Tải bản đầy đủ (.docx) (93 trang)

tư tưởng hồ chí minh về xây dưng ý thức phế bình và tự phê bình cho sinh viên trường đại học sài gòn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (646.88 KB, 93 trang )

MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:
“Dao có mài, mới sắc
Vàng có thui, mới trong
Nước có lọc, mới sạch
Người có tự phê bình, mới tiến bộ. Đảng cũng thế” 1
Theo Người, bản thân chúng ta ai cũng có ưu và khuyết điểm. Muốn tiến bộ, mỗi
người cần phải thật thà tự phê bình và tìm cách khắc phục những hạn chế, khuyết
điểm. Song đó, chúng ta cũng cần phải phê bình người khác, giúp họ thấy được ưu
điểm mà phát huy, khuyết điểm mà khắc phục. Phê bình và tự phê bình luôn song hành
với nhau. Có phê bình và tự phê bình, chúng ta mới hoàn thiện, vươn tới chân, thiện,
mỹ. Qua đó còn thể hiện sự đồng lòng, thống nhất ý kiến giữa những cá nhân trong
một tập thể, nhất là trong Đảng.
Trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, trải qua các cuộc
đấu tranh khó khăn, gian khổ, có lúc đất nước ở tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, bị bọn
thực dân khủng bố gắt gao trong những năm hoạt động bí mật, nhưng Đảng ta vẫn
ngày càng phát triển mạnh mẽ và lãnh đạo nhân dân làm cách mạng thành công, kháng
chiến thắng lợi. Để đạt được thành quả đó, theo Người: “Đảng ta đã khéo dùng cái vũ
khí sắc bén phê bình và tự phê bình” 2. Chính vũ khí sắc bén này đã giúp ta củng cố,
xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc, tạo sự thống nhất trong mọi hành động, góp
phần đưa đất nước thoát khỏi áp bức, bóc lột trở thành một nước tự do, độc lập.
Ngày nay, trong công cuộc đổi mới đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng theo con
đường xã hội chủ nghĩa, nước ta dần chuyển mình và đạt được nhiều thành tựu to lớn,
khẳng định được vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng cao. Bên cạnh
những cơ hội, thuận lợi để khẳng định mình, nước ta cũng có nhiều nguy cơ và thách
thức đe dọa đến nền hòa bình quốc gia, dân tộc. Vì vậy, mỗi cá nhân cần phải học tập,


phấn đấu và rèn luyện tư tưởng đạo đức hơn nữa. Mỗi Đảng viên cần phải thấm nhuần
1 Hồ Chí Minh toàn tập: tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, trang 80.
2 Hồ Chí Minh toàn tập, tập 11, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, trang 608.

2


đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao ý thức phê bình và tự phê
bình trong Đảng. Kế thừa những nhiệm vụ, giải pháp của Đại hội XI, Đại hội XII nêu
rõ trong công tác xây dựng Đảng về chính trị: “Kiên định những vấn đề có tính nguyên
tắc trong công tác xây dựng Đảng. Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng có hiệu
lực, hiệu quả; giữ vững bản lĩnh chính trị của Đảng, của các tổ chức Đảng, của cán bộ,
đảng viên. Hoàn thiện cơ chế, quy chế và tổ chức thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả
việc tự phê bình, phê bình, chất vấn trong các kỳ họp của Ban chấp hành Trung ương,
cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy các cấp. Xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả cơ
chế phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng”.
Hiện nay, ý thức phê bình và tự phê bình đang là một vấn đề đáng quan tâm không
chỉ trong Đảng, mà còn trong môi trường học đường, nhất là đối với sinh viên các
trường Đại học, Cao đẳng. Sinh viên – những người chủ tương lai của đất nước và là
thế hệ trẻ đang được ươm mầm bởi sự giáo dục và rèn luyện tư tưởng đạo đức cách
mạng. Họ là những người kế thừa vừa “hồng” vừa “chuyên”, tiếp thu và phát huy
những thành công của cha ông ta đi trước, xây dựng đất nước ngày một giàu mạnh
hơn. Muốn làm được như vậy, trước hết mỗi sinh viên cần phải có ý thức phê bình và
tự phê bình để nhận thấy được những ưu và khuyết điểm của mình cũng như của người
khác. Qua đó ngày một hoàn thiện bản thân mình hơn. Tuy nhiên thực tế hiện nay, sinh
viên nói chung và sinh viên trường Đại học Sài Gòn nói riêng chưa có ý thức phê bình
và tự phê bình trong học tập, trong tham gia các hoạt động của nhà trường. Điều này
làm cho mỗi sinh viên ngay khi còn ngồi trên giảng đường chưa thấy được những
điểm mạnh, điểm yếu của mình, chưa phát huy được tối đa trí tuệ, năng lực của bản
thân cũng như sự thống nhất, đoàn kết giữa mọi người nhất là trong bối cảnh hội nhập

đất nước.
Thế nhưng, hiện nay chưa có một nghiên cứu nào về việc xây dựng ý thức phê bình
và tự phê bình trong sinh viên. Vì vậy, tôi thực hiện đề tài “Xây dựng ý thức tự phê
bình và phê bình trong sinh viên Đại học Sài Gòn theo tư tưởng Hồ Chí Minh”.
2. Tổng quan về nghiên cứu

Sinh viên chính là thế hệ trẻ tương lai của đất nước, là những thanh niên năng
động, sáng tạo, luôn phải học hỏi, phấn đấu rèn luyện để nâng cao cả “tài” và “đức”.
3


Trong bối cảnh hiện nay, điều đó càng hết sức cần thiết hơn nữa. Để làm được như
vậy, mỗi sinh viên cần phải có ý thức phê bình và tự phê bình, nhất là trong môi
trường học đường.
Các công trình nghiên cứu về ý thức tự phê bình và phê bình như:
Trong tạp chí Xây dựng Đảng, các tác giả Bùi Thị Oanh, Lương Thị Tâm Uyên
đã viết “Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của
Đảng; là một nguyên tắc, nội dung sinh hoạt chi bộ; là vũ khí sắc bén để xây dựng chi
bộ luôn trong sạch, vững mạnh. Thực hiện tự phê bình và phê bình thông qua sinh hoạt
chi bộ hằng tháng là một giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ,
sửa đổi lối làm việc, lối sống, nếp sống, ý thức tổ chức, kỉ luật của mỗi cán bộ, đảng
viên”. Bài viết đã nói lên tầm quan trọng của phê bình và tự phê bình, giải pháp để
thực hiện có hiệu quả. Tuy nhiên bài viết chủ yếu nói về tự phê bình và phê bình trong
sinh hoạt Đảng, chứ không đi vào đối tượng sinh viên.
Theo tác giả Phạm Thị Tươi: “ Bản thân tôi nhận thấy Đoàn viên, thanh niên là
những người đang mang trong mình bầu nhiệt huyết, sức sống của tuổi trẻ, là thế hệ
đầy “hăng hái, kiên cường”, “thanh niên là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh
niên già, đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai”. Nhưng ở họ
cũng thiếu sự từng trải, thiếu kinh nghiệm cuộc sống... những thói quen làm việc chưa
được hình thành một cách ổn định, vì vậy khi được đóng góp chân thành họ rất dễ tiếp

thu và sửa chữa khuyết điểm của mình. Thực tế, lòng dũng cảm không phải bao giờ
cũng gắn với những hành động mạnh mẽ, những lời nói hùng hồn mà đôi khi đó lại là
những gì nhẹ nhàng hơn rất nhiều. Vì vậy, nếu công tác tự phê bình và phê bình thực
hiện tốt thì không những hiệu quả làm việc của Ban Chấp Hành được nâng cao mà mỗi
cán bộ đoàn cũng sẽ tích luỹ cho mình một vốn kinh nghiệm nhất định, phục vụ cho
việc thao tác kỹ năng nghề nghiệp góp phần xây dựng Đoàn - Đảng cũng như đất nước
ta ngày một phát triển vững mạnh hơn, giàu đẹp hơn nữa.” Tác giả đã thấy được sự
cần thiết việc thực hiện phê bình và tự phê bình ở đối tượng Đoàn viên thanh niên nói
chung. Mà mỗi sinh viên lại là một Đoàn viên thanh niên - những người chủ tương lai
của đất nước.
Theo tác giả Lê Thị Hồng Thủy (48A, khoa Giáo dục Chính trị - Đại học Vinh)
4


trong bài viết có nhan đề “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình
đối với sinh viên trong giai đoạn hiện nay”. Tác giả có viết “Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
từng nói: “Một dân tộc, một Đảng, mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp
dẫn lớn không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca
ngợi; nếu lòng dạ không còn trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Tư tưởng
đó của Người vừa như là một lời cảnh báo với những ai đang quên đi việc hoàn thiện
mình, vừa như là một ánh sáng soi đường cho những ai muốn vượt qua chính mình.
Giữ cho lòng dạ luôn trong sáng, tránh sa vào chủ nghĩa cá nhân không còn cách nào
khác là tự nhận thức về mình một cách đúng đắn, tự điều chỉnh cho phù hợp với nhũng
chuẩn mực, giá trị của xã hội. Có một con đường để thực hiện điều đó là việc: Tự phê
bình”. Ở bài viết này, tác giả đã trình bày rõ quan điểm của mình trong việc vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình, nhưng lại chưa đi sâu về khía cạnh phê bình,
chưa thấy được tầm quan trọng của phê bình đối với sinh viên trong giai đoạn hiện
nay.
Trong luận văn “Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình, phê bình và ý nghĩa
của nó đối với việc tu dưỡng đạo đức cách mạng của cán bộ Đảng viên hiện

nay”củaTh.S Đỗ Thị Thanh Nga, tác giả đã trình bày được quan điểm của Hồ Chí
Minh về khái niệm, mục đích, nội dung cũng như phương pháp thực hiện tự phê bình
và phê bình nhằm làm rõ ý nghĩa của nó đối với việc tu dưỡng đạo đức cách mạng của
con người. Qua đó, tác giả đã tìm hiểu về thực trạng tự phê bình và phê bình trong cán
bộ Đảng viên ở Việt Nam hiện nay và đưa ra những giải pháp nhằm phát huy công tác
tự phê bình và phê bình trong cán bộ đảng viên. Tuy nhiên luận văn chỉ quan tâm đến
đối tượng là cán bộ Đảng viên hiện nay.
Trong đề tài nghiên cứu khoa học, nhan đề: “Vấn đề giáo dục đạo đức mới cho
sinh viên Việt Nam hiện nay”, Th.S Nguyễn Thị Thủy đã đề cao vai trò của sự tu
dưỡng của bản thân trong việc giáo dục đạo đức cho sinh viên hiện nay. “Đạo đức mới
chỉ được hình thành trên cơ sở sự tự giác tu dưỡng của mỗi sinh viên. Nó đòi hỏi mỗi
người phải tự giác rèn luyện thông qua hoạt động thực tiễn, học tập, trong các mối
quan hệ của mình, không tự lừa dối; phải thấy rõ cái hay, cái tốt, cái thiện cũng như cái
chưa tốt, cái xấu, cái ác của mình để khắc phục”. Ở đây tác giả đã thấy được tầm quan
5


trọng của tự phê bình trong việc giáo dục đạo đức thông qua việc bản thân mỗi sinh
viên nhận thấy rõ ưu và khuyết điểm của mình, nhưng chưa thấy được việc phê bình
cũng ảnh hưởng không kém trong việc hình thành, rèn luyện nhân cách mỗi người.
Ngoài ra, còn nhiều tác phẩm khác như: Tác phẩm “Đảng, Bác Hồ về tự phê
bình và phê bình” do Bộ phận thường trực Ban chỉ đạo Trung ương phối hợp với Cục
lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng sưu tầm và tuyển chọn [9]. Công trình này đã
phản ánh quan điểm của Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình, cũng như là cuộc
triển khai công tác thực hiện và công tác đánh giá tổng kết về tự phê bình và phê bình
trong nội bộ Đảng; tác phẩm “Về tự phê bình và phê bình” của NXB Sự thật, Hà Nội
[50]. Tác phẩm đã trích dẫn nguyên văn những bài viết của chủ tịch Hồ Chí Minh về
tự tự phê bình và phê bình; tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ
nghĩa cá nhân” do Hồng Lam và Ngọc Quỳnh tuyển chọn những bài viết về phê bình
và tự phê bình ở những phần cuối [18].

Hay những bài báo: “Cần đánh giá đúng thực chất tự phê bình và phê bình đã
qua” của Nguyễn Thanh Liêm [17], bài “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê
bình và phê bình trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng của Phan Huy Kỳ [15], bài “Tư
tưởng Hồ Chí Minh về phê bình và tự phê bình” của Bùi Công Trang [52].
Như vậy, cho đến nay, có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề phê bình và tự
phê bình theo tư tưởng Hồ Chí Minh, tuy nhiên chưa có công trình nào đi sâu nghiên
cứu về vấn đề xây dựng ý thức tự phê bình và phê bình trong sinh viên. Do đó, tôi đã
chọn nghiên cứu đề tài: “Xây dựng ý thức tự phê bình và phê bình trong sinh viên Đại
học Sài Gòn theo tư tưởng Hồ Chí Minh”.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là ý thức tự phê bình và phê bình của sinh viên
trường Đại học Sài Gòn.
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của khóa luận: Sinh viên trường Đại học Sài Gòn hệ chính quy
(bao gồm 4 khóa 13, 14, 15, 16) năm học 2016 – 2017.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

6


4.1 Mục đích nghiên cứu
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm đề ra những giải pháp nâng cao hiệu quả
công tác xây dựng ý thức tự phê bình và phê bình trong sinh viên Đại học Sài Gòn giai
đoạn hiện nay.
4.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, khóa luận tập trung giải quyết những nhiệm vụ cụ
thể sau đây:
Một là, phân tích và đáng giá đúng thực trạng ý thức tự phê bình và phê bình

của sinh viên trường Đại học Sài Gòn.
Hai là, vận dụng quan điểm của Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình, đề
xuất những giải pháp nhằm xây dựng ý thức tự phê bình và phê bình cho sinh viên
trường Đại học Sài Gòn. Từ đó hoàn thiện nhân cách sinh viên, giúp sinh viên trở
thành những công dân đầy đủ năng lực và phẩm chất, có ích cho xã hội.
5. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu

5.1 Cơ sở lý luận
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, đường lối, chủ
trương của Đảng, Nghị quyết 04 của Đảng về xây dựng chỉnh đốn đảng trong đó Đảng
nhấn mạnh nguyên tắc: tự phê bình và phê bình, các quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về phê bình và tự phê bình, văn kiện Đại hội Đoàn Thanh niên cộng sản
Hồ Chí Minh lần X.
Kết quả nghiên cứu của những tác giả khác về xây dựng ý thức tự phê bình và
phê bình.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Để phục vụ cho việc nghiên cứu, tôi đã sử dụng tổng hợp hệ thống các phương
pháp sau đây:
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
Thông qua phương pháp này, tác giả thu thập thông tin từ các nguồn tài liệu
khác nhau về phê bình và tự phê bình như: văn bản, các bài báo, Nghị quyết các Đại
hội...Từ đó, tác giả nghiên cứu và phân tích các tài liệu; hệ thống hóa các quan điểm,
học thuyết khác nhau của vấn đề nghiên cứu. rồi trình bày quan điểm của bản thân.
7


Phương pháp phân tích – tổng hợp lý thuyết.
Phương pháp phân tích mà tác giả sử dụng ở đây là phương pháp nghiên cứu
các văn bản, tài liệu có nguồn gốc khác nhau về tự phê bình và phê bình bằng cách
chia nhỏ thành từng bộ phận nhỏ, thành từng giai đoạn theo thời gian, từng chủ đề để

hiểu rõ hơn về quan điểm tự phê bình và phê bình theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phương pháp tổng hợp là phương pháp mà tác giả dùng liên kết các mặt, các bộ
phận khác nhau từ những lí thuyết thông tin thu thập được để xây dựng một hệ thống
lý thuyết mới, những yếu tố ảnh hưởng đến đến vấn đề tự phê bình và phê bình,
Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi.
Đưa ra giả thuyết và các vấn đề cần được giải quyết trong từng phần của khóa
luận. Sau đó các định những câu hỏi và thiết kế bảng hỏi. Sau khi thiết kế bảng hỏi
tiến hành khảo sát thử vài mẫu xem có phù hợp với sinh viên không. Sau đó đưa ra
bảng hỏi chính thức và tiến hành khảo sát.
Phương pháp nghiên cứu định tính
+ Phỏng vấn giảng viên dạy Tư tưởng Hồ Chí Minh, cán bộ Đoàn – Hội …. để
đưa ra bảng hỏi;
+ Phỏng vấn sinh viên Trường Đại học Sài Gòn, sau đó đưa ra được bảng hỏi.
Phương pháp nghiên cứu định lượng
+ Phương pháp chọn mẫu và cỡ mẫu:
Chọn quần thể nghiên cứu: chủ định chọn là sinh viên Trường Đại học Sài Gòn;
Chọn cỡ mẫu nghiên cứu: cỡ mẫu quan sát dựa trên công thức đơn giản của
Taro Yamane (2012). Do số lượng sinh viên Trường Đại học Sài Gòn lớn hơn 5.000
người nên tác giả sử dụng công thức tính kích cỡ mẫu tối thiểu là lớn nhất với p = q =
0.5

= 0.25x

= 384

Trong đó:
n: Số lượng quan sát mẫu cần xác định cho nghiên cứu điều tra.

8



Z: Giá trị biến thiên chuẩn ứng với độ tin cậy P= 0.95
ε: Phương sai
+ Công cụ phân tích
Đề tài sử dụng công cụ phân tích dữ liệu bằng phần mềm xử lý SPSS 16.0 thông
qua các bước phân tích, tác giả tìm hiểu về thực trạng, mức độ nhận thức của sinh viên
về tự phê bình và phê bình, các nguyên nhân ảnh hưởng cũng như những giải pháp xây
dụng ý thức tự phê bình và phê bình trong sinh viên Đại học Sài Gòn.
6. Đóng góp của đề tài

Khóa luận góp phần làm hoàn chỉnh và sâu sắc thêm luận cứ khoa học về nội dung
tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ dẫn về nguyên tắc, cách thức tự phê bình và phê bình trong
việc xây dựng đạo đức cho con người để từ đó vận dụng và đề xuất một số những biện
pháp nhằm nâng cao ý thức phê bình và tự phê bình trong sinh viên trường Đại học Sài
Gòn.
7. Kết cấu của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và mục lục, đề tài được kết cấu
thành 3 chương:
+ Chương 1: Tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng ý thức tự phê bình và phê
bình trong thanh niên.
+ Chương 2: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng ý thức tự
phê bình và phê bình cho sinh viên trường Đại học Sài Gòn.
+ Chương 3: Giải pháp về xây dựng ý thức tự phê bình và phê bình trong sinh
viên Đại học Sài Gòn.

9


CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG Ý

THỨC TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH TRONG THANH NIÊN
1.1. Ý thức tự phê bình và phê bình
Khái niệm ý thức
Theo triết học Mác Lê Nin, ý thức là một phạm trù song song với phạm trù vật
chất. Theo đó, “ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ
óc con người; là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan” [7, 52]. “Ý thức là một
hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. Sự ra đời và tồn tại của ý thức gắn liền với
hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối của ý thức, gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu
sự chi phối không chỉ của các quy luật tự nhiên mà còn là chủ yếu lấy của các quy luật
xã hội, được quy định bởi nhu cầu giao tiếp xã hội và các điều kiện sinh hoạt hiện thực
của đời sống xã hội. Với tính năng động, ý thức đã sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu
của thực tiễn xã hội”. [7, 53].
Theo Tâm lí học, “ý thức là hình thức phản ánh tâm lí cao nhất riêng con người
mới có, phản ánh bằng ngôn ngữ, là khả năng con người hiểu được các tri thức (hiểu
biết) mà con người đã tiếp thu được (Là tri thức về tri thức, phản ánh của phản ánh)”
[53, 60]. “Theo đó:
+ Ý thức thể hiện năng lực nhận thức cao nhất của con người về thế giới. Đó
chính là nhận thức cái bản chất, nhận thức khái quát bằng ngôn ngữ, dự kiến trước kế
hoạch hành vi, kết quả của nó, làm cho hành vi mang tính có chủ định.
+ Ý thức thể hiện thái độ của con người đối với thế giới.
+ Ý thức thể hiện năng lực điều khiển, điều chỉnh hành vi của con người. Trên
cơ sở nhận thức bản chất khái quát và tỏ rõ thái độ với thế giới, ý thức điều khiển, điều
chỉnh hành vi của con người đạt tới mục đích đã đề ra. Vì thế ý thức có khả năng sáng
tạo” [53, 61].
Cấu trúc của ý thức
Ý thức là một cấu trúc tâm lí phức tạp bao gồm ba mặt thống nhất hữu cơ với
nhau, điều khiển hoạt động có ý thức của con người.

10



“Mặt nhận thức của ý thức:
- Các quá trình nhận thức cảm tính mang lại những tài liệu đầu tiên cho ý thức là
tầng bậc thấp của ý thức.
- Quá trình nhận thức lí tính là bậc tiếp theo trong mặt nhận thức của ý thức, đem
lại cho con người những hiểu biết bản chất, khái quát về thực tại khách quan. Đây là
nội dung rất cơ bản của ý thức, là hạt nhân của ý thức, giúp con người hình dung ra
trước kết quả của hoạt động và hoạch định kế hoạch hành vi.
Mặt thái độ của ý thức: nói lên thái độ lựa chọn, thái độ cảm xúc, thái độ đánh
giá của chủ thể đối với thế giới.
Mặt năng động (hành động) của ý thức: Ý thức điều khiển, điều chỉnh hoạt động
của con người làm cho hoạt động của con người có ý thức. Đó là quá trình con người
vận dụng những hiểu biết và tỏ thái độ của mình nhằm thích nghi, cải tạo thế giới và
cải tiến cả bản thân. Mặt khác ý thức nảy sinh và phát triển trong hoạt động. Cấu trúc
của hoạt động qui định cấu trúc của ý thức. Vì thế nhu cầu, hứng thú, động cơ, ý chí…
đều có vị trí nhất định trong cấu trúc của ý thức” [53, 62].
Khái niệm phê bình
Theo viện ngôn ngữ học Việt Nam, “phê bình là xem xét, phân tích, đánh giá ưu
điểm và khuyết điểm. Tự phê bình và phê bình là để rút kinh nghiệm” [2, 587].
Như vậy, dựa vào khái niệm ý thức, cấu trúc ý thức, khái niệm phê bình, theo
tác giả, ý thức tự phê bình và phê bình là khả năng nhận thức con người về việc xem
xét, đánh giá ưu điểm và khuyết điểm của bản thân và của người khác. Từ đó hình
thành thái độ đánh giá và hành động thực hiện nhằm phát huy những mặt tích cực, sửa
chữa những hạn chế, rút kinh nghiệm cho bản thân mình và cho cả người khác.
1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của thanh niên và tầm quan
trọng của việc xây dựng ý thức tự phê bình và phê bình cho thanh niên
1.2.1.Vai trò của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta
Trong suốt tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, tầng lớp
thanh niên chiếm một vị trí vô cùng quan trọng, là bộ phận nòng cốt giúp đất nước phát

triển mạnh mẽ, bền chắc. Ngày nay, trong công cuộc đổi mới đất nước, bản thân mỗi

11


thanh niên, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cần phải xung kích, sáng tạo hơn nữa, phát huy
tối đa thể lực và trí lực góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Theo Người,
“Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”
[19, XII]. “Hồ Chí Minh quan niệm chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân,
do nhân dân tự xây dựng lấy. Nếu không có con người thiết tha với lý tưởng xã hội chủ
nghĩa, thì không có chủ nghĩa xã hội được”[13, 106]. Con người xã hội chủ nghĩa bao
gồm cả những con người từ xã hội cũ để lại và cả những con người sinh ra trong xã hội
mới. Họ “phải là con người có tinh thần và năng lực làm chủ, có đạo đức cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư, có tri thức khoa học – kỹ thuật, nhạy bén với cái mới, có tinh thần
sáng tạo, dám nghĩ, dám làm…Đó là nguồn lực quan trọng nhất để xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội” [13, 106]. Và đại bộ phận con người đó chính là thế hệ thanh niên
nhiệt huyết và năng động.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Thanh niên là người chủ tương lai
của nước nhà. Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh, một phần lớn là do các thanh
niên” [23, 216]. Khái niệm này đã khẳng định vị trí, vai trò của tầng lớp thanh niên. Họ
chính là những người trẻ, những người nắm trong tay vận mệnh của đất nước, quyết
định con đường đi lên, sự phát triển, phồn vinh của dân tộc. Do đó, ngay từ thời niên
thiếu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức được sự đóng góp của tuổi trẻ trong việc đấu
tranh và bảo vệ Tổ Quốc, quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước. Năm 1920, được tiếp xúc
với Luận cương những vấn đề về dân tộc và thuộc địa của Lê Nin, Người đã tìm thấy
được con đường giải phóng dân tộc và đứng về Quốc tế III, tham gia thành lập Đảng
Cộng sản Pháp. Khi tìm thấy chân lý cách mạng, Hồ Chí Minh đã tìm cách tập hợp
thanh niên, thức tỉnh họ, giúp họ nhận ra hoàn cảnh đất nước, nhiệm vụ và trách nhiệm
của họ lúc bấy giờ. Cuối năm 1924, Người trở về Quảng Châu (Trung Quốc) thành lập
ra Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, ra báo Thanh niên, mở các lớp huấn luyện

chính trị, đào tạo cán bộ, sau đó đưa họ về nước hoạt động. Đứng trước cảnh nước mất
nhà tan, phong trào đấu tranh với sự tham gia của những thanh niên yêu nước diễn ra
khắp nơi, Hồ Chí Minh đã cảm nhận và tin tưởng sâu sắc vào lòng yêu quê hương đất
nước của thế hệ trẻ, họ sẽ tiếp nối truyền thống cha anh, đi theo Đảng, cùng với nhân
dân cả nước làm nên cuộc Cách mạng tháng Tám, giành độc lập, khai sinh nước Việt
12


Nam dân chủ cộng hòa, đem lại ấm no, hạnh phúc cho dân tộc. Với tinh thần và ý chí
quyết tâm, chí khí hào hùng lúc bấy giờ như:
“Hỡi miền Bắc đó nặng đôi vai
Gánh cả non sông vượt dặm dài
Xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai” 3
hay:
“Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”
Và những phong trào cách mạng: “Ba sẵn sàng”, “Năm xung phong”,… thanh
niên Việt Nam ta đã cùng với toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ra sức đánh giặc, quyết
giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Những năm tháng tuổi trẻ, được hòa mình vào cuộc sống vừa lao động, vừa
chiến đấu của nhân dân nhiều nước trên thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh có điều kiện
tìm hiểu thêm về vai trò của thanh niên trong sự phát triển của đất nước, của dân tộc.
Người nhận thấy thanh niên là tuổi trẻ, tuổi đẹp nhất của đời người, như mùa xuân
tràn đầy nhựa sống “Một năm khởi đầu bằng mùa xuân, một đời khởi đầu từ tuổi trẻ,
tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội” [22, 194]. Tuổi trẻ là tuổi thanh niên, là tuổi trưởng
thành về mọi mặt. Đặc biệt là về nhận thức và suy nghĩ, đó là những lý tưởng, lẽ
sống hoài bão lớn lao cùng những hành động sáng tạo, mạnh mẽ, tự tin và đầy nhiệt
huyết. Chính trong những ngày tháng của tuổi trẻ ấy, thanh niên sẽ dần được hoàn
thiện về mọi mặt - sức khỏe và trí tuệ, được hình thành thế giới quan, nhân sinh quan
thông qua việc tiếp nhận giáo dục xã hội. Mặt khác, khả năng chuyển hóa giáo dục

giúp mỗi cá nhân tự nhận thức và tự đào tạo lại chính bản thân mình. Vì thế, nếu
được định hướng đúng đắn thì thanh niên sẽ hình thành lý tưởng sống cao đẹp, trở
thành những người có ích cho xã hội. Thấu hiểu được điều đó mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã căn dặn: “Thanh niên muốn làm chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện
tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải làm việc chuẩn bị cho cái
tương lai đó” [23, 216]; “phải tham gia ý kiến vào công việc của Chính phủ, chiến
đấu giữ lấy nền độc lập và tự rèn luyện từ bây giờ để sau này lên những thủ lĩnh mà
3 Trích “Theo chân Bác” – Tố Hữu.

13


gánh vác những việc trọng đại của nước nhà” [23,29]. Như vậy,thanh niên là lực
lượng xã hội to lớn, là nhân tố góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, là người
chủ tương lai của đất nước.
Khi bước vào thời kì xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa
xã hội, Người đã nhìn thấy thanh niên là lực lượng nòng cốt để xây dựng xã hội mới,
bởi:
“Thanh niên là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là
người phụ trách dìu dắt thế hệ tương lai” [31, 298]. Ở đây, Người muốn đề cao vai trò
của tầng lớp thanh niên, thanh niên chính là người tiếp nối và phát huy những truyền
thống của cha anh đi trước, song song đó sẽ là người phụ trách, nuôi dưỡng thế hệ mai
sau. Đó chính là mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa quá khứ và tương lai, không thể tách
rời. Đồng thời là một tất yếu khách quan - sự kế tục lịch sử, tiếp nối, bàn giao giữa các
thế hệ mà trong đó, thanh niên giữ vị trí trung tâm, quan trọng.
“Thanh niên là người xung phong trong công cuộc phát triển kinh tế, văn hóa
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội” [31, 298]. Không chỉ nhìn thấy được vị trí
quan trọng của tầng lớp thanh niên. Người còn thấy được ở họ - những người trẻ - sự
nhiệt huyết, tiên phong, sẵn sàng đi đầu trong mọi hoạt động, đặc biệt là trong công cuộc
xây dựng và phát triển nền kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần

tăng năng suất lao động, đảm bảo chất lượng cuộc sống mỗi cá nhân. Từ đó, giải phóng
con người khỏi mọi áp bức, bóc lột, nâng cao trình độ tư tưởng và văn hóa, góp phần
vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
“Thanh niên là lực lượng cơ bản trong bộ đội, công an và quân dân tự vệ, đang
hăng hái giữ gìn trật tự, trị an, bảo vệ Tổ quốc” và “Trong mọi công việc, thanh niên thi
đua thực hiện khẩu hiệu: Đâu cần thanh niên có, việc gì khó thanh niên làm” [31, 299].
Từng sống với tuổi trẻ hoài bão của mình, Hồ Chí Minh thấu hiểu được ở thanh niên có
sự mạnh dạn, tự tin, nhiệt huyết, dám nghĩ, dám làm, sẵn sàng giữ gìn và bảo vệ Tổ
Quốc. Người đánh giá cao vai trò xung kích, sáng tạo của thế hệ thanh niên: “...Bác rất
tự hào, sung sướng và thấy hình như mình trẻ lại, thấy tương lai của dân tộc ta vô cùng
vững chắc và vẻ vang” [33, 79]. Bởi lẽ theo Người, trải qua hai cuộc đấu tranh yêu nước
đã “rèn luyện thành một thế hệ thanh niên vô cùng gan dạ, thông minh, không sợ gian
14


khổ, hi sinh, quyết chiến quyết thắng…” [32, 618].
“Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Thanh niên có sứ mạng lịch sử vẻ vang đối
với cách mạng nước mình và cách mạng thế giới, đó là thanh niên trong giai cấp công
nhân, giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiến bộ nhất trong lịch sử, là người xây
dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản trên thế giới”. Người cho rằng: “Thanh niên
các nước đoàn kết với nhau, tin tưởng vào khả năng đấu tranh của mình để giữ gìn hòa
bình thế giới, thực hiện hợp tác cùng nhau để xây dựng đời sống hạnh phúc tươi vui””
[7].
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, quán triệt quan
điểm của Hồ Chí Minh, Đảng xác định thanh niên giữ vị trí trung tâm trong chiến lược
phát huy nhân tố và nguồn lực con người, trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII nêu rõ: “Thanh niên là lực lượng xung kích sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất
nước bước vào thế kỷ 21 có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, cách
mạng Việt Nam có vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không phần lớn tuỳ

thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên; công
tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định sự
thành bại của cách mạng. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Vì lợi ích mười năm
thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”, vì vậy vấn đề thanh niên
phải đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược phát huy nhân tố và nguồn lực con người.
“Đảng đặt niềm tin sâu sắc vào thanh niên, phát huy vai trò làm chủ và tiềm năng to lớn
của thanh niên để thanh niên thực hiện được sứ mệnh lịch sử, đi đầu trong cuộc đấu
tranh chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng và bảo vệ đất nước giàu mạnh, xã hội
văn minh, nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc” [42]. Hay trong hội nghị lần
thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã ban hành Nghị quyết về "Tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa", Nghị quyết khẳng định: “Đảng ta tiếp tục đề cao vai trò, vị trí quan trọng của
thanh niên; xác định thanh niên là lực lượng xung kích trong giai đoạn cách mạng mới”
[40]. “Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực
lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định
15


sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thanh niên được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược bồi
dưỡng, phát huy nhân tố và nguồn lực con người. Chăm lo, phát triển thanh niên vừa là
mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước”
[40]. Đồng thời nêu rõ “Thanh niên nước ta đang đứng trước những cơ hội, thuận lợi
lớn, nhưng cũng phải đương đầu với những khó khăn, thách thức không nhỏ…” [40].
Do đó mỗi đoàn viên thanh niên cần phải ra sức nỗ lực, rèn luyện, học hỏi, có bản lĩnh,
năng lực, trình độ để chớp lấy thời cơ, vượt qua mọi thử thách, khó khăn, tiếp tục cống
hiến cho sự phát triển của đất nước, xứng đáng với niềm tin yêu của Bác, của Đảng, của
nhân dân.
Như vậy, một lần nữa khẳng định rằng: Trong bất cứ thời đại nào thì thanh niên
đều đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Và ngày nay,

hơn thế nữa, thanh niên còn giữ vai trò xung kích, là nhân tố quyết định trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước ta hiện nay. Trước sự quan tâm, chăm lo và kỳ
vọng lớn lao của Đảng và Nhà nước, mỗi thanh niên cần nhận thức rõ vai trò và trách
nhiệm để không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu trở thành lực lượng xung
kích thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
1.2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng ý thức tự phê bình và phê
bình trong thanh niên để nâng cao đạo đức cách mạng
Với sự tin yêu, sự quan tâm đặc biệt với thế hệ trẻ, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm
nhận rõ được vị trí, vai trò quan trọng của tầng lớp thanh niên - những người kế thừa và
phát huy truyền thống cha ông, dìu dắt thế hệ mai sau; những người có hoài bão, lí
tưởng sống cao đẹp, nhiệt huyết, xung kích và sáng tạo, góp phần trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Mặc dù đánh giá cao vai trò của thanh niên nhưng song song đó
Người vẫn xem xét thanh niên một cách toàn diện. Vì Người hiểu được là con người, ai
cũng sẽ mắc sai lầm, cũng có ưu điểm và nhược điểm, không ai là hoàn thiện cả, thanh
niên cũng vậy.
Bên cạnh ưu điểm của thế hệ thanh niên là hăng hái, nhiệt huyết, năng động, sáng
tạo, xung kích thì theo Người khuyết điểm ở thanh niên là đó là sự thiếu từng trải trong
16


cuộc sống, ham chuộng hình thức, thiếu thực tế, bệnh cá nhân, bệnh anh hùng, một số
chưa chịu khó học tập, tự cao, tự đại… “Ưu điểm của thanh niên ta là hăng hái, giàu tinh
thần xung phong. Khuyết điểm là ham chuộng hình thức, thiếu thực tế, bệnh cá nhân,
bệnh anh hùng” [25, 66]. Qua đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: phát huy mặt mạnh,
khắc phục mặt yếu là con đường để tự hoàn thiện nhân cách của thanh niên “Rất mong
toàn thể thanh niên ta ra sức phát triển những ưu điểm và tẩy sạch những khuyết điểm
ấy. Huy hiệu của thanh niên ta là “tay cầm cờ đỏ sao vàng tiến lên”” [25, 66]. Thanh
niên muốn làm chủ tương lai cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải ra sức học tập, không
ngừng rèn luyện đạo đức, hoàn thiện những phẩm chất cá nhân. Bản thân mỗi người cần

phải xung phong đi đầu, gương mẫu trong công tác, trong đạo đức cách mạng, phải ra
sức xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Để làm được
như vậy, theo Người “chớ vì thế mà tự cao, tự đại, phải khiêm tốn, luôn luôn cố gắng
hơn mới vượt qua mọi khó khăn để giành lấy thành tích nhiều hơn và lớn hơn” [33, 78].
Người đặc biệt nhấn mạnh: “Thanh niên phải xung phong đến những nơi khó khăn gian
khổ nhất, nơi nào người khác làm ít kết quả, thanh niên phải xung phong đến làm cho
tốt, phải xung phong đến những nơi khó khăn để xây dựng chủ nghĩa xã hội” [31, 470].
Nhận biết rõ những mặt mạnh và mặt yếu của thanh niên, theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh, việc xây dựng ý thức tự phê bình và phê bình để nâng cao đạo đức cách mạng cho
thanh niên là một việc làm quan trọng và cần thiết. Bởi lẽ nó giúp thanh niên trở thành
những người công dân tốt và có ích cho xã hội. Người quan niệm: “Thanh niên ta phải
thấm nhuần tinh thần làm chủ nước nhà và phải trau dồi đạo đức của người cách mạng”
[31, 89]. Như vậy, thanh niên trước hết phải biết yêu Tổ quốc quê hương, đất nước và
quyết tâm cống hiến dựng xây nước nhà. Nhưng bên cạnh đó cũng cần phải học tập và
rèn luyện đạo đức, vì theo Bác: “Người cách mạng phải là người có đạo đức; không có
đạo đức thì dù tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [23, 292]. Đạo đức
cách mạng chính là nền tảng để mỗi thanh niên rèn luyện, hoàn thiện bản thân và thực
hiện nhiệm vụ cách mạng của mình. Trong 5 điều răn dạy thanh niên, Người đặc biệt
quan tâm vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng: “Luôn luôn trau dồi đạo đức cách mạng,
khiêm tốn và giản dị. Chống kiêu căng tự mãn, chống lãng phí xa hoa. Thực hành tự phê
bình và phê bình nghiêm chỉnh để giúp nhau cùng tiến bộ mãi” [32, 619]. Nội dung cốt
17


lõi của đạo đức cách mạng chính là cần, kiệm, liêm, chính. Học hỏi và kế thừa từ quan
điểm của người quân tử của Khổng Tử, Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng một quan điểm
mới về bốn đức tính cần thiết của người cách mạng. Bốn đức: “cần, kiệm, liêm, chính”
là thước đo phẩm chất đạo đức của con người. Những đức đó đã tồn tại cùng lịch sử
nhân loại nhiều ngàn năm qua.
“Cần” là siêng năng, cần cù, chăm chỉ, cố gắng. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh:

“ Người siêng năng thì mau tiến bộ.
Cả nhà siêng năng thì chắc ấm no.
Cả làng siêng năng thì làng phồn thịnh.
Cả nước siêng năng thì nước giàu mạnh”.
Muốn “cần” có hiệu quả phải có tính cẩn thận, chu đáo, rõ ràng, biết sắp xếp và
lên kế hoạch. Có như thế, thì mới cố gắng, chăm chỉ, nuôi dưỡng tinh thần và lực lượng
để làm việc lâu dài.
“Kiệm” là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, nhưng cũng không bủn xỉn,
keo kiệt. “Cần” mà không “kiệm” thì “làm chừng nào xào chừng ấy”. Cũng như một cái
thùng không đáy, nước đổ vào chừng nào chảy hết ra chừng ấy, không lại hoàn không.
“Kiệm” và “cần” phải đi đôi với nhau.
“Liêm” là trong sạch, không tham lam, tham ô, lãng phí của công, không “đục
khoét”, không lấy của công làm của tư,. Người muốn “liêm” phải “cần” và “kiệm”.
“Chính”, theo Người giải thích: nghĩa là không “tà”, nghĩa là trung thực, thẳng
thắn, đứng đắn. “Chính” là kết quả của “cần”, “kiệm”, “liêm” tạo nên. Vì thế “chính” là
trung tâm, là cốt lõi, là nhân tố quyết định đạo đức, của con người.
Đây là bốn phẩm chất giống như bốn mùa “xuân, hạ, thu, đông”, bốn phương
“đông, tây, nam, bắc”. Thiếu một trong bốn mùa không thể là một năm trọn vẹn, thiếu
một trong bốn phương cũng thông thành đất, cũng giống như con người thiếu một trong
bốn phẩm chất đó cũng không trở thành con người đúng nghĩa:
“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.
Người có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính.
Thiếu một mùa, thì không thành trời.
18


Thiếu một phương, thì không thành đất.
Thiếu một đức, thì không thành người” 4
Để có được những phẩm chất đó thì theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta cần

đấu tranh, rèn luyện thường xuyên, chống những thói hư tật xấu, phải thực hiện tự phê
bình và phê bình để tiến bộ, trở thành những con người kế thừa xây dựng chủ nghĩa vừa
“hồng” vừa “chuyên”. Cần có sự quan tâm, chăm lo, bồi dưỡng, giáo dục thanh niên từ
các ngành, các cấp. Bên cạnh đó, Đảng, các tổ chức Đoàn - Hội cần đề ra đường lối, chủ
trương, những phong trào thiết thực định hướng cho thanh niên, xác định các chuẩn mực
cho thanh niên phấn đấu; xây dựng các tấm gương điển hình tiêu biểu cho thanh niên
học tập và noi theo. Ngoài ra, sự nỗ lực học tập, rèn luyện và phấn đấu không ngừng của
thanh niên theo tấm gương Hồ Chí Minh là yếu tố quan trọng để xây dựng thế hệ thanh
niên trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
1.3. Quan điểm của Hồ Chí Minh về nội dung và phương pháp xây dựng ý
thức phê bình và tự phê bình.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi cá nhân trong chúng ta ai cũng
có ưu và khuyết điểm. Để có thể hoàn thiện bản thân, chúng ta cần biết tự phê bình và
phê bình. Tự phê bình và phê bình theo Người là một hệ thống những quan điểm toàn
diện về khái niệm, mục đích, nguyên tắc, phương pháp xây dựng ý thức tự phê bình và
phê bình.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tự phê bình là gì? Là thật thà nhận, công khai
trước mặt mọi người những khuyết điểm của mình để tìm cách sữa chữa” [25, 80]. Như
vậy, tự phê bình là tự đánh giá, thật thà nhận khuyết điểm của mình để qua đó phát huy
những ưu điểm và khắc phục những hạn chế, thiếu sót; cố gắng sửa chữa những sai lầm
bằng nhiều cách và triệt để. Làm được như thế, ta mới phát huy được trí tuệ, năng lực
cũng như rèn luyện, tu dưỡng nhân cách đạo đức của bản thân. Không chỉ thế, việc tự
nhìn nhận, đánh giá còn là bài học kinh nghiệm cho những khác học hỏi, noi theo và
tránh mắc những sai lầm đó. Nói thì dễ nhưng làm mới khó, vì theo Hồ Chí Minh: “Khó
là vì người ta hay có lòng tự ái. Thừa nhận cái sai, cái dốt, cái kém của mình, thì sợ mất
thể diện, mất uy tín, mất địa vị” [25, 80]. Mỗi người trong chúng ta ai cũng có lòng tự ái,
4Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị Quốc gia – Hà Nội, trang 117 .

19



vì thế mà không dám nhận khuyết điểm, sợ làm mất uy tín bản thân, sợ người khác
không coi trọng mình, sợ mất địa vị, vị thế. Vì tự ái, mà chúng ta vô tình che giấu đi
những hạn chế của bản thân, cũng giống như “có bệnh mà giấu bệnh. Giấu bệnh, thì
càng ngày bệnh càng nặng, đến khi quá nặng không chữa được nữa, thì chết. Giấu
khuyết điểm thì khuyết điểm càng ngày càng to, đến khi to quá, không sửa chữa được
nữa, thì mọi việc đều hỏng” [25, 80]. Vì vậy bản thân mỗi người cần bỏ đi cái tôi, chống
chủ nghĩa cá nhân của bản thân để dám thừa nhận những mặt chưa tốt để khắc phục.
Đặc biệt là đối với người cán bộ đảng viên, họ cần phải tự học hỏi, trau dồi tri thức, rèn
luyện đạo đức, tự phê bình và phê bình, để nâng cao đạo đức cách mạng. Đồng thời là
những tấm gương sáng để cho quần chúng nhân dân học hỏi và noi theo.
Bên cạnh tự phê bình chúng ta cũng cần phải biết phê bình những người xung
quanh. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Thuốc đắng thì dã tật, nói thật thì được việc. Nói
thật tức là phê bình” [25, 113]. Khi sức khỏe yếu, thuốc đắng sẽ giúp ta khỏi bệnh. Cũng
giống như khi ta phê bình sẽ giúp người khác nhận ra được ưu điểm và khuyết điểm của
mình. Chỉ có thế ta mới giúp nhau sửa chữa những hạn chế, phát huy những mặt tích
cực. “Khuyết điểm cũng như một chứng bệnh. Phê bình là thuốc để chữa các bệnh
khuyết điểm” [25, 113], “Phê bình là thấy ai (cá nhân, cơ quan, đoàn thể) có khuyết
điểm thì thành khẩn nói cho họ biết để họ sửa chữa, để họ tiến bộ” [28, 386]. Ở đây, theo
Người, phê bình chính là nói ra những việc sai trái mà họ đang làm để góp ý, giúp họ
sửa chữa; chứ không phải là vì ta ghét họ ở điểm nào đó mà mang họ ra để nhận xét, chỉ
trích “phê bình việc làm, chứ không phải phê bình người” [23, 272]. Để dễ hiểu, Bác đã
đưa ra ví dụ ví von về phê bình, tại buổi Lễ bế mạc lớp Bổ túc trung cấp (10/1947), Hồ
Chí Minh đã nói: "Tự phê bình rồi lại phải phê bình người khác nữa... Nếu tôi có vết
nhọ trên trán, các đồng chí trông thấy, lại lấy cớ "nể Cụ" không nói, là tôi mang nhọ
mãi. Nhọ ở trên trán thì không quan trọng, nhưng nếu có vết nhọ ở trong óc, ở tinh thần,
mà không nói cho người ta sửa tức là hại người...Thấy cái xấu của người mà không phê
bình là một khuyết điểm rất to. Không phê bình, tức là để cho cái xấu của người ta phát
triển" [24, 250]. Với cách nói mộc mạc, đơn giản, Người đã so sánh khuyết điểm giống
như vết nhọ. Bản thân chúng ta không thể tự nhìn thấy được, nếu người khác thấy mà nể

nang, thì suốt đời ta sẽ mắc sai lầm đó mãi. Từ đó, Người đã giúp cho chúng ta hiểu
20


được mục đích của việc phê bình là “cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt
để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ” [23,
272]. Phê bình là giúp nhau tiến bộ, nên ta không được nể nang, né tránh. Khi phê bình
ta cần phải xem xét kĩ càng, căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử - cụ thể, căn cứ vào những
yếu tố khách quan và chủ quan, cần phải nói đúng, nói thật, thẳng thắng nói ra những sai
lầm, hạn chế, nhưng bên cạnh đó cũng phải tôn trọng, đề cao những mặt tích cực mà
người khác đã làm được để cùng học hỏi và phát huy. Phê bình còn góp phần tạo nên sự
thống nhất ý kiến, đoàn kết trong tập thể, cơ quan.
Sau những khái niệm rõ ràng, khúc chiết, dễ hiểu, Người đã nêu ra mục đích của
việc tự phê bình và phê bình: “Nhằm giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu
điểm, cùng nhau tiến bộ” [28, 386]. Như vậy, tự phê bình và phê bình không chỉ là nhận
ra những mặt làm được hay những mặt hạn chế, mà còn là để sửa chữa, khắc phục
khuyết điểm và phát huy ưu điểm. Không chỉ vậy, đó còn là bài học cho nhau, giúp nhau
tiến bộ, mang lại nhiều lợi ích cho bản thân và tập thể “Phê bình là cốt lợi cho công việc
chung” [25, 113]. Mục đích của tự phê bình và phê bình là là giống nhau, tuy nhiên tùy
vào trường hợp cụ thể, đối tượng cụ thể sẽ có những ưu và khuyết điểm khác nhau. Như
vậy, tự phê bình và phê bình có vai trò, ý nghĩa hết sức quan trọng. Chúng có mối quan
hệ mật thiết với nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau, giúp rèn luyện, nâng cao đạo đức cách
mạng của mỗi người, nhất là đối với cán bộ, đảng viên. Theo Người: “Luôn luôn tự
kiểm điểm, tự phê bình, những lời mình nói, những việc mình đã làm, để phát triển điều
hay của mình, sửa đổi khuyết điểm của mình. Đồng thời phải hoan nghênh người khác
phê bình mình” [24, 130]. Phải xem việc tự phê bình và phê bình như mỗi ngày soi
gương, rửa mặt, để làm cho sạch sẽ cơ thể, thanh lọc tâm hồn, hoàn thiện nhân cách.
Như vậy, với những quan điểm của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giúp chúng
ta hiểu được khái niệm cũng như bản chất, mục đích của tự phê bình. Đó là giúp nhau
nhận ra những ưu điểm và khuyết điểm, từ đó ta phải phát huy ưu điểm, khắc phục

khuyết điểm, cùng nhau tiến bộ. Trong quá trình tự phê bình và phê bình, ta cần phải
thẳng thắn, không nể nang, không sợ bị trù dập, trả thù cá nhân. Tuy nhiên, theo Người,
nếu “chỉ nghiên cứu qua loa, hoặc nhận thấy khuyết điểm rồi nhưng không cố gắng sửa
chữa” [23, 271] thì đó là “vì nghiên cứu một cách không thiết thực, không có tổ chức”
21


[23, 271]. Từ đó, Người chỉ ra cách thực hiện:
“A- TỔ CHỨC: Mỗi cơ quan, bộ đội, đoàn thể phải tổ chức một ủy ban học tập,
do cán bộ cao cấp lãnh đạo, do các cấp cử đại biểu tham gia. Số ủy viên nhiều hay ít, tuỳ
hoàn cảnh mà định. Ủy ban này định ra kế hoạch; nghiên cứu, thảo luận, kiểm tra và
thực hành.
B- THỜI GIAN HỌC TẬP: Từ 2 đến 3 tháng. Mỗi nơi tuỳ hoàn
cảnh mà định ngày giờ. Dù sao, phải có ngày giờ nhất định.
C- TÀI LIỆU HỌC TẬP: Thư Hồ Chủ tịch và những tài liệu Trung ương sẽ gửi
thêm.
D- CÁCH THỨC HỌC TẬP:
1. Nghiên cứu - Mỗi người phải đọc kỹ càng các tài liệu, rồi tự kiểm điểm và
kiểm điểm đồng chí mình, có khuyết điểm gì và ưu điểm gì.
2. Thảo luận - Khai hội thảo luận và phê bình. Trong lúc thảo luận, mọi người
được hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến, dù đúng hoặc không đúng cũng vậy. Song không
được nói gàn, nói vòng quanh. Những kết luận trong cuộc thảo luận phải có cấp trên
duyệt y mới là chính thức.
Đ- CÁCH PHÊ BÌNH: Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau
tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất
nội bộ. Vì vậy, phê bình mình cũng như phê bình người phải ráo riết, triệt để, thật thà,
không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm. Đồng thời,
chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc. Phê bình việc làm, chứ không phải
phê bình người. Những người bị phê bình thì phải vui lòng nhận xét để sửa đổi, không
nên vì bị phê bình mà nản chí, hoặc oán ghét.

E- KIỂM TRA: Uỷ ban học tập phải có một ban kiểm tra để xem xét việc học tập
và sự tiến bộ của mọi người, giúp đỡ người tiến bộ ít, khen ngợi người tiến bộ nhiều.
G- BÁO CÁO: Mỗi tháng phải báo cáo về Trung ương một lần.
H- THỰC HÀNH: Người có ưu điểm thì phải cố gắng thêm, và người khác phải
cố gắng bắt chước. Mọi người phải tích cực sửa chữa khuyết điểm của mình và giúp anh
em sửa chữa khuyết điểm của họ. Mọi người phải nhớ rằng: cộng nhiều khuyết điểm
nhỏ thành một khuyết điểm to, sẽ rất có hại. Cộng nhiều ưu điểm nhỏ thành một ưu
22


điểm lớn, rất lợi cho Đảng và công cuộc kháng chiến” [23, 271 – 272].
Bên cạnh đưa ra những lý luận về nội dung, và cách thực hiện tự phê bình và phê
bình, Bác còn đưa ra những phương pháp về cách thức tiến hành trong thực tiễn. Theo
Bác, tự phê bình và phê bình là công cụ quan trọng để xây dựng, củng cố sự đoàn kết,
thống nhất trong Đảng. Bởi lẽ Bác đã đúc kết được qua những ngày tháng sống và chiến
đấu gian khổ “Trong bao nhiêu năm hoạt động bí mật, dù bị bọn thực dân khủng bố gắt
gao và Đảng ta gặp rất nhiều khó khăn, nguy hiểm, nhưng Đảng ta ngày càng phát triển,
càng mạnh mẽ và đã lãnh đạo nhân dân làm cách mạng thành công, kháng chiến thắng
lợi. Đó là vì Đảng ta khéo dùng cái vũ khí sắc bén phê bình và tự phê bình” [29, 608].
Theo Người muốn công tác tự phê bình và phê bình đạt hiệu quả, thì ta cần tiến
hành những phương pháp sau đây:
Một là, cần quán triệt về công tác tư tưởng của người thực hiện. “Tự phê bình
phải thường xuyên, chứ không phải chờ có khai hội mới tự phê bình, không phải khi làm
khi không” [25, 82]. Tự phê bình là phải tự giác, thực hiện liên tục, tự thực hiện hằng
ngày, hằng tháng, giống như việc soi gương, rửa mặt mỗi ngày chứ không phải làm theo
kiểu phong trào, đến dịp, đến đợt mới tiến hành. Phải tự nhận thức được rằng làm để
hoàn thiện bản thân, rèn luyện tính tự giác, nâng cao đạo đức cách mạng, chứ không
phải làm cho vui, cho bằng bạn bằng bè, hay làm cho có lệ, có hình thức.
Hai là, “Tự phê bình phải thật thà, phê bình phải thành khẩn, không mỉa mai, nói
xấu” [28, 618], “Tự phê bình rồi để sửa chữa, để tiến bộ, cho nên phải thật thà, phải triệt

để mới có kết quả. Nếu chỉ làm cho qua chuyện chỉ có hình thức thì vô ích” [25, 81].
Thật thà ở đây, trước hết, mỗi người cần phải tự kiểm điểm, tự chỉ trích bản thân mình,
không được tự cao, tự đại, không bao giờ được tự cho mình là hơn người, là tốt, là hoàn
thiện, mà cần phải ra sức học hỏi, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức. Thật thà còn thể hiện ở
việc phê bình người khác. Khi phê bình ta cần phải có quan điểm rõ ràng, thẳng thắn,
chính xác, phải chỉ rõ khuyết điểm của đồng chí mình, nhưng phải có động cơ trong
sáng, trên tình nhân ái, thấu tình đạt lý, đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, nhất là với
người cán bộ, đảng viên. Vì thế, mà trong Di chúc, Người căn dặn: “Trong Đảng thực
hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách
tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Phải có tình đồng
23


chí thương yêu lẫn nhau” [33, 611]. Không vì yêu thích ai ta nói tốt, nói đẹp cho họ;
ghét ai lại nói xấu, cần phải “phê bình việc làm, chứ không phải phê bình người” [23,
272], tuyệt đối không phê bình theo kiểu “bới lông, tìm vết” với thái độ ghen ghét, muốn
hạ bệ người khác. Ngoài ra, thật thà còn thể hiện ở việc người khác phê bình mình. Khi
được nhận xét, đánh giá, ta phải chân thành, dũng cảm, thật thà nhận khuyết điểm của
bản thân. Từ đó, tìm ra cách thức sửa chữa. Nói thì dễ nhưng làm mới khó, bởi lẽ trong
tâm lý con người, ai cũng thích “khen”, mấy ai thích người khác “chê” mình “Tự phê
bình và sửa khuyết điểm có khi dễ, nhưng có khi cũng khó khăn, đau đớn vì tự ái, vì thói
quen, hoặc vì nguyên nhân khác. Đó là một cuộc đấu tranh” [25, 82]. Đối với người có
lòng tự ái cao, họ khó để thừa nhận cái sai, cái dốt, cái yếu kém của mình; đơn giản vì
họ sợ mất thể diện, mất uy tín, mất địa vị nhất là những người đang giữ những vị trí, vị
thế cao. Theo Người: “Đó là lòng tự ái dại dột, khác nào có bệnh mà giấu bệnh. Giấu
bệnh thì càng ngày bệnh càng nặng, đến khi quá nặng không chữa được nữa, thì chết.
Giấu khuyết điểm thì khuyết điểm càng ngày càng to, đến khi to quá, không sửa chữa
được nữa thì mọi việc đều hỏng” [25, 80]. Nếu vì tự ái, sẵn sàng che giấu khuyết điểm,
ta dễ dàng đi đến những sai lầm không đáng có. Như vậy, thật thà tự phê bình và phê
bình cũng là nêu lên ưu điểm, vạch ra khuyết điểm của mình, của đồng chí mình một

cách rõ ràng, chính xác; tránh việc mỉa mai, đâm thọc, nể nang mà che giấu. Người được
phê bình phải vui lòng lắng nghe, tiếp thu để sửa đổi, không nên vì bị phê bình mà nản
chí, hoặc ghen ghét người phê bình mình, tìm cách trả thù, trù dập lại. Mọi người phải
tích cực sửa chữa khuyết điểm của mình và giúp anh em sửa chữa khuyết điểm của họ.
Đặc biệt với người cán bộ, đảng viên, việc thật thà tự phê bình và phê bình là điều vô
cùng quan trọng, vì họ chính là tấm gương để cho quần chúng nhân dân học hỏi và noi
theo. Giống như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “Tự mình không đánh thắng được những
khuyết điểm của mình, mà muốn đánh thắng kẻ địch, tự mình không cải tạo được mình,
mà muốn cải tạo xã hội, thì thật vô lý. Vì vậy, người cách mạng phải thật thà phê bình và
kiên quyết chữa khuyết điểm” [25, 82].
Ba là, “Thái độ của người phê bình phải thành khẩn, nghiêm trang, đúng mực”
[25, 114]. Bác phân tích và cho ví dụ về các thái độ khác nhau: “Đối với tự phê bình và
phê bình, có 3 thái độ khác nhau:
24


- Những đồng chí giác ngộ chính trị cao thì tự phê bình rất thật thà và kiên quyết
sửa chữa khuyết điểm. Khi phê bình người khác, các đồng chí ấy thành khẩn, nhẫn nại,
giúp đỡ họ sửa chữa. Đối với những kẻ sai lầm rất nặng mà lại không chịu sửa đổi, thì
các đồng chí ấy đấu tranh không nể nang. Chúng ta phải học tập tinh thần và tác phong
của các đồng chí ấy.
- Có một số ít người thì phê bình, giáo dục mấy cũng cứ ỳ ra, không chịu sửa đổi.
Đối với hạng người này, chúng ta cần phải nghiêm khắc, phải mời họ ra khỏi Đảng, để
tránh “con sâu làm rầu nồi canh”.
- Thái độ của một số khá đông cán bộ là: Đối với người khác thì phê bình đúng
đắn, nhưng tự phê bình thì quá “ôn hoà”. Các đồng chí ấy không mạnh dạn công khai tự
phê bình, không vui lòng tiếp thu phê bình - nhất là phê bình từ dưới lên, không kiên
quyết sửa chữa khuyết điểm của mình, thường tìm những “khó khăn khách quan” để tự
biện hộ. Nói tóm lại: Đối với người khác thì các đồng chí ấy rất “mácxít”, nhưng đối với
bản thân mình thì mắc vào chủ nghĩa tự do” [27, 521 - 522]

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến thái độ của người phê bình. Khi
phê bình người khác, chúng ta cần phải chỉ ra cho họ khuyết điểm, từ đó tìm ra nguyên
nhân và hậu quả của khuyết điểm. Không chỉ có vậy, ta còn phải tìm phương pháp, cách
thức giúp họ sửa chữa. Trong quá trình sửa chữa, chúng ta còn phải theo dõi, giúp đỡ,
động viên giúp người bị phê bình khắc phục hạn chế đó. “Phải vạch rõ vì sao có khuyết
điểm ấy, nó sẽ có kết quả xấu thế nào, dùng phương pháp gì để sửa chữa. Thuốc phải
nhằm đúng bệnh. Tuyệt đối không nên có ý mỉa mai, bới móc, báo thù, không nên phê
bình lấy lệ. Càng không nên “trước mặt không nói, xoi mói sau lưng” [25, 114]. Khi tự
phê bình và phê bình, không được vì tư thù cá nhân, lợi ích riêng mà lợi dụng những yếu
điểm của người khác để châm trọc, mỉa mai, bới móc, báo thù. Không được phê bình
cho có, lấy lệ, mà cần phải thực hiện nghiêm túc, triệt để. Đặc biệt Người nhấn mạnh
việc nói xấu sau lưng, không dám mạnh dạn thẳng thắn nói trước mặt. Điều đó càng dễ
mất lòng nhau và chia rẽ đoàn kết nội bộ.
Bốn là, khi tiến hành tự phê bình và phê bình phải bảo đảm tính dân chủ, công
khai. Thể hiện ở việc công khai nhận xét, đánh giá điểm mạnh, điểm yếu của mình, đồng
chí mình và tổ chức đảng trước hội nghị. Người phê phán nghiêm khắc tình trạng “ngồi
25


×