Tải bản đầy đủ (.doc) (79 trang)

QUẢN LÝ RỦI RO TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN MB (MBS)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 79 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thị trường chứng khoán Việt Nam (TTCKVN) ra đời chậm hơn so với các
nước phát triển khi ngày 20/7/2000 mới chính thức khai trương Trung tâm giao dịch
chứng khoán TP. HCM và đến ngày 27/7/2000 mới có phiên giao dịch đầu tiên. Và
Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội thậm chí còn hoạt động chậm hơn nữa khi
mãi tới ngày 14/7/2008 mới có phiên giao dịch thứ cấp đầu tiên.
Mặc dù ra đời sau nhưng kể từ đó đến nay, TTCKVN luôn thể hiện vai trò là
một kênh dẫn và huy động vốn rất tốt cho nên kinh tế nói chung và các doanh
nghiệp cổ phần hóa nói riêng. Tuy nhiên, cũng chính vì sự non trẻ cho nên các thành
viên tham gia trên thị trường (chính là các CTCK) cũng như các công ty niêm yết
và cả các nhà đầu tư đã rất nhiều lần phải đối mặt với những rủi ro lớn.
Công ty CP Chứng khoán MB (MBS) được thành lập từ tháng 5 năm 2000 bởi
Ngân hàng TMCP Quân đội (MB) là một trong 5 công ty chứng khoán đầu tiên tại
Việt Nam. Sau 14 năm không ngừng phát triển, MBS đã trở thành một trong những
công ty chứng khoán hàng đầu Việt Nam. Trong hai năm liên tiếp 2009 và 2010,
MBS đã vươn lên dẫn đầu thị phần môi giới tại cả hai sở giao dịch: Sở GDCK Hà
Nội (HNX) và Sở GDCK TP. HCM (HOSE) và liên tục đứng trong Top 10 thị phần
tại cả hai sở.
Trong bối cảnh hội nhập của nền kinh tế hiện nay, nền kinh tế Việt nam nói
chung và môi trường đầu tư nói riêng đang có rất nhiều cơ hội và thách thức. Đặc
biệt, đối với thị trường chứng khoán còn non trẻ của Việt nam, hoạt động đầu tư
chứng khoán đang gặp phải nhiều thách thức to lớn hơn. Do đó, để cung cấp các
dịch vụ tài chính đa dạng, linh hoạt và an toàn, tiện lợi nhưng phải đạt được các
mục tiêu chiến lược là bảo tồn và phát triển nguồn vốn, nâng cao vị thế của Công ty
CP Chứng khoán MB (MBS) trong lĩnh vực đầu tư tài chính thì vai trò của hoạt
động quản lý rủi ro là vô cùng quan trọng nếu không muốn nói là một nhiệm vụ
“sống còn” quyết định sự tồn tại và phát triển của Công ty.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
1



-

Mục tiêu: Đề xuất các giải pháp tăng cường quản lý rủi ro tại công ty CP
chứng khoán MBS.

-

Nhiệm vụ:
 Nghiên cứu những vấn đề lý luận về quản lý rủi ro trong hoạt động môi giới tại

các công ty chứng khoán, lấy điển hình nghiên cứu là Công ty Chứng khoán MB.
 Phân tích thực trạng quản lý rủi ro trong hoạt động môi giới tại công ty CP
Chứng khoán MB (MBS), các biện pháp quản lý rủi ro tại công ty CP Chứng
khoán MB, từ đó nêu lên những kết quả đạt được và những mặt còn hạn chế.
 Đề xuất giải pháp nâng cao công tác quản lý rủi ro trong hoạt động môi giới
tại công ty CP Chứng khoán MB.
3. Câu hỏi nghiên cứu
Thực tế trên đã đặt ra một câu hỏi, đó là “Cần có biện pháp quản lý rủi ro đối
với Công ty cổ phần chứng khoán MB (MBS) như thế nào?”. Đây chính là nhiệm
vụ đặt ra đối với Công ty MBS nhưng cũng là vấn đề đặt ra trong quản lý hoạt động
kinh doanh của Công ty. Do vậy để trả lời câu hỏi này cũng là những nhiệm vụ đặt
ra của toàn bộ luận văn, từ nghiên cứu về lý luận có những giải pháp và biện pháp
nào? Thực trang quản lý tại Công ty, giải pháp có phù hợp với điều kiện của Công
ty hay không để làm nâng cao vị thế và khả năng cạnh tranh của Công ty.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu: Quản lý rủi ro trong hoạt động môi giới tại Công
ty cổ phần chứng khoán MB.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
 Phạm vi không gian: Đề tài tập trung vào phân tích về việc quản lý rủi ro

trong hoạt động môi giới của MBS. Bởi vì thực tế đã cho thấy, môi giới chứng
khoán là một hoạt động cơ bản nhưng đặc biệt quan trọng của các Công ty Chứng
khoán. Kể từ khi TTCK được “khai sinh” cho đến nay, phần lớn các CTCK đều
đăng ký nghiệp vụ này đồng thời cũng xác lập được thương hiệu, vị thế của mình
trên thị trường thông qua kết quả của hoạt động môi giới chứng khoán.
 Phạm vi thời gian: Đề tài lựa chọn khoảng thời gian nghiên cứu là trong
giai đoạn từ năm 2010 đến 2013. Các số liệu sử dụng trong luận văn sẽ được lấy từ
các báo cáo tổng kết của các năm từ 2010 – 2013.
2


5. Cấu trúc luận văn
Nội dung luận văn được chia làm 4 chương, cụ thể :
Chương 1 : Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận về MGCK và
QLRR trong hoạt động môi giới tại các CTCK
Chương 2 : Phương pháp nghiên cứu
Chương 3 : Thực trạng quản lý rủi ro tại Công ty CP Chứng khoán MB
Chương 4 : Giải pháp tăng cường quản lý rủi ro trong hoạt động môi giới
tại CTCP Chứng khoán MB
Kết luận.

3


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN
VỀ MGCK VÀ QLRR TRONG HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI TẠI
CÁC CTCK
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Quản trị rủi ro trong doanh nghiệp là một trong những nội dung nghiên cứu đã

được thực hiện ở trên thế giới và là vấn đề nghiên cứu và áp dụng trong các doanh
nghiệp ở Việt Nam. Những kết quả nghiên cứu cho thấy trong quản trị rủi ro của
doanh nghiệp thì quản trị rủi ro tài chính là một trong những nội dung nghiên cứu
được quan tâm nhiều. Như chúng ta biết khái niệm quản lý rủi ro doanh nghiệp
(Risk Management - ERM) chính thức xuất hiện vào đầu những năm 1950 trên thế
giới. Đến năm 1963, nghiên cứu của Robert Mehr và Bob Hedges đã tạo ra một thay
đổi lớn trong lĩnh vực nghiên cứu về ERM bằng việc tổng kết các quan niệm trước
đây về QLRR đồng thời đưa ra một định nghĩa mới về vấn đề này. Theo Robert và
Bob, ERM là một quy trình xem xét đánh giá toàn diện các hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp để nhận biết những nguy cơ tiềm ẩn có thể tác động xấu đến các
mặt hoạt động của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó sẽ đưa ra các giải pháp ứng phó,
phòng ngừa phù hợp tương ứng với từng nguy cơ.
Kleffner và các cộng sự (2003) đã nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu
quả ERM tại Canada cho thấy quản trị doanh nghiệp đóng vai trò thiết yếu. Sự ủng
hộ của các nhà quản lý cấp cao tác động trực tiếp đến việc thực hiện ERM trong
doanh nghiệp. Do vậy, ERM thường có mối tương quan dương với những doanh
nghiệp thực hiện quản trị doanh nghiệp (corporate governance) và ngược lại. Trên
cơ sở đó, nghiên cứu của Beasley chứng minh những doanh nghiệp quản trị tốt
thường có giá trị gia tăng theo mức độ thực hiện ERM .
Các nghiên cứu về lĩnh vực quản lý rủi ro đã được áp dụng tại các Ngân hàng
như nghiên cứu “Quản trị công ty và quản lý rủi ro hoạt động tại các ngân hàng
thương mại Việt Nam” của TS Phạm Tiến Thành và ThS Dương Thanh Hà của ngân
hàng Vietinbank đã khái quát lại những nguyên tắc cơ bản về quản trị công ty tại
4


NHTM, đi sâu hơn về quản trị rủi ro hoạt động và một số nét thực trạng tại các
NHTM VN, trên cơ sở đó đề cập các khuyến nghị cần thực hiện để tăng cường hiệu
quả quản trị công ty và quản trị rủi ro hoạt động tại các NHTM VN.
Tác giả Nguyễn Anh Dũng (2012) với luận văn thạc sỹ về nghiên cứu quản trị

rủi ro tín dụng tại chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Bình Định (Đại học Đà
Nẵng) đã làm rõ một số vấn đề cơ bản lý luận trong rủi ro tín dụng của NHTM và
đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quả trị rủi ro tín dụng cho NHTM;
Bài báo “Rủi ro trên thị trường chứng khoán Việt Nam: Góc nhìn từ phía nhà
đầu tư cá nhân” của tác giả Trịnh Thị Phan Lan (Kinh tế và Kinh doanh 28, 2012,
trang 209-215) đã xem xét một số rủi ro mà nhà đầu tư cá nhân thường gặp phải
trên thị trường chứng khoán Việt Nam, bao gồm hai nhóm rủi ro điển hình là rủi ro
từ thị trường và rủi ro từ phía bản thân nhà đầu tư. Bài viết cũng đưa ra một vài
khuyến nghị cho nhà đầu tư như đa dạng hóa danh mục cổ phiếu, thu thập thông tin
đầy đủ trước khi đầu tư, trau dồi khả năng phân tích và ra quyết định..., đồng thời
dự báo về những rủi ro có thể xảy ra trong thời gian tới trên thị trường chứng khoán
Việt Nam.
Về lĩnh vực quản trị rủi ro cho Công ty chứng khoán đã được quan tâm và Ủy
ban chứng khoán nhà nước đã có văn bản hướng dẫn và quan tâm đến nội dung này
như bài viết của Vụ quản lý kinh doanh – UBCKNN đã đưa ra Quy chế hướng dẫn
thiết lập hệ thống và thực hiện QTRR – hoàn thiện 4 lớp bảo vệ cho hoạt động kinh
doanh của CTCK được trình bày trong Diễn đàn chứng khoán.
Tác giả Lê Công Điền trong luận văn thạc sỹ kinh tế năm 2010 với đề tài
“Quản lý rủi ro tại các Công ty cổ phần chứng khoán ở Việt Nam – Thực trạng
và giải pháp hoàn thiện”, đã đánh giá thực trạng quản lý rủi ro của các công ty
chứng khoán trên cơ sở trình bày quy trình từng nghiệp vụ như môi giới, tự
doanh, bảo lãnh phát hành, kế toán tài chính, qua đó đề cập các rủi ro phát sinh
của từng nghiệp vụ này. Trên cơ sở đó, nêu các biện pháp kiểm soát rủi ro mà các
CTCK hiện nay đang áp dụng làm nền tảng đề ra các giải pháp hoàn hiện quản lý
rủi ro tại CTCK.

5


Bài báo của PGS.TS Lê Hoàng Nga mang tên “Nhận diện rủi ro và triển khai

quản trị rủi ro tại các công ty chứng khoán” trên Tạp chí Chứng khoán số 174,
tháng 4/2013, đã đưa ra một số nhận diện rủi ro hoạt động và triển khai Quản trị rủi
ro tại CTCK, trong đó đã phân tích những lý luận cơ bản về rủi ro hoạt động của
CTCK, từ đó đưa ra quy trình quản lý rủi ro. Song những phân tích trên chưa đi vào
thực tiễn và mới chỉ mang tính sơ lược. Một số bài viết khác về quản lý rủi ro của
CTCK tập trung vào việc giới thiệu, hướng dẫn quy trình quản lý rủi ro và một số
biện pháp để việc triển khai được thực hiện hiệu quả
Tác giả Trần Thị Xuân Anh (2014) đã nghiên cứu luận án “Tăng cường quản
lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các Công ty cổ phần chứng khoán ở Việt
Nam” – Học viện ngân hàng. Kết quả nghiên cứu tập trung vào đánh giá mức độ
thực hiện quản lý rủi ro của các Công ty chứng khoán ở Việt Nam để từ đó đề xuất
các giải pháp nhằm tăng cường quản lý rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các
CTCK, từ đó giúp công ty gia tăng giá trị, vị trí trên thị trường.
Như vậy, các bài nghiên cứu về QLRR tại các công ty chứng khoán ở Việt
Nam mới chỉ dừng lại ở việc phân tích, xác định rủi ro riêng lẻ trong hoạt động của
CTCK. Chưa có nghiên cứu nào đi sâu phân tích một cách hệ thống các rủi ro của
hoạt động môi giới chứng khoán, những rủi ro và quản trị rủi ro trong môi giới
chứng khoán. Với bản chất của quản lý rủi ro là xác định và cảnh báo sớm các loại
rủi ro có thể xảy ra từ đó đưa ra các biện pháp phòng hộ và xử lý kịp thời. Để làm
được điều này cần đánh giá đúng thực trạng thực hiện công tác quản lý rủi ro trong
môi giới của các CTCK. Từ nghiên cứu quy trình quản lý, xây dựng hệ thống cảnh
báo sớm, hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ. Nghiên cứu nhân tố nào ảnh hưởng để
từ đó có những biện pháp đề xuất cho phù hợp…
Trong điều kiện như trên, đề tài “Quản lý rủi ro tại Công ty Cổ phần chứng
khoán MB (MBS)” được cho là một thử thách đối với tác giả. Tuy nhiên, do bản
thân đã và đang hoạt động trong lĩnh vực Môi giới chứng khoán cho nên tác giả rất
muốn đi sâu vào nghiên cứu vấn đề này nhằm tăng cường hiểu biết cá nhân đồng
thời mong muốn sẽ đóng góp cho các CTCK có thêm một góc nhìn về quản lý rủi ro

6



trong các hoạt động của mình từ đó từ đó hạn chế hoặc làm giảm thiểu tác động của
các rủi ro đó cho Công ty nói riêng và thị trường chứng khoán nói chung.
1.2. Lý luận chung về môi giới chứng khoán (MGCK)
1.2.1. Khái niệm
Sự ra đời của thị trường chứng khoán (TTCK) là sự phát triển bậc cao của nền
kinh tế thị trường. Trên TTCK, người ta mua bán, trao đổi với nhau một loại hàng
hóa đặc biệt đó là chứng khoán – tài sản tài chính. Tài sản tài chính là công cụ giúp
cho những người cần vốn có thể huy động vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh
của mình. Loại tài sản này không thể đánh giá về chất lượng bằng việc cân, đo,
đong, đếm,… mà để nhận định nó, những người tham gia trên thị trường phải có
khả năng phân tích, nhận định tình hình và đưa ra những xu hướng về hàng hóa đó.
Cùng với sự phát triển không ngừng của thị trường chứng khoán, các loại tài
sản tài chính ngày càng phong phú và đa dạng. Nhu cầu mua bán các loại tài sản
này ngày càng cao. Tuy nhiên, việc lựa chọn loại chứng khoán, thời điểm mua bán,
cách thức mua bán là việc không đơn giản đòi hỏi các nhà đầu tư phải bỏ thời gian,
công sức và phải được trang bị đầy đủ kiến thức cũng như kinh nghiệm thị trường
để có thể tìm được đối tác hiệu quả và ra quyết định đúng đắn. Không phải nhà đầu
tư nào khi tham gia thị trường chứng khoán cũng có thể có được những yếu tố trên.
Vì thế mà hoạt động môi giới của các công ty chứng khoán ra đời nhằm đáp ứng
nhu cầu của các nhà đầu tư trên thị trường.
Như vậy, “Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian, trong đó công ty
chứng khoán tiến hành giao dịch chứng khoán nhân danh mình đại diện cho khách
hàng” (Bạch Đức Hiển, 2008, trang 29). Và nhờ việc này, công ty chứng khoán sẽ
thu được phí môi giới (hoa hồng). Phí môi giới thường được tính bằng tỷ lệ phần
trăm của tổng giá trị giao dịch.
Nghề môi giới chứng khoán là công việc chuyên môn của các cá nhân và tổ
chức theo sự phân công lao động xã hội đó là làm trung gian kết nối nhu cầu của
bên mua và bên bán chứng khoán. Hoạt động môi giới cũng coi như là sản phẩm

của thị trường tài chính bậc cao vì về bản chất sản phẩm tài chính là những sản

7


phẩm mà người mua không thể trực tiếp thẩm định giá trị của nó bằng giác quan
của mình giống như những loại hàng hóa thông thường khác. Thị trường tài chính
phát triển là môi trường thúc đẩy nghề môi giới phát triển, hỗ trợ người môi giới
thực hiện tốt chức năng cung cấp dịch vụ và sản phẩm tài chính. Ngược lại, sự
hình thành và phát triển của nghề môi giới chứng khoán sẽ tác động tích cực đến
sự phát triển và hoàn thiện thị trường chứng khoán nói riêng và thị trường tài
chính nói chung.
1.2.2. Chức năng của hoạt động MGCK
Nhìn chung, MGCK có hai chức năng chính sau đây:
Thứ nhất, chức năng cung cấp thông tin và tư vấn cho khách hàng
Hàng ngày, nhân viên môi giới tiếp cận với nhiều nguồn thông tin, tìm kiếm
các tin tức tài chính được cập nhật liên tục về lãi suất, thông tin kinh tế và thông tin
thị trường. Chính nhờ thông tin thu thập được, người môi giới xử lý thông tin để có
đủ kiến thức trở thành nhà tư vấn tài chính riêng cho khách hàng.
Khi nắm giữ một lượng chứng khoán nhất định, mỗi khi giá cổ phiếu biến
động nhà đầu tư lại phải đối mặt với ba sự lựa chọn:
• Một là, bán chứng khoán đi để thu một khoản lời hay chấm dứt tình trạng lỗ.
• Hai là, tiếp tục nắm giữ chứng khoán đó với hi vọng chứng khoán đó sẽ lên giá.
• Ba là, mua thêm chứng khoán đó để tăng thêm lượng chứng khoán nắm giữ.
Chính lúc này, với kiến thức và kinh nghiệm của mình, người môi giới sẽ tư
vấn cho nhà đầu tư.
Mặc dù MGCK và tư vấn đầu tư là hai nghiệp vụ riêng biệt song hoạt động
MGCK nếu hiểu theo nghĩa rộng thì có hàm lượng tư vấn đầu tư khá cao. Nhà đầu
tư mong chờ người môi giới giúp họ ra các quyết định như: cho biết thời điểm nên
mua, thời điểm nên bán và cung cấp những thông tin mới nhất đang diễn ra trên thị

trường. Người môi giới phải quyết định đưa ra những khuyến nghị phù hợp nhất đối
với từng khách hàng.
Thứ hai, chức năng cung cấp các sản phẩm dịch vụ tài chính, giúp khách
hàng thực hiện giao dịch theo yêu cầu và vì lợi ích của khách hàng

8


Người môi giới nhận đơn đặt hàng của khách hàng và thực hiện giao dịch cho
họ. Đây là cả một quá trình hướng dẫn khách hàng mở tài khoản tại công ty, tiến
hành giao dịch, xác nhận giao dịch, thanh toán và chuyển kết quả giao dịch cho
khách hàng.
Sau khi thực hiện giao dịch, người môi giới phải thực hiện công việc hậu mãi:
tiếp tục chăm sóc tài khoản của khách hàng, tiếp tục đưa ra những khuyến cáo và
cung cấp thông tin, theo dõi để nắm bắt những thay đổi trong cuộc sống, trong công
việc của khách hàng dẫn đến những thay đổi về tài chính cũng như mức chấp nhận
rủi ro của họ để đề xuất những giải pháp hay chiến lược mới thích hợp.
Tùy trình độ và xu hướng phát triển của thị trường, các chức năng này được
triển khai trên nhiều cấp độ. Trên thị trường chứng khoán mới được hình thành dưới
dạng sơ khai, hàng hóa đơn giản, số lượng nhà đầu tư không nhiều và hàng hóa
cũng rất hạn chế, chức năng tư vấn cho khách hàng của môi giới chứng khoán
dường như trở nên không cần thiết. Tuy nhiên, trên thị trường này do mặt bằng dân
trí thấp nên hoạt động tiếp thị, tư vấn đầu tư, giới thiệu sản phẩm trên diện rộng lại
rất cần thiết. Ở những thị trường phát triển hơn, để thỏa mãn và đáp ứng được
những yêu cầu đa dạng của các nhà đầu tư, các CTCK cũng được chuyên môn hóa
theo các loại hình công ty cung cấp “đủ dịch vụ”, từ việc cung cấp thông tin, tư vấn,
lập kế hoạch tài chính, cho đến thực hiện giao dịch, cung cấp dịch vụ hậu mãi,…
hoặc công ty “giảm giá” chỉ chuyên về việc thực hiện giao dịch theo lệnh của khách
hàng với mức hoa hồng phí thấp.
1.2.3. Vai trò của hoạt động MGCK

Vai trò của hoạt động MGCK được thể hiện trên các khía cạnh chính sau:
 Vai trò trung gian – kênh huy động vốn hiệu quả cho nhà đầu tư và phát
triển nền kinh tế.
Sự phát triển của nền kinh tế luôn gắn kết chặt chẽ với sự vận động, chu
chuyển các luồng vốn. Hiệu quả của sự vận động này có tác động quan trọng đến
chất lượng và phát triển của nền kinh tế.
Với vai trò là tổ chức trung gian cung cấp dịch vụ tài chính, công ty môi giới
chứng khoán giúp cho hoạt động của thị trường chứng khoán được diễn ra một cách

9


ổn định và hiệu quả. Để thực hiện vai trò này, công ty MGCK thực hiện các chức
năng sau:
 Tạo ra cơ chế huy động vốn bằng cách kết nối người dư thừa vốn với người
có nhu cầu sử dụng vốn. Các CTCK thường thực hiện chức năng này thông qua
hoạt động bảo lãnh phát hành và MGCK.
 Cung cấp một cơ chế xác định giá cho các khoản đầu tư, can thiệp vào thị
trường góp phần điều tiết giá chứng khoán.
 Cung cấp cơ chế chuyển các khoản đầu tư thành tiền, giảm thiểu thiệt hại
cho các nhà đầu tư khi tiến hành đầu tư.
Trên thực tế, CTCK phải tìm kiếm khách hàng có vốn nhàn rỗi, có nhu cầu
đầu tư vào các công cụ tài chính để thu hút nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các tổ
chức, cá nhân và thông qua cơ chế hoạt động của thị trường, CTCK, người môi giới
giúp chuyển biến nguồn vốn ngắn hạn (vốn tạm thời nhàn rỗi) thành vốn đầu tư dài
hạn để cung cấp một cách tương đối ổn định cho các doanh nghiệp đầu tư phát triển
sản xuất.
Chính nhờ các công ty chứng khoán có nghiệp vụ MGCK, những người hành
nghề MGCK, số vốn nhỏ từ các tổ chức, cá nhân được tập trung để đầu tư cho sản
xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp. Mặt khác, nhờ hệ thống CTCK mà các loại

cổ phiếu, trái phiếu được lưu thông buôn bán tấp nập trên TTCK. Qua đó, một
lượng vốn khổng lồ được đưa vào đầu tư từ những nguồn vốn lẻ tẻ trong công
chúng tập hợp lại.
 Vai trò giảm chi phí giao dịch
Do lợi thế của việc chuyên môn hóa, MGCK giúp giảm thiểu chi phí giao
dịch. Ở mọi thị trường, để thực hiện giao dịch, bên bán và bên mua phải tìm kiếm
lẫn nhau. Khi có cơ hội gặp nhau thì họ mới có thể trao đổi, thẩm định chất lượng
hàng hóa và thỏa thuận giá cả. Tuy nhiên, sản phẩm trên TTCK là những sản phẩm
bậc cao. Vì vậy, để thẩm định chất lượng và giá cả hàng hóa, người ta cần nguồn chi
phí rất lớn cho việc thu thập, xử lý thông tin, đào tạo kĩ năng phân tích và tiến hành
giao dịch theo một quy trình xác định của hệ thống thị trường đấu giá tập trung.

10


Những chi phí đó chỉ có các CTCK hoạt động chuyên nghiệp với quy mô lớn mới
có thể trang trải và giảm thiểu do được hưởng lợi thế kinh tế nhờ quy mô.
Ngoài ra, sự tham gia của một tổ chức trung gian tài chính chuyên nghiệp làm
cầu nối cho các bên mua, bán gặp nhau cũng làm giảm đáng kể chi phí tìm kiếm đối
tác, chi phí soạn thảo và chi phí giám sát thực thi hợp đồng.
 Vai trò tư vấn đầu tư chứng khoán
Khi thực hiện chức năng MGCK, các CTCK và nhân viên môi giới của công
ty phải cung cấp cho khách hàng thông tin, loại chứng khoán cũng như cách thức,
thời điểm mua bán chứng khoán và vấn đề có tính quy luật của hoạt động đầu tư
chứng khoán. Nghiệp vụ này đòi hỏi nhiều kiến thức và kỹ năng chuyên môn mà
không yêu cầu nhiều vốn. Dịch vụ tư vấn đầu tư có thể được công ty môi giới
chứng khoán cung cấp qua các hình thức: khuyến cáo, lập báo cáo, tư vấn trực tiếp
hoặc thông qua ấn phẩm về chứng khoán.
Nhờ hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán mà khách hàng mới biết và hiểu rõ
các sản phẩm và dịch vụ sẵn có trên thị trường, hiểu được sản phẩm dịch vụ nào đáp

ứng được mục tiêu đầu tư và nhu cầu đầu tư của riêng mình. Thông qua CTCK và
nhân viên môi giới, khách hàng được cung cấp thông tin một cách đầy đủ nhất để ra
quyết định đầu tư.
 Vai trò tạo ra sản phẩm mới, phát triển sản phẩm và dịch vụ
Hoạt động môi giới chính là một trong những nguồn cung cấp ý tưởng thiết kế
sản phẩm và dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng. Về lâu dài, sẽ cải thiện được tính
đơn điệu của sản phẩm dịch vụ, nhờ đó giúp đa dạng hóa sản phẩm, đa dạng hóa cơ
cấu khách hàng, thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội cho đầu
tư phát triển.
Khi thực hiện vai trò trung gian giữa người bán (tổ chức phát hành chứng
khoán) và người mua (nhà đầu tư) chứng khoán, công ty môi giới chứng khoán, các
nhân viên môi giới, nhân viên bán hàng của công ty môi giới chứng khoán phải hiểu
được nhu cầu của khách hàng và phản ánh với các tổ chức phát hành – người cung
ứng hàng hóa, dịch vụ. Thông qua đó, các tổ chức phát hành sẽ có thể bán những gì
khách hàng cần và không ngừng cải tiến các sản phẩm cung cấp. Các CTCK đã góp

11


phần quan trọng làm đa dạng hóa các sản phẩm trên thị trường, đem lại sự thỏa mãn
tối đa cho các nhà đầu tư.
 Vai trò cải thiện môi trường kinh doanh
Vai trò này thể hiện qua một số điểm sau:
 MGCK góp phần hình thành nền văn hoá đầu tư thông qua hình thành ý
thức và thói quen đầu tư trong cộng đồng, hình thành thói quen và kỹ năng sử
dụng dịch vụ đầu tư mà chủ yếu là sử dụng dịch vụ môi giới chứng khoán. Ngoài
ra còn hoàn thiện môi trường pháp lý, sự hiểu biết và thói quen tuân thủ pháp
luật của công chúng.
Trong những nền kinh tế mà môi trường đầu tư chưa hoàn thiện, thô sơ, thu
nhập của mỗi cá nhân sau khi trừ đi chi phí sinh hoạt cơ bản cần thiết thì thường

được sử dụng vào những mục đích phi sản xuất. Khi thị trường tài chính phát triển
hơn, TTCK ra đời và phát triển thì những người có tiền trở thành những khách hàng
tiềm năng của các CTCK, nhưng phần lớn lại chưa hiểu biết hoặc hiểu biết rất ít về
thị trường và cách đầu tư trên thị trường.
Khi đó, các nhân viên môi giới sẽ trang bị, tư vấn về kiến thức, phương thức,
kỹ năng đầu tư trên thị trường, lựa chọn những sản phẩm phù hợp với khả năng tài
chính và mức độ chấp nhận rủi ro của khách hàng. Qua đó, nhà đầu tư sẽ hình thành
được kỹ năng phân tích, dự đoán thị trường và cách kết hợp từng chứng khoán riêng
lẻ trong một danh mục đầu tư, vừa giảm thiểu rủi ro vừa tối đa hoá lợi nhuận. Việc
đầu tư sẽ dần trở thành một thói quen của cả cộng đồng. Đây cũng được coi là nền
văn hoá đầu tư, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh.
Mặt khác, từ những lợi ích mà dịch vụ mang lại, các nhà đầu tư sẽ tin tưởng
vào người môi giới và chấp nhận trả tiền để được hưởng những lợi ích đó. Các nhà
đầu tư sẽ được tư vấn về tài chính, đầu tư, thời điểm mua bán, thường xuyên chăm
sóc tài khoản, chia sẻ và giải toả những băn khoăn trong lĩnh vực tài chính.
Ngoài ra, chính hoạt động của các CTCK và nhân viên môi giới là một yếu tố
góp phần hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh chứng khoán vì
hoạt động ở lĩnh vực này sẽ làm phát sinh và bộc lộ rõ những xung đột lợi ích giữa
các đối tượng tham gia thị trường.

12


Nếu môi trường pháp lý không đủ chặt chẽ và không đủ hiệu lực thì mâu thuẫn
phát sinh dễ dẫn đến đổ vỡ thị trường. Hoạt động của người môi giới giúp nhà đầu
tư hiểu biết về pháp luật chứng khoán và tuân thủ pháp luật. Đây là một đặc trưng
quan trọng của nền văn hoá đầu tư.
 MGCK giúp tăng chất lượng và hiệu quả dịch vụ nhờ cạnh tranh.
Để thành công trong nghề môi giới, điều quan trọng là mỗi công ty môi giới
và nhân viên môi giới phải thu hút được nhiều khách hàng mới, duy trì được

khách hàng hiện hữu và ngày càng làm tăng khối lượng tài sản khách hàng uỷ
thác quản lý.
Ngày nay, nghề môi giới đang thu hút được nhiều người tham gia với rất nhiều
phương thức bán hàng, tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ trong môi trường làm việc.
Nhà môi giới không ngừng trau dồi kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ và nâng cao chất
lượng sản phẩm. Họ luôn tìm cách đổi mới và tạo ra những nét khác biệt trong dịch
vụ của mình nhằm thu hút khách hàng.
Chính nhờ môi trường cạnh tranh đó đã làm cho nghề môi giới phát triển, chất
lượng dịch vụ không ngừng được nâng cao, nhà đầu tư ngày càng được hưởng
nhiều lợi ích hơn.
 MGCK góp phần hình thành dịch vụ mới trong nền kinh tế, tạo thêm việc
làm và phong phú môi trường đầu tư.
Với phương thức hoạt động là chủ động tìm đến khách hàng, đặc biệt khách
hàng cá nhân và đem đến cho họ trong những dịch vụ tài chính tốt nhất, mỗi CTCK
có một lực lượng đông đảo nhân viên môi giới. Nhưng để bộ phận môi giới môi giới
làm tốt công việc phải có sự hỗ trợ rất nhiều từ các bộ phận tác nghiệp như bộ phận
phân tích, kế toán, giao dịch,… Tất cả tạo thành một bộ máy hoàn chỉnh,, hiệu quả
và chuyên nghiệp. Hoạt động này đã tạo ra nhiều dịch vụ mới.
Để hỗ trợ cho việc xây dựng cơ sở khách hàng của những người môi giới
chứng khoán, dịch vụ nghiên cứu thị trường đã hình thành nhằm phân loại khách
hàng thành từng nhóm theo những tiêu chí mà người môi giới đề ra.

13


1.2.4. Quy trình nghiệp vụ môi giới chứng khoán
Quá trình hoạt động môi giới nói chung đều triển khai theo trình tự sau:
 Bước 1: Phát triển cơ sở khách hàng
Hầu hết những người hành nghề môi giới đều mong muốn mở rộng việc kinh
doanh và muốn có thù lao, do đó nhiệm vụ được đặt ra là thường xuyên tìm khách

hàng mới. Có nhiều phương pháp tìm kiếm khách hàng khác nhau. Mỗi phương
pháp đều có những lợi thế và bất lợi khác nhau. Sau đây là sáu phương pháp tìm
kiếm khách hàng thông dụng nhất:
 Sự chỉ đạo từ công ty hoặc các tài khoản được chuyển nhượng lại
 Các lời giới thiệu về khách hàng
 Phát triển mạng lưới kinh doanh
 Các chiến dịch viết thư
 Các cuộc hội thảo
 Gọi điện làm quen
Sau khi tìm kiếm khách hàng, công ty chứng khoán hướng dẫn khách hàng
tài khoản giao dịch (tài khoản giao dịch hoặc tài khoản ký quỹ). Tài khoản ký
quỹ sử dụng cho giao dịch ký quỹ còn tài khoản giao dịch sử dụng cho các giao
dịch thông thường.
 Bước 2: Nhận lệnh
Việc nhận và xử lý lệnh cho khách hàng là nhiệm vụ quan trọng của nhân viên
hành nghề môi giới. Thông thường lệnh của khách hàng được nhận tại các quầy
giao dịch bằng cách điền vào phiếu lệnh theo hướng dẫn của nhân viên môi giới.
Lệnh cũng có thể được khách hàng đặt qua điện thoại, fax, e-mail hoặc trực tiếp qua
mạng online. Trước khi giao dịch khách hàng phải kí hợp đồng với CTCK. Nhân
viên môi giới phải hiểu rõ nguyên tắc, phương thức khớp lệnh, đặc điểm của từng
loại lệnh để có thể tránh tối đa các thắc mắc của khách hàng phát sinh từ sự không
hiểu đặc điểm của từng loại lệnh.
Nếu khách hàng đặt lệnh bán, CTCK kiểm tra xem trong tài khoản khách hàng
có tồn tại số chứng khoán đó không rồi mới thực hiện lệnh hoặc đề nghị phải ký quỹ

14


một phần chứng khoán cần bán nhất định theo quy định của UBCKNN.
Nếu là lệnh mua, công ty sẽ kiểm tra xem số tiền trên tài khoản của khách

hàng có đủ để thực hiện giao dịch hay không. Nếu không đủ công ty sẽ đề nghị
khách hàng một mức tiền ký quỹ nhất định trên tài khoản ký quỹ của khách hàng tại
công ty.
 Bước 3: Thực hiện lệnh
Ngày nay các CTCK có mạng lưới thông tin trực tiếp từ trụ sở chính tới các
phòng giao dịch mà không cần các đại diện sàn trên sở giao dịch nữa. Do vậy, các
lệnh mua, bán được chuyển từ CTCK tới Sở Giao Dịch chứng khoán mà không cần
chuyển qua phòng thực hiện lệnh như trước.
Nếu là giao dịch khớp lệnh thì sẽ được so khớp theo một trong hai phương
thức: khớp lệnh định kỳ hay khớp lệnh liên tục. Tuy nhiên, dù là phương thức nào
cũng tuân theo các nguyên tắc so khớp sau:
 Ưu tiên về giá
 Ưu tiên về thời gian
 Ưu tiên về khối lượng
Nếu là giao dịch thoả thuận, các bên mua, bán (hoặc công ty chứng khoán đại
diện bên mua và bán thay mặt khách hàng) thoả thuận với nhau về các điều kiện
giao dịch. Sau đó, giao dịch sẽ được công ty chứng khoán thành viên bên mua và
bán nhập vào hệ thống giao dịch để ghi nhận kết quả.
 Bước 4: Thanh toán tiền và chuyển giao chứng khoán
Sau khi lệnh được đưa vào hệ thống xử lý lệnh, kết quả giao dịch được các
SGDCK và Trung tâm lưu ký thông báo cho các thành viên lưu ký. Thành viên lưu
ký phải đối chiếu chi tiết giao dịch giữa lệnh gốc được lưu giữ tại thành viên với
bản thông báo kết quả giao dịch xác nhận lại Trung tâm lưu ký.
Vào ngày xác định, Trung tâm lưu ký thực hiện chuyển chứng khoán từ tài
khoản của công ty môi giới chứng khoán – thành viên lưu ký bên bán (công ty môi
giới bên bán) vào tài khoản của công ty môi giới chứng khoán – thành viên lưu ký
bên mua (công ty môi giới bên mua). Đồng thời, Trung tâm lưu ký lệnh cho ngân

15



hàng thanh toán chuyển tiền từ tài khoản của công ty môi giới bên mua vào tài
khoản của công ty môi giới bên bán. Trung tâm lưu ký phải đảm bảo việc chuyển
tiền và chuyển chứng khoán để thanh toán các giao dịch chứng khoán diễn ra tại
cùng một thời điểm theo nguyên tắc chuyển giao đồng thời tiền và chứng khoán.
Khi tiền và chứng khoán được chuyển vào các tài khoản chứng khoán thì được coi
là hoàn tất.
Vì CTCK hoạt động với tư cách trung gian nên được hưởng hoa hồng môi
giới thông qua hoạt động môi giới của mình. Số tiền hoa hồng được tính trên phần
trăm tổng giá trị một giao dịch. Do đó, số giao dịch càng nhiều thì số tiền hoa
hồng càng lớn.
Một số nước hiện nay duy trì tỷ lệ hoa hồng cố định như Thái Lan, Ấn Độ,
Indonesia, Trung Quốc, Pakistan. Theo đó mức hoa hồng cao hay thấp tuỳ thuộc
vào giá trị hợp đồng.
Thông thường, các CTCK có chế độ hoa hồng riêng của mình và có những
thời điểm sẽ điều chỉnh cho phù hợp với thị trường hoặc với một số đối tượng khách
hàng đặc biệt. Ở Việt Nam mức phí giao dịch được quy định nằm trong khoảng từ
0,15% cho đến 0,35%/tổng giá trị lệnh mua hoặc bán chứng khoán.
1.3. Quản lý rủi ro trong hoạt động môi giới chứng khoán
1.3.1. Khái niệm rủi ro và rủi ro trong hoạt động môi giới chứng khoán
Theo nhiều nhà phân tích, rủi ro chỉ phát sinh khi có một sự không chắc chắn
về mất mát sẽ xảy ra.
Khái niệm rủi ro có thể tìm thấy ở rất nhiều nguồn khác nhau và theo nhiều
trường phái khác nhau:
- Theo trường phái truyền thống (tiêu cực): rủi ro là những thiệt hại, mất mát,
nguy hiểm hoặc các yếu tố có liên quan đến nguy hiểm, khó khăn hoặc điều không
chắc chắn có thể xảy ra cho con người.
- Theo trường phái hiện đại (trung hòa): rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường
được. Rủi ro vừa mang tính tích cực vừa mang tính tiêu cực, nó có thể mang đến
những tổn thất, mất mát,… cũng có thể mang đến những cơ hội.

Trên phương diện tài chính nhất là trong lĩnh vực đầu tư chứng khoán thì rủi

16


ro được định nghĩa là sự không chắc chắn, sự biến động của các khoản thu nhập
mang lại. Còn trên phương diện hoạt động môi giới chứng khoán, rủi ro được hiểu
là những tổn thất có thể xảy ra cho hoạt động môi giới gây ra những tác động tiêu
cực đến hoạt động của các nhân viên môi giới, ảnh hưởng trực tiếp đến công việc,
các mối quan hệ khách hàng, tình trạng quản lý, thu nhập, uy tín của bộ phận môi
giới trong CTCK.
Có thể nói nguồn doanh thu từ hoạt động môi giới là nguồn rất quan trọng
đối với CTCK. Vì vậy, nghiệp vụ môi giới là nghiệp vụ thiết yếu, nó có ảnh
hưởng mật thiết đến hình ảnh và uy tín của CTCK. Tuy nhiên, cũng như các hoạt
động khác, hoạt động này luôn tiềm ẩn rủi ro mà chủ yếu bao gồm rủi ro tín
dụng, rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động, rủi ro pháp lý, rủi ro từ đối tác kinh doanh
và rủi ro đạo đức.
Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng được hiểu là rủi ro mà các TCTC không có khả năng thu hồi
các khoản nợ đến hạn, các khoản phải thu hay đó là việc mất khả năng trả nợ của
những người đi vay, những nhà phát hành trái phiếu và các đối tác tài chính.
Trong hoạt động môi giới, rủi ro tín dụng chủ yếu đến từ các hợp đồng cho
vay ký quỹ hay hợp tác đầu tư, cho vay ứng trước cầm cố chứng khoán đối với chủ
thể khách hàng mà thực chất là sử dụng đòn bẩy tài chính. Khách hàng sẽ được
CTCK cấp một hạn mức sử dụng nhất định chẳng hạn 50:50. Con số này có nghĩa là
khách hàng sẽ có thể mua chứng khoán với số tiền bằng 200% số tiền mà khách
hàng bỏ ra ban đầu và tài sản đảm bảo cho khoản margin là toàn bộ các chứng
khoán trên tài khoản của khách hàng.
Rủi ro tín dụng tiềm ẩn ngay khi CTCK cấp hạn mức sử dụng margin. Khi
thị trường xấu, giá chứng khoán giảm, CTCK buộc khách hàng phải nộp thêm tiền

vào tài khoản. Tuy nhiên, nếu giá chứng khoán tiếp tục giảm đến mức nào đó
khách hàng không còn đủ khả năng tài chính thì thì rủi ro trở thành hiện thực. Đặc
biệt, đối với những khách hàng được công ty chứng khoán cấp cho hạn mức quá
cao thì rủi ro là rất lớn đối với công ty khi khách hàng gặp khó khăn về tài chính

17


mà trong tình hình các chứng khoán bị mất tính thanh khoản thì việc giải chấp là
không dễ dàng gì.
Rủi ro thị trường
Rủi ro thị trường được hiểu là rủi ro tạo ra các khoản lỗ hoặc giảm giá tài sản
từ sự biến động không thuận lợi của thị trường. Trong hoạt động tài chính, chứng
khoán rủi ro thị trường xảy ra chủ yếu do sự biến động về giá, tính thanh khoản của
các loại chứng khoán trên thị trường, những chính sách của nhà nước tác động đến
lãi suất, tỷ giá, giá các hàng hoá cơ bản, ảnh hưởng đến tình hình kinh tế vi mô, vĩ
mô nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng. Trên thực tế, tồn tại một số loại
rủi ro thị trường sau:
- Rủi ro về giá cả lên xuống: có thể phát sinh khi khách hàng tiến hành mua
chứng khoán và giá chứng khoán đó bị giảm xuống. Đối với khách hàng cá nhân, do
đã có quy định ký quỹ nên không ảnh hưởng nhiều tới công ty chứng khoán, nhưng
nếu họ thua lỗ nhiều, uy tín công ty bị ảnh hưởng và cũng có thể gây ra rủi ro khác
với công ty.
- Rủi ro thanh khoản: phát sinh khi khách hàng cầm cố chứng khoán để mua
chứng khoán khác. Khách hàng có thể sẽ không giải chấp được chứng khoán trong
thời gian quy định hoặc bán với giá thấp. Vì vậy, khách hàng có thể sẽ không chịu
thanh toán tiền hoặc thanh toán không đủ cho số chứng khoán đã mua.
- Rủi ro lãi suất: Chủ yếu xuất phát từ sự thay đổi của đường cong lợi suất,
mức độ biến động của lãi suất. Thông thường giá chứng khoán có biến động ngược
chiều với lãi suất thị trường. Vì thế, khi lãi suất biến động có thể gây ra biến động

về giá chứng khoán. Từ đó, gây rủi ro cho nhà đầu tư cũng như CTCK.
Khi rủi ro thị trường xảy ra, các chứng khoán mất giá và tính thanh khoản trên
thị trường giảm sút, các danh mục đầu tư của khách hàng bị thua lỗ, thậm chí là
thua lỗ rất nặng nề. Sự tin tưởng của khách hàng đối với thị trường nói chung và các
nhân viên môi giới nói riêng sẽ sụt giảm, họ sẽ không còn mặn mà với TTCK, các
giao dịch sẽ ngày càng ít ỏi, doanh thu từ hoạt động môi giới giảm nghiêm trọng.

18


Từ đó sẽ ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của CTCK nói chung và nhân viên
MGCK nói riêng.
Rủi ro hoạt động
Rủi ro về hoạt động là những sai sót trong quá trình tác nghiệp hàng ngày của
nhiên viên môi giới liên quan đến công việc mua bán như thực hiện lệnh thanh toán,
ký quỹ hoặc liên quan đến lỗi công nghệ trong các quy trình hoạt động môi giới dẫn
đến các khoản thua lỗ gây ảnh hưởng đến hình ảnh và uy tín của các nhân viên môi
giới cũng như CTCK.
Một nguyên nhân khác cũng rất quan trọng dẫn đến rủi ro hoạt động là sự
phức tạp và phát triển nhanh của các sản phẩm tài chính dẫn đến việc các nhân viên
môi giới không thể hiểu hết được bản chất của những sản phẩm này vì thế mà
không thể tư vấn một cách cặn kẽ nhất. Đôi khi có thể còn tư vấn thiếu chính xác
gây thiệt hại cho khách hàng dẫn đến những tranh chấp kiện tụng không đáng có
cho công ty.
Ngoài ra, trong một thị trường đang phát triển, quy mô giao dịch của khách
hàng thông qua môi giới là khá lớn, một lỗi sai nhỏ trong xử lý hay thanh toán cũng
có thể dẫn đến hậu quả vô cùng nghiêm trọng cho khách hàng, nhân viên môi giới
cũng như CTCK.
Rủi ro pháp lý
Công việc môi giới có liên quan đến khách hàng và các tổ chức liên quan như

công ty chứng khoán, Sở giao dịch chứng khoán, ngân hàng chỉ định thanh toán... do
vậy đòi hỏi sự chính xác trong việc tuân thủ luật pháp về chứng khoán, thị trường
chứng khoán và các luật lệ liên quan khác. Những rủi ro này có thể phát sinh từ những
văn bản như: Hợp đồng mua bán chứng khoán; Hồ sơ thanh toán tiền mua bán chứng
khoán; Hồ sơ chuyển giao chứng khoán; Các giấy tờ cá nhân của khách hàng...
Như vậy thì rủi ro pháp lý là rủi ro nảy sinh khi các thoả thuận có ràng buộc
pháp lý giữa nhân viên môi giới và khách hàng bị vi phạm do một trong hai bên,
thậm chí là bên thứ ba tác động hoặc cung cấp dịch vụ cho khách hàng mà không
được đề cập trong luật chứng khoán hay không được luật cho phép.
Rủi ro pháp lý xảy ra sẽ gây tranh cãi thậm chí tranh tụng về pháp lý dẫn đến

19


những thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế cũng như gây ảnh hưởng đến hình ảnh, uy
tín của phòng môi giới và cả CTCK.
Rủi ro đạo đức
Có thể nói rủi ro đạo đức là rủi ro đáng chú ý nhất trong hoạt động môi giới.
Nó phản ánh hoạt động sai nghiệp vụ, sai đạo đức nghề nghiệp của nhân viên môi
giới làm ảnh hưởng đến hình ảnh của công ty.
Ví dụ: Nhân viên môi giới tư vấn, đưa ra thông tin sai lệch sự thật cho khách
hàng nhằm tư lợi cho bản thân nên nhân viên đã đặt quyền lợi của mình lên trên
quyền lợi của công ty và khách hàng.
1.3.2. Quản lý rủi ro trong hoạt động môi giới chứng khoán
1.3.2.1. Khái niệm về quản lý rủi ro và sự cần thiết phải quản lý rủi ro trong hoạt
động MGCK
Quản lý rủi ro là quá trình xác định, phân tích và chấp nhận hoặc hạn chế
những nguy cơ tiềm ẩn trong các quyết định đầu tư. Đối với một hoạt động luôn
song hành với rất nhiều rủi ro như hoạt động môi giới chứng khoán, việc áp dụng
các biện pháp, kỹ thuật quản lý rủi ro là hết sức cần thiết, tăng sự chủ động khi đối

mặt với rủi ro, giúp giảm thiểu rủi ro xuống mức thấp nhất có thể.
Có rất nhiều định nghĩa và cách hiểu về quản lý rủi ro trong hoạt động môi
giới nhưng có thể khái quát thành khái niệm như sau: Quản lý rủi ro trong hoạt
động môi giới là một quá trình nhằm giúp bộ phận môi giới nói chung, các nhân
viên môi giới nói riêng có thể nhận diện, định lượng và có các biện pháp phòng
tránh đối với các rủi ro mà họ phải đối mặt, tăng khả năng thành công, hiệu quả
của công việc và hạn chế khả năng thất bại ở mức tối đa.
Những nhà môi giới chứng khoán giỏi luôn lường trước những rủi ro để từ đó
đề ra những biện pháp hữu hiệu hạn chế rủi ro. Chỉ có như vậy họ mới tránh phải
mất những khoản tiền không đáng mất.
Với việc áp dụng các biện pháp, công cụ quản lý rủi ro phù hợp sẽ mang lại
thành công, những khoản doanh thu đáng kể cho hoạt động môi giới, hạn chế đến

20


mức tối đa các tổn thất có thể gặp phải trong quá trình hoạt động của mình mang lại
sự phát triển bền vững lâu dài.
1.3.2.2. Phân loại quản lý rủi ro trong hoạt động môi giới
Quản lý rủi ro tín dụng
Trong những năm gần đây, do đặc thù cung cấp các sản phẩm, dịch vụ, các
hợp đồng hợp tác đầu tư, giao dịch ký quỹ (margin) mà thực chất là lách luật để
cấp tín dụng cho khách hàng (theo luật chứng khoán năm 2006 thì các công ty
chứng khoán không được phép cấp tín dụng cho khách hàng) nên nguy cơ rủi ro
tín dụng xảy ra ngày càng cao. Vì thế, quản lý rủi ro tín dụng luôn là một hoạt
động hết sức quan trọng. Để hạn chế rủi ro, bộ phận môi giới có thể áp dụng một
số biện pháp sau:
- Phải nghiên cứu khách hàng về tiềm lực tài chính, lịch sử giao dịch của
khách hàng,… Tuỳ vào từng đối tượng khách hàng để xây dựng các hợp đồng hợp
tác với các điều khoản chặt chẽ cũng như đưa ra hạn mức tín dụng phù hợp.

- Áp dụng các chính sách khác nhau về tài sản bảo đảm giao dịch, thông
thường là chính các chứng khoán khách hàng mua khi sử dụng margin và các chứng
khoán khách hàng có sẵn trong tài khoản. CTCK sẽ yêu cầu khách hàng chấp nhận
ký hợp đồng cam kết luôn đảm bảo một tỷ lệ nhất định (tỷ lệ ký quỹ thực tế - Rtt) ở
một ngưỡng nhất định. Khi tài khoản của khách hàng không đảm bảo tỷ lệ này, nhân
viên môi giới sẽ yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản đảm bảo (margin call) trong
một khoảng thời gian nhất định. Nếu quá thời gian đó mà khách hàng không nộp
thêm tiền vào tài khoản thì CTCK có thể sẽ phải giải chấp chứng khoán trong tài
khoản của khách hàng nhằm đề phòng trường hợp xấu xảy ra.
- Đối với từng khách hàng, CTCK phải thường xuyên theo dõi và đánh giá hạn
ngạch giao dịch, đánh giá mức độ tín nhiệm, mức thua lỗ theo hàng quý hoặc hàng
năm để có mức điều chỉnh cho phù hợp với tình hình chung.
- Đối với mỗi CTCK, phải thành lập một ban chuyên phụ trách kiểm soát tín
dụng và các giao dịch ký quỹ, luôn có các biện pháp sẵn sàng ứng phó khi rủi ro xảy ra.

21


Những biện pháp trên là những biện pháp quản lý rủi ro trong hoạt động môi
giới mang tính định tính. Một số biện pháp định lượng là CTCK có thể sử dụng mô
hình Var, phân tích độ nhạy, stress-test,… Thông qua các biến điều kiện khác nhau
có thể lượng hoá được những rủi ro tín dụng tiềm ẩn, giúp bộ phận môi giới giảm
rủi ro ở mức cao nhất.
Quản lý rủi ro thị trường
Bộ phận môi giới sử dụng các công cụ và các kỹ thuật quản lý rủi ro trong hoạt
động của mình để đưa rủi ro thị trường về mức có thể chấp nhận được theo quy mô
cũng như khả năng chịu đựng rủi ro của riêng hoạt động môi giới và của toàn CTCK.
Một số biện pháp quản lý rủi ro thị trường mà bộ phận môi giới của các CTCK
có thể sử dụng:
- Có các quy định phù hợp về tổng số hạn ngạch giao dịch, hạn chế mức thua

lỗ cụ thể.
- Đặt mức an toàn cho mỗi loại cổ phiếu.
- Quy định về phương pháp giám sát, đặt ra các quy định về ngưỡng rủi ro
phải thông báo hoặc qua xét duyệt.
- Tư vấn cho khách hàng sử dụng sản phẩm phái sinh
- Sử dụng các mô hình kinh tế lượng để thiết lập cho mình một hệ thống đo
lường rủi ro trên cơ sở danh mục đầu tư của khách hàng.
Một số chỉ số thường được các CTCK sử dụng để đo lường rủi ro:
 Var (Value at risk): dùng để định lượng các rủi ro nói chung tác động đến
danh mục đầu tư của khách hàng.
 Beta: tính rủi ro từ sự biến động của TTCK.
 Duration (thời lượng): tính rủi ro từ sự tác động của lãi suất.
 Delta: tính rủi ro từ tác động của hợp đồng quyền chọn (options) tới giá của
những tài sản cơ bản.
Mỗi CTCK sẽ có những phương pháp riêng để định lượng những rủi ro này
giúp cho bộ phận môi giới ước lượng được mức độ rủi ro danh mục chứng khoán
của khách hàng mà mình đang quản lý giúp đưa ra những khuyến nghị cho khách
22


hàng về cơ cấu, sắp xếp lại danh mục đầu tư nhằm giảm thiểu rủi ro xuống mức
thấp nhất có thể mà khách hàng có thể chấp nhận được.
Quản lý rủi ro hoạt động
Mỗi CTCK phải có những biện pháp riêng nhằm giảm thiểu rủi ro trong hoạt
động của mình. Một số biện pháp thường được các CTCK sử dụng:
- Quy định về hệ thống tác nghiệp rõ ràng, trong đó nêu rõ những nghiệp vụ
nào phải tuyệt đối tuân thủ theo các bước đã đề ra.
- Thiết lập quy trình luân chuyển, giải quyết hồ sơ, tài liệu chứng từ một cách
chặt chẽ, nhất là trong khâu thanh toán tiền và nhận chuyển giao chứng khoán.
- Có hệ thống kiểm tra lại tính chính xác của việc truyền lệnh mua bán và hệ

thống phân cấp thẩm quyền rõ ràng, hợp lý.
- Có hệ thống báo cáo tốt.
- Xây dựng cơ sở hạ tầng, công nghệ thông tin phù hợp với sự phát triển của
thị trường, giảm bớt sự rườm rà cho việc thu nhập và xử lý dữ liệu của các nhân
viên môi giới.
- Phát triển đội ngũ nhân viên môi giới có chất lượng, phải có những buổi đào
tạo về kiến thức để hiểu biết rõ bản chất các sản phẩm của công ty mình khi cung
cấp cho khách hàng.
- Xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ mạnh mẽ để phân định rõ ràng trách
nhiệm của riêng các nhân viên môi giới, phân cấp thẩm quyền rõ ràng, hợp lý, tránh
sự chồng chéo.
- Có các kế hoạch để phòng trách bất trắc phân theo từng cấp độ khác nhau
giúp nhân viên môi giới chủ động phòng tránh và giải quyết những rủi ro cơ bản khi
xảy ra trong quá trình làm việc.
Hiện nay cùng với sự phát triển của thị trường tài chính, một số công ty
chứng khoán trên thế giới còn phát triển nhiều biện pháp để định lượng rủi ro
hoạt động cho riêng bộ phận môi giới giống như khi định lượng rủi ro thị trường
và rủi ro tín dụng.
Quản lý rủi ro pháp lý

23


Rủi ro pháp lý thường xuất phát từ các hợp đồng giao dịch hoặc các tranh chấp
về quyền lợi. Khi đã có tranh chấp pháp lý thì thường dẫn đến những vụ kiện tụng
rất tốn chi phí do liên quan đến số lượng tiền hoặc cổ phiếu lớn. Để hạn chế điều
này thì hoạt động môi giới thường đặt ra các quy định như:
- Kiểm tra lại tính đúng đắn, hoàn chỉnh của các văn bản trước khi đem ra áp
dụng. Việc này tốt nhất là thông qua một tổ chức tư vấn pháp luật có uy tín.
- Các giấy tờ cá nhân của khách hàng phải được khách hàng xác nhận tính chính xác

và đầy đủ. Các giao dịch được thực hiện sau khi xác nhận tính đúng đắn của nó.
- Hồ sơ phải chính xác và cập nhật thường xuyên phù hợp với pháp luật
hiện hành.
Quản lý rủi ro đạo đức
Bộ phận môi giới của các CTCK luôn đề cao việc đặt ra các biện pháp quản lý
rủi ro đạo đức vì như đã trình bày ở trên thì đây là loại rủi ro đáng được chú ý nhất
trong hoạt động môi giới chứng khoán. Rủi ro này liên quan đến hành vi của nhân
viên môi giới đối với khách hàng nên có thể làm ảnh hưởng xấu đến hình ảnh và uy
tín của CTCK.
Một số biện pháp thường được các CTCK áp dụng:
- Phải xây dựng hệ thống văn hoá doanh nghiệp phù hợp cho bộ phận môi
giới. Nâng cao tính chuyên nghiệp và trung thực của nhân viên thông qua các khoá
đào tạo ngắn hạn, chế độ thưởng phạt rõ ràng, xử lý nghiêm các trường hợp bao che
dung túng cho hành vi sai trái gây thiệt hại cho khách hàng và công ty.
- Thực hiện phân cấp quản lý trong bộ phận môi giới, kiểm tra chéo các nhân
viên môi giới nâng cao trách nhiệm người đứng đầu (trưởng phòng, trưởng khối
môi giới) và trách nhiệm của mỗi nhân viên môi giới.
1.3.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý rủi ro trong HĐMG
Quản lý rủi ro trong hoạt động môi giới phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố.
Tuy nhiên, luận văn sẽ đi sâu vào ba yếu tố chính:
Thứ nhất: Cơ cấu tổ chức của CTCK
Mặc dù hoạt động môi giới tiềm ẩn rủi ro rất lớn nhưng không phải CTCK nào

24


cũng có một bộ phận chuyên trách riêng về quản lý rủi ro mà đặc biệt hơn là quản lý
rủi ro trong hoạt động môi giới.
Nếu CTCK có phòng ban riêng phụ trách quản lý rủi ro thì sẽ có những biện
pháp phòng ngừa rủi ro tốt hơn,chủ động hơn, hình thành một hệ thống quản lý rủi

ro chuyên nghiệp tạo điều kiện thuận lợi cho các phòng ban khác. Tuy nhiên, với thị
trường có quy mô nhỏ như ở nước ta, đa phần các CTCK còn nhỏ không đủ vốn để
đáp ứng chi phí cho hoạt động này mà chuyển giao nhiệm vụ này cho bộ phận môi
giới. Việc này đã hạn chế phần nào chức năng chính của các nhân viên môi giới giới
thiệu, chăm sóc, tư vấn và quản lý danh mục đầu tư cho khách hàng.
Mặt khác, nếu CTCK có phòng pháp lý phụ trách riêng về mảng luật pháp thì
quản lý rủi ro trong hoạt động môi giới sẽ giảm bớt áp lực vì sẽ không phải giải
quyết những công việc như tư vấn luật trong các hợp đồng sản phẩm môi giới cung
cấp cho khách hàng, giải quyết tranh chấp, kiện tụng xảy ra giữa môi giới và khách
hàng. Thay vào đó, họ sẽ chuyên tâm hoàn thành tốt hơn công việc của mình.
Thứ hai: Kết cấu hạ tầng, công nghệ
Như trên đã trình bày do quy mô các CTCK ở nước ta đa phần còn nhỏ nên
mặc dù đầu tư cho hạ tầng kỹ thuật công nghệ tại CTCK là rất quan trọng nhưng chỉ
một số ít các CTCK có thể đảm bảo được.
Xây dựng một cấu trúc hệ thống hoàn chỉnh và luôn có các phương án dự
phòng tốt thì việc quản lý rủi ro sẽ được tăng cường, các phương án khắc phục rủi
ro sẽ chủ động hơn.
Thứ ba: Đội ngũ môi giới
Dù ở công ty nào với loại hình kinh doanh nào thì nguồn nhân lực luôn là
nguồn lực quan trọng nhất. Ở bộ phận quản lý rủi ro của CTCK cũng vậy, nhân viên
môi giới có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình quản lý rủi ro trong hoạt động môi
giới. CTCK nào chú trọng đến việc tuyển chọn nhân viên môi giới, đào tạo tốt đội
ngũ môi giới thì rủi ro xảy ra sẽ được giảm bớt, giảm thiểu các chi phí khắc phục rủi
ro, nâng cao uy tín và hình ảnh cho công ty.
1.3.2.4. Quy trình quản lý rủi ro trong hoạt động môi giới

25



×