Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

ĐẶC điểm lâm SÀNG và cận lâm SÀNG của BỆNH NHÂN NHỒI máu não cấp có đái THÁO ĐƯỜNG với HBA1C lớn hơn 7% tại KHOA THẦN KINH BỆNH VIỆN BẠCH MAI năm 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (376.08 KB, 61 trang )

B GIO DC V O TO

B Y T

TRNG I HC Y H NI

VNG TH THY

ĐặC ĐIểM LÂM SàNG Và CậN LÂM SàNG CủA BệNH
NHÂN
NHồI MáU NãO CấP Có ĐáI THáO ĐƯờNG VớI HBA1C
LớN HƠN
7% TạI KHOA THầN KINH BệNH VIệN BạCH MAI NĂM
2019

Chuyờn ngnh: Thn kinh
Mó s : 60720147

CNG LUN VN THC S Y HC

Ngi hng dn khoa hc:
1.PGS.TS Nguyn Thanh Bỡnh
2.PGS.TS H Kim Thanh


HÀ NỘI – 2019
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CS

: Cộng sự



CT

: Computer Tomography

MRI

:Magnetic Resonance Imagine

GOS

: Glassgow Outcome Score

WHO

: World Health Organization

LDL

: Low Density Lipoprotein

HDL

: High Density Lipoprotein

THA

: Tăng huyết áp

ĐTĐ


: Đái tháo đường

NMN

: Nhồi máu não

BN

: Bệnh nhân

ADA

: American Diabetes Association

AHA

:American Heart Association

ASA

: American Strocke Association

UKPDS: United Kingdom Prospective Diabetes Study


MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG



5

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tai biến mạch não là một vấn đề thời sự trong y học và y tế.Bệnh có tần
suất 0,2% trong cộng đồng, phần lớn ở người trên 65 tuổi với tỉ lệ khoảng 1%.
Trên thế giới , tỉ lệ tử vong của nhóm bệnh này đứng thứ 3 sau các bệnh tim
mạch và ung thư, tỷ lệ tàn tật chiếm hàng đầu trong các bệnh thần kinh.Hàng
năm , có khoảng 700.000 người Mỹ bị đột quỵ và gây tử vong cho khoảng
150.000 người Mỹ. Tại một thời điểm bất kỳ, có 5,8 triệu người dân tại Hoa
Kỳ bị đột quỵ, gây tiêu tốn chi phí cho các chăm sóc sức khỏe liên quan tới
đột quỵ tới gần 70 tỷ đô-la Mỹ mỗi năm[2].
Các đột quỵ được phân loại chung thành đột quỵ thiếu máu não cục bộ
và đột quỵ chảy máu não. Trong đó, đột quỵ thiếu máu não cục bộ chiếm
khoảng 80-85% các trường hợp đột quỵ não. Nghiên cứu về nhồi máu não
chúng ta thấy có nhiều yếu tố nguy cơ ảnh hưởng, trong đó đái tháo đường là
một trong những yếu tố nguy cơ hay gặp. Đái tháo đường là một bệnh phổ
biến không chỉ ở các nước phát triển mà còn cả những nước đang phát triển
như Việt Nam. Và đang có xu hướng tăng lên rõ rệt trong những năm gần
đây[5].
Theo nghiên cứu Framingham, đái tháo đường làm tăng nguy cơ nhồi
máu não gấp 1,5-2 lần so với các trường hợp không bị đái tháo đường [14].
Tiên lượng bệnh nhân nhồi máu não có đái tháo đường thường tiến triển nặng,
phục hồi chậm,di chứng thường nặng nề hơn so với trường hợp nhồi máu não
không có đái tháo đường. Ở bệnh nhân đái tháo đường xu hướng xơ vữa động
mạch sảy ra sơm và rất nghiêm trọng.Viếc kiểm soát tốt đường máu có ý
nghĩa rất quan trọng trong việc góp phần làm giảm nguy cơ xơ vữa mạch máu
từ đó làm giảm thiểu nguy cơ tai biến mạch máu não.



6

Ở Việt Nam cũng đã có nhiều nghiên cứu về tai biến mạch não, nhưng
có ít nghiên cứu về nhồi máu não trên bệnh nhân đái tháo đường đặc biệt là
những bệnh nhân tiểu đương có kiểm soát đường huyết chưa tốt. Do vậy
chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng
của bệnh nhân nhồi máu não cấp có đái tháo đường với HbA1c lớn hơn
7% tại khoa thần kinh bệnh viện Bạch Mai năm 2019`` với mục tiêu:
1.

Mô tả đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân nhồi máu
não cấp có đái tháo đường với HbA1c lớn hơn 7% tại khoa thần kinh

2.

Bệnh viện Bạch Mai năm 2019.
Phân tích mối liên quan giữa một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm
sàng ở bệnh nhân nhồi máu não cấp có đái tháo đường với HbA1c lớn
hơn 7% tại khoa thần kinh bệnh viện Bạch Mai năm 2019.

Chương 1


7

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Nhồi máu não cấp trên bệnh nhân đái tháo đường
1.1.1.Dịch tễ đái tháo đường và nhồi máu não trên bệnh nhân đái tháo
đường.

1.1.1.1. Dịch tễ học và tiêu chuẩn chẩn đoán đái tháo đường.
``Đái tháo đường là rối loạn chuyển hóa của nhiều nguyên nhân, bệnh
được đặc trưng tình trạng tăng đường huyết mạn tính phối hợp với rối loạn
chuyển hóa Carbonhydrat, lipid và protein do thiếu hụt của tình trạng tiết
insulin , tác dụng của insulin hoặc cả hai``[1].
Bệnh nhân được chẩn đoán đái tháo đường theo tiêu chuẩn của Hiệp hội
Đái tháo đường Mỹ (ADA- năm 2018) [13]:
Dựa vào 1 trong 4 tiêu chuẩn sau đây:
- Glucose huyết tương lúc đói ( FPG: Fasting plasma glucose) >= 126
mg/dl ( hay 7 mmol/l). Bệnh nhân phải nhịn ăn ít nhất 8 giờ, hoặc:
- Glucose huyết tương ở thời điểm sau 2 giờ làm nghiệm pháp dung nạp
glucose đường uống 75g (oral glucose tolerance test: OGTT) ≥ 200 mg/dL
(hay 11,1 mmol/L), hoặc:
Nghiệm pháp dung nạp glucose đường uống phải được thực hiện theo
hướng dẫn của Tổ chức Y tế thế giới: Bệnh nhân nhịn đói từ nửa đêm trước
khi làm nghiệm pháp, dùng một lượng glucose tương đương với 75g glucose,
hòa tan trong 250-300 ml nước, uống trong 5 phút; trong 3 ngày trước đó
bệnh nhân ăn khẩu phần có khoảng 150-200 gam carbohydrat mỗi ngày.
-HbA1c ≥ 6,5% (48 mmol/mol). Xét nghiệm này phải được thực hiện ở
phòng thí nghiệm được chuẩn hóa theo tiêu chuẩn quốc tế, hoặc:
- Ở bệnh nhân có triệu chứng kinh điển của tăng glucose huyết hoặc mức
glucose huyết tương ở thời điểm bất kỳ ≥ 200 mg/dL (hay 11,1 mmol/L).


8

Nếu không có triệu chứng kinh điển của tăng glucose huyết, xét nghiệm
chẩn đoán cần được thực hiện lặp lại lần 2 để xác định chẩn đoán.
Theo công bố của Tổ chức Y tế thế giới , năm 1985 toàn thế giới có 30
triệu người mắc đái tháo đường, ước tính đến năm 2010 có khoảng 215,6 triệu

người bị đái tháo đường. Dự kiến đến năm 2030 con số này sẽ tăng thành 400
triệu người.Đái tháo đường được coi là một trong ba bệnh có tốc độ gia tăng
nhanh nhất thế giới[1].
Tại Việt Nam theo điều tra tại một số thành phố lớn thấy tỷ lệ mắc bệnh
đái tháo đường là khá cao và cũng đang gia tăng nhanh chóng. Điều tra năm
1991 tại một số vùng lân cận ở Hà Nội, Phan sỹ Quốc và Lê Huy Liệu thấy tỷ
lệ mắc đái tháo đường trong dân số trên 15 tuổi là 1,1% . Đến năm 1999-2000
kết quả điều tra của Nguyễn Huy Cường , tỷ lệ này tăng lên 2,4 % trong dân
số trên 15 tuổi. Đặc biệt có nhiều vùng tỷ lệ mắc đái tháo đường là trên 3% .
Năm 1993,tại Thành phố Hồ Chí Minh, Mai Thế Trạch và Diệp Thanh
BÌnh thấy tỷ lệ mắc đái tháo đường tại thời điểm năm 1993 là 2,52 % dân số.
Nói về vai trò của HbA1c trong theo dõi quá trình kiểm soát đường máu
ở bệnh nhân đái tháo đường:
HbA1c ( Glycosylated hemoglobin) là một phân nhánh của HbA1 trong
đó phân tử glucose được gắn với acid vanyl của Hemoglobin. Đây là phản
ứng không đảo ngược. HbA1c chiếm 4-6% số phân tử HbA1. So với nồng độ
đường máu thì phân tử HbA1c phản ánh trung thực hơn nhiều tình trạng kiểm
soát đường máu ở bệnh nhân đái tháo đường. HbA1c cho biết mức đường
huyết trên dưới 8 tuần lễ và tình trạng kiểm soát đường máu trong một thời
gian dài.
Nghiêm cứu Framingham khẳng địnhkiểm soát đường máu tốt với
HbA1c dưới 7% có thể làm giảm 37% các biến chứng liên quan tới tim mạch
[14].
Nghiên cứu tiến cứu về đái tháo đường tại vương quốc Anh ( UKPDS


9

29) theo dõi thời gian trung bình 7,9 năm với 3776 ngiười mới phát hiện đái
tháo đường tuổi từ 25 đén 65 nhận thấy bệnh nhân có đường máu cao trên

13,4 mmol/l và HbA1c trên 10,7% thì có nguy cơ bị tai biến mạch não cao
gấp hai lần so với người bệnh đái tháo đường được kiểm soát đường máu tốt
[15].
1.1.1.2. Dịch tễ học và tiêu chuẩn chẩn đoán tai biến mạch não.
Tai biến mạch não xảy ra khi cung cấp máu lên một bộ phận não bị đột
ngột ngưng trệ.
Định nghĩa về tai biến mạch não ( theo AHA/ASA 2013) : Khi có thiếu
sót về thần kinh kéo dài trên 24 giờ hoặc hình ảnh tổn thương não liên quan
đến lâm sàng ở bệnh nhân mà các triệu chứng chỉ tồn tại thoáng qua [11][12].
Định nghĩa về nhồi máu não ( AHA/ ASA – 2013) : Là tổn thương tế
bào não do thiếu máu cục bộ được xác định dựa trên [12]:
Hình ảnh hoặc bằng chứng khách quan khác của tổn thương não do
thiếu máu cục bộ, hoặc:
Triệu chứng lâm sàng về thần kinh do tổn thương thiếu máu cục bộ não
kéo dài trên 24 giờ hoặc tử vong và các nguyên nhân khác được loại trừ.
Đái tháo đường được tổ chức Y tế thế giới công nhận là yếu tố nguy cơ
của bệnh lý tim mạch nói chung và tai biến mạch não nói riêng.
Nghiên cứu Framingham ( 1979) cho thấy tần suất tai biến mạch não ở
bệnh nhân đái tháo đường hàng năm là 0,47% ở nam và 0,62% ở nữ so với
người không mắc bệnh đái tháo đường là 0,19 % và 0,17% [14].
Nghiên cứu của Seppo L. Tại Phần Lan trong thời gian 7 năm nghiên
cứu trên 1059 người bị đái tháo đường type II và 1375 người không mắc đái
tháo đường lứa tuổi từ 45 đến 64 tuổi nhận thấy tỷ lệ tai biến ở bệnh nhân đái
tháo đường type II ở nam cao gấp 3 lần và ở nữ cao gấp 5 lần so với người
không mắc đái tháo đường [16].
Nhiều nghiên cứu cũng cho thấy bệnh nhân bị đái tháo đường khi sảy ra


10


tai biến mạch máu não có tiên lượng kém hơn so với người không bị đái tháo
đường.
Theo Tuomilehto Jaakko nghiên cứu tại Phần Lan trong vòng 20 năm
nhận thấy tỷ lệ tử vong vì tai biến mạch não ở bệnh nhân đái tháo đường cao
gấp hai lần đối với nam và cao gấp ba lần đối với nữ so với người không mắc
bệnh đái tháo đường [17].
1.1.2.Một số yếu tố nguy cơ phối hợp gây nhồi máu não ở bệnh nhân đái
tháo đường.
Tổ chức Y tế thế giới đưa ra hơn 20 yếu tố nguy cơ của tai biến mạch
não bao gồm:
-

Các yếu tố vốn có của người bệnh không thể thay đổi được: tuổi , giới tính,

-

chủng tộc....
Các yếu tố phụ thuộc vào tập quán sống: thức ăn , rượu, thuốc lá, thuốc tránh

-

thai.....
Các yếu tố bệnh lý khác: đái tháo đường, tăng huyết áp, Rối loạn
Cholesterol,béo phì......[5]
1.1.2.1.Tăng huyết áp.
Tăng huyết áp là khi huyết áp tâm thu >= 140 mmHg và/hoặc huyết áp
tâm trương >= 90 mmHg hoặc khi đang được điều trị bằng một thuốc hạ
huyết áp [1].
Tăng huyết áp thúc đẩy xơ vữa động mạch và dưới áp lực của dòng
máu luôn tăng cao sẽ làm nứt mảng xơ vữa tạo điều kiện hình thành cục máu

đông , đồng thời tăng huyết áp làm tăng cường quá trình hoạt hóa , tăng đông
trong lòng mạch , cộng với tăng yếu tố gây co thắt mạch. Tất cả những thuận
lợi trên có thể gây ra hiện tượng nhồi máu não [5].
Tăng huyết áp cả tâm thu, tâm trương hoặc cả tâm thu lẫn tâm trương
là yếu tố nguy cơ độc lập gây ra tất cả các loại tai biến mạch não.Khi huyết áp
> 160/95 mmHg sẽ làm tăng nguy cơ tai biến mạch não khoảng 4 lần so với


11

bệnh nhân có huyết áp bình thường. Nghiên cứu Framingham thấy rằng
80,8% các bệnh nhân tai biến mạch não do tăng huyết áp[14]. Ở Việt Nam ,
tác giả Hoàng Khánh và cộng sự (1994) nghiên cứu trên 921 trường hợp tai
biến mạch não thấy rằng tăng huyết áp ở nhồi máu não là 62,68 % [3].
1.1.2.2.Rối loạn chuyển hóa Lipid[1].
Tổn thương nội mạc mạch tiết ra yếu tố tăng trưởng và cytokin.Các
chất này có tác dụng hóa ứng động đối với các monocyt từ máu và tế bào cơ
trơn. Từ lớp trung mạc và lớp nội mạc.Đến lượt mình, các tế bào này lại tiết
ra các yếu tố tăng trưởng tạo điều kiện thu hút các tế bào khác , trong đó có
tiểu cầu. Troong khi chính tiểu cầu là thành phần đầu tiên có mặt có mặt khi tế
bào nội mạc bị tổn thương để bịt kín chỗ tổn thương này lại. Hoạt hóa tiểu cầu
sẽ tiết ra nhiều chất khác nhau, đặc biệt yếu tố tăng trưởng của tiểu cầu
(PDGF). Chất này làm tăng quá trình thâm nhập của các tế bào của cơ trơn từ
trung mạc và nội mạc. Đại thực bào bị hoạt hóa , nuốt các tế bào này trở thành
các tế bào bọt. Đại thực bào bị hoạt hóa , nuốt các tế bào này trỏe thành các tế
bào bọt. Đại thực bào và tế bào cơ trơn phát triển , tiếp nhận LDL-Cholesterol
bị biến đổi , các tế bào này mất khả năng tự điều chỉnh cholesterol trở thành
các tế bào bọt chứa đầy cholesterol ết dẫn tới quá tải , các tế bào này vỡ ra đổ
cholesterol ra ngoài . Kết hợp với phản ứng của cơ thể phát triển tổ chức liên
kết hình thành mảng xơ vữa động mạch.

Đối với bệnh nhân đái tháo đường, tăng đường huyết làm tăng sản xuất
các gốc tự do, bất hoạt NO, gây rối loạn chức năng nội mạc, làm giảm sự giãn
mạch.Xơ vữa động mạch ở bệnh nhân đái tháo đường do nhiều nguyên nhân
trong đó rối loạn chức năng nội mạc đóng vai trò quan trọng quá trình hình
thành các biến chứng mạch máu. Tăng đường máu làm hoạt hóa protein
kinase C trong tế bào nội mạc, maen này có tác dụng tăng sản xuất các
prostaglandin co mạch, man chuyển angiotensin và các yếu tố tăng trưởng của
tiểu cầu và mạch máu. Các monocyt xuyên qua và lắng đọng dễ dàng ở lớp


12

dưới nội mạc. Tăng đường huyết còn làm chậm quá trình nhân lên , tăng sự
chết của tế bào nội mô một phần do tăng cường quá trình oxy hóa và glycosyl
hóa. Lượng LDL-cholesterol oxy hóa tăng lên, vào nhiều trong đại thực bào
càng làm tăng số lượng tế bào bọt, hình thành nên các mảng xơ vữa động
mạch. Hậu quả của xơ vữa đông mạch có thể là nhồi máu não hoặc chảy máu
não.
Trong một vài nghiên cứu trên thế giới, cholesterol máu tăng là yếu tố
độc lập làm tăng tỷ lệ tai tai biến mạch não nhất là nhồi máu não cũng như
bệnh mạch vành. Theo JD.Neaton, D.Wentworth khi LDL-cholesterol tăng
10% thì nguy cơ tim mạch tăng lên 20%. Sự giảm HDL-cholesterol cũng làm
tăng nguy cơ các bệnh tim mạch trong đó có tai biến mạch não.
1.1.2.3. Hẹp tắc động mạch cảnh.
Tổn thương hẹp động mạch cảnh không triệu chứng là một yếu tố nguy
cơ đối với tai biến mạch não,nguy cơ tai biến mạch não tăng lên theo mắc độ
hẹp của động mạch cảnh. Trong trường hợp hẹp động mạch cảnh trên 75% sẽ
làm tăng nguy cơ thiếu máu não thoáng qua và/hoặc tai biến mạch não nói chung
lên 10%. Theo các nghiên cứu ở châu Âu, các bệnh nhân hẹp mạch cảnh dưới
75% đường kính lòng mạch thì tỷ lệ mắc tai biến mạch não hàng năm là 1,3% và

ở người bị hẹp trên 75% thì tỷ lệ tai biến mạch não là 3,3% [5].
1.1.2.4. Béo phì.
Năm 1996, nhóm chuyên viên về nhu cầu năng lượng của Liên Hợp
Quốc đã đề nghị sử dụng chỉ số khối cơ thể (Body Mass Index- chỉ số khối cơ
thể được tính bằng cân nặng / chiều cao2) để đánh giá tình trạng dinh dưỡng ở
người trưởng thành.
Béo trung tâm là yếu tố nguy cơ không trực tiếp gây tai biến mạch não
mà có lẽ thông qua các bệnh tim mạch.Theo A.G.Shaper, SG.Wannamethee,
M.Walker thì tăng trọng lượng quá mức > 30% làm tăng nguy cơ tai biến
mạch não. Nguy cơ tai biến mạch não tương đối với nhóm có BMI cao là 2,33


13

so với nhóm BMI thấp khi nghiên cứu trên 28643 nam[1][5].
1.1.2.5. Một số yếu tố nguy cơ khác.
- Hút thuốc lá: Hút thuốc lá làm biến đổi nồng độ lipid mà quan trọng là
làm giảm HDL-cholesterol, ngoài ra còn tăng fibrinogen, tăng tính đông máu,
độ nhớt của máu, tăng kết dính tiểu cầu.Hút thuốc lá trực tiếp hay thụ động
dều làm tăng nguy cơ bệnh lý tim mạch.
- Lạm dụng rượu: Vai trò của rượu như là một yếu tố nguy cơ của tai
biến mạch não vẫn còn đang tranh luận.
- Thuốc tránh thai: Người ta đã chứng minh được có sự phối hợp giữa
thuốc tránh thai và nguy cơ tai biến mạch não.Nghiên cứu của WHO cũng nêu
lên có sự tăng nguy cơ nhồi máu não và chảy máu não, thậm chí với liều thấp
thuốc tránh thai đường uống.
- Tai biến mạch não thoáng qua: Nguy cơ tai biến mạch não với người có
tiền sử tai biến mạch não thoáng qua là 7 lần trong vòng 5 năm. Nguy cơ này
đặc biệt cao trong năm đầu tiên ( 13-16 lần).
1.1.3. Hệ thống mạch máu não và hình thái tổn thương não ở bệnh nhân

đái tháo đường có nhồi máu não.
1.1.3.1.Giải phẫu tuần hoàn não.
Não được tướ máu bằng hai hệ thống đọng mạch : hệ thống mạc cảnh
trong ở phía trước và hệ thống động mahj sống ở phía sau. Hai hệ thống này
nối thông với nhau ở nền sọ tạo nên đa giác Willis.
* Hệ động mạch cảnh [18][21][22].
- Động mạch cảnh đoạn ngoài sọ:.
Thân tay đầu xuất phát từ quai động mạch chủ sau cán xương ức và
chia đôi ở ngang khớp ức đòn thành động mạch dưới đòn và động mạch cảnh
chung. Ở bên trái, động mạch cảnh chung (thường nằm sát thân tay đầu) và
động mạch dưới đòn xuất phát trực tiếp từ quai động mạch chủ. Động mạch


14

cảnh chung mỗi bên sau đó chia đôi ở ngang mức sụn giáp để tạo thành động
mạch cảnh trong và động mạch cảnh ngoài; hai động mạch này nằm song
song và cạnh nhau sau chỗ chia đôi, động mạch cảnh ngoài nằm ở phía trong
so với động mạch cảnh trong. Đoạn cuối động mạch cảnh chung ở chỗ chia
đôi và đoạn đầu động mạch cảnh trong phình ra gọi là xoang cảnh.
Động mạch cảnh ngoài cho ra các nhánh động mạch giáp trên, động
mạch lưỡi, động mạch mặt và động mạch hàm trên ở phía trước, và động
mạch hầu ở phía trong, động mạch chẩm và động mạch tai sau ở phía sau.
Động mạch hàm trên và động mạch thái dương nông là các nhánh tận. Động
mạch màng não giữa là một nhánh quan trọng của động mạch hàm trên.
Động mạch cảnh trong không chia nhánh ở đoạn ngoài sọ. Phần cổ của
động mạch này đi ở phía ngoài hoặc sau ngoài so với động mạch cảnh ngoài,
sau đó chạy vào sau trong dọc theo thành hầu (khoang cạnh hầu) ở phía trước
các mấu ngang của ba đốt sống cổ đầu tiên, và cuối cùng uốn cong vào trong
hướng về lỗ động mạch cảnh.

-Động mạch cảnh đoạn trong sọ.
Sau khi vào lỗ động mạch cảnh, động mạch cảnh trong (ICA) xuyên
qua nền sọ trong ống cảnh, nằm trong phần đá của xương thái dương. Động
mạch này đi lên khoảng 1cm, sau đó quặt vào trước trong và đi hướng về đỉnh
xương đá, ở đó nó ra khỏi xương thái dương và đi vào xoang hang. Trong
xoang hang, động mạch cảnh trong chạy dọc mặt ngoài của thân xương bướm
(gọi là đoạn C5), sau đó ngoặt ra trước và đi bên ngoài yên bướm dọc theo
thành bên của xương bướm (đoạn C4); sau đó nó ngoặt ngược ra sau đi dưới
chân mấu giường trước (đoạn C3, đoạn gối). Sau khi ra khỏi xoang hang, nó
xuyên vào màng cứng phía trong mấu giường trước và đi dưới thần kinh thị
(đoạn bể dịch não tủy – C2); kế tiếp nó đi trong khoang dưới nhện (đoạn C1)
cho tới khi tạo đa giác Willis nơi nó chia đôi thành động mạch não giữa và
não trước. Các đoạn C3, C4, C5 tạo thành phần dưới mấu giường, còn đoạn


15

C1 và C2 tạo thành phần trên mấu giường. Các đoạn C2, C3, C4 tạo thành
siphon động mạch cảnh.
Động mạch mắt xuất phát từ đoạn gối siphon động mạch cảnh và chạy
trong ống thị giác phía dưới thần kinh thị. Một trong các nhánh nhãn cầu của
nó là động mạch trung tâm võng mạc chạy cùng với thần kinh thị đến võng
mạc, ở đó nó có thể được nhìn thấy qua soi đáy mắt. Các nhánh khác của
động mạch mắt gồm động mạch lệ, động mạch trên ổ mắt, động mạch sàng,
động mạch mi trên. Các nhánh của động mạch mắt thông nối bàng hệ rộng
với các nhánh của động mạch cảnh ngoài.
Ở phía trong của mấu giường, động mạch cảnh trong chia nhánh động
mạch thông sau xuất phát từ thành sau của của nó, động mạch này chạy
hướng ra sau ngay cạnh thần kinh vận nhãn chung, sau đó nối với động mạch
não sau.

Một nhánh nữa của động mạch cảnh trong là động mạch mạch mạc
trước, tuy đôi khi (hiếm) động mạch này xuất phát từ động mạch não giữa.
Động mạch này đi dưới dải thị, chạy ra ngoài đến cuống não và thể gối ngoài,
sau đó đi vào sừng thái dương não thất bên, nơi nó kết nối vào đám rối mạch
mạc.
-Tuần hoàn trước của não
Động mạch não trước và động mạch não giữa là các nhánh tận của
động mạch cảnh trong. Chúng xuất phát ở chỗ chia đôi động mạch cảnh trong
ở đa giác Willis ngay mấu giường trước, giữa giao thoa thị và cực thái dương.
+ Động mạch não trước (ACA)
Động mạch não trước là nhánh phía trong, chạy ngay bờ ngoài của mấu
giường trước và băng qua thần kinh thị và giao thoa thị, ở đó nó chia một
nhánh nhỏ là động mạch thông trước (AComA) nối hai động mạch não trước
hai bên với nhau. Đoạn động mạch não trước trước khi chia ra động mạch
thông trước gọi là đoạn A1. Hai đoạn A1 hai bên cùng với động mạch thông


16

trước tạo thành nửa trước của đa giác Willis. Đoạn A1 mỗi bên cho ra trung
bình tám nhánh xuyên nền đi vào não qua chất thủng trước. Nhánh lớn nhất
trong số này là động mạch quặt ngược Heubner, thường xuất phát từ động
mạch não trước gần chỗ xuất phát động mạch thông trước, ở cuối đoạn A1
hoặc đầu đoạn A2.
Đoạn sau động mạch thông trước của động mạch não trước (các đoạn
từ A2 tới A5) đi lên giữa hai thùy trán và chạy hướng về vùng chẩm trong khe
liên bán cầu, dọc theo thể chai và dưới bờ tự do của liềm đại não, gọi là động
mạch viền chai. Đoạn A2 kết thúc khi nó vòng ra trước áp sát gối thể chai,
đoạn này thường chia ra nhánh động mạch cực trán; đoạn A3 là phần động
mạch vòng cung lồi ra trước dọc theo gối thể chai. Các đoạn A4 và A5 chạy

gần như nằm ngang trên bề mặt thể chai và cho ra các nhánh động mạch trên
thể chai, chạy hướng ra sau.
Tưới máu: Các nhánh động mạch xuyên nền xuất phát từ đoạn A1 cấp
máu cho phần bụng hạ đồi và một phần của cuống tuyến yên. Động mạch
Heubner’s cấp máu cho đầu nhân đuôi, phần trước nhân bèo, cầu nhạt, và bao
trong. Nguồn cấp máu cho phần dưới gối thể chai, phần hành khướu, dải
khướu và trigone rất thay đổi.
Động mạch thông trước cho ra một vài nhánh nhỏ (các nhánh trung
tâm trước trong) cấp máu cho vùng hạ đồi.
Các nhánh từ đoạn sau động mạch thông trước của động mạch não
trước cấp máu cho mặt dưới của thùy trán (động mạch nền trán), mặt trong và
cạnh đường giữa của thùy trán (động mạch chai bờ), tiểu thùy cạnh trung tâm
(động mạch cạnh trung tâm) mặt trong và cạnh đường giữa của thùy đính
(động mạch trước chêm), và vỏ não vùng rãnh đính chẩm (động mạch đínhchẩm).
+Động mạch não giữa (MCA)
Động mạch não giữa là nhánh xuất phát phía ngoài hơn ở chỗ chia đôi


17

động mạch cảnh trong. Đoạn đầu tiên của nó (đoạn M1 – đoạn xương bướm)
chạy theo mấu giường trước khoảng 1-2cm. Sau đó động mạch não giữa đổi
hướng ra ngoài để vào đáy khe sylvius, ở đó nó nằm trên bề mặt thùy đảo và
chia ra các nhánh của nó (đoạn M2 – đoạn thùy đảo). Nó ngoặt gấp về phía
sau để đi dọc theo bề mặt của nắp thùy đảo (đoạn M3 – đoạn nắp) và rồi cuối
cùng đi ra khỏi khe Sylvius lên bề mặt lồi phía ngoài của não (đoạn M4, M5 –
các đoạn tận).
Tưới máu: Đoạn M1 chia ra các nhánh nhỏ thẳng góc với nó, là các
động mạch xuyên (các động mạch đồi thị-thể vân và thấu kính-thể vân), cấp
máu cho vùng sâu, gồm các nhân nền, nhân trước tường, và bao trong, bao

ngoài, bao cực ngoài. Đoạn M2 là các nhánh nông (nhánh vỏ não – màng
mềm) của động mạch não giữa gồm hai nhánh chính là nhánh trên và nhánh
dưới. Hai thân nhánh chính này chia tiếp các nhánh cấp máu cho vỏ não và
các cấu trúc dưới vỏ thuộc mặt lồi bán cầu. Cụ thể các nhánh M2 và M3 cấp
máu cho thùy đảo (các động mạch thùy đảo), phần bên của hồi não trán dưới
và trán ổ mắt (động mạch trán nền), và vùng nắp thái dương, bao gồm cả hồi
ngang của Heschl (các động mạch thái dương). Các đoạn M4 và M5 cấp máu
cho phần lớn vỏ não mặt lồi bán cầu não, gồm các phần thùy trán (các động
mạch trước trung tâm và rãnh tam giác, động mạch rãnh trung tâm), thùy đính
(các động mạch sau trung tâm (đính trước) và đính sau) và thùy thái dương
(các động mạch thái dương trước, giữa, và sau). Động mạch thái dương sau
còn cấp máu cho một phần thùy chẩm; nhánh động mạch góc là một nhánh
tận, cấp máu cho hồi góc. Các vùng vỏ não đặc biệt do động mạch não giữa
cấp máu là vùng ngôn ngữ Broca (nhánh nông trên) và Wernicke (nhánh nông
dưới)
* Hệ động mạch đốt sống – thân nền [19][20][21]
- Đoạn ngoài sọ


18

Động mạch đốt sống xuất phát động mạch dưới đòn, điểm xuất phát gọi
là V0. Đoạn trước lỗ ngang gọi là V1 trải từ V0 tới khi vào lỗ đốt sống ở mấu
ngang đốt sống C6. Đoạn V2, còn gọi là đoạn trong mấu ngang, chạy xuyên
qua các lỗ mấu ngang của các đốt sống từ C6 đến C2, đi kèm là đám rối tĩnh
mạch và thần kinh giao cảm xuất phát từ các hạch cổ. Nó cho các nhánh đến
các thần kinh cổ, đốt sống và khớp liên đốt sống, các cơ cổ, và tủy cổ.
Thường thì một nhánh lớn ở ngang mức C5 sẽ kết nối với động mạch tủy
sống trước. Đoạn V3, còn gọi là quai đốt đội, đi hướng ra ngoài và sau đó
chạy thẳng đứng đến lỗ ngang đốt sống C1, chui qua lỗ này rồi hướng vào

trong dọc theo khối xương ngoài của C1, xuyên qua màng chẩm-đội sau ở
phía sau của khớp chẩm-đội, và sau đó vào màng cứng và màng nhện ở lỗ lớn
xương chẩm. Hai động mạch đốt sống hai bên có khẩu kính không bằng nhau
ở khoảng 75% người bình thường, và một trong hai rất hẹp (thiểu sản) ở
khoảng 10% dân số, thường là ở bên phải.
-Đoạn nội sọ
Đoạn V4 của động mạch đốt sống nằm hoàn toàn trong khoang dưới
nhện, kết thúc ở nơi hai động mạch đốt sống nhập lại thành động mạch thân
nền, ở ngang bờ dưới cầu não. Trước khi nhập lại, mỗi động mạch đốt sống
cho ra một nhánh nền trong; hai nhánh này chạy khoảng 2cm và hợp nhất tại
đường giữa tạo thành một động mạch tủy sống trước duy nhất chạy dọc mặt
trước hành não và tủy sống. Động mạch tiểu não sau dưới (PICA – posteriorr
inferior cerebella artery) là nhánh của động mạch đốt sống, xuất phát từ đoạn
V4 ở một vị trí rất thay đổi, chạy vòng quanh nhân trám dưới (inferior olive)
và chạy dài ra phía sau xuyên qua các rễ của thần kinh phụ. Sau đó nó đi lên
sau các sợi của thần kinh hạ thiệt và lang thang, tạo thành một quai ở thành
sau của não thất bốn, và cho ra các nhánh tận đến mặt dưới của bán cầu tiểu
não, hạnh nhân, và thùy nhộng. Nó cấp máu cho hầu hết hành não sau bên và
mặt sau dưới của tiểu não. Động mạch tủy sống sau (một động mạch mỗi bên)


19

xuất phát từ động mạch đốt sống hoặc từ động mạch tiểu não sau dưới.
Động mạch thân nền chạy trong bể trước cầu não, dọc suốt chiều dài
của cầu não và sau đó chia đôi để tạo thành hai động mạch não sau. Phần dưới
của động mạch thần nền liên quan chặt với thần kinh vận nhãn ngoài, phần
trên với thần kinh vận nhãn chung. Động mạch này cho ra các nhánh cạnh
đường giữa, nhánh chu vi ngắn, và nhánh chu vi dài cấp máu cho cầu não và
cuống tiểu não trên và giữa.

Động mạch tiểu não trước dưới (AICA) xuất phát từ một phần ba dưới
của động mạch thân nền. Nó chạy ra ngoài và ra sau hướng về góc cầu-tiểu
não, chạy gần lỗ tai trong, và tới thùy nhung, ở đó nó cho ra các nhánh cấp
máu cho phần trước dưới của vỏ tiểu não và một phần các nhân tiểu não.
Động mạch tiểu não trước dưới nằm phía dưới của thần kinh vận nhãn ngoài
(dây VI) và phía bụng trong của thần kinh mặt (VII) và thính giác (VIII) ở bể
cầu-tiểu não. Nó thường cho ra một nhánh mê đạo đi vào lỗ tai trong.
Động mạch tiểu não trên cả hai bên xuất phát từ động mạch thân nền
ngay dưới chỗ chia đôi của động mạch này. Mỗi động mạch tiểu não trên chạy
qua bể quanh trung não ở phía dưới thần kinh vận nhãn chung (III), đi vòng
quanh cuống não ở phía dưới và trong của thần kinh ròng rọc (VII), và sau đó
đi vào bể lớn, ở đó nó cho các nhánh tận. Động mạch tiểu não trên cấp máu
cho cầu não trên, một phần trung não, và mặt trên của bán cầu tiểu não, phần
trên của thùy nhộng, và các nhân tiểu não.
- Tuần hoàn sau của não
+ Động mạch não sau (PCA)
Đoạn trước động mạch thông sau của động mạch não sau (P1) chạy từ
chỗ chia đôi động mạch thân nền đến chỗ xuất phát của động mạch thông sau
(PCommA). Nó chạy trong bể liên cuống giới hạn bởi cuống não và mảnh
dốc. Thần kinh vận nhãn chung sau khi đi ra khỏi trung não chạy giữa động
mạch não sau và động mạch tiểu não trên. Đoạn sau động mạch thông sau của


20

động mạch não sau (P2) đi vòng ra ngoài và ra sau quanh cuống não và đến
mặt sau của trung não ở mức gian củ não.
Các đoạn trước và sau động mạch thông sau của động mạch não sau
tạo thành phần vòng cung của động mạch thông sau. Phần vòng cung của
động mạch não sau có thể được chia theo một cách khác thành ba đoạn là

đoạn liên cuống, đoạn bể lớn và đoạn củ não sinh tư.
Phần xa sau đoạn vòng cung của động mạch não sau là đoạn tận cùng,
được chia ở phía trên lều tiểu não và phía sau dưới của thể gối ngoài thành
các nhánh là động mạch chẩm trong và chẩm ngoài.
Phần vòng cung: Đoạn trước thông sau cho ra các nhánh nhỏ (các động
mạch trung tâm sau trong) xuyên qua chất thủng liên cuống để cấp máu cho
phần trước đồi thị, thành não thất ba, và cầu nhạt. Đoạn sau thông sau cho ra
các nhánh nhỏ (các động mạch trung tâm sau bên) đến cuống não, phần sau
của đồi thị, các củ não ở trung não, thể gối trong, và tuyến tùng. Các nhánh
sau nữa cấp máu cho phần sau của đồi thị (các nhánh đồi thị), cuống não (các
nhánh cuống não), và thể gối ngoài và đám rối mạch mạc não thất ba và não
thất bên (các nhánh mạch mạc sau).
Phần tận cùng: Trong hai nhánh tận của phần tận cùng động mạch não
sau, động mạch chẩm bên (cùng với các nhánh thái dương của nó) cấp máu
cho móc hải mã, hồi hải mã, và mặt dưới của thùy chẩm. Động mạch chẩm
trong chạy dưới lồi thể chai, cho ra các nhánh tưới máu cho thể chai (nhánh
lưng thể chai) cũng như cho hồi chêm và trước chêm (nhánh đính chẩm), vỏ
não vân (nhánh cựa), và mặt trong của thùy chẩm và thùy thái dương (các
nhánh chẩm và nhánh thái dương), bao gồm cả phần cạnh đường giữa của
thùy chẩm.
*Các vòng thông nối tuần hoàn cho não [19][21][23].
Thông nối bàng hệ là cơ chế dự phòng của hệ tuần hoàn, nhằm đảm


21

bảo cấp máu cho các vùng cơ thể, tránh tối đa các thiệt hại do tắc nghẽn mạch
máu gây ra. Đối với não bộ, thông nối bàng hệ còn đặc biệt quan trọng do tế
bào thần kinh vô cùng nhạy cảm với tình trạng thiếu máu, thiếu oxy. Các
đường thông nối bàng hệ cho não có thể được chia thành các thông nối ngoài

sọ, giữa động mạch cảnh ngoài với cảnh trong, động mạch dưới đòn với động
mạch cảnh, và giữa động mạch dưới đòn với động mạch đốt sống; và các
thông nối trong sọ, gồm thông nối quan trọng nhất ở đa giác Willis, bên cạnh
đó là các thông nối vỏ não giữa các động mạch màng não mềm, thông nối
giữa các nhánh màng não của động mạch cảnh ngoài với các nhánh màng não
của động mạch cảnh trong. Các đường thông nối cụ thể như sau.
-Ngoài sọ
Thông nối giữa động mạch cảnh ngoài và động mạch cảnh trong
+ Vùng ổ mắt: được thực hiện thông qua nhánh động mạch góc của động
mạch mặt thuộc động mạch cảnh ngoài, các nhánh của động mạch thái dương
nông thuộc động mạch cảnh ngoài với các nhánh động mạch trên ròng rọc và
động mạch trên ổ mắt của động mạch mắt thuộc động mạch cảnh trong
+Thông nối giữa nhánh nhĩ trước của động mạch hàm trên thuộc động
mạch cảnh ngoài với nhánh cảnh-nhĩ thuộc động mạch cảnh trong.
Thông nối giữa động mạch dưới đòn và động mạch cảnh:
+Động mạch cổ sâu thuộc động mạch dưới đòn thông nối với nhánh của
động mạch chẩm thuộc động mạch cảnh ngoài
+Nhánh của động mạch cổ lên thuộc động mạch dưới đòn thông nối với
nhánh của động mạch hầu lên thuộc động mạch cảnh ngoài.
Thông nối giữa động mạch dưới đòn với động mạch đốt sống, được thực
hiện thông qua các nhánh của động mạch cổ lên từ thân giáp cổ và động mạch
cổ sâu, đều thuộc động mạch dưới đòn, trực tiếp với động mạch đốt sống.
-Nội sọ
Đa giác Willis được Thomas Willis mô tả năm 1664, đây là một vòng


22

thông nối động mạch hằng định về giải phẫu, nằm ở mặt nền của não trong bể
giao thoa thị, bao quanh giao thoa thị giác, củ xám và hố liên cuống. Đa giác

được hình thành từ các nhánh động mạch thông nối của động mạch cảnh trong
và động mạch thân nền, cùng với động mạch thông trước, thông sau và đoạn
gần của các động mạch não trước, não giữa và não sau. Có nhiều biến thể của
đa giác Willis đã được mô tả, và phổ biến nhất là sự phát triển không đối xứng
của các động mạch thành phần. Chỉ 20% các trường hợp được quan sát có đa
giác Willis đối xứng.
Từ đa giác Willis và các động mạch não chính có các nhánh xuyên và
nhánh vỏ não đi ra. Các động mạch trung tâm (động mạch xuyên) có kích
thước nhỏ, xuất phát từ đa giác Willis và đoạn gần của các động mạch não
giữa, não trước và não sau, đi vuông góc xuyên sâu qua nền não đến cấp máu
cho các nhân nền, bao trong và gian não. Các động mạch vỏ não và động
mạch chu vi là các nhánh từ ba cặp động mạch não chạy ra mặt ngoài và mặt
trong của bán cầu. Từ các nhánh vỏ não này sẽ có các động mạch tận nhỏ hơn
xuyên vào nhu mô não theo góc vuông, một số nuôi vỏ não còn số khác đi sâu
hơn nuôi chất trắng dưới vỏ. Các động mạch vỏ não này không phải là động
mạch tận mà chúng có các thông nối bàng hệ với các động mạch vỏ não khác
cùng một động mạch não hoặc của các động mạch não khác, nhờ đó chúng có
thể bù trừ cho nhau với nhiều mức độ khác nhau trong trường hợp có một
nhánh động mạch bị tắc nghẽn. Vùng ranh giới hay vùng mép nước là các
vùng vỏ não hoặc vùng nhân nền, bao trong nằm ở ranh giới của khu vực tưới
máu của các động mạch chính của não. Đây là các vùng có thể bị thiếu máu
trong trường hợp tụt huyết áp, đó là ranh giới giữa động mạch não trước với
não giữa, giữa động mạch não giữa với não sau, và giữa các nhánh nông với
nhánh sâu của động mạch não giữa.
Các vòng thông nối bàng hệ nội sọ cụ thể như sau:
Thông nối trong đa giác Willis:


23


+ ĐM cảnh trong phải ↔ ĐM não trước phải ↔ ĐM thông trước ↔ ĐM
não trước trái ↔ ĐM cảnh trong trái, ĐM não giữa trái.
+ĐM cảnh trong ↔ ĐM thông sau ↔ ĐM thân nền
+ĐM cảnh trong ↔ ĐM mạch mạc trước ↔ ĐM mạch mạc sau ↔ ĐM
não sau ↔ ĐM thân nền
Thông nối qua các bất thường phát triển:
Trong phôi thai, có ba vòng thông nối bàng hệ giữa động mạch cảnh và
thân nền ngắn hạn xuất hiện liên tiếp nhau, và bình thường sẽ không tồn tại
sau sinh. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, một hoặc nhiều đường thông
nối này vẫn còn tồn tại đến trưởng thành.
+Động mạch hạ thiệt nguyên thủy: động mạch nối giữa phần trong
xương đá của động mạch cảnh trong và đoạn gần của động mạch thân nền
+Động mạch tai nguyên thủy: động mạch nối giữa đoạn cổ của động
mạch cảnh trong và động mạch đốt sống ở vùng dây thần kinh XII
+Động mạch sinh ba tồn tại: tỉ lệ xảy ra là 1-2/1000 ca trong những
trường hợp được chụp mạch máu, là nhánh rộng ngắn nối giữa phần xoang
hang của động mạch cảnh trong với một phần ba trên của động mạch thân nền
(dưới động mạch thông sau). Thấy trên mạch não đồ dưới dạng một động
mạch lạ băng ngang bể cầu não tới nối vào động mạch thân nền, phần động
mạch não giữa cùng bên nở lớn.
Thông nối bề mặt vỏ não:
+Thông nối màng não mềm của đại não: ĐM não trước ↔ ĐM não giữa
↔ ĐM não sau
+Thông nối màng não mềm của tiểu não: ĐM tiểu não trên ↔ ĐM tiểu
não trước dưới (AICA) ↔ ĐM tiểu não sau dưới (PICA)
Thông nối Rete Mirabile
+ĐM cảnh ngoài ↔ ĐM màng não giữa/ĐM thái dương nông ↔ các
ĐM màng não mềm (ĐM vỏ não) ↔ ĐM não trước/ĐM não giữa.



24

1.1.3.2. Tổn thương mạch máu não do đái tháo đường [9][10].
Tổn thương mạch máu trong đái tháo đường được chia làm hai loại là
tổn thương mạch máu lớn ( bệnh động mạch vành, bệnh động mạch ngoại vi
và đột quỵ) , tổn thương mạch máu nhỏ ( bệnh lý cầu thận, bệnh lý thần kinh ,
bệnh lý võng mạc do đái tháo đường).
Cơ chế bệnh học chính của bệnh lý mạch máu lớn là quá trình xơ vữa
mạch, dẫn đến hẹp lòng động mạch đi khắp cơ thể. Xơ vữa mạch là do viêm
mạn tính và tổn thương thành động mạch. Oxy hóa lipid từ tích lũy các phân
tử LDL trong thành nội mạch của động mạch dẫn đến tổn thương nội mạch
và viêm. Angiotensin II có thể xúc tiến quá trình oxy hóa các phân tử này. Sau
đó tế bào môn thâm nhiễm vào thành động mạch và trở thành đại thực bào ,
nó tích lũy lipid bị oxy hóa thành dạng những tế bào bọt.Một khi , các tế bào
bọt kích thích sự tăng nhanh đại thực bào và thu hút tế bào lympho T. Tế bào
lympho T quay trở lại làm tăng nhanh cơ trơn ở thành động mạch và tích tụ
collagen . Kết quả của quá trình là tạo nên tổn thương xơ vữa giàu lipid . Khi
làm vỡ tổn thương này dẫn đến nhồi máu cấp. Thêm vào đó ở bệnh nhân đái
tháo đường type 2 có tình trạng tăng kết dính tiểu caaufvaf tăng đông. Giảm
sinh ra nitric oxid và tăng hình thành gốc tự do trong tiểu cầu, như thay đổi sự
điều chỉnh calci, có thể đẩy mạnh kết tập tiểu cầu. Gia tăng nồng độ của chất
ức chế hoạt hóa plasminogen typ 1 làm giảm phân hủy fibrin ở bệnh nhân đái
tháo đường. Sự kết hợp giữa tình trạng tăng đông và giảm phân hủy fibrin sẽ
làm tăng nguy cơ tắc mạch ở bệnh nhân đái tháo đường.
1.1.3.3.Sinh lý bệnh nhồi máu não.
*Tưới máu não [7][5].
Ở người bình thường có cung lượng máu não luôn cố định là
55ml/100g /phút, không biến đổi theo cung lượng tim, nhờ vào sự co giãn của
cơ trơn thành mạch. Khi có tăng huyết áp, máu lên não nhiều, các cơ trơn
thành mạch co nhỏ lại và khi huyết áp hạ các mạch máu lại giãn ra để máu lên



25

não nhiều hơn, hiện tượng này gọi là hiệu ứng Bayliss.
Ngoài ra, còn có các thành phần khác tham gia vào điều hòa tưới máu não.
Sự điều hòa về chuyển hóa: Quan trọng là áp lực riêng phần của CO2
(PaCO2) nếu tăng trong máu sẽ làm giãn mạch, nếu giảm thì gây co mạch và
cũng chỉ có tác dụng đối với các mạch nhỏ.
Sự điều hòa của thần kinh giao cảm của mạch máu: Kích thích thần
kinh giao cảm cổ làm giảm cung lượng máu não cùng bên ( tác dụng qua
động mạch ngoài não) đồng thời làm giảm sự hoạt hóa của các mạch liên
quan đến sự biến đổi PaCO2. Tuy nhiên nếu cắt bỏ thần kinh gia cảm không
làm thay đổi khẩu kính các động mạch nội sọ.
Trong nhồi máu não khi mạch máu bị tắc vì một nguyên nhân nào đó,
các cơ chế điều hòa này cũng không thể đảm bảo cung cấp đủ oxy dẫn đến
hoại tử tế bào thần kinh.
Trong các nguyên nhân gây nhồi máu não thì xơ vữa các động mạch
não là nguyên nhân phổ biến nhất.
Trong xơ vữa động mạch, sự lắng đọng cholesterol, tăng sinh xơ -cơ
thành mạch gây hẹp lòng động mạch. Khi các mảng xơ vữa nứt vỡ gây kết tập
tiểu cầu, khởi động quá trình đông máu và hình thành huyết khối trong lòng
mạch. Nếu cục huyết khối chỉ chiếm một phần lòng mạch sẽ làm động mạch
hẹp lại , gây giảm lưu lượng máu dẫn đến ứ trệ dòng máu và hoạt hóa yếu tố
đông máu. Nếu cục huyết khối lớn, lấp kín lòng mạch sẽ gây tắc dòng tuần
hoàn máu của động mạch đó. Khi cục huyết khối rời ra và di chuyển theo
chiều dòng máu tới vị trí mà kích thước cục huyết khối lớn hơn lòng mạch nó
sẽ dừng lại gây ra huyết tắc.
Nếu tưới máu não còn 20ml/100g/phút tế bào thần kinh duy trì quá
trình tiến tới thiếu máu não. Nếu tưới máu não giảm 20-10ml/100mg/phút thì

các tế ào thần kinh mất chức năng, nếu tiếp tục kéo dài đời sống tế bào thần
kinh bị đình chỉ, vùng xung quanh ở trạng thái nửa tối. Khi tưới máu não còn


×