Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Phân tích những quy định của pháp luật kinh doanh thương mại liên quan đến hoạt động thi hành án và đưa ra hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.58 KB, 37 trang )

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI
Thi hành án dân sự là hoạt động thực thi các Bản án, Quyết định có hiệu lực
của Tòa án ra thi hành trong thực tế, đảm bảo pháp luật được thi hành nghiêm
chỉnh, nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của tập thể, của các tổ chức xã
hội và mọi công dân. Bản án, Quyết định của Tòa án nhân dân Nhà nước khi được
chấp hành nghiêm chỉnh có tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với
pháp luật cho nên hoạt động thi hành án có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong
việc giữ gìn kỷ cương phép nước, củng cố pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa, đảm bảo cho quyền lực tư pháp được thực thi trên thực tế.
Mặc dù công tác thi hành án trong nhiều năm qua đạt được kết quả đáng
khích lệ, công tác thi hành án dân sự có tăng lên tuy nhiên số lượng án dân sự còn
tồn đọng còn rất lớn, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ và sự quan tâm mong
mỏi của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Hoạt động thi hành án chưa thực sự đảm
bảo được tính công bằng và nghiêm minh của pháp luật. Thực trạng án dân sự tồn
đọng này, một trong số nguyên nhân chủ yếu là tồn đọng về án kinh doanh thương
mại bởi lẽ án kinh doanh thương mại thường rất phức tạp, có số lượng tiền phải thi
hành rất lớn, liên quan đến nhiều mặt vấn đề trong cuộc sống. Bản án, quyết định
1


kinh doanh thương mại liên quan đến chủ thể đặc biệt trong quan hệ dân sự đó là
doanh nghiệp. Sự phát triển của doanh nghiệp là một trong những vấn đề then chốt
thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Bên cạnh sự phát triển của các loại hình doanh
nghiệp cũng tồn tại việc tranh chấp liên quan đến các vấn đề tài sản có liên quan
đến hoạt động kinh doanh thương mại của doanh nghiệp. Hiện nay, hàng năm có
một lượng án lớn về các tranh chấp kinh doanh thương mại phát sinh và một lượng
án tồn đọng từ nhiều năm trước do việc thi hành án kinh doanh thương mại còn
gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Việc lựa chọn đề tài “Phân tích những quy định


của pháp luật kinh doanh thương mại liên quan đến hoạt động thi hành án và đưa
ra hướng hoàn thiện” nhằm tiến hành làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn
thực hiện việc áp dụng các quy định pháp luật thi hành án dân sự về kinh doanh
thương mại, phân tích những khó khăn, vướng mắc, từ đó đưa ra các giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật về kinh doanh thương mại nói riêng và pháp luật về thi
hành án dân sự nói chung.
II. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Mục tiêu tổng quát: Nêu được những quy định của pháp luật về kinh
doanh thương mại và phân tích những quy định của pháp luật có liên quan đến thi
hành án dân sự.
1.2. Mục tiêu cụ thể: Từ những phân tích cụ thể về quy định của pháp luật có
liên quan đến lĩnh vực thi hành án dân sự để đưa ra những kiến nghị và giải pháp
để hoàn thiện các quy định của pháp luật kinh doanh thương mại liên quan đến thi
hành án dân sự.

2


PHẦN NỘI DUNG
I. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC KINH
DOANH THƯƠNG MẠI LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ.
1. Một số khái niệm cơ bản
1.1. Khái niệm về kinh doanh thương mại.
Theo quy định tại khoản 16 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014 thì “Kinh
doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá
trình, đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị
trường nhằm mục đích sinh lợi”.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại 2005 thì “Hoạt động
thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá,

cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích
sinh lợi khác”.
Như vậy, có thể hiểu kinh doanh thương mại là quá trình đầu tư tiền của,
công sức từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm ... của một cá nhân hay tổ chức kinh tế
vào lĩnh vực mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ ... nhằm mục đích tìm kiếm lợi
nhuận. Lợi nhuận là vấn đề hướng tới của các doanh nghiệp khi tham gia hoạt
3


động kinh doanh thương mại. Khi lợi nhuận bị ảnh hưởng sẽ phát sinh các tranh
chấp liên quan đến việc đòi quyền lợi, từ đó nảy sinh ra các tranh chấp liên quan
đến hoạt động kinh doanh thương mại của các doanh nghiệp.
1.2. Khái niệm về doanh nghiệp, thương nhân.
Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được
đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh (khoản 7
Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014).
Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân
hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh
(khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại 2005).
1.3. Khái niệm về chứng khoán.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Luật chứng khoản 2006: Chứng khoán là
bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản
hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức
chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây:
a) Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ;
b) Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp
đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán”.
Các đặc điểm của chứng khoán:
- Tính sinh lợi: Là khả năng tạo ra thu nhập của người sở hữu trong những
kỳ hạn nhất định.

- Tính rủi ro: Là sự cố bất lợi có khả năng xảy ra của chứng khoán đối với
người sở hữu dẫn đến những thiệt hại, tổn thất cho người sở hữu chứng khoán.
- Tính thanh khoản: Là khả năng chuyển đối chứng khoán bằng tiền một
cách dễ dàng.
1.4. Tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án.

4


Theo quy định tại Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì tranh chấp
kinh doanh thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án bao gồm:
- Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá
nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
- Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân,
tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
- Tranh chấp giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch
về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty, thành viên công ty.
- Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; tranh chấp giữa
công ty với người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội
đồng quản trị, giám đốc, tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên
của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập,
hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của
công ty.
- Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm
quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
1.5. Yêu cầu về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án.
Theo quy định tại Điều 30 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì yêu cầu kinh
doanh thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án bao gồm:

- Yêu cầu hủy bỏ nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông, nghị quyết của Hội
đồng thành viên theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp.
- Yêu cầu liên quan đến việc Trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết tranh
chấp theo quy định của pháp luật về Trọng tài thương mại.
5


- Yêu cầu bắt giữ tàu bay, tàu biển theo quy định của pháp luật về hàng
không dân dụng Việt Nam, về hàng hải Việt Nam, trừ trường hợp bắt giữ tàu bay,
tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án.
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hoặc không công nhận
bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Tòa án nước ngoài hoặc không
công nhận bản án, quyết định kinh doanh, thương mại của Tòa án nước ngoài
không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam.
- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết kinh doanh,
thương mại của Trọng tài nước ngoài.
- Các yêu cầu khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp thuộc thẩm
quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp luật.
2. Quy định của pháp luật kinh doanh thương mại về doanh nghiệp.
Trong các đơn vị kinh doanh của nền kinh tế thì nhóm chủ thể kinh doanh
quan trọng nhất và là đối tượng điều chỉnh chủ yếu của pháp luật kinh doanh
thương mại là doanh nghiệp. Theo quy định của Luật doanh nghiệp 2014 thì hiện
nay tại Việt Nam tồn tại các loại hình doanh nghiệp sau: Công ty Trách nhiệm hữu
hạn, Doanh nghiệp nhà nước, Công ty cổ phần, Công ty hợp danh và doanh nghiệp
tư nhân.

2.1. Công ty Trách nhiệm hữu hạn
2.1.1. Công ty TNHH Hai thành viên trở lên
Công ty TNHH hai thành viên trở lên là công ty có số lượng thành viên
trong công ty từ 02 thành viên trở lên, số lượng thành viên không vượt quá 50.

Thành viên trong ty có thể là cá nhân hoặc tổ chức (Khoản 1 Điều 47 Luật Doanh
nghiệp năm 2014).
- Đặc điểm pháp lý:
6


+ Là doanh nghiệp có số lượng thành viên tối thiểu là 2 và có không quá 50
thành viên trong suốt quá trình hoạt động.
+ Có tư cách pháp nhân
+ Chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty
bằng tài sản của mình (trách nhiệm hữu hạn). Thành viên công ty chịu trách nhiệm
về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã
cam kết góp vào công ty. Trong công ty TNHH 2 thành viên trở lên có sự tách bạch
về tài sản của công ty với tài sản của các thành viên.
+ Không được quyền phát hành cổ phiếu.
+ Phần vốn góp của các thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định
của pháp luật.
Đây là một trong những loại hình doanh nghiệp phát sinh phổ biển nhất
trong các tranh chấp thương mại. Loại hình doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn có
hai thành viên trở lên có ưu điểm hạn chế rủi ro cho thành viên công ty khi hoạt
động vì trách nhiệm của thành viên công ty chỉ bị hạn chế trong phạm vi phần vốn
đã góp vào công ty. Đồng thời, các thành viên công ty cũng có thể chuyển nhượng
vốn, bán lại phần vốn góp cho các cá nhân, tổ chức khác nên là loại hình có khả
năng huy động vốn cao mặc dù quy định việc chuyển nhượng phần vốn góp khá
nghiêm ngặt. Chế độ chuyển nhượng vốn được điều chỉnh chặt chẽ nên nhà đầu tư
dễ dàng kiểm soát được việc thay đổi các thành viên, hạn chế sự thâm nhập của
người lạ vào công ty. Tuy nhiên trên thực tế các loại hình Công ty trách nhiệm hữu
hạn hai thành viên trở lên đều được thành lập từ mối quan hệ quen biết hoặc là
thành viên gia đình nên thường tin cậy nhau, việc quản lý, điều hành công ty không
quá phức tạp do đó ít xảy ra tranh chấp giữa các thành viên trong công ty mà chủ

yếu phát sinh tranh chấp đối với các cá nhân, tổ chức kinh doanh khác. Bên cạnh
đó cũng vì nguyên nhân các thành viên công ty chỉ chịu trách nhiệm trên phần vốn
đã góp vào công ty nên loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở
lên cũng có nhược điểm là được ít sự tin tưởng từ các đối tác vì nguyên nhân này
đôi khi là rào cản để các đối tác tiến hành thu hồi khoản nợ nếu công ty trách
nhiệm hữu hạn có hành vi gian dối trong kinh doanh gây thiệt hại. Ngoài ra công ty
7


trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên cũng không được phát hành cổ phiếu để
huy động vốn.
2.1.2. Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên
Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức
hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu (sau đây gọi là chủ sở hữu công ty); chủ sở hữu
công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty
trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty (Khoản 1 Điều 73 Luật Doanh nghiệp
năm 2014).
- Đặc điểm pháp lý:
+ Do 1 thành viên là tổ chức hoặc cá nhân làm chủ sở hữu
+ Chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm hữu hạn
+ Việc chuyển nhượng phần vốn góp của chủ sở hữu được thực hiện theo
quy định của pháp luật.
+ Có tư cách pháp nhân
+ Không được quyền phát hành cổ phiếu.
Công ty Trách nhiệm hữu hạn Một thành viên chỉ có duy nhất một chủ sở
hữu, nên chủ sở hữu công ty có quyền quyết định toàn bộ trong quản lý và điều
hành công ty, cơ cấu tổ chức đơn giản. Chủ sở hữu công ty chỉ chịu trách nhiệm
trong phạm vi số vốn cam kết góp vào công ty nên trách nhiệm khi xảy ra trách
chấp cũng giảm thiểu tối đa thiệt hại cho chủ sở hữu công ty. Đây cũng là nguyên
nhân dẫn đến thiếu sự tin tưởng giữa các đối tác khi tiến hành hợp tác. Công ty

trách nhiệm hữu hạn một thành viên không được quyền phát hành cổ phiếu hay
giao dịch trên sàn chứng khoán. Tuy nhiên, cũng như Công ty Trách nhiệm hữu
hạn hai thành viên trở lên thì Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên cũng
huy động được vốn bằng cách chuyển nhượng phần vốn góp cho cá nhân hoặc tổ
chức khác nhưng khi huy động vốn bằng hình thức này thi Công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên phải chuyển đổi hình thức sáng Công ty trách nhiệm hữu
hạn hai thành viên trở lên hoặc công ty cổ phần.
2.2. Công ty cổ phần
8


Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều
phần bằng nhau gọi là cổ phần; Số lượng cổ đông tối thiểu là 03, không hạn chế số
lượng tối đa, cổ đông có thể là tổ chức hoặc cá nhân; Các cổ đông chỉ phải chịu
trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong
phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp, có quyền tự do chuyển nhượng phần vốn
góp của minh (Khoản 1 Điều 110 Luật Doanh nghiệp năm 2014).
- Đặc điểm pháp lý:
+ Số lượng thành viên tối thiểu là 03, không hạn chế số lượng tối đa.
+ Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ
phần.
+ Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác
của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
+ Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người
khác.
Do cổ đông công ty cổ phần chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn góp nên
hạn chế rủi ro cho các cổ đông, đặc điểm này vừa là thuận lợi nhưng cũng là hạn
chế đối với công ty cổ phần khi tìm cơ hội hợp tác vì trách nhiệm chỉ là hữu hạn.
Tuy nhiên các cổ đông của công ty cổ phần được tự do chuyển nhượng cổ phần
cho người khác và công ty cổ phần có quyền phát hành cổ phiếu để huy động vốn

nên đối tượng tham gia công ty cổ phần là rất rộng dẫn đến khó quản lý, các cổ
đông trong công ty cổ phần thường không quen biết nên dễ tạo thành các nhóm lợi
ích khác nhau.
2.3 Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp
(Khoản 1 Điều 183 Luật Doanh nghiệp năm 2014).
Đặc điểm pháp lý:
+ Là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ sở hữu. Trong doanh nghiệp tư
nhân không xuất hiện sự góp vốn giống như ở các công ty nhiều chủ sở hữu, nguồn
vốn của doanh nghiệp cũng chủ yếu xuất phát từ tài sản của một cá nhân duy nhất.
9


+ Về quan hệ sở hữu vốn trong doanh nghiệp: Không có giới hạn nào giữa
phần vốn và tài sản đưa vào kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân và phần tài sản
còn lại thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp.
+ Quan hệ sở hữu quyết định quan hệ quản lý: Doanh nghiệp tư nhân chỉ có
một chủ đầu tư duy nhất, vì vậy cá nhân có quyền quyết định mọi vấn đề liên quan
đến tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp.
+ Về phân phối lợi nhuận: Toàn bộ lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp sẽ thuộc về một mình chủ doanh nghiệp tư nhân, sau khi
đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với nhà nước và bên thứ ba.
+ Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân.
+ Chủ doanh nghiệp tư nhân chịu trách nhiệm vô hạn trước mọi khoản nợ
phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp tư nhân.
Do trách nhiệm pháp lý chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân chịu toàn bộ trách
nhiệm đối với hậu quả phát sinh từ các tranh chấp nên dẫn đến rúi ro rất cao cho
chủ sở hữu nên ngày càng ít chủ thể lựa chọn hình thức thành lập doanh nghiệp tư
nhân. Bên cạnh đó doanh nghiệp tư nhân cũng không được phát hành bất kỳ loại

chứng khoán nào hoặc bán phần vốn góp cho cá nhân hoặc tổ chức khác nên việc
huy động vốn gặp khó khăn. Tuy nhiên cũng vì hình thức chịu trách nhiệm vô hạn
bằng toàn bộ tài sản của mình nên doanh nghiệp tư nhân cũng được sự tin tưởng
của đối tác khi giao kết hợp đồng.
2.4. Công ty hợp danh
Công ty hợp danh là doanh nghiệp có ít nhất 02 thành viên là chủ sở hữu
chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (sau đây gọi là thành
viên hợp danh). Ngoài các thành viên hợp danh, công ty có thể có thêm thành viên
góp vốn; thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài
sản của mình về các nghĩa vụ của công ty; thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm
về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty (Khoản 1
Điều 172 Luật Doanh nghiệp năm 2014).
Đặc điểm pháp lý:
10


+ Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty cùng nhau
kinh doanh dưới 1 tên chung (gọi là thành viên hợp danh); ngoài thành viên hợp
danh có thể có thành viên góp vốn.
+ Thành viên hợp danh phải là cá nhân chịu trách nhiệm bằng tài sản của
mình về các nghĩa vụ của công ty.
+ Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty
trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
+ Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh.
+ Trong quá trình hoạt động công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ
1 loại chứng khoán nào.
Tất cả các thành viên hợp danh đều phải liên đới chịu trách nhiệm về mọi
nghĩa vụ tài sản của công ty hợp danh. Trường hợp nếu công ty không đủ khả năng
thanh toán các khoản nợ thì các thành viên hợp danh phải cùng nhau gánh vác các

khoản nợ thay cho công ty. Thành viên hợp danh phải mang tài sản dân sự của
mình để thực hiện các nghĩa vụ tài chính cho công ty. vai trò của các thành viên
hợp danh thực chất là những người bảo lãnh liên đới cho mọi hoạt động của công
ty hợp danh. Kể từ khi chính thức trở thành thành viên hợp danh của công ty hợp
danh, trách nhiệm và liên đới đã phát sinh hiệu lực đối với thành viên đó. Ngay cả
khi thành viên hợp danh rời khỏi công ty thì về nguyên tắc, trách nhiệm của họ đối
với công ty vẫn chưa chấm dứt. Ở Việt Nam, trong thời hạn 02 năm kể từ ngày
chấm dứt tư cách thành viên hợp danh, các thành viên đó vẫn phải liên đới chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với các khoản nợ của công ty đã
phát sinh trước ngày chấm dứt tư cách thành viên. Ngoài ra, các thành viên hợp
danh có quyền đại diện theo pháp luật và tổ chức điều hành hoạt động kinh doanh
hằng ngày của công ty.
Thành viên góp vốn chỉ phải chịu nghĩa vụ về tài sản trong phạm vi số vốn
góp của họ và được hưởng chế độ chịu trách nhiệm hữu hạn về mặt tài sản. Ngoài
ra, thành viên góp vốn có thể chuyển nhượng phần vốn góp của họ khá dễ dàng
11


nhưng thành viên góp vốn chỉ được quyền tham gia vào các công việc quản lý nội
bộ có liên quan trực tiếp đến quyền lợi của họ.
2.5. Doanh nghiệp nhà nước.
Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn
điều lệ (Khoàn 8 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014).
- Đặc điểm pháp lý:
+ Chủ đầu tư: là Nhà nước.
+ Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân.
+ Sở hữu vốn: Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ (100%).
+ Hình thức tồn tại: doanh nghiệp nhà nước có nhiều hình thức tồn tại như
công ty nhà nước, công ty cổ phần nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn nhà
nước một thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn nhà nước.

+ Trách nhiệm tài sản: Doanh nghiệp nhà nước chịu trách nhiệm trong phạm
vi tài sản của doanh nghiệp. Nhà nước chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi tài
sản góp vốn vào doanh nghiệp.
Doanh nghiệp nhà nước là một chế định hoàn toàn mới, là điểm mới so với
Luật Doanh nghiệp 2005. Theo Khoản 22 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì
“Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50%
vốn điều lệ” và được quy định cụ thể hơn tại Điều 1 Luật Doanh nghiệp Nhà nước
năm 2003 “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn
bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức
công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn”. Tuy nhiên theo
quy định mới tại Khoàn 8 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm 2014 “Doanh nghiệp
nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ”. Điều này làm
giảm đi đáng kể việc quy định các doanh nghiệp nhà nước có cổ phần. Việc quy
định Doanh nghiệp nhà nước tại Luật doanh nghiệp 2014 thể hiện sự bình đẳng của
các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp tư nhân đều nhận được sự điều
chỉnh ngang nhau về mặt pháp lý. Hiện nay các doanh nghiệp nhà nước tham gia
vào mọi mặt của đời sống kinh doanh nên cũng là một chủ thể có thể xảy ra tranh
12


chấp đối với các đối tượng kinh doanh khác nhau nên để đảm bảo quyền lợi cho
các doanh nghiệp tư nhân thì cần quy định đảm bảo đối với các thành phần kinh tế.
3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu quy định của pháp luật kinh doanh
thương mại liên quan đến thi hành án dân sự.
Doanh nghiệp là chủ thể đặc biệt trong pháp luật về kinh doanh thương mại.
Việc nghiên cứu những quy định của pháp luật kinh doanh thương mại, mà chủ yếu
là nghiên cứu về chủ thể doanh nghiệp của pháp luật kinh doanh thương mại sẽ
giúp người thi hành giải quyết được các vấn đề có liên quan đến đối tượng này
trong lĩnh vực thi hành án dân sự.
Trước tiên, doanh nghiệp phải có tên riêng, tên doanh nghiệp là dấu hiệu đầu

tiên xác định tư cách chủ thể của doanh nghiệp trên thương trường và là cơ sở để
nhà nước thực hiện quản lý đối với doanh nghiệp.
Thứ hai, mục đích của các doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh thương
mại nhằm thu về lợi nhuận và tài sản cho nên điều kiện đặc trưng của doanh
nghiệp là phải có tài sản. Tài sản của doanh nghiệp được hình thành và tồn tại ở
nhiều hình thức khác nhau và thường có giá trị lớn bao gồm tiền mặt, tài khoản,
vàng, bạc, đá quý, kim khí khác, giấy tờ có giá của doanh nghiệp, đất đai, nhà
xưởng, vật kiến trúc, máy móc, trang thiết bị, vật tư, phương tiện vận tải, phát
minh sáng chế .... Nghiên cứu về pháp luật kinh doanh thương mại cho ta thấy cái
nhìn tổng thể về tài sản của doanh nghiệp, từ đó có những biện pháp cụ thể tiến
hành xác minh và xử lý tài sản của doanh nghiệp.
Thứ ba, việc xảy ra tranh chấp kinh doanh giữa các doanh nghiệp hoặc các
đối tượng kinh doanh thông thường sẽ phải liên quan đến vấn đề xử lý tài sản của
doanh nghiệp. Việc nghiên cứu các quy định pháp luật về kinh doanh thương mại
giúp cơ quan thi hành xác định chủ thể tham gia tranh chấp qua đó xác định chủ
thể tham gia quan hệ tranh chấp, từ đó tiến hành xác định trách nhiệm của doanh
nghiệp và xác minh điều kiện thi hành án của doanh nghiệp. Việc nghiên cứu loại
hình doanh nghiệp giúp xác định trách nhiệm tài sản của doanh nghiệp là hữu hạn
hay vô hạn, từ đó đưa ra hướng xử lý cụ thể.
13


Ngoài ra, khi tìm hiểu các quy định liên quan đến kinh doanh thương mại
cần tìm hiểu về trụ sở kinh doanh của doanh nghiệp, người đại diện theo pháp luật
của doanh nghiệp, cơ cấu hoạt động của doanh nghiệp, thẩm quyền ra quyết định
của doanh nghiệp ... để tìm ra nhiều hướng xử lý hiệu quả hơn.
II. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT KINH
DOANH THƯƠNG MẠI TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1. Thông báo trực tiếp cho cơ quan, tổ chức
“Trường hợp người được thông báo là cơ quan, tổ chức thì văn bản thông

báo phải được giao trực tiếp cho người đại diện theo pháp luật hoặc người chịu
trách nhiệm nhận văn bản của cơ quan, tổ chức đó và phải được những người này
ký nhận. Trường hợp cơ quan, tổ chức được thông báo có người đại diện tham gia
việc thi hành án hoặc cử người đại diện nhận văn bản thông báo thì những người
này ký nhận văn bản thông báo. Ngày ký nhận là ngày được thông báo hợp lệ”
(Điều 41 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014).
Việc thực hiện thông báo trực tiếp cho doanh nghiệp tại các hình thức doanh
nghiệp khác nhau thì cũng theo những cách khác nhau: Đối với doanh nghiệp tư
nhân thì thông báo trực tiếp được giao cho chủ doanh nghiệp tư nhân, đối với công
ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần, công ty nhà nước thi được giao cho
người đại diện theo pháp luật của công ty đó, còn đối với công ty hợp danh thì
được giao cho thành viên hợp danh. Ngoài ra còn có thể giao thông báo trực tiếp
cho những người được giao trách nhiệm nhận văn bản của cơ quan, tổ chức, tuy
nhiên việc giao thông qua những người chịu trách nhiệm giao nhận văn bản của cơ
quan, tổ chức không phải lúc nào cũng thực hiện được vì đối với một số loại hình
doanh nghiệp vừa và nhỏ thì số lượng nhân viên của công ty cũng không lớn nên
nhân viên phải làm rất nhiều công việc có liên quan và không có sự phân công rõ
ràng về việc người được giao thực hiện nhiệm vụ nhận văn bản nên đôi khi việc
giao thông báo cho những đối tượng này gặp nhiều khó khăn.
Ví dụ : Quyết định số 115/2017/QĐST-KDTM ngày 11/3/2017 của Tòa án
nhân dân quận T, Thành phố H tuyên: Doanh nghiệp tư nhân VNX có trách nhiệm
thanh toán cho Công ty TNHH X số tiền 140.000.000 đồng. Sau khi ban hành
14


Quyết định thi hành án trong thời hạn 03 ngày làm việc, Chấp hành viên tiến hành
thông báo trực tiếp cho người phải thi hành án tại địa chỉ trụ sở Doanh nghiệp tư
nhân VNX và tại trụ sở của người được thi hành án là Công ty TNHH X. Đối với
Doanh nghiệp tư nhân VNX thì quyết định thi hành án được thông báo trực tiếp
cho chủ Doanh nghiệp tư nhân VNX, đối với Công ty TNHH X thì quyết định thi

hành án được thông báo trực tiếp cho đại diện theo pháp luật của Công ty. Trường
hợp chủ Doanh nghiệp tư nhân VNX và đại diện theo pháp luật của Công ty
TNHH X không có mặt tại đại chỉ trụ sở tại thời điểm thông báo trực tiếp thì Chấp
hành viên thực hiện thông báo cho người có thẩm quyền nhận thay và yêu cầu
người nhận văn bản phải chứng minh được việc ủy quyền nhận văn bản. Trường
hợp không có người nhận quyết định hợp lệ theo quy định của pháp luật thì chấp
hành viên lập biên bản không thực hiện được việc thông báo trực tiếp và tiến hành
niêm yết, có chữ ký của người làm chứng.
2. Xác minh điều kiện thi hành án
Theo điểm b Khoản 6 Điều 44 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ
sung năm 2014 quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan
trong việc xác minh điều kiện thi hành án:
“Bảo hiểm xã hội, ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, văn phòng đăng ký
quyền sử dụng đất, cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, công chứng và các cơ
quan, tổ chức, cá nhân khác đang nắm giữ thông tin hoặc quản lý tài sản, tài
khoản của người phải thi hành án có trách nhiệm cung cấp thông tin về điều kiện
thi hành án của người phải thi hành án; ký vào biên bản trong trường hợp Chấp
hành viên xác minh trực tiếp hoặc trả lời bằng văn bản trong thời hạn 03 ngày làm
việc, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu của Chấp hành viên, đối với thông tin
về tài khoản thì phải cung cấp ngay”.
Việc xác minh điều kiện thi hành án của doanh nghiệp là một trong những
tiền đề cho việc xử lý tài sản của doanh nghiệp để làm căn cứ cho việc thu hồi nợ
có hiệu quả hay không. Hiện nay việc đăng ký tài khoản của doanh nghiệp rất dễ
dàng và các tài khoản nằm rải rác ở rất nhiều ngân hàng, tổ chức tín dụng khác
nhau nên việc xác minh tài khoản, tài sản của người thi hành án là doanh nghiệp rất
15


gian nan và phức tạp. Đồng thời, nước ta chưa có cơ sở dữ liệu quốc gia về tài
khoản, tiền gửi khách hàng trong các tổ chức tín dụng, ngân hàng thương mại nên

việc thu thập tài khoản của người phải thi hành án là doanh nghiệp còn nhiều bất
cập. Trường hợp đã xác minh được tài khoản của doanh nghiệp đang mở tại một
ngân hàng, tổ chức tín dụng xác định thì việc đi xác minh trực tiếp tài khoản tại
ngân hàng cũng không hề đơn giản và gặp những trở ngại dù luật có quy định các
ngân hàng, tổ chức tín dụng có trách nhiệm cung cấp thông tin của người phải thi
hành án. Mục đích của Ngân hàng, tổ chức tín dụng khi kinh doanh cũng như các
doanh nghiệp khác là vấn đề lợi nhuận, việc các doanh nghiệp mở tài khoản và
giao dịch tiền thông qua các tài khoản đem lại lợi ích lớn cho Ngân hàng nên vì
đảm bảo lợi ích của mình và bảo đảm quyền lợi của khách hàng thì ngân hàng đôi
khi còn có những hành động giấu diếm thông tin của người phải thi hành án, hoặc
có cung cấp thông tin nhưng vẫn tạo điều kiện cho người phải thi hành án thực
hiện chuyển tiền gây khó khăn cho quá trình tiếp theo của cơ quan thi hành án dân
sự là phong tỏa tài khoản. Đối với những ngân hàng cấp chi nhánh, phòng giao
dịch khi thực hiện trái quy định còn có chủ thể ngân hàng hội sở làm áp lực để xử
lý nhưng đối với ngân hàng hội sở làm trái quy định thì hiện nay vẫn chưa có cơ
chế hiệu quả nào để làm áp lực thu hồi hoặc xử lý sai phạm.
Ví dụ: Quyết định số 70/2015/QĐST-KDTM ngày 15/5/2014 của Tòa án
nhân dân quận T, Thành phố H tuyên: Công nhận sự thỏa thuận của các đương
sự: Công ty TNHH ST có trách nhiệm thanh toán cho Công ty TNHH KNTT số tiền
2.000.000.000 đồng. Ngày 01/10/2015, Công ty TNHH KNTT làm đơn yêu cầu thi
hành án, Chi cục Thi hành án dân sự quận T đã ban hành Quyết định thi hành án
số 05/QĐ-CCTHADS ngày 02/10/2015 của Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án
dân sự quận T. Sau khi hết thời hạn tự nguyện thi hành án mà Công ty TNHH ST
vẫn không tự nguyện thi hành án, Chấp hành viên tiến hành xác minh điều kiện thi
hành án của Công ty TNHH ST có kết quả Công ty TNHH ST có mở tài khoản giao
dịch tại Ngân hàng HDA – Hội sở. Chấp hành viên tiến hành xác minh số tài
khoản của Công ty TNHH ST mở tại Ngân hàng HDA – Hội sở và kết quả tài
khoản có số dư là 500.000.000 đồng. Chấp hành viên tiến hành phong tỏa số tiền
16



500.000.000 đồng trong tài khoản của Công ty TNHH ST tại Ngân hàng HDA –
Hội sở. Tuy nhiên khi Chấp hành viên ban hành quyết định khấu trừ tiền trong tài
khoản để thi hành án thì Ngân hàng HDA – Hội sở không thực hiện quyết định
khấu trừ tiền trong tài khoản với lý do Công ty TNHH ST đang có khoản vay tại
ngân hàng dù chưa đến hạn trả nợ.
Do doanh nghiệp phải hoạt động tại đại chỉ đăng ký kinh doanh nên việc xác
minh địa chỉ nơi doanh nghiệp đóng trụ sở có phải tài sản của doanh nghiệp không
là một vấn đề rất quan trọng. Tuy nhiên hiện nay doanh nghiệp cũng thường xuyên
thay đổi vị trí đặt trụ sở nên việc xác minh tài sản đối với nhà đất cũng gặp rất
nhiều khó khăn và thách thức. Thời điểm hiện tại địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
còn gặp nhiều khó khăn trong hoạt động xác minh tại Văn phòng đăng ký đất đai.
Căn cứ tại Phụ lục 9 Quyết định số 52/2016/QĐ-UBND ngày 10/12/2016 của Ủy
ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thì Chấp hành viên thuộc đối tượng được
miễn phí xác minh thông tin nhà đất nhưng hiện nay Sở Tài nguyên và Môi trường
Thành phố Hồ Chí Minh lại đặt ra quy định thu phí với mức thu từ vài trăm đến vài
triệu đồng dẫn đến việc xác minh xử lý thông tin đã khó khăn thì nay càng gặp
thêm khó khăn.
3. Các biện pháp bảo đảm thi hành án.
Theo quy định tại điều 66 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung
năm 2014: Chấp hành viên có quyền tự mình hoặc theo yêu cầu bằng văn bản của
đương sự áp dụng ngay biện pháp bảo đảm thi hành án nhằm ngăn chặn việc tẩu
tán, huỷ hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án. Các biện pháp bảo đảm thi hành
án bao gồm:
a) Phong toả tài khoản;
b) Tạm giữ tài sản, giấy tờ;
c) Tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản.
Sử dụng tài khoản để giao dịch là yêu cầu bắt buộc của doanh nghiệp trong
hoạt động kinh doanh thương mại, việc xác minh tài khoản thi hành án của doanh
nghiệp là một biện pháp có tính hiệu quả và nhanh chóng để thu hồi khoản nợ phải

thi hành. Biện pháp phong tỏa tài khoản áp dụng trong trường hợp người phải thi
17


hành án phải thi hành khoản nghĩa vụ trả tiền và các thông tin về điều kiện thi hành
án cho thấy người đó đang có tiền trong tài khoản tại ngân hàng hoặc tổ chức tín
dụng, tài chính khác. Việc áp dụng biện pháp phong tỏa tài khoản nhằm ngăn chặn
người phải thi hành án thực hiện việc rút toàn bộ tiền hay một khoản tiền trong tài
khoản làm cho số tiền của họ còn lại trong tài khoản nhỏ hơn nghĩa vụ mà họ phải
thi hành án. Đây là biện pháp rất tiến bộ, phù hợp với thực tiễn công tác thi hành
án dân sự do nó có thể hạn chế được việc người phải thi hành án tẩu tán số tiền
đang có trong tài khoản.
Theo Khoản 1 Điều 20 Nghị định 62/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự: “Quyết định phong
tỏa tài khoản, tài sản ở nơi gửi giữ phải xác định rõ số tiền, tài sản bị phong
tỏa”. Chấp hành viên cần phải tiến hành các hoạt động thu thập thông tin về tài
khoản của người phải thi hành án tại ngân hàng, tổ chức tín dụng, kho bạc nhà
nước trước khi ban hành quyết định phong tỏa tài khoản của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, trong thời gian qua, đã xảy ra trường hợp các cơ quan, tổ chức
quản lý tài sản của người phải thi hành án không hợp tác trong việc phong tỏa tài
khoản. Điều này đã khiến cơ quan thi hành án gặp khó trong trường hợp tổ chức tín
dụng không hợp tác, lấy lý do người phải thi hành án bị phong thỏa tài khoản đang
khiếu nại. Hoặc ngân hàng, tổ chức tín dụng đang quản lý tài khoản của doanh
nghiệp sau khi cơ quan thi hành án xác minh được số dư tài khoản của doanh
nghiệp, tiến hành giao quyết định phong tỏa tài khoản cho ngân hàng, tổ chức tín
dụng nhưng ngân hàng, tổ chức tín dụng và không thực hiện ngay việc phong tỏa
tài khoản ngay dẫn đến việc tài khoản bị tẩu tán. Trường hợp khác nữa là ngân
hàng nhận quyết định phong tỏa tài khoản nhưng vẫn cố tình phối hợp với doanh
nghiệp tẩu tán tiền trong tài khoản đã phong tỏa để thi hành án.
Ví dụ: Quyết định số 29/2018/QĐPT-KDTM ngày 03/4/2018 của Tòa án

nhân dân Thành phố C tuyên: Công ty cổ phần CA phải trả cho Công ty TNHH
Xây dựng Thương mại CM số tiền 1.143.415.000 đồng. Công ty TNHH Xây dựng
Thương mại CM cung cấp cho Chi cục Thi hành án dân sự quận T được biết Công
ty cổ phần CA có mở tài khoản tại Ngân hàng TMCP BID – Chi nhánh 3/2. Hết
18


thời hạn tự nguyện thi hành án Công ty cổ phần CA không tự nguyện thi hành án,
Chấp hành viên tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của Công ty cổ phần CA
tại Ngân hàng TMCP BID – Chi nhánh 3/2 thì Ngân hàng TMCP BID – Chi nhánh
3/2 cung cấp tài khoản Công ty cổ phần CA mở tại ngân hàng có số dư là
102.000.000 đồng. Chấp hành viên tiến hành giao Quyết định phong tỏa tài khoản
cho Ngân hàng TMCP BID – Chi nhánh 3/2 vào hồi 15 giờ để phong tỏa số tiền
102.000.000 đồng. Tuy nhiên, Ngân hàng TMCP BID – Chi nhánh 3/2 không thực
hiện ngay quyết định phong tỏa tài khoản của Chấp hành viên và thực hiện quyết
định phong tỏa tài khoản vào hồi 16 giờ với số dư phong tỏa là 1.000.000 đồng.
Như vậy, Ngân hàng TMCP BID – Chi nhánh 3/2 đã không thực hiện đúng theo
yêu cầu của Chấp hành viên phong tỏa tài khoản ngay dẫn đến tiền trong tài
khoản bị tẩu tán.
4. Biện pháp cưỡng chế thi hành án
Cưỡng chế thi hành án dân sự trong thi hành án kinh doanh thương mại là
biện pháp cưỡng bức bắt buộc của cơ quan thi hành án nhằm buộc đương sự
(người phải thi hành án) phải thực hiện những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản
theo bản án, quyết định của Tòa án, được áp dụng trong trường hợp người phải thi
hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành trong thời hạn ấn
định hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải thi hành án tầu tán, hủy hoại
tài sản. Các biện pháp cưỡng chế thi hành án đó là: khấu trừ tiền trong tài khoản;
thu tiền từ hoạt động kinh doanh; thu tiền của người phải thi hành án đang do
người thứ ba giữ; thu giữ và bán giấy tờ có giá; kê biên vốn góp của người phải thi
hành án là doanh nghiệp.

4.1. Biện pháp cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản của người phải
thi hành án.
Biện pháp khấu trừ tiền trong tài khoản của người phải thi hành án được áp
dụng sau khi áp dụng biện pháp bảo đảm là biện pháp phong tỏa tài khoản. Mặc dù
pháp luật có quy định ngân hàng phải thực hiện khấu trừ tiền trong tài khoản theo
quyết định khấu trừ tiền của cơ quan thi hành án dân sự nhưng vẫn còn một số
ngân hàng vẫn còn vận dụng nhiều lý do để trì hoãn việc khấu trừ tiền đối với số
19


tiền lớn phải xin ý kiến của hội sở hoặc viện lý do bảo vệ khách hàng nên trì hoãn
việc thực hiện quyết định cưỡng chế của cơ quan thi hành án dân sự, khiến vụ việc
kéo dài, dẫn đến người được thi hành án bức xúc, khiếu nại cơ quan thi hành nhiều
lần. Trường hợp số tiền phải thi hành án lớn nhưng lại bị trì hoãn nằm trong ngân
hàng trong khi nhu cầu tái đầu tư của người được thi hành án cấp thiết sẽ là thiệt
hại không nhỏ cho người được thi hành án. Trái lại, đối với ngân hàng khoản tiền
đó lại là khoản lợi nhuận đáng kể.
Ví dụ: Bản án số 123/KDTM-ST ngày 19/7/2016 của Tòa án nhân dân quận
T, Thành phố H tuyên Công ty cổ phần quốc tế C có trách nhiệm thanh toán cho
Công ty cổ phần AC số tiền 1.000.000.000 đồng. Ngày 29/7/2018, Công ty cổ phần
AC làm đơn yêu cầu thi hành án, Chi cục Thi hành án dân sự quận T ban hành
Quyết định thi hành án số 3765/QĐ-CCTHADS ngày 02/8/2016. Hết thời hạn tự
nguyện thi hành án, quá trình xác minh điều kiện thi hành án, Chấp hành viên xác
minh được Công ty cổ phần quốc tế C có mở tài khoản tại Ngân hàng TMCP V có
số dư 1.102.347.000 đồng. Chấp hành viên tiến hành giao quyết định phong tỏa
tài khoản đối với số tiền 1.000.000.000 cho Ngân hàng TMCP V và có sự xác nhận
của Ngân hàng V ngày 25/8/2016. Ngày 26/8/2016, Chi cục Thi hành án dân sự
quận T tiến hành giao cho Ngân hàng V quyết định khấu trừ tiền trong tài khoản
để thi hành án và có xác nhận của Ngân hàng. Tuy nhiên, Ngân hàng V không thực
hiện ngay việc chuyển tiền cho cơ quan thi hành án mà đến ngày 23/9/2016 mới

thực hiện khấu trừ và có công văn thông báo cho cơ quan thi hành án. Điều này
làm ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi của người được thi hành án và làm có lợi cho
phía Ngân hàng V.
4.2. Biện pháp cưỡng chế thu tiền từ hoạt động kinh doanh.
Thu tiền từ hoạt động kinh doanh của người phải thi hành án là một trong
những biện pháp cưỡng chế thi hành án đối với tài sản là tiền của người phải thi
hành án. Quy định về biện pháp cưỡng chế thu tiền từ hoạt động kinh doanh của
người phải thi hành án là một quy định tiến bộ và phù hợp với sự phát triển của xã
hội. Áp dụng thành công biện pháp này sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian, công
20


sức của Chấp hành viên và nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự. Tuy nhiên, trên
thực tế, biện pháp này gần như rất ít khi được áp dụng, do:
- Theo quy định tại Điều 79 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm
2014:“ Trường hợp người phải thi hành có thu nhập từ hoạt động kinh doanh thì
Chấp hành viên ra quyết định thu tiền từ hoạt động kinh doanh của người đó để
thi hành án”. Việc xác định doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh là điều không
khó, tuy nhiên, để xác định được mức thu nhập từ hoạt động kinh doanh của người
phải thi hành án thì lại vô cùng khó khăn. Điều này xuất phát từ việc nền kinh tế
nước ta vẫn chủ yếu tiêu dùng bằng tiền mặt nên việc quản lý thu nhập từ hoạt
động kinh doanh của người phải thi hành án là rất khó khăn.
- Thiếu các căn cứ pháp lý để xác định mức thu tiền từ hoạt động kinh
doanh: Khoản 1 Điều 22 Nghị định 62/2015/NĐ-CP có quy định: “Khi xác định
mức tiền thu từ hoạt động kinh doanh của người phải thi hành án, Chấp hành viên
căn cứ vào kết quả kinh doanh trên cơ sở sổ sách, giấy tờ và tình hình kinh doanh
thực tế của người phải thi hành án”. Trong quá trình thi hành án, để người phải thi
hành án cung cấp các loại giấy tờ, sổ sách, chứng từ mua bán cho cơ quan Thi hành
án dân sự là một điều hết sức khó khăn, gần như không thể thực hiện được. Pháp
luật thi hành án dân sự hiện nay cũng không có chế tài pháp lý để xử lý đối với các

trường hợp người phải thi hành án không cung cấp, cung cấp không đầy đủ hoặc
cung cấp không chính xác các loại sổ sách, giấy tờ của người phải thi hành án. Do
đó cơ quan thi hành án dân sự không có đủ các căn cứ pháp lý và thực tế để xác
định, định lượng được mức tiền thu từ hoạt động kinh doanh của người phải thi
hành án.
- Quy định về xác định mức tiền để lại cho người phải thi hành án còn chưa
rõ ràng: Theo quy định tại Điều 79 Luật Thi hành án dân sự “Khi ra quyết định thu
tiền, Chấp hành viên phải để lại số tiền tối thiểu cho hoạt động kinh doanh và sinh
hoạt của người phải thi hành án và gia đình”. Khoản 2 Điều 22 Nghị định số
62/2015/NĐ-CP quy định: “Mức tiền tối thiểu để lại cho người phải THA phải
đảm bảo điều kiện sinh hoạt tối thiểu cho người phải THA và người mà người đó
có nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi dưỡng. Việc xác định mức sinh hoạt tối thiểu của
21


người phải THA và người mà người đó có nghĩa vụ cấp dưỡng, nuôi dưỡng được
căn cứ vào chuẩn hộ nghèo của từng địa phương nơi người đó cư trú, nếu địa
phương chưa có quy định thì theo chuẩn hộ nghèo do Thủ tướng Chính phủ ban
hành theo từng giai đoạn cụ thể”. Mức tiền tối thiểu để lại cho hoạt động sản xuất,
kinh doanh do chấp hành viên ấn định căn cứ vào tính chất ngành, nghề kinh
doanh; quy mô kinh doanh của người phải thi hành án và mức ấn định này có thể
được điều chỉnh. Tuy nhiên rất khó để xác định được mức tiền tối thiểu để lại cho
hoạt động sản xuất kinh doanh của người phải thi hành án. Việc xác định tính chất
ngành, nghề kinh doanh; quy mô kinh doanh của người phải thi hành án cũng hoàn
toàn phụ thuộc vào cảm tính của chấp hành viên nên rất dễ dẫn đến các khiếu nại
của đương sự về mức tiền tối thiểu để lại cho hoạt động sản xuất kinh doanh, gây
khó khăn cho chấp hành viên khi thi hành nhiệm vụ.
Chính vì các quy định pháp luật để áp dụng biện pháp thu tiền từ hoạt động
kinh doanh của người phải thi hành án còn chưa cụ thể, rõ ràng nên các Chấp hành
viên còn nhiều e ngại khi áp dụng biện pháp này.

4.3. Biện pháp cưỡng chế thu tiền của người phải thi hành án đang do
người thứ ba giữ.
Theo Điều 81 Luật Thi hành án dân sự: “Trường hợp phát hiện người thứ ba
đang giữ tiền của người phải thi hành án thì Chấp hành viên ra quyết định thu
khoản tiền đó để thi hành án. Người thứ ba đang giữ tiền của người phải thi hành
án có nghĩa vụ giao nộp tiền cho Chấp hành viên để thi hành án. Chấp hành viên
lập biên bản thu tiền, cấp biên lai cho người thứ ba đang giữ tiền và thông báo
cho người phải thi hành án. Trường hợp người thứ ba đang giữ tiền không ký vào
biên bản thì phải có chữ ký của người làm chứng”
Điều 23 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự quy định
thu tiền, tài sản của người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ như sau:
“1. Khi có căn cứ xác định tổ chức, cá nhân đang giữ tiền, tài sản của
người phải thi hành án thì Chấp hành viên lập biên bản làm việc hoặc có văn bản
yêu cầu tổ chức, cá nhân đang giữ tiền, tài sản giao nộp cho cơ quan thi hành án
22


dân sự để thi hành án.Tổ chức, cá nhân đang giữ tiền, tài sản của người phải thi
hành án không thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên về việc giao nộp số tiền, tài
sản đó thì bị áp dụng các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế để thi hành án.
Chi phí cưỡng chế thi hành án do người phải thi hành án chịu.
2. Trường hợp người thứ ba đang giữ tiền, tài sản của người phải thi hành
án không thực hiện yêu cầu của Chấp hành viên mà giao tiền, tài sản đó cho người
phải thi hành án hoặc người khác dẫn đến việc không thể thi hành được cho người
được thi hành án thì người thứ ba phải bồi thường thiệt hại theo quy định của
pháp luật.
3. Trường hợp phát hiện tổ chức, cá nhân đang phải trả tiền, tài sản cho
người phải thi hành án mà khoản tiền, tài sản đó đã được xác định bằng bản án,
quyết định của Tòa án đang có hiệu lực pháp luật thì Chấp hành viên yêu cầu tổ

chức, cá nhân đó giao nộp số tiền, tài sản cho cơ quan thi hành án dân sự để thi
hành án. Nếu tổ chức, cá nhân đó không thực hiện thì Chấp hành viên áp dụng
biện pháp cưỡng chế thi hành án cần thiết đối với tổ chức, cá nhân đó để thu tiền,
tài sản thi hành án. Chi phí cưỡng chế thi hành án trong trường hợp này do tổ
chức, cá nhân bị cưỡng chế thi hành án chịu”.
Quy định của pháp luật của pháp luật về biện pháp cưỡng chế thu tiền của
người phải thi hành án đang do người thứ ba giữ là khá cụ thể. Tuy nhiên, trên thực
tế thì việc xác định người thứ ba đang giữ tiền của người phải thi hành án là doanh
nghiệp cũng gặp nhiều khó khăn và cũng khó nhận được sự hợp tác từ người đang
giữ tài sản. Việc xác định tiền đang do người thứ ba giữ chủ yếu là do người được
thi hành án cung cấp nên việc áp dụng biện pháp này cũng khá hạn chế. Trong khi
đó việc người phải thi hành án là doanh nghiệp cung cấp người đang giữ tiền của
họ là điều bất khả thi. Cơ quan thi hành án dân sự và người được thi hành án khó
tiếp cận được các hợp đồng kinh tế của doanh nghiệp phải thi hành án do tại nước
ta hiện nay chưa có cơ sở dữ liệu quốc gia về tài sản của doanh nghiệp và việc
người thứ ba giữ tiền của doanh nghiệp thường nằm trong hợp đồng hợp tác kinh
doanh nên việc xác định người thứ ba giữ tiền cũng rất khó khăn. Ngoài ra, không
23


phải lúc nào người thứ ba giữ tiền cũng hợp tác với cơ quan thi hành án nên việc
thu tiền từ người thứ ba cũng rất nhiêu khê.
Ví dụ: Bản án số 280/2016/KDTM-ST ngày 20/5/2016 của Tòa án nhân dân
quận BT, Thành phố H tuyên: Công ty cổ phần TC có trách nhiệm thanh toán cho
Công ty TNHH SK số tiền 3.200.000.000 đồng. Chi cục Thi hành án dân sự quận T
đã ban hành Quyết định thi hành án số 2568/QĐ-CCTHADS ngày 20/7/2017 của
Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án dân sự quận BT. Quá trình xác minh điều kiện
thi hành án Chấp hành viên xác minh được Tổng công ty ĐLMN đang giữ của
Công ty cổ phần TC số tiền 2.800.000.000 đồng là tiền thi công công trình lắp đặt
thang máy trụ sở của Tổng công ty ĐLMN. Chấp hành viên ban hành Quyết định

thu tiền do người thứ ba đang giữ và yêu cầu Tổng công ty ĐLMN chuyển số tiền
cho cho Chi cục Thi hành án dân sự quận BT để tiến hành thanh toán cho Công ty
TNHH SK. Sau khi nhận được Quyết định thu tiền do người thứ ba đang giữ thì
Công ty cổ phần TC có công văn gửi Tổng công ty ĐLMN nếu chuyển số tiền trên
chi Chi cục Thi hành án dân sự quận BT thì Công ty cổ phần TC sẽ ngừng cung
cấp dịch vụ đối với hệ thống thang máy đã lắp đặt. Điều này đặt Tổng công ty
ĐLMN vào tính trạng tiến thoái lưỡng nan nên việc chuyển tiền thi hành án bị kéo
dài gây thiệt hại cho người được thi hành án.
4.4. Biện pháp cưỡng chế thu giữ và bán giấy tờ có giá.
Ngoài các biện pháp cưỡng chế đối với tài sản là tiền, Luật thi hành án dân
sự còn quy định các biện pháp cưỡng chế đối với tài sản là giấy tờ có giá. Điều này
là hoàn toàn phù hợp với tình hình phát triển của xã hội. Các quy định về biện pháp
cưỡng chế thu giữ và bán giấy tờ có giá tương đối chi tiết về trình tự, thủ tục
nhưng khi áp dụng các quy định trên vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn.
- Xác định khái niệm về giấy tờ có giá
Trong thực tế kiến thức của chấp hành viên thi hành án về các loại giấy tờ có
giá rất hạn chế, thậm chí có nhiều chấp hành viên còn hiểu sai khái niệm về các
loại giấy tờ có giá dẫn đến khó khăn khi áp dụng quy định của pháp luật. Các loại
giấy tờ có giá rất đa dạng và phong phú, đòi hỏi chấp hành viên phải có những hiểu
biết nhất định thì mới có thể hiểu rõ và áp dụng đúng các quy định pháp luật.
24


- Xác minh giấy tờ có giá
Việc xác minh giấy tờ có giá đang do người phải thi hành án hoặc người thứ
ba giữ, Chấp hành viên gặp nhiều khó khăn khi xác minh bởi phải xác định được
giấy tờ có giá là loại gì, giá trị bao nhiêu, nguồn gốc của tài sản và rất khó để biết
được các thông tin về loại giấy tờ có giá, cơ quan quản lý giấy tờ có giá, công ty
ban hành cổ phiếu, trái phiếu. Bên cạnh đó còn các khó khăn khác như việc phối
hợp cung cấp thông tin của các cơ quan có thẩm quyền, các cơ quan quản lý tài sản

là giấy tờ có giá còn hạn chế, chưa kịp thời và hiệu quả.
- Việc bán giấy tờ có giá
Theo điều 83 Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014 quy định
về bán giấy tờ có giá: “Việc bán giấy tờ có giá được thực hiện theo quy định của
pháp luật”. Nhưng thực tế thì hiện nay chưa có văn bản pháp luật hướng dẫn cụ
thể việc bán giấy tờ có giá để đảm bảo thi hành án nên việc bán tài sản là giấy tờ có
giá gặp nhiều khó khăn.
4.5. Biện pháp cưỡng chế kê biên vốn góp.
Theo khoản 13 Điều 4 luật doanh nghiệp năm 2014 thì “Góp vốn là việc góp
tài sản để tạo thành vốn điều lệ của công ty. Góp vốn bao gồm góp vốn để thành
lập doanh nghiệp hoặc góp thêm vốn điều lệ của doanh nghiệp đã được thành
lập””; khoản 21 Điều 2 LDN 2014 giải thích về phần vốn góp như sau: “Phần vốn
góp là tổng giá trị tài sản của một thành viên đã góp hoặc cam kết góp vào công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh. Tỷ lệ phần vốn góp là tỷ lệ giữa phần vốn
góp của một thành viên và vốn điều lệ của công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty
hợp danh” và Điều 35 Luật doanh nghiệp năm 2014 thì “Tài sản góp vốn có thể là
Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị
quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác có thể định giá
được bằng Đồng Việt Nam”. Tài sản để tham gia vào việc góp vốn là rất đa dạng,
tuy nhiên, để tài sản góp vốn trở thành phần vốn góp, thì những tài sản trên phải
được định giá. cụ thể, tại khoản 1 Điều 37 Luật doanh nghiệp 2014 quy định “Tài
sản góp vốn không phải là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng phải
25


×