào BLDS năm 2005, Quyết định Ban hành Bộ mẫu hợp đồng sử dụng
trong nghiệp vụ tín dụng, cho vay lại vốn ODA, hỗ trợ sau đầu tư và quản lý vốn uỷ
thác (bao gồm: 15 mẫu trong danh mục đính kèm) và hướng dẫn sử dụng Bộ mẫu hợp
đồng của Ngân hàng phát triển Việt Nam, mẫu Hợp đồng tín dụng đầu tư của Nhà
nước được quy định tại mẫu số 01. Các mẫu Hợp đồng nói chung do Ngân hàng phát
triển Việt Nam ban hành bao gồm những điều khoản cơ bản, chủ yếu nhất cần phải có
của mỗi loại hợp đồng. Trong quá trình đàm phán, soạn thảo để ký kết các hợp đồng
cụ thể, căn cứ từng trường hợp, đơn vị chủ động thống nhất với khách hàng vay vốn
(bên vay vốn) để quy định chi tiết, cụ thể một số nội dung trong một số điều, khoản
của hợp đồng mẫu cho phù hợp với từng đối tượng nhưng phải đảm bảo không trái các
quy định của pháp luật và quy định của VDB trong đó đặc biệt quan tâm đến điều
khoản điều kiện giải ngân.

Các Hợp đồng nói chung tại Ngân hàng phát triển Việt Nam (trong đó có Hợp
đồng tín dụng đầu tư) phải sử dụng thống nhất loại giấy do Ngân hàng phát triển Việt
Nam quy định (về giấy in, yêu cầu trang đầu tiên của hợp đồng in trên trang giấy có
logo của Ngân hàng phát triển Việt Nam (phía trên, bên trái) của loại giấy tương ứng
với hợp đồng cần in, các trang tiếp theo của hợp đồng in trên các trang giấy không có
logo của Ngân hàng phát triển Việt Nam; yêu cầu cụ thể về phần chữ, loại (font) chữ,
hình thức chữ (đứng/đậm/in nghiêng); cách ghi số Hợp đồng.
Ngoài ra, có thêm một số lưu ý đối với các mẫu Hợp đồng tín dụng đầu tư:
Trường hợp dự án có nhiều nguồn vốn tham gia đầu tư, đặc biệt là có cả nguồn vốn
của các ngân hàng khác thì phần mục đích sử dụng tiền vay cần được ghi cụ thể, chính
xác để có thể phân định phần vốn vay Ngân hàng phát triển Việt Nam để đầu tư tài sản
là hạng mục công trình, thiết bị nào, có thể nói đây là quy định rất cần thiết.
* Giai đoạn từ 06/12/2010 đến 30/8/2013 (Công văn số 4974/NHPT-PC
ngày 06/12/2010 về việc soạn thảo các hợp đồng mẫu)
Với mục đích để việc soạn thảo hợp đồng đối với các nghiệp vụ của Ngân hàng
phát triển Việt Nam thống nhất, chặt chẽ, rõ ràng, bảo vệ quyền và lợi ích của các bên

20


×