Tải bản đầy đủ (.docx) (116 trang)

Thực trạng mất răng và đánh giá kết quả phục hình tháo lắp từng phần nền nhựa ở người cao tuổi tại thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.48 MB, 116 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Các bệnh về răng miệng nói chung và mất răng nói riêng, đang là vấn đề
quan tâm lớn trên thế giới cũng như ở nước ta do tính phổ biến và những hậu
quả của nó. Theo kết quả điều tra của Tổ chức y tế thế giới (WHO) năm 1999,
tỉ lệ mất răng ở lứa tuổi 65-74 dao động từ 12,8 - 69,6%; số răng mất trung
bình từ 3,8 - 15,1 răng [1]. Ở Việt Nam, theo kết quả điều tra của Nguyễn Văn
Bài năm 1994 ở miền Bắc, tỉ lệ mất răng nói chung là 42,1% và nhu cầu phục
hình răng là 59,79%, đặc biệt ở nhóm tuổi trên 65 có tỉ lệ mất răng rất cao là
95,21%; nhu cầu phục hình là 90,43% [2].
Mất răng để lại những hậu quả nặng nề, không chỉ tại chỗ mà còn ảnh
hưởng đến toàn thân, làm giảm tuổi thọ và chất lượng cuộc sống của mỗi cá
nhân[3]. Chính vì vậy, năm 1986, Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã xếp bệnh
răng miệng là mối quan tâm thứ 3 đối với sức khỏe loài người sau ung thư và
các bệnh về tim mạch. Theo quy luật của thời gian, với người già thì tuổi càng
cao sức khỏe càng giảm, bệnh tật càng nhiều, đặc biệt là những bệnh tật về
răng miệng. Trong đó mất răng và hậu quả của nó tỉ lệ thuận với tuổi tác.
Giảm tỉ lệ mất răng và điều trị phục hình răng một cách hiệu quả là đã
giải quyết một vấn đề rất căn bản để duy trì sức khỏe và cải thiện chất lượng
cuộc sống cho con người nhất là NCT. Trong các loại phục hình răng thì phục
hình tháo lắp từng phần nền nhựa thường vẫn là phục hình phù hợp với NCT
bởi tính kinh tế, dễ vệ sinh, thời gian điều trị nhanh và phù hợp tâm lý NCT
sợ mài răng sợ điều trị tủy. Do những thành tựu phát triển kinh tế và dịch vụ
xã hội, tuổi thọ trung bình tăng, mức sinh giảm dẫn đến dân số già tăng lên
nhanh chóng trên toàn thế giới. Xu hướng già hoá dân số kéo theo vấn đề
chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho một số lượng đông đảo NCT đang là một
thách thức lớn đối với toàn nhân loại trong thế kỷ XXI. Tương lai của mỗi
quốc gia và toàn nhân loại đang gắn liền với sức khoẻ của những NCT.



2

Việt Nam là một nước đang phát triển, mặc dù hiện tại cấu trúc dân số
vẫn thuộc loại trẻ, song số NCT đang có xu hướng tăng nhanh. Tỉ lệ NCT
năm 1989 là 7,2%, năm 2003 tăng thêm 1,45% và đến năm 2009 theo thống
kê của Trung ương Hội người cao tuổi Việt Nam, NCT ở nước ta là 8,2 triệu
người, năm 2014 có 9,5 triệu NCT trên cả nước. Vấn đề chăm sóc sức khoẻ
NCT không phải là mới, chính sách đã khá cụ thể, song dường như việc triển
khai chưa đạt được kết quả như mong muốn.
Hà Nội là Thủ đô của cả nước, với dân số gần 9 triệu người, trong tương
lai gần sẽ có hàng triệu NCT sinh sống trên địa bàn. Chăm sóc đời sống vật
chất và tinh thần cho NCT, trong đó chăm sóc sức khỏe là vấn đề cốt lõi, đang
là trách nhiệm, là mối quan tâm hàng đầu của Đảng bộ và Chính quyền thành
phố. Mặc dù trình độ dân trí khá cao, tiếp cận các dịch vụ chăm sóc y tế khá
thuận tiện, song vấn đề chăm sóc sức khỏe, đặc biệt chăm sóc sức khỏe răng
miệng cho NCT ở Thủ đô còn nhiều hạn chế. Việc cập nhật thông tin còn
chưa thường xuyên, bức tranh chung về bệnh răng miệng và nhu cầu điều trị
còn phiến diện và chưa rõ ràng, còn thiếu các giải pháp điều trị phù hợp cho
từng nhóm đối tượng.
Với những lý do trên, để góp phần cung cấp thông tin và giải pháp giải
quyết vấn đề răng miệng cho NCT ở Thủ đô nói riêng và cả nước nói chung,
trên cở sở đề tài cấp bộ về thực trạng bệnh răng miệng người cao tuổi trên 8
tỉnh và thành phố tại Việt Nam, trong đó có Hà Nội do Viện Đào Tạo Răng
Hàm Mặt tiến hành từ năm 2015, chúng tôi thực hiện đề tài: “Thực trạng mất
răng và đánh giá kết quả phục hình tháo lắp từng phần nền nhựa ở người
cao tuổi tại thành phố Hà Nội ”, với 2 mục tiêu sau:
1.

Mô tả thực trạng mất răng, một số yếu tố liên quan và nhu cầu
phục hình ở người cao tuổi tại thành phố Hà Nội năm 2015.


2.

Đánh giá kết quả phục hình tháo lắp từng phần nền nhựa ở người
cao tuổi tại thành phố Hà Nội năm 2016-2017.


3

Chương 1
TỔNG QUAN
Pháp lệnh người cao tuổi ở Việt Nam (số 23/2000/PL-UBTVQH, ra ngày
06/04/2000) nhận định: "người cao tuổi có công sinh thành, nuôi dưỡng, giáo
dục con cháu về nhân cách, có vai trò quan trọng trong gia đình và xã hội".
Xong kết quả của cuộc điều tra sức khỏe răng miệng toàn quốc tiến hành năm
2002 thấy số răng mất của người trên 45 tuổi là 6,6 cao gấp 3 lần so với số
răng sâu [4]. Vì vậy chăm sóc sức khỏe cho người cao tuổi cần phải có sự
quan tâm của toàn xã hội, của chính phủ nhiều nước trên thế giới cũng như
Việt Nam.
1.1. Đại cương về người cao tuổi.
1.1.1. Khái niệm.
Vào năm 1982 dựa trên cơ sở nghiên cứu y sinh học và xã hội học, Hội
nghị quốc tế về người cao tuổi tại Viên – Áo đã qui định đó là những người
từ 60 tuổi trở lên ( 60 tuổi) không phân biệt giới tính [5].
1.1.1.1. Trên thế giới
Tỉ lệ người cao tuổi sẽ tăng từ 8,5% vào năm 1950 lên 13,7% vào năm
2025 và đến năm đó trung bình cứ 7 người dân thì có 1 NCT trên phạm vi
toàn thế giới. Quỹ dân số Liên Hợp Quốc đã thống kê đến giữa năm 1995, số
NCT trên thế giới có khoảng 542,7 triệu người và ước tính năm 2025 là 1,121
tỉ người [6].

Trên thế giới nhóm nghiên cứu Gerontology cho biết người dân tại thành
phố New York đạt tới tuổi thọ là 116 tuổi, người dân nước Pháp có tuổi thọ
cao là 122 tuổi và 164 ngày.


4

Tại Nhật tuổi thọ trung bình là 74,8 với nam và 80,5 với nữ; Thụy Điển
73,8 với nam và 79,9 với nữ, Australia (Nam 72,1- Nữ 78,7), Canada (Nam
72,l - nữ 79,0), Đức (Nam 70,5 - nữ 77,l) [6].
1.1.1.2. Tại Việt Nam
Việt Nam là một nước đang phát triển, số NCT đang có xu hướng tăng
nhanh. Theo số liệu của 03 cuộc Tổng điều tra dân số của Tổng cục thống kê
Việt Nam: trong vòng 20 năm trở lại đây, số lượng người cao tuổi đã tăng
khoảng 2 lần.
Năm 1950 số NCT là 1,95 triệu chiếm 6,5% (tuổi thọ trung bình là 32).
Năm 1970 số NCT là 2,84 triệu (6,8%).
Tuổi thọ trung bình năm 1999 là 67,4, tuổi thọ trung bình hiện nay là 7273 tuổi, ước tính khoảng 30 năm tới (1999-2029) tuổi thọ nam là 72,6 và nữ
là 78,6. Số lượng tăng từ 6,2 tới trên 16,5 triệu người chiếm 17,8% dân số [7].
Tại Việt Nam người cao tuổi nhất là 123 tuổi.
Dân số Việt Nam có một đặc điểm là quốc gia có cơ cấu dân số trẻ, xong
tuổi thọ bình quân và tỉ lệ người 65 là cao so với nhiều nước trong khu vực
và trên thế giới. So với tỉ lệ tăng dân số chung thì tỉ lệ người cao tuổi Việt
Nam tăng gần 4 lần. Theo các quan niệm của người phương Đông và phương
Tây đối với NCT cần khích lệ người già sống lâu sống vui sống khỏe, với
truyền thống và phong tục tập quán văn hoá phương Đông, quan hệ gia đình
gắn bó, NCT luôn được quan tâm chăm sóc và kính trọng.
Trong các năm gần đây (2010-2012), trung bình mỗi năm chỉ số già hoá
dân số của Việt Nam tăng thêm 2,4%, từ năm 2009 đến 2019 ước tính tỉ lệ NCT
tăng lên 3,09% [8]. Như vậy chỉ trong vòng 10 năm tới Việt Nam sẽ phải đối

mặt với các khó khăn do việc "già hóa dân số" mang lại.


5

Bảng 1.1. Tỉ lệ dân số người cao tuổi Việt Nam (1979 đến 2049) [8]
Nhóm tuổi

Tỉ lệ người cao tuổi (%)
1979

1989

1999

2009

2019

2029

2039

2049

60-64

2,28

2,40


2,31

2,26

4,29

5,28

5,80

7,04

65-69

1,90

1,90

2,20

1,81

2,78

4,56

5,21

6,14


70-74

1,34

1,40

1,58

1,65

1,67

3,36

4,30

4,89

75-79

0,90

0,80

1,09

1,40

1,16


1,91

3,28

3,87

80+

0,54

0,70

0,93

1,47

1,48

1,55

2,78

4,16

Tổng

6,96

7,20


8,11

8,69

11,78 16,66 21,37 26,10

Hiện nay về hệ thống cơ sở hạ tầng và mặt bằng kinh tế, dân trí của
nước ta còn thấp. Nếu như Việt Nam không có sự chuẩn bị tốt ngay từ bây giờ
thì trong tương lai áp lực của việc "già hóa dân số" sẽ ngày càng đè nặng lên
Xã hội. Hậu quả là việc chăm sóc mang tính toàn diện đối với NCT ở nước ta
khó có thể thực hiện được tốt [9].
1.1.2. Một số đặc điểm cơ bản người cao tuổi
Thay đổi chuyển hóa cơ bản và chuyển hóa glucoza có thể xảy ra trên
NCT do khối cơ bắp giảm, cấu tạo khối cơ bắp của cơ thể thay đổi nhanh chóng
khi tuổi càng cao lên. Khối cơ giảm dẫn đến sự linh hoạt và sức khỏe của người
già giảm, người già thường mất cân bằng dễ ngã gây gãy chân tay và gãy răng.
Ở người cao tuổi, quá trình tổng hợp vitamin D ở da giảm trong khi
lượng vitamin D ăn vào không đủ. Đồng thời, do thời gian tiếp xúc với nắng ở
người cao tuổi giảm dẫn đến loãng xương và tăng nguy cơ gãy xương.


6

Theo năm tháng của cuộc đời, kích thước của một số tổ chức miễn dịch
dần dần nhỏ đi. Chức năng miễn dịch ở limpho T giảm dần khi tuổi đời cao lên
do interleukin II sản xuất không đủ, phản ứng của tế bào miễn dịch do đó kém
linh hoạt. Các chất dinh dưỡng được ăn vào có tác dụng khá nhạy cảm đối với
hệ thần kinh trung ương, đồng thời hệ thần kinh cũng có tác động rõ rệt đến
lượng thức ăn mà người cao tuổi tiêu thụ. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh

rằng, chức năng khứu giác và vị giác giảm xuống ở người già, điều này có thể
gây ảnh hưởng đến hành vi ăn uống.
Người cao tuổi thường bị các bệnh như:
- Bệnh tim mạch: Thường gặp cơn đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, tăng
huyết áp, tai biến mạch máu não, tâm phế mạn, rối loạn nhịp tim.
- Bệnh hô hấp: Viêm phế quản mạn, hen phế quản.
- Bệnh hệ tiêu hoá: Ung thư gan xơ gan, viêm loét dạ dầy - tá tràng.
- Bệnh thận và tiết niệu: Viêm thận mạn, sỏi tiết niệu, u xơ tiền liệt tuyến.
- Bệnh nội tiết chuyển hóa: Đái tháo đường, suy giáp, suy sinh dục,
tăng chlesterol máu, tăng acid uric máu, suy vỏ thượng thận.
- Bệnh tâm thần: Trầm cảm, hoang tưởng, sa sút trí tuệ kiểu Alzheimen
- Bệnh thần kinh: Bệnh parkinson, rối loạn tuần hoàn não, viêm đa dây
thần kinh, chèn ép dây thần kinh do thoái hóa cột sống.
Khi tuổi càng cao thì sức đề kháng càng giảm, bệnh toàn thân xuất
hiện và sức khỏe răng miệng bị ảnh hưởng càng lớn. Tình trạng vùng răng
miệng cũng nằm trong hệ thống những biến đổi suy thoái nên dễ bị nhiễm
trùng nhất là khi NCT có bệnh toàn thân đi kèm như bệnh đái đường [10].


7

1.2. Mất răng ở người cao tuổi
1.2.1. Đặc điểm sinh lý, bệnh lý răng miệng người cao tuổi
1.2.1.1. Đặc điểm sinh lý ở vùng răng miệng NCT
Theo nghiên cứu [11] cho thấy cùng với quá trình lão hóa răng NCT dễ bị
tổn thương do biến đổi về chuyển hoá, trao đổi chất kém ở men, ngà bị xơ hoá
(các ống Tome bị vôi hoá) hậu quả là răng bị mòn lớp men ở ngoài, bị sứt mẻ ở
mặt nhai và rìa cắn, răng giòn dễ bị gãy vỡ, sâu răng [12].

Hình 1.1. Răng mòn, sứt mẻ ở rìa cắn, tụt lợi, tiêu xương [13]

Vấn đề điều trị nội nha và phục hồi gặp nhiều khó khăn vì biến đổi ở tuỷ
răng. Sự tiếp xúc giữa các răng, chiều dài trước – sau của cung răng thay đổi.
Nhổ răng sẽ khó hơn vì độ dày của lớp xương răng tăng lên, chân răng
thì phì đại hình dùi trống.
Các biến đổi theo tuổi làm cho mô liên kết lợi giảm khả năng chống lại
các tác động lý học khi đó lợi bị teo và co gây hở chân răng, buốt răng. Biểu
mô phủ và mô liên kết NCT giảm gắn kết, giảm tính đàn hồi, tăng sự nhạy
cảm, chịu lực kém, dễ bị tổn thương và lâu lành.
Hệ thống dây chằng quanh răng giảm kèm xương ổ răng tiêu xương
khiến răng lung lay.
Tuyến nước bọt có hiện tượng giảm tiết. Nước bọt ít làm giảm khả năng
đệm và toan hoá dễ gây sâu răng và tăng nguy cơ viêm nhiễm ở răng miệng
NCT nhất là bệnh quanh răng và hậu quả là mất răng. Theo Chistensen J,


8

Douglass C.W, Barnett N.A, Ketterl W, Mallet J.P, Nitzan D.W và nhiều
nghiên cứu khác [14],[15],[16],[17],[18].
Như vậy vùng răng miệng có biến đổi theo xu hướng thoái triển từ từ,
tạo ra những rối loạn không hồi phục cả về hình thái và chức năng
1.2.1.2. Đặc điểm bệnh lý răng miệng ở người cao tuổi
Bệnh lý răng miệng của NCT như sâu răng, bệnh quanh răng và mất
răng rất cao.
- Tổn thương mô cứng hay gặp nhất là hiện tượng mòn răng, gẫy vỡ thân
răng, mòn và tiêu cổ chân răng hình chêm [19].

Hình 1.2. Tiêu cổ chân răng, mất răng[13]
- Bệnh lý ở tuỷ răng thường gặp là thể viêm tuỷ mạn và khi đó biểu hiện
lâm sàng thường kín đáo [20],[21].

- Bệnh ở niêm mạc, dưới niêm mạc và cơ là: các tổn thương dạng tiền
ung thư (bạch sản chiếm tỉ lệ cao nhất, liken phẳng, hồng sản với khoảng 50%
là ung thư tại chỗ hay xâm lấn và một số tình trạng khác…). Niêm mạc miệng
bị tổn thương, xuất hiện chứng khô miệng ở những người có bệnh tại tuyến
hoặc do dùng nhiều loại thuốc có tác dụng phụ gây giảm tiết hoặc không có
nước bọt từ đó tăng nguy cơ sâu răng. Ở những người già mang hàm giả có
dấu hiệu viêm nấm candida do thể trạng yếu, suy giảm miễn dịch. Những tổn
thương sừng hoá, teo đét niêm mạc miệng, xơ hoá dưới niêm mạc ở người ăn


9

trầu [22], đặc biệt là những tổn thương gây ung thư niêm mạc miệng được
phát hiện ở NCT.
1.2.1.2.1 Bệnh sâu răng
* Một số đặc điểm lâm sàng của bệnh sâu răng ở người cao tuổi
Sâu răng ở NCT thường tiến triển chậm, triệu chứng lâm sàng nghèo
nàn, đáy lỗ sâu có màu nâu sẫm, men bờ lỗ sâu sứt mẻ và ít ê buốt. Một số
nghiên cứu gần đây thấy tỉ lệ sâu răng của NCT tăng từ 30% đến 69,3%, chỉ
số sâu mất trám cũng tăng từ 2,37 đến 15,6[23],[24].

Hình 1.3. Hình ảnh sâu nhiều răng, rạn vỡ men răng[13]
Người cao tuổi thường có nhiều chân răng trong miệng (do sâu nhiều
mặt, sâu vỡ hết thân răng), có hình ảnh tổn thương sâu cộng với sự rạn nứt,
gẫy vỡ ở men ngà tích luỹ dần theo năm tháng.
* Một số đặc điểm về bệnh căn, bệnh sinh và yếu tố nguy cơ
Có nhiều nghiên cứu về nguyên nhân sâu răng [25]. Các giải thích của
Key từ đầu thế kỷ XX, của White năm 1975 đã thể hiện sự tiếp cận sâu sắc từ
quan điểm tới thực nghiệm về căn bệnh trong đó có vai trò của các yếu tố:
nước bọt, độ pH, Fluor, vi khuẩn, chất ăn uống có đường cùng một số yếu tố

khác tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh phát triển.


10

* Tình hình nghiên cứu bệnh sâu răng ở người cao tuổi
Để đánh giá tình trạng sâu răng, các nghiên cứu thường tính đến tỉ lệ
người mắc và chỉ số SMT trung bình mỗi người trong cộng đồng.. Tuy nhiên,
ở nhiều nước chưa phát triển với mức độ mắc sâu răng rất thấp, những thông
tin về bệnh ở trẻ em vẫn chưa đủ để mô tả về tình trạng sâu răng của cộng
đồng (Luan W.M và Cs 1989). Ở châu Á, năm 1989 Luan và Cs điều tra 338
người  66 tuổi tại Trung Quốc thấy ở tuổi 66 - 69 chỉ số SMT là 16,6 và ở
tuổi 70 trở lên là 21,4 [26].
Bảng 1.2. Tình hình sâu, mất, trám và chỉ số SMT qua một số nghiên cứu
tại Việt nam
Tác giả, quốc gia

Tuổi

1985

≥ 65

435 76,0

Lâm Ngọc Ấn, Việt 2000

≥ 45

999 89,7


Nguyễn Văn Cát và
Cs, Bắc Việt Nam
Trần Văn Trường,

n

Tỉ lệ

Năm

%

Nam [31]

Sâu Mất
0,1
5
2,1
0

Trá
m

SMT

9,8

0,1


10,0

6,6

0,2

8,90

Tại Việt Nam, một nghiên cứu ở thành phố Hồ Chí Minh cũng chỉ ra
tình trạng sâu răng ở nhóm người ≥ 60 tại các nhà dưỡng lão có tỉ lệ mắc tới
96,8% với số răng sâu chưa được trám là 7,9 và chỉ số SMT là 18,1 [28].
Như vậy NCT ở các quốc gia có tỉ lệ răng sâu, mất răng do sâu và nhất
là răng sâu chưa được trám là rất cao [8],[26].
1.2.1.2.2 Bệnh quanh răng
Theo Tổ chức Y tế Thế giới, bệnh quanh răng gặp phổ biến ở mọi quốc
gia và hay gặp nhất là bệnh viêm lợi và bệnh quanh răng. Đa số lợi viêm mạn
tính và tiến triển thành bệnh quanh răng do vi khuẩn độc lực mạnh hoặc có
phản ứng bất thường của túc chủ [29]. Và đây là nguyên nhân chính dẫn đến
mất răng.


11

1.2.1.2.3 Tình hình mất răng ở người cao tuổi và nhu cầu phục hình:
Trên thế giới
Theo kết quả điều tra của Tổ chức y tế thế giới (WHO) năm 1998, ở các
nước châu Âu tỉ lệ mất răng lứa tuổi 65-74 dao động từ 12,8 - 69,6% và số
răng mất trung bình từ 3,8 - 15,1 răng [33].
Tại Hội nghị Nha khoa Na uy (2007), Ambjornsen đã báo cáo về tình
trạng mất răng ở Na uy như sau: trong những năm 1970, 1980, tỉ lệ mất răng ở

lứa tuổi trên 65 khoảng 50%; vào cuối thế kỷ 20 khoảng 30% [27].
Tại Thụy Điển, khi nghiên cứu sức khỏe răng miệng những người 70 tuổi
của Osterberg B.J (2000) nghiên cứu trên 386 người, có 70% bị mất răng
trong đó (50,05% mất răng ở hai hàm và 19,5% mất răng ở một hàm, tỉ lệ mất
răng ở hàm trên cao hơn hàm dưới và ở vùng răng hàm nhiều hơn vùng răng
cửa) [21]. Cũng tại Thụy Điển, Norderyd O [33] năm 1993 nghiên cứu cho
thấy tỉ lệ mất răng của nhóm người sống ở thành phố cao hơn nhóm người
sống ở ngoại ô vùng Jonkoping ở các lứa tuổi 30, 40, 50, 60 và 70. Tỉ lệ mất
răng ở nhóm người sống tại thành phố là 17% còn ở nhóm người sống ở
ngoại ô là 13%.
Do chăm sóc sức khỏe răng miệng ngày càng tốt nên tỉ lệ mất răng nói
chung ngày càng giảm.
Tình hình mất răng ở các dân tộc, quốc gia, vùng lãnh thổ, châu lục tuỳ
thuộc vào tình hình tuổi thọ của dân số.
Ở Việt Nam
Công tác chăm sóc sức khỏe răng miệng ở nước ta trong những năm
gần đây ngày càng được quan tâm (như chương trình nha học đường, chương
trình chăm sóc sức khỏe NCT...), tuy nhiên, tỉ lệ mất răng vẫn còn cao.


12

Theo kết quả điều tra sức khỏe răng miệng năm 1990 của Võ Thế
Quang và cộng sự [15] cho thấy:
+ Tỉ lệ mất răng ở lứa tuổi 35-44 là 47,33%
+ Nhu cầu làm răng cổ điển là 26,33%
+ Nhu cầu làm răng giả tháo lắp từng phần hàm trên là 10%, từng phần
hàm dưới là 3,67%, toàn bộ hàm trên là 3,33% và toàn bộ hàm dưới là 2,67%.
Ở miền Nam Việt Nam năm 1991 với kết quả điều tra sức khỏe răng
miệng của Vũ Kiều Diễm và cộng sự [34], tỉ lệ mất răng ở lứa tuổi 35-44 là

68,66% và trung bình số răng mất của một người là 3,49
Ở các tỉnh phía Bắc thì kết quả điều tra cơ bản sức khỏe răng miệng
năm 1991 của Nguyễn Đức Thắng [35], tỉ lệ mất răng ở lứa tuổi 35-44 là
36,67%; nhu cầu làm răng giả là 63,33%, trong đó chỉ có 2% được làm
răng giả.
Như vậy với kết quả điều tra của hai nghiên cứu cùng được thực hiện
vào năm 1991, ở tại hai miền của đất nước thì ở lứa tuổi 35-44 tỉ lệ mất răng
của người dân ở miền Nam cao hơn hẳn miền Bắc.
Kết quả điều tra của Nguyễn Văn Bài (1994) [2] ở miền Bắc Việt Nam,
tỉ lệ mất răng ở lứa tuổi 35-44 là 27,27% đặc biệt ở nhóm tuổi trên 65 có tỉ lệ
mất răng là 95,21%; nhu cầu phục hình là 90,43%.
Theo Trương Mạnh Dũng (2007) [14] tại Hà Nội, ở nhóm tuổi 35-44 tỉ
lệ mất răng là 36,3%, nhu cầu phục hình là 33,4%; ở nhóm tuổi 45-60 tỉ lệ
mất răng là 50,1%, nhu cầu phục hình là 34,9%; Như vậy tuổi càng cao thì tỉ
lệ mất răng càng lớn và nhu cầu phục hình tăng.
So sánh kết quả của Nguyễn Đức Thắng (1991) [35], Nguyễn Văn Bài
(1994) [2] và Trương Mạnh Dũng (2007)[14] ở miền Bắc Việt Nam, cùng lứa
tuổi 35-44 cho thấy:


13

Tỉ lệ mất răng từ 36,67% năm 1990 xuống còn 27,27% năm 1994,
nhưng đến năm 2007 tỉ lệ đã tăng lên là 36,3%.
Nhu cầu phục hình răng năm 1991 là 63,33%; năm 1994 là 21,6%; năm
2007 tăng lên là 33,4%.
Tỉ lệ người đã được phục hình năm 1991 chỉ có 2%; năm 1994 là
8,57% và năm 2007 đã tăng lên gấp đôi[2],[14],[35].
Qua kết quả trên cho thấy tỉ lệ mất răng ở nhóm tuổi từ 35-44 đang có
dấu hiệu tăng trở lại, vì đây là nhóm tuổi mà các chương trình chăm sóc sức

khỏe răng miệng chưa quan tâm đến. Do đó nhu cầu phục hình cũng tăng theo
trong khi đó số người đã được phục hình cũng đã tăng nhưng vẫn chưa đáp
ứng được nhu cầu phục hình trong cộng đồng.
Nghiên cứu ở quận Cầu Giấy, Trương Mạnh Dũng cho thấy tỉ lệ mất
răng ở người trên 60 tuổi là 81,73% với số trung bình 10,13 răng mất/ người.
Đặc biệt ở nhóm tuổi trên 75, có 97,26% NCT bị mất răng [14]. Cũng trên địa
bàn nội thành thành phố Hà Nội, Vũ Thị Hòa (2015) và Chu Đức Toàn (2012)
cho biết tỉ lệ mất răng của NCT tại hai quận Cầu Giấy, Đống Đa lần lượt là
80,6% và 89,5% [36],[37]. Các kết quả này đều chỉ ra rằng, tỉ lệ mất răng của
NCT vẫn còn cao ở nước ta nói chung cũng như ở Hà Nội nói riêng.
Vì vậy, để phòng chống mất răng có hiệu quả, ngoài chương trình
phòng chống sâu răng và bệnh quanh răng thì phục hình răng mất không
những đáp ứng được chức năng ăn nhai thẩm mỹ mà còn có tác dụng phòng
mất răng tiếp theo. Theo kết quả điều tra của cả nước nói chung cũng như
miền Bắc nói riêng thì nhu cầu phục hình là rất lớn, nhưng ngành răng hàm
mặt mới chỉ phục hình được một tỉ lệ rất nhỏ. Nguyên nhân là do số lượng đội
ngũ bác sỹ răng hàm mặt còn thiếu, điều kiện trang thiết bị cho phục hình
chưa được tốt, kỹ thuật phục hình chưa được chuẩn dẫn đến kết quả phục hình


14

không tạo sự thoải mái cho bệnh nhân và cũng không đáp ứng được các nhu
cầu hay mong muốn của bệnh nhân. Ngoài nguyên nhân trên cũng còn nhiều
nguyên nhân khác trong đó phải kể đến ý thức và điều kiện kinh tế của bệnh
nhân. Nhưng trong những năm gần đây, nền kinh tế, xã hội của Việt Nam đã
có những phát triển vượt bậc cộng với nhu cầu phục hình rất lớn trong cộng
đồng, vì vậy trách nhiệm của mỗi bác sỹ răng hàm mặt nói riêng cũng như
của ngành răng hàm mặt nói chung thì đi đôi với việc và trang bị cơ sở vật
chất, trang bị kiến thức thì cần đào tạo con người để có thể đáp ứng được nhu

cầu của phục hình mất răng nhằm nâng cao tỉ lệ số người được phục hình, kết
quả phục hình ngày càng cao.
Nhìn chung, số liệu điều tra dịch tễ học về mất răng từng phần, toàn phần
cũng như số răng mất trung bình mỗi người thuộc châu Á là thấp hơn so với
các nước thuộc châu Âu, châu Úc và châu Mỹ. Hiện nay mất răng và hậu quả
của mất răng vẫn còn là vấn đề bức thiết của NCT.
1.2.2. Phân loại, nguyên nhân, hậu quả mất răng.
1.2.2.1. Phân loại mất răng
Mất răng được phân làm hai loại chính: đó là mất răng từng phần và mất
răng toàn bộ.
Phân loại mất răng:
- Cho phép dễ nhận ra ngay loại mất răng khi khám bệnh nhân.
- Cho phép biết được loại mất răng nào có thể làm hàm giả được nâng đỡ
trên răng hoặc hàm giả vừa được nâng đỡ trên răng vừa được nâng đỡ trên mô
xương niêm mạc.
- Định hướng được kiểu thiết kế hàm giả.
- Được nhiều người chấp nhận.


15

Có nhiều cách phân loại mất răng của nhiều tác giả khác nhau như:
Kennedy, Applegate, Kourliandsky, Bailyn, Skinner... Trong số đó, cách phân
loại mất răng của Kennedy được nhiều người sử dụng nhất.
1.2.2.1.1. Phân loại mất răng của Kennedy[30]
Edward Kennedy đưa ra cách phân loại mất răng từng phần đầu tiên vào
năm 1923. Ông phân ra làm 4 loại mất răng từng phần:
- Loại I: mất răng phía sau hai bên không còn răng giới hạn xa.
- Loại II: mất răng phía sau một bên không còn răng giới hạn xa.
- Loại III: mất răng phía sau một bên còn răng giới hạn xa.

- Loại IV: mất răng phía trước (răng cửa) đi qua đường giữa.
Ưu điểm của cách phân loại mất răng của Kennedy
- Dễ nhận biết loại mất răng.
- Gợi ý được kiểu thiết kế hàm giả cho từng loại mất răng.
1.2.2.1.2. Phân loại mất răng từng phần theo Kennedy- Applegate
Cách phân loại mất răng của Kennedy (1960) được Applegate bổ sung
một số nguyên tắc sau:
- Phân loại mất răng chỉ được tiến hành sau khi đó nhổ các răng có chỉ
định nhổ răng.
- Nếu mất răng số 8 và không cần làm răng giả thì không tính đến trong
phân loại.
- Nếu còn răng số 8 mà được dùng như răng trụ thì răng 8 này được tính
trong phân loại.
- Nếu răng số 7 mất mà không cần làm răng giả (ví dụ răng số 7 đối diện
cũng mất mà không làm răng giả) thì không được tính trong phân loại.
- Vùng mất răng phía sau luôn được chọn để quy định loại mất răng.
- Những khoảng mất răng khác được gọi là biến thể và được đánh số.


16

- Độ rộng của khoảng mất răng biến thể không được tính đến trong phân
loại mà chỉ tính số khoảng mất răng có thêm.
- Mất răng loại IV không có biến thể.

Hình 1.4. Các loại mất răng theo Kennedy - Applegate [30]
1.2.2.1.3 Phân loại mất răng từng phần của Applegate [30]
- Loại I: mất răng sau hai bên.
- Loại II: mất răng sau một bên.
- Loại III: mất răng sau một bên, có răng giới hạn ở hai đầu. Nhưng các

răng trụ này không thể gánh chịu toàn thể lực nhai đè lên hàm giả do:
+ Khoảng mất răng dài;
+ Chân răng trụ có hình dáng và chiều dài không phù hợp;
+ Xương nâng đỡ bị tiêu nhiều.
- Loại IV: mất răng phía trước, đoạn mất răng đi ngang đường giữa cung
răng, giới hạn hai đầu bằng hai răng bên phải và bên trái của cung hàm. Loại
này có thể mất ít nhất từ hai răng đến nhiều nhất chỉ còn lại hai răng hàm ở
hai bên.


17

- Loại V: mất răng có giới hạn hai đầu trong đó giới hạn phía trước là
răng cửa bên yếu với chân răng ngắn và nhỏ.
- Loại VI: mất răng có giới hạn hai đầu với khoảng mất răng ngắn, chiều
dài và hình dáng chân răng trụ thích hợp cho nâng đỡ, sống hàm cao.
Ý nghĩa: Phân loại mất răng theo Kennedy – Applegate đã đưa ra được chỉ
định điều trị phục hình củ thể cho từng trường hợp:
- Mất răng loại I, II, III, V cần làm hàm giả tháo lắp.
- Mất răng loại VI làm được răng giả cố định
- Mất răng loại IV có thể làm răng giả cố định hoặc làm hàm giả tháo lắp.
1.2.2.1.4. Phân loại mất răng của Kourliandsky [30]
Tác giả dựa trên yêu cầu xác định khớp cắn trung tâm (mặt phẳng cắn
xác định với 3 điểm chạm của hai hàm).
- Loại I: mất răng từng phần, hai hàm còn 3 điểm chạm.
- Loại II: mất răng từng phần, hai hàm còn 1 - 2 điểm chạm.
- Loại III: mất răng từng phần, hai hàm không có răng nào đối diện nhau.
- Loại IV: mất răng toàn bộ.
Sự phân loại mất răng của Kourliandsky có ý nghĩa gợi ý trong đo cắn
khi làm hàm giả.

1.2.2.2. Nguyên nhân mất răng và một số yếu tố liên quan đến mất răng.
Răng bị mất do nhiều nguyên nhân khác nhau như tổn thương bệnh lý,
do chấn thương, tổn thương ở tổ chức cứng của răng (sâu, tiêu cổ hình V,...)
và ở vùng quanh răng. Cùng với đó là một số yếu tố nguy cơ gây mất răng
như kiến thức hay thói quen vệ sinh răng miệng (số lần chải răng trong một
ngày, số lần lấy cao răng, thói quen sử dụng chỉ tơ nha khoa…).
Hiện nay bệnh nha chu ở NCT vẫn còn mắc cao hơn người trẻ. Theo kết
quả điều tra sức khỏe răng miệng Việt Nam năm 2002, nhu cầu điều trị quanh
răng cộng đồng (CPITN) trên 45 tuổi là 98,95% [31]. Như vậy, tỉ lệ bệnh


18

vùng quanh răng ở nước ta còn rất cao và có ảnh hưởng trực tiếp đến sự mất
răng và là nguyên nhân chính gây mất răng. Về sâu răng, do tiến bộ của điều
trị bảo tồn, số răng còn lại trong khoang miệng NCT tăng dần xong sâu răng
cũng là nguyên nhân dẫn tới mất răng [25].
Ngoài các yếu tố liên quan gây mất răng như sâu răng hay bệnh nha chu
thì sức khoẻ răng miệng NCT chịu sự tác động của các yếu tố khác như do sự
ngấm vôi kém ở men răng, răng mọc lệch lạc, chen chúc… Nguy cơ cũng đến
từ các thói quen có hại: hút thuốc, uống rượu, ăn trầu, hay các bệnh toàn thân
như đái tháo đường, xạ trị vùng đầu cổ… và có thể do trình độ học vấn
thấp,sức khoẻ chung suy yếu, tập quán văn hoá, số lượng và chất lượng khám
chữa bệnh của các cơ sở dịch vụ nha khoa, đặc biệt tình trạng kinh tế là yếu tố
ảnh hưởng đến mất răng khi NCT không đi khám chữa bệnh hay không phục
hình dẫn đến mất răng ngày càng nhiều. Các yếu tố này liên quan chặt chẽ với
nhau và cần được xem xét, đánh giá để tìm ra các giải pháp chăm sóc SKRM
phù hợp.
1.2.2.3. Hậu quả của mất răng [32]
Có rất nhiều hậu quả do mất răng gây lên;

- Đường cong sinh lý Spee của khớp cắn bị biến dạng.
- Kích thước chiều cao và chiều rộng của sống hàm giảm, trường hợp
nặng sống hàm hàm trên gần như phẳng với vòm hầu, sống hàm dưới ở ngang
bằng với sàn miệng.
- Biến đổi ở xương ổ răng: Nơi mất răng xương ổ răng ở đó sẽ bị tiêu,
mức độ tiêu nhiều hay ít tùy thuộc vào nguyên nhân mất răng, thời gian và
bệnh cảnh mất răng.
- Ảnh hưởng tới chức năng:


19

Sức nhai giảm xuống, tác dụng nghiền nhỏ thức ăn bị hạn chế do thiếu
răng, nói không rõ ràng, tiêu hóa cũng bị rối loạn do thức ăn không được
nhai nhỏ.
- Ảnh hưởng thẩm mỹ của khuôn mặt, các cơ nhai, cơ bám da mặt thoái
hoá, mất trương lực dẫn đến những thay đổi ở vùng mặt, miệng: má xệ xuống,
hóp lại, rãnh múi - má rõ nét hơn, mặt mất cân xứng hai bên, môi xập xuống,
bĩu ra, khoé môi cụp xuống.
- Thay đổi ở mặt và tâm lý: Má xệ xuống, hóp lại, kích thước dọc thay
đổi, khuôn mặt trông già hơn, bệnh nhân mặc cảm, mất tự tin khi giao tiếp.
- Các răng còn lại bị xô lệch, chồi lên, thòng xuống, di lệch.
- Phát âm thay đổi, hô hấp bị ảnh hưởng [32]
Xương ổ răng

Sức nhai giảm xuống

Phát âm thay đổi

tiêu


Khớp cắn biến
dạng

Ảnh hưởng thẩm
mỹ

MÊt R¨ng

Các răng còn lại

Kích thước sống
hàm giảm

xô lệch

Thay đổi về tâm lý, mặc cảm, mất
tự tin giao tiếp
Hình 1.5. Hậu quả của mất răng [32]

1.3. Các phương pháp phục hình mất răng từng phần ở người cao tuổi.


20

Các trường hợp mất răng rất đa dạng, sự đa dạng này phụ thuộc vào số
lượng răng mất, vị trí mất răng, sống hàm vùng mất răng, tình trạng các răng
còn lại, các bệnh lý răng miệng khác kèm theo[32]... Do đó có nhiều phương
pháp điều trị mất răng. Dưới đây là các phương pháp điều trị mất răng phổ
biến hiện nay trên thế giới cũng như ở Việt Nam:

1.3.1. Hàm tháo lắp từng phần bằng nhựa thường.
Hàm giả tháo lắp từng phần nền nhựa là loại hàm giả tháo lắp từng phần
có nền bằng nhựa với hệ thống dây móc tròn (móc dây uốn) và nhóm răng giả
thay thế khoảng mất răng. Lực nhai được truyền từ nền hàm qua niêm mạc
xuống xương [30].
1.3.1.1. Thành phần của hàm tháo lắp từng phần nền nhựa bao gồm [30]:
- Hệ thống răng giả: thay thế các răng mất, các răng này có thể bằng
nhựa hoặc sứ.
- Nền hàm được phủ lên sống hàm và các phần nâng đỡ, nền hàm được
làm bằng nhựa.
- Móc răng: là một trong những phương tiện bám giữ của hàm giả, giúp
hàm giả bám trong tư thế nghỉ và ổn định trong các tư thế chức năng. Móc
răng thường dùng là hợp kim dây tròn có đường kính từ 0,7 đến 1mm, có thể
là móc bản, móc kim loại đúc.
1.3.1.2. Chỉ định:
* Về kỹ thuật:
- Mất răng xen kẽ với khoảng mất răng quá dài không thể làm răng giả
cố định được.
- Mất nhóm răng hàm một hoặc hai bên, không còn răng giới hạn xa
(loại I, II Kennedy).
- Mất răng trên bệnh nhân bị bệnh quanh răng điều trị không kết quả, các


21

răng thật còn lại không có khả năng đặt tựa.
- Mất gần hết răng.
- Làm hàm giữ chỗ.
- Làm hàm chuyển tiếp.
- Làm hàm giả tức thì ngay sau khi nhổ răng.

- Làm hàm phẫu thuật.
* Về tâm lý:
- Bệnh nhân sợ mài răng.
- Bệnh nhân sợ chữa tủy răng.
- Bệnh nhân muốn làm hàm giả tháo lắp để dễ vệ sinh.
* Về kinh tế:
- Đỡ tốn kém hơn làm răng giả cố định trên cùng một số răng mất.
- Làm hàm giả tháo lắp nền nhựa rẻ hơn hàm khung.
- Sửa chữa dễ và rẻ tiền
- Thời gian điều trị nhanh.
1.3.1.2. Chống chỉ định:
- Bệnh nhân đang bị viêm nhiễm cấp tính vùng răng miệng.
- Bệnh nhân tâm thần.
- Bệnh nhân không hợp tác.
1.3.1.3. Ưu điểm:
+ Dễ vệ sinh hàm giả và tổ chức răng miệng còn lại của bệnh nhân.
+ Tiết kiệm mô răng thật còn lại.
+ Thời gian điều trị ngắn hơn.
+ Dễ sửa chữa: thêm răng, thêm móc, đệm hàm giả.
+ Thực hiện đơn giản, kinh phí thấp.
1.3.1.4. Nhược điểm:


22

+ Hàm có khối lượng lớn nên dễ gây khó chịu cho bệnh nhân.
+ Hàm giả thiếu sự ổn định, có tính xê dịch tạo cảm giác bất ổn.
+ Phần lớn hàm giả tựa lên mô xương niêm mạc nên bị lún nhiều khi ăn
nhai làm cho hiệu quả nhai kém và tiêu xương.
+ Hàm giả che phủ nhiều tổ chức răng miệng còn lại.

+ Một số trường hợp làm răng giả cần đặt móc phía trước nên thẩm mỹ kém.
1.3.2. Phục hình bằng nhựa dẻo:
Cấu trúc có nền nhựa tựa lên niêm mạc và mô xương bên dưới.
1.3.3.1. Ưu điểm: so với hàm tháo lắp bằng nền nhựa thường thì
- Ít vướng hơn khi nói và ăn nhai.
- Ít gây tổn thương các răng mang móc nhờ độ đàn hồi của móc.
- Thẩm mỹ hơn.
1.3.3.2. Nhược điểm:
- Khó thêm răng vào nền hàm cũ.
- Giá thành cao.
- Dễ nhiễm màu theo thời gian.
1.3.3. Hàm khung:
1.3.3.1. Ưu điểm: So với hàm giả tháo lắp từng phần nền nhựa thì kích thước
nhỏ hơn, bền hơn, giải phóng cổ răng và lợi ở các răng còn lại.
- Vật liệu phục hình bằng kim loại nên bóng hơn, dễ vệ sinh hơn và
truyền nhiệt tốt hơn.
- Chịu được sức nhai nhiều hơn.
- Các tựa mặt nhai giúp truyền lực nhai sinh lý qua răng trụ xuống vùng
quanh răng. Khả năng ăn nhai tốt hơn do chuyển động tự do của phục hình
được hạn chế.
1.3.3.2. Nhược điểm:


23

- Kỹ thuật lâm sàng và labo phức tạp.
- Kinh phí cao.
- Trang thiết bị cần hiện đại.
- Khó sửa chữa thêm răng.
- Nguy cơ sâu răng cao.

- Nếu không chỉ định đúng sẽ gây tổn thương đến răng trụ.
1.3.4. Cầu răng:
1.3.4.1. Cầu với: là cầu răng cố định có nhịp cầu với ra ngoài răng trụ. Cầu
với thực hiện với ý muốn tiết kiệm bởi răng trụ và nhịp cầu với chỉ có tác
dụng thẩm mỹ, ổn định cung răng hơn là chức năng ăn nhai.
- Ưu điểm: tiết kiệm bởi răng trụ, áp dụng được trong trường hợp mất
răng không có răng giới hạn.
- Nhược điểm: do chỉ có răng trụ ở một đầu của cầu răng do đó răng trụ
dễ bị tổn thương bởi lực đòn bẩy.
1.3.4.2. Cầu dán: là loại cầu răng cố định bằng kim loại đúc, phần giữ có hình
dạng tương tự như móc của hàm khung và được gắn dính vào men răng trụ
bằng keo dán riêng biệt sau khi xói mòn men răng bằng dung dịch axít.
Ưu điểm:
+ Tiết kiệm mô răng.
+ Ít kích thích tủy và lợi.
+ Không đau.
+ Giảm thời gian điều trị.
Nhược điểm:
+ Kém bền vững.
+ Chỉ định hạn chế.
1.3.4.3. Cầu ngắt lực: là loại cầu răng bằng kim loại có các phần giữ được


24

gắn lên răng trụ, có các phần nối cứng chắc và không cứng chắc giữa phần
giữ và nhịp cầu.
Ưu điểm:
+ Tạo được một phần chuyển động riêng lẻ của các răng trụ của cầu răng
nên có sự phù hợp với sinh lý của răng trên mô nha chu hơn với cầu cố định.

+ Giảm bớt lực làm bật phần giữ.
+ Giải quyết được hướng lắp cho các răng trụ không song song mà
không làm mất quá nhiều tổ chức cứng của răng trụ.
+ Tiết kiệm được mô răng nhờ sử dụng inlay, onlay làm phần giữ cho
cầu răng.
Nhược điểm:
+ Chỉ định hạn chế.
+ Kém bền vững.
+ Cần có sự khéo léo và đủ phương tiện để tạo sự chính xác ở hệ thống
khóa ngoàm.
+ Vướng, đọng mảng nhỏ thức ăn ở vùng khóa ngoàm.
1.3.4.4. Cầu răng cổ điển (cầu bọc toàn bộ răng trụ).
- Cầu cổ điển là loại phục hình mất răng cố định để phục hồi răng mất
bằng cách dùng các răng bên cạnh làm răng trụ để mang, gánh răng giả
thay thế răng mất. Cầu răng cổ điển gồm khung kim loại bọc toàn bộ thân
răng trụ ở hai đầu và được phủ ngoài bằng sứ nhựa, hoặc hoàn toàn bằng
thép.
- Cầu răng được gắn chặt vào các răng trụ bằng xi măng và bệnh nhân
không thể tự tháo ra được.
- Cầu răng duy trì sự ổn định cho cung răng và mặt phẳng nhai, phục hồi
chức năng ăn nhai, phát âm và thẩm mỹ.


25

Ưu điểm:
+ Phục hồi chức năng ăn nhai tốt.
+ Tính ổn định cao.
+ Dễ thích nghi với việc mang răng giả.
+ Phù hợp với điều kiện kinh tế hiện tại.

Nhược điểm:
+ Phải mài răng hai đầu khoảng mất.
+ Dễ kích thích tủy răng.
1.3.5. Cấy ghép răng (Implant):
Xương hàm vùng mất răng được khoan và đặt chốt kim loại vào đó. Sau
vài tháng hoặc ngay tức thì tùy từng trường hợp mà chúng ta phục hình răng
giả thay răng mất trên chốt kim loại đó. Phương pháp này có thể thay thế một
hoặc nhiều răng mất.
1.3.5.1. Ưu điểm:
+ Phục hình cố định được mà không cần răng giới hạn.
+ Không cần can thiệp vào răng khác do đó bảo tồn các răng còn lại.
+ Phục hồi chức năng ăn nhai tốt.
+ Răng giả sinh lý hơn.
1.3.5.2. Nhược điểm:
+ Yêu cầu kỹ thuật cao, trang thiết bị hiện đại.
+ Giá thành cao.
+ Chỉ định hạn chế.
Trong điều kiện kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay, hàm giả tháo lắp nền
nhựa vẫn là một sự lựa chọn phù hợp để phục hồi chức năng và thẩm mỹ cho
người mất răng từng phần hay toàn phần. Đặc biệt là người cao tuổi có điều
kiện kinh tế còn khó khăn.


×