Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CHO CÁN BỘ CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ HUYỆN SÓC SƠN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (905.82 KB, 116 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

HỒ VIỆT HÙNG

NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CHO CÁN BỘ
CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ HUYỆN SÓC SƠN,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
CHƯƠNG TRÌNH ĐỊNH HƯỚNG THỰC HÀNH

Hà Nội - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

HỒ VIỆT HÙNG

NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CHO CÁN BỘ
CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ HUYỆN SÓC SƠN,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 60 34 04 10

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
CHƯƠNG TRÌNH ĐỊNH HƯỚNG THỰC HÀNH

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phan Kim Chiến


Hà Nội - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn là công trình nghiên cứu khoa học, độc
lập của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn
gốc rõ ràng.
Hà Nội, ngày 25 tháng 6 năm 2015
Tác giả luận văn

Hồ Việt Hùng


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn, tôi xin chân thành
gửi lời cảm ơn tới lãnh đạo trường Đại học Kinh Tế - Đại học Quốc gia Hà
Nội, lãnh đạo và các thầy cô giáo trong khoa, các thầy cô giáo đã trực tiếp
giảng dạy, bạn bè và đồng nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ tôi
trong quá trình học tập và thực hiện luận văn.
Tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Phan Kim Chiến, người đã
nhiệt tình hướng dẫn, truyền đạt những kinh nghiệm quý báu trong nghiên
cứu khoa học và dành những tình cảm tốt đẹp cho tôi trong thời gian qua.
Mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng chắc chắn luận văn không thể tránh
khỏi những sai sót, kính mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của quý thầy cô
và bạn bè đồng nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn nữa.
Hà Nội, ngày 25 tháng 6 năm 2015
Tác giả luận văn

Hồ Việt Hùng



MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN...........................................................................................................................2
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU........................................................................................38

2.2. Phương pháp luận.................................................................................38
2.4. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể....................................................40
2.5. Các công cụ được sử dụng...................................................................43
Bảng 3.1: Trình độ chuyên môn của CBCQ cấp xã huyện Sóc Sơn...............................49
Bảng 3.2: Trình độ lý luận chính trị của CBCQ cấp xã huyện Sóc Sơn.........................49
Bảng 3.3: Trình độ quản lý hành chính của CBCQ cấp xã huyện Sóc Sơn...................49
Biểu 3.5: Số liệu Khả năng hoạt động thực tiễn.................................................................60


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT

Ký hiệu

Nguyên nghĩa

1

CBCQ

Cán bộ chính quyền

2

CBCC


Cán bộ công chức

3

CNH, HĐH

4

HĐND

Hội đồng nhân dân

5

NNPQ

Nhà nước pháp quyền

6

Nxb

7

XHCN

Công nghiệp hóa, hiên đại hóa

Nhà xuất bản

Xã hội chủ nghĩa

i


DANH MỤC BẢNG
STT

Bảng

1

Bảng 3.1

2

Bảng 3.2

3

Bảng 3.3

Nội dung
Trang
Trình độ chuyên môn của CBCQ cấp xã huyện
49
Sóc Sơn
Trình độ lý luận chính trị của CBCQ cấp xã
49
huyện Sóc Sơn

Trình độ quản lý hành chính của CBCQ cấp xã
49
huyện Sóc Sơn

ii


DANH MỤC CÁC BIỂU
STT

Biểu

1

Biểu 3.1

2

Biểu 3.2

3

Biểu 3.3

4

Biểu 3.4

5


Biểu 3.5

Nội dung
Trang
Đánh giá của cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã
55
về đức tính người cán bộ cơ sở (đơn vị: %)
Cán bộ lãnh đạo tự đánh giá về những đức tính
55
cần có của cán bộ cấp cơ sở (đơn vị: %)
Cơ cấu độ tuổi của đội ngũ CBCQ cấp xã (đơn
58
vị: %)
Cơ cấu giới tính của đội ngũ CBCQ cấp xã
58
(đơn vị: %)
Số liệu Khả năng hoạt động thực tiễn
60

iii


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Chính quyền cấp xã là chính quyền cấp thấp nhất, trong hệ thống 4 cấp
ở Việt Nam hiện nay. Nhưng nó lại có vai trò rất quan trọng, là nền tảng, là cơ
sở thực tiễn hình thành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của nhà nước; giữ vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức vận động nhân dân
đoàn kết, phát huy quyền làm chủ, huy động mọi nguồn lực để phát triển kinh
tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng tại địa phương. Chính quyền cơ sở

mạnh hay yếu đều ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống nhân dân, ảnh hưởng tới
lòng tin của nhân dân với Đảng và nhà nước.
Thực tế thời gian qua cho thấy, chính quyền cơ sở cùng với các tổ chức
đoàn thể trong hệ thống chính trị ở Việt Nam đã rất tích cực thực hiện nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ an ninh - quốc phòng tạo nên những thành
tựu có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Sự trong sạch, vững
mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả của chính quyền cơ sở đóng vai trò rất
quan trọng trong toàn bộ hoạt động quản lý và cung cấp dịch vụ công đáp ứng
được yêu cầu ngày càng cao của xã hội và nhân dân. Để đạt được điều đó thì
nhân tố quan trọng nhất chính là con người, là đội ngũ cán bộ, công chức thực
hành công vụ tại địa phương, đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ chốt.
Để làm tốt vai trò lãnh đạo, người cán bộ cần phải có nhiều phẩm chất
và yếu tố, trong đó năng lực là yêu cầu quan trọng và cần thiết nhất. Bên cạnh
năng lực chuyên môn, lập trường tư tưởng cách mạng kiên định, thì rất cần có
năng lực tổ chức thực tiễn, cán bộ mới có khả năng đưa đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước vào cuộc sống, mới biến tư
tưởng thành hành động, khơi dậy phong trào cách mạng của quần chúng nhân
dân. Vì vậy yêu cầu về năng lực luôn có ý nghĩa quan trọng đối với đội ngũ
cán bộ mà đặc biệt là cán bộ cấp cơ sở.
1


Trong suốt quá trình phát triển, Đảng và Nhà nước ta luôn chăm lo xây
dựng, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực cho đội ngũ cán bộ công
chức chính quyền cơ sở. Tuy nhiên đội ngũ cán bộ cấp cơ sở hiện nay vẫn còn
nhiều mặt yếu kém bất cập trong công tác lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực
hiện, trong lề lối tác phong, phương pháp làm việc và vận động quần chúng
nhân dân.
Huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội là huyện có diện tích rộng, dân số
đông, với hơn 300 nghìn người và 26 đơn vị hành chính cấp xã. Trong những

năm gần đây, chính quyền xã đã có nhiều bước đổi mới về tổ chức và hoạt
động, công tác cán bộ chính quyền cấp cơ sở được quan tâm, trình độ cán bộ
được nâng cao về nhiều mặt, tạo nên những bước đổi mới, phát triển về kinh
tế, văn hoá, xã hội, làm thay đổi rõ rệt bộ mặt nông thôn và thành thị. Tuy
nhiên, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vẫn còn ít nhiều tình trạng quan liêu,
mất đoàn kết nội bộ, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân....Nguyên nhân của
những hạn chế đó có nhiều, trong đó có sự yếu kém về năng lực, nhiều cán bộ
còn chưa được đào tạo cơ bản về quản lý hành chính, lý luận chính trị, trình
độ học vấn không đồng đều, ít chịu khó tự học....
Trước yêu cầu của quá trình Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước
và nhu cầu xây dựng huyện Sóc Sơn thành đô thị vệ tinh - Vùng phát triển của
Thủ đô Hà Nội, đòi hỏi đội ngũ cán bộ nói chung, đặc biệt là đội ngũ cán bộ
chủ chốt chính quyền cơ sở phải có đủ trình độ chuyên môn, trình độ lý luận,
kiến thức kỹ năng trong quản lý nhà nước và giải quyết được những vấn đề tại
cơ sở, đáp ứng nguyện vọng và quyền lợi hợp pháp của người dân.
Là một cán bộ đang công tác tại địa phương, với tâm huyết, mong
muốn tất cả đội ngũ cán bộ chủ chốt của chính quyền cấp xã ở huyện Sóc Sơn
nói riêng và cả nước nói chung đều trở thành cán bộ được đào tạo bài bản về
chuyên môn, nghiệp vụ, về lý luận, về kỹ năng lãnh đạo... để hoàn thành xuất
2


sắc nhiệm vụ được Đảng và nhân dân giao phó, tôi chọn đề tài: “Năng lực
lãnh đạo cho cán bộ chính quyền cấp xã, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội”
làm luận văn cao học.
2. Tổng quan nghiên cứu của đề tài
Vấn đề đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao năng lực lãnh đạo cho cán bộ
chủ chốt của chính quyền cấp xã đã có một số cơ quan, tác giả nghiên cứu và
tiếp cận. Liên quan đến đề tài này có một số công trình và bài viết sau:
- GS. Hồ Văn Thông (1991), “Tình hình các tổ chức chính trị ở nông

thôn nước ta” được in trong cuốn sách “Kinh tế xã hội nông thôn Việt Nam
ngày nay”, tập 2, NXB Tư tưởng văn hóa, Hà Nội.
- PGS.TS Bùi Tiến Quý (2000), “Một số vấn đề về tổ chức và hoạt
động của chính quyền địa phương trong giai đoạn hiện nay ở nước ta”, NXB
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- TS. Thang Văn Phúc và TS. Chu Văn Thành “Chính quyền cấp xã và
quản lý Nhà nước cấp xã”, Viện Khoa học Tổ chức Nhà nước, Ban Tổ chức
Cán bộ chính, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000;
- PGS Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (2001), Luận cứ khoa học
cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Lê Minh Thông (2002), “Quan điểm và giải pháp đổi mới tổ chức và
hoạt động của chính quyền xã ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, (số 3).
- TS Nguyễn Văn Sáu và GS Hồ Văn Thông chủ biên (2003), Thực
hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Thái Vĩnh Thắng (2003), “Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính
quyền cấp xã, phường”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (số 4).
- TS Nguyễn Minh Phương (2003), “Xây dựng đội ngũ CBCC cơ sở
đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới” Tạp chí Lý luận chính trị, (số 7).

3


- Nguyễn Hữu Đức (2003), “Từ đặc điểm, tính chất đội ngũ CBCC cơ sở
để xây dựng chế độ, chính sách phù hợp”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (số 8).
- Nguyễn Hữu Lộc (2003), “Tăng cường cán bộ cơ sở”, Tạp chí Tổ
chức nhà nước, (số 8).
- Hữu Phan (2003), “Xây dựng tiêu chuẩn cụ thể đối với các chức danh

CBCC cấp xã”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (số 10).
- Hiền Lương (2004), “Chính sách của Đảng và Chính phủ nhằm nâng
cao chất lượng cán bộ xã vùng cao”, Tạp chí Lý luận chính trị, (số 5).
- PGS, TS Đỗ Ngọc Ninh, Đinh Ngọc Giang (2005), “Đồng chí
Nguyễn Văn Linh với công tác xây dựng Đảng và công tác cán bộ trong thời
kỳ đổi mới”, Tạp chí Lý luận chính trị, (số 7).
- Nguyễn Ngọc Khanh, Nguyễn Văn Thắng (2006), “Công tác lãnh đạo
quản lý ở cơ sở xã, phường, thị trấn hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị, (số 9).
- Ths Nguyễn Thế Vịnh (2007), Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở theo
Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X), Hà Nội.
- TS Nguyễn Minh Sản (2009), Pháp luật về CBCC chính quyền cấp xã
ở Việt Nam hiện nay - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Sách chuyên khảo,
NXB Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
- PGS.TS Bùi Đức Kháng chủ nhiệm (2010), Đổi mới phương thức và
nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ - công chức nhà
nước đáp ứng yêu cầu hội nhập, Đề tài khoa học cấp bộ, TP Hồ Chí Minh.
- Châu Trung Nam (2009), Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
ở tỉnh Cà Mau hiện nay, Luận văn thạc sĩ, Học viện chính trị - Hành chính
Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Lê Thị Thanh Bình (2011), Giải pháp nâng cao năng lực đội ngũ cán
bộ công chức cấp xã trên địa bàn thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu, Luận văn thạc sĩ Quản trị kinh doanh, Trường Đại học Nông nghiệp.
- Hồ Đức Việt, Ủy viên Bộ chính trị, Bí thư Trưng ương Đảng, Trưởng
Ban Tổ chức Trung ương (2010), “Đổi mới công tác tổ chức, cán bộ đáp ứng
yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí Lý luận
chính trị, (số 2).
4


Các tác giả đều đã phân tích một cách hệ thống, hoàn chỉnh, hiệu quả

và tương đối toàn diện về vấn đề chất lượng CBCC cấp xã nói chung dưới góc
độ lý luận cũng như sự vận dụng lý luận đó vào việc nâng cao năng lực lãnh
đạo của CBCC cấp xã tại một số địa phương cụ thể - đó đều là những công
trình, sản phẩm trí tuệ có giá trị, ý nghĩa lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn, là
cơ sở để kế thừa cho việc nghiên cứu tiếp theo.
Các công trình trên đã đề cập nhiều đến việc xây dựng chính quyền cấp
xã và đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã. Tuy nhiên, chưa có công trình nào
nghiên cứu về nâng cao năng lực lãnh đạo cho đội ngũ cán bộ chủ chốt của
chính quyền cấp xã huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn: Nghiên cứu cơ sở lý luận, đánh giá
thực trạng về năng lực lãnh của cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã tại huyện
Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp cơ bản
nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo cho cán bộ chủ chốt chính quyền cấp xã tại
huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về năng lực lãnh đạo của cán bộ chính
quyền cấp xã.
- Đánh giá đúng thực trạng năng lực lãnh đạo của cán bộ chính quyền
cấp xã, trên địa bàn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo cho cán bộ
chủ chốt chính quyền cấp xã, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Năng lực lãnh đạo của cán bộ chủ chốt của chính
quyền cấp xã, huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
5


- Phạm vi nghiên cứu:

+ Nội dung: Chỉ nhiên cứu năng lực lãnh đạo của cán bộ chủ chốt chính
quyền cấp xã trên địa bàn huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội gồm: Chủ tịch, Phó
Chủ tịch HĐND; Chủ tịch, Phó Chủ tịch UBND xã.
+ Thời gian từ : 2010 đến năm 2014.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Góp phần làm rõ tầm quan trọng, những yêu cầu về trình độ, năng lực và
giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo cho đội ngũ cán bộ chủ chốt của chính
quyền cấp xã.
- Làm rõ thực trạng năng lực lãnh đạo của cán bộ chủ chốt chính quyền
cấp xã huyện Sóc Sơn, Hà Nội hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo cho
cán bộ chủ chốt của chính quyền cấp xã huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
- Luận văn có thể cung cấp thêm các luận cứ khoa học giúp các cấp lãnh
đạo của huyện Sóc Sơn trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt chính
quyền cấp xã.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu thành 4 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về năng lực lãnh đạo của cán bộ cấp xã.
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu.
Chương 3: Thực trạng về năng lực lãnh đạo của cán bộ chủ chốt chính
quyền cấp xã tại huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.
Chương 4: Phương hướng và giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo cho
cán bộ chủ chốt của chính quyền cấp xã huyện Sóc Sơn, Hà Nội.

6


7



Chương 1
CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO
CỦA CÁN BỘ CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ CÁN BỘ CHÍNH
QUYỀN CẤP XÃ
1.1.1. Chính quyền cấp xã
1.1.1.1. Khái niệm về cấp xã
Ở nước ta, trong từng giai đoạn lịch sử, các cấp hành chính cũng được
quy định khác nhau. Theo Hiến pháp năm 2013, nước ta có 4 cấp hành chính,
tương ứng với 4 cấp chính quyền đó là: Trung ương, tỉnh, huyện và xã. Trong
đó, cấp tỉnh có 2 loại hình đơn vị hành chính là: Tỉnh và thành phố trực thuộc
trung ương; cấp huyện có 4 loại hình đơn vị hành chính là: Huyện, thành phố
thuộc tỉnh, quận và thị xã; cấp xã có 3 loại hình đơn vị hành chính là: Xã,
phường, thị trấn. Tương ứng với 4 cấp chính quyền: Chính quyền Trung ương
(hay còn gọi là Chính phủ), chính quyền cấp tỉnh, chính quyền cấp huyện và
chính quyền cấp xã.
Cấp xã là cấp hành chính thấp nhất trong hệ thống tổ chức hành chính
của Nhà nước ta; Là cấp có đơn vị hành chính nhỏ nhất, song đây là đơn vị
hành chính cơ bản, là "tế bào" cấu thành nên đơn vị hành chính cấp huyện,
cấp tỉnh và cả quốc gia.
1.1.1.2. Chính quyền cấp xã
* Khái niệm về chính quyền cấp xã
Trong quá trình xây dựng, hoàn thiện bộ máy nhà nước, Đảng và Nhà
nước ta luôn dành sự quan tâm đối với chính quyền cấp xã. Cùng với việc
hoàn thiện thể chế, chính sách đãi ngộ và đầu tư cơ sở vật chất, Đảng và Nhà
nước luôn chăm lo xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất đạo
đức, trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã.
8



Chính quyền cấp xã là cấp chính quyền gần dân nhất, là cầu nối trực
tiếp giữa hệ thống chính quyền cấp trên với nhân dân, hàng ngày tiếp xúc,
nắm bắt và phản ánh tâm tư nguyện vọng của nhân dân. Cấp xã có vai trò rất
quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn
dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển
kinh tế- xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư.
Chính quyền được hiểu là bộ máy điều khiển, quản lý công việc của
nhà nước và hoạt động của nó mang tính chất quyền lực của Nhà nước, bằng
phương thức tác động của Nhà nước. Cấp xã là đơn vị cấp dưới cùng, vì thế
Chính quyền cấp xã chỉ bao gồm HĐND và UBND. Qua đó có thể hiểu, chính
quyền cấp xã là một cấp cuối cùng trong hệ thống chính quyền 4 cấp của Việt
Nam, là nơi trực tiếp thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước, các mục tiêu kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng ở cơ sở, thực
hiện việc quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn.
Từ những phân tích trên đây, có thể nêu khái quát khái niệm chính
quyền cấp xã như sau: Chính quyền cấp xã bao gồm HĐND và UBND là cấp
thấp nhất trong hệ thống chính quyền 4 cấp ở Việt Nam, thực hiện quyền lực
nhà nước ở địa phương, có chức năng thay mặt nhân dân địa phương, căn cứ
vào nguyện vọng của nhân dân địa phương, quyết định và tổ chức thực hiện
những vấn đề có liên quan đến phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh,
quốc phòng và đời sống của nhân dân địa phương, theo Hiến pháp, pháp luật
và các mệnh lệnh, quyết định của cấp trên.
* Vị trí, vai trò của chính quyền cấp xã
Trong hệ thống chính quyền của Nhà nước ta, chính quyền cấp xã là
cấp chính quyền thấp nhất, gần dân và trực tiếp với dân nhất. Chính quyền
cấp xã vừa là cấp trực tiếp truyền đạt, phổ biến và tổ chức triển khai thực hiện
9



các chủ trương, chính sách của Đảng và Pháp luật Nhà nước; vừa là cấp quản
lý trực tiếp mọi hoạt động của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội diễn
ra ở địa bàn cấp xã theo quy định của pháp luật.
Chính quyền cấp xã là nơi đầu tiên và trực tiếp nhận, giải quyết những
đề xuất, kiến nghị của các tầng lớp nhân dân với Đảng và Nhà nước; đồng
thời là đầu mối tổng hợp báo cáo lên cấp trên xem xét giải quyết những đề
xuất, kiến nghị của công dân vượt thẩm quyền. Có thể nói chính quyền cấp xã
như là "những chiếc cầu nối liền giữa các tầng lớp nhân dân với Đảng và Nhà
nước cấp trên".
Có thể nói chính quyền cấp xã có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ
thống chính quyền Nhà nước, sự ổn định và vững mạnh của chính quyền cấp
xã là nhân tố đặc biệt quan trọng góp phần tạo nên sự ổn định, phát triển của
từng xã, từng huyện, từng tỉnh và của các quốc gia.
* Đặc điểm của Chính quyền cấp xã:
Một là: Chính quyền cấp xã có HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở
địa phương và UBND do HĐND bầu ra là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ
quan hành chính nhà nước ở địa phương. Vì thế, chính quyền cấp xã là cấp
trực tiếp thực hiện nhiệm vụ cụ thể về quản lý hành chính nhà nước trên các
lĩnh vực chính trị, kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng ở cơ sở, là cầu nối trực
tiếp giữa nhà nước và nhân dân, xử lý trực tiếp, kịp thời những yêu cầu hàng
ngày của nhân dân.
Hai là: Chính quyền cấp xã khác với chính quyền cấp tỉnh, cấp huyện:
Tổ chức bộ máy chính quyền cấp xã chỉ bao gồm cơ quan quyền lực nhà nước
là HĐND là cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân ở địa
phương và UBND là cơ quan chấp hành của HĐND và là cơ quan hành chính
nhà nước ở địa phương, không có các cơ quan tư pháp: Viện kiểm sát nhân
dân và Tòa án nhân dân.
10



Ba là: Chính quyền cấp xã là nơi trực tiếp tiếp xúc với nhân dân; cán
bộ chính quyền cấp xã là người hàng ngày trực tiếp giải quyết những vấn đề
liên quan đến mọi quyền lợi và nghĩa vụ của nhân dân đảm bảo theo đúng
đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, các văn bản pháp
luật của cấp trên. UBND còn có trách nhiệm rất nặng nề phải quản lý mọi mặt
đời sống của nhân dân địa phương cho nên trong hoạt động mang nhiều tính
chất hành chính địa phương.
Bốn là: Trong hoạt động của chính quyền cấp xã, giữa HĐND và
UBND khó tách biệt nhau về các lĩnh vực thẩm quyền và UBND có ưu thế
vượt trội: Chính quyền cấp xã được coi là một cấp chính quyền hoàn chỉnh,
bao quát toàn diện đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng ở
địa bàn cơ sở. Nội dung các nghị quyết của HĐND và quyết định của UBND
nhìn chung là giống nhau, chỉ khác ở chỗ: HĐND quyết định biện pháp, còn
UBND tổ chức thực hiện. Trong khi đó, tổ chức bộ máy của HĐND không đủ
sức hoạt động độc lập mà chủ yếu dựa vào bộ máy của UBND để soạn thảo
các nghị quyết. Theo Điều 5, Luật tổ chức HĐND và UBND (sửa đổi): "Hội
đồng nhân dân cấp xã có Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân" [23, tr. 7].
Đối với cấp tỉnh và cấp huyện: "Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện có
Thường trực Hội đồng nhân dân và các ban của Hội đồng nhân dân" [23, tr. 7].
Với cơ cấu tổ chức như trên, các ban của HĐND cấp tỉnh và cấp huyện có khả
năng soạn thảo các nghị quyết, thực hiện chức năng quyết định các biện pháp,
chủ trương về các vấn đề thuộc thẩm quyền của HĐND cấp tỉnh, cấp huyện.
Trong khi đó, ở cấp xã, do không có bộ máy giúp việc, đại biểu HĐND lại
kiêm nhiệm, việc chuẩn bị các kỳ họp hoàn toàn dựa vào bộ máy của UBND
và mỗi năm chỉ họp từ 2 - 4 lần. Trong điều kiện đó, hoạt động của UBND sẽ
có ưu thế vượt trội hơn, dễ lấn át HĐND, dễ lâm vào tình trạng “vừa đá bóng,
vừa thổi còi”.
11



Năm là: Các đơn vị hành chính cấp xã, được hình thành trên nền tảng
những địa điểm quần cư, nó liên kết dân cư trong một khối liên hoàn thống
nhất. Mọi vấn đề của địa phương đều liên quan chặt chẽ với nhau và cần phải
được giải quyết trên cơ sở kết hợp hài hòa các lợi ích: Nhà nước, dân cư và
giữa dân cư với nhau. Chính quyền ở đây không chỉ là cơ quan cai trị- quản lý
mà còn là cơ quan thể hiện lợi ích chung của dân cư.
Trong khi tổ chức quyền lực nhà nước ở cấp trung ương có việc phân
chia, hoặc phân công phân nhiệm một cách rạch ròi giữa lập pháp, hành pháp
và tư pháp. Cấp tỉnh, cấp huyện cũng có cơ quan tư pháp - Viện kiểm sát nhân
dân và Tòa án nhân dân. Riêng cấp xã, trong cơ cấu tổ chức bộ máy chính
quyền chỉ có HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương và UBND
là cơ quan chấp hành của HĐND và là cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương, thậm chí UBND cấp xã, phường, thị trấn trong nhiều trường hợp còn
phải kiêm nhiệm luôn cả chức năng tư pháp.
* Chức năng, nhiệm vụ của chính quyền cấp xã
Theo quy định hiện hành, chính quyền cấp xã có chức năng, nhiệm vụ
quản lý mọi hoạt động chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh ở địa
bàn cấp xã; đảm bảo cho Hiến pháp, Pháp luật, các quyết định của chính
quyền cấp trên được tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh ở địa phương; đảm
bảo và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động; đảm bảo quyền
lợi của công dân, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, đồng
thời động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước.
1.1.2. Cán bộ chính quyền cấp xã
1.1.2.1. Khái niệm cán bộ chính quyền cấp xã
Theo quy định tại Điều 3, Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009
của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán
bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị
trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
12



Cán bộ cấp xã có các chức vụ sau đây [7, tr. 2]:
- Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy;
- Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân;
- Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân;
- Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
- Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
- Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;
- Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị
trấn có hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân
Việt Nam);
- Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam.
Từ quy định trên, có thể quan niệm rằng, cán bộ cấp xã là những cán
bộ đứng đầu, cán bộ lãnh đạo của tổ chức Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ
quốc và Đoàn thể chính trị - xã hội của hệ thống chính trị cấp xã.
Từ quan niệm về cán bộ cấp xã như trên và quan niệm về chính quyền
cấp xã bao gồm HĐND và UBND xã, chúng ta có thể đưa ra quan niệm và
cán bộ chính quyền cấp xã như sau: Cán bộ Chính quyền cấp xã là những cán
bộ chủ chốt của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp xã, gồm: Chủ tịch,
phó chủ tịch Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp xã.
1.1.2.2. Đặc điểm của cán bộ chính quyền cấp xã
Cán bộ chính quyền cấp xã hầu hết là dân bản địa, cư trú, sinh sống tại
địa phương. Phần lớn họ đều có mối quan hệ dòng tộc và gắn bó mật thiết với
cộng đồng dân cư trên nhiều mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa, tình cảm…
Trong đời sống hàng ngày, quan hệ họ hàng, làng bản có khi con sâu nặng
hơn quan hệ đồng chí, đồng nghiệp. Trong bản thân con người mỗi cán bộ
chính quyền cấp xã các yếu tố: người dân, người cùng họ cùng làng, người
đại diện cộng đồng và người đại diện nhà nước vừa thống nhất vừa mâu
13



thuẫn, xung đột nhau chi phối các hoạt động của họ, nhất là trong việc giải
quyết những vấn đề có liên quan đến mối quan hệ giữa các lợi ích cá nhân cộng đồng - nhà nước.
Cán bộ chính quyền cấp xã là người trực tiếp, gần nhân dân và sát với
nhân dân nhất. Họ vừa là người tổ chức chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của nhà nước trong các cộng đồng dân cư; nhưng đồng thời họ cũng
là người chịu sự giám sát trực tiếp của nhân dân.
1.1.2.3. Vai trò của cán bộ chính quyền cấp xã
Trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ chiến lược xây dựng nhà nước pháp
quyền, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra những yêu cầu quan trọng về xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới và cải cách đồng bộ tổ chức bộ máy
nhà nước trên cả ba mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp. Với chức năng,
nhiệm vụ của mình, đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã đã không chỉ góp
phần vào việc thực hiện các nhiệm vụ hành pháp mà còn phục vụ cho việc
thực hiện chức năng lập pháp và tư pháp. Vai trò của đội ngũ cán bộ chính
quyền cấp xã được thể hiện qua những nội dung sau:
Tham gia vào quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp
ứng với yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền.
Xây dựng nhà nước pháp quyền, quản lý nhà nước, đòi hỏi trước hết phải
có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh với vai trò tối thượng của các đạo luật.
Với nhiệm vụ cùng Uỷ ban nhân dân cùng cấp quản lý công tác xây dựng văn
bản quy phạm pháp luật, đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã góp phần vào
việc bảo đảm sự thống nhất, tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản trong hệ
thống pháp luật thông qua các hoạt động sau:
- Thẩm định, cho ý kiến đối với các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật
của Uỷ ban nhân dân và Hội đồng nhân dân trong các lĩnh vực;
14



- Chủ trì hoặc tham gia soạn thảo các dự thảo văn bản quy phạm pháp
luật trong các lĩnh vực công tác được phân công quản lý hoặc các lĩnh vực
khác;
- Thực hiện nhiệm vụ kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm
quyền theo quy định của pháp luật
Nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật qua công tác thực hiện pháp luật,
phổ biến, giáo dục pháp luật.
Việc thực thi pháp luật phụ thuộc rất nhiều vào ý thức, thói quen chấp
hành pháp luật của công dân, mà trước hết là cán bộ, công chức. Pháp luật
được ban hành ra là để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo hướng phục vụ
quyền và lợi ích hợp pháp của toàn thể nhân dân lao động, một công cụ hữu
hiệu để nhà nước quản lý xã hội và là công cụ để công dân bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình, của Nhà nước và các chủ thể khác trong xã hội.
Mục đích của pháp luật được thực hiện thông qua hành vi xử sự cụ thể của
mỗi cá nhân. Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trong đó có cán bộ chính
quyền cấp xã sẽ tham gia vào quá trình trợ giúp pháp luật thông qua các cơ
quan trợ giúp pháp lý của Nhà nước; quản lý và đề xuất chính sách bảo đảm
cho sự phát triển của các tổ chức tư vấn pháp luật và luật sư. Nhiệm vụ này
góp phần vào việc bảo đảm sự bình đẳng của người dân trong việc tiếp cận
với pháp luật.
Tham gia tích cực vào quá trình quản lý Nhà nước bằng pháp luật của
chính quyền địa phương.
Vai trò của cán bộ chính quyền cấp xã được thể hiện bằng việc đưa ra các
quyết sách phù hợp trong các lĩnh vực; thực hiện nhiệm vụ quản lý đối với
dân cư trên địa bàn; là thành viên của các hội đồng tư vấn, hội đồng phối hợp
công tác của địa phương.Với các nhiệm vụ cụ thể của mình về quản lý trên
địa bàn, đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã đang tham gia tích cực vào quá
trình quản lý nhà nước bằng pháp luật của chính quyền địa phương, đáp ứng
15



với yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đổi mới tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước.
1.1.2.4. Nhiệm vụ và quyền hạn của cán bộ chính quyền cấp xã
Cán bộ chính quyền cấp xã gồm có: Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó
Chủ tịch Hội đồng nhân dân; Chủ tịch Ủy ban Nhân dân và Phó Chủ tịch Ủy
ban Nhân dân cấp xã.
* Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND cấp xã là cán bộ chuyên trách của HĐND
xã, phường, thị trấn, chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của HĐND cấp xã, bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội, an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn xã, phường, thị trấn.
Nhiệm vụ của Chủ tịch HĐND là chủ trì trong việc tham gia xây dựng nghị
quyết của HĐND. Giám sát, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của
HĐND. Tổ chức kiểm tra việc giải quyết các kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của nhân
dân. Chủ trì và phối hợp với UBND trong việc quyết định đưa ra bãi nhiệm đại biểu
HĐND theo đề nghị của UBMTTQ Việt Nam cùng cấp.
Nhiệm vụ của Phó Chủ tịch HĐND là căn cứ vào nhiệm vụ của Chủ tịch
HĐND, Phó Chủ tịch HĐND tổ chức thực hiện các nhiệm vụ do Chủ tịch HĐND
phân công cụ thể.
Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp xã tạo thành Thường
trực Hội đồng nhân dân cấp xã. Theo quy định tại Điều 53 Luật Tổ chức Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003, Thường trực Hội đồng nhân
dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây [23, tr. 12]:
- Triệu tập và chủ tọa các kỳ họp của Hội đồng nhân dân; phối hợp với
Uỷ ban nhân dân trong việc chuẩn bị kỳ họp của Hội đồng nhân dân;
- Đôn đốc, kiểm tra Uỷ ban nhân dân cùng cấp và các cơ quan nhà
nước khác ở địa phương thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân;
- Giám sát việc thi hành pháp luật tại địa phương;


16


- Giữ mối liên hệ với đại biểu Hội đồng nhân dân; tổng hợp chất vấn
của đại biểu Hội đồng nhân dân để báo cáo Hội đồng nhân dân;
- Tiếp dân, đôn đốc, kiểm tra và xem xét tình hình giải quyết kiến nghị,
khiếu nại, tố cáo của công dân; tổng hợp ý kiến, nguyện vọng của nhân dân để
báo cáo tại kỳ họp của Hội đồng nhân dân;
- Trình Hội đồng nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ
do Hội đồng nhân dân bầu theo đề nghị của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
cùng cấp hoặc của ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân;
- Phối hợp với Uỷ ban nhân dân quyết định việc đưa ra Hội đồng nhân
dân hoặc đưa ra cử tri bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân theo đề nghị của
Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp;
- Báo cáo về hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã lên Hội đồng
nhân dân và Uỷ ban nhân dân cấp huyện;
- Giữ mối liên hệ và phối hợp công tác với Ban thường trực Uỷ ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã; mỗi năm hai lần thông báo cho Uỷ ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã về hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã.
* Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã là người lãnh đạo và điều hành
công việc của Uỷ ban nhân dân, chịu trách nhiệm cá nhân về việc thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn của mình và cùng với tập thể Uỷ ban nhân dân chịu
trách nhiệm về hoạt động của Uỷ ban nhân dân trước Hội đồng nhân dân cấp
xã và trước cơ quan nhà nước cấp trên.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
- Lãnh đạo công tác của Uỷ ban nhân dân, các thành viên của Uỷ ban
nhân dân và các công chức:
+ Áp dụng các biện pháp nhằm cải tiến lề lối làm việc; quản lý và điều
hành bộ máy hành chính hoạt động có hiệu quả; ngăn ngừa và đấu tranh
chống các biểu hiện quan liêu, vô trách nhiệm, hách dịch, cửa quyền, tham

17


×