Tải bản đầy đủ (.doc) (126 trang)

GIÁO DỤC BÌNH ĐẲNG GIỚI CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG TẠI QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (563.16 KB, 126 trang )

GIÁO DỤC BÌNH ĐẲNG GIỚI CHO HỌC SINH
TRUNG HỌC CƠ SỞ DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG
TẠI QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
BĐG
Giáo dục và đào tạo
Nhà xuất bản
Phụ huynh học sinh
Trang
THCS

Chữ viết tắt
BĐG
GD-ĐT
Nxb
PHHS
tr.
THCS


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghiên cứu giáo dục BĐG là vấn đề có cấp thiết trong xã hội hiện đại,
nhằm tìm ra các biện pháp nâng cao BĐG trong giáo dục và trong xã hội.
Nhiều quốc gia - dân tộc trên thế giới cũng như ở Việt Nam, vấn đề giáo dục
BĐG cho học sinh đã và đang trở thành nội dung giáo dục không thể thiếu
cho học sinh trong nhà trường phổ thông. Hoạt động giáo dục BĐG có chất
lượng, hiệu quả sẽ góp phần giáo dục thế hệ trẻ vươn lên làm người theo giá


trị phổ quát của nhân loại, thời đại - “chân, thiện, mỹ”.
Trong quá trình đổi mới đất nước, cùng với nhiều chính sách của Đảng,
Nhà nước và sự hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng đã tạo ra nhiều chuyển biến
tích cực trong đời sống xã hội. Bên cạnh những mặt tích cực cũng có những ảnh
hưởng tiêu cực từ mặt trái của đời sống xã hội đến học sinh THCS. Một trong
những vấn đề đang được xã hội quan tâm, đó là ảnh hưởng tiêu cực của các
trang mạng xã hội trên internet tới học sinh THCS. Thông tin thì đa dạng, hàng
ngày các em phải tiếp xúc với nhiều môi trường có cả điều tốt xen lẫn với
điều xấu, điều cần có ở các em là những kiến thức và sự nhận thức đúng đắn
để các em bước vào đời vững vàng, không đi vào con đường lạc lối để ảnh
hưởng tới tương lai. Trong khi đó, không chỉ ở nhà trường mà còn gia đình,
cũng như một bộ phận không nhỏ trong cộng đồng xã hội chưa quan tâm đúng
mức đến công tác giáo dục BĐG cho học sinh THCS. Tình hình hiện thực đó
càng đòi hỏi nâng cao trách nhiệm, phát huy vai trò của nhà trường, gia đình và
của cộng đồng xã hội đối với việc giáo dục BĐG cho học sinh THCS.
Giáo dục BĐG đối với học sinh THCS là giáo dục cho học sinh có năng
lực hiểu được người khác giới với mình, có tình cảm tôn trọng không chỉ là con
người nói chung, mà còn là đại diện của nam giới hay nữ giới, có năng lực, tính
đức và tôn trọng những đặc điểm giới tính của nhau trong quá trình hoạt động

1


cùng nhau. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay bên cạnh các bộ môn khoa học khác
thì việc giáo dục BĐG ở bậc THCS chưa được chú trọng đúng mức, đặc biệt là
trong công tác giáo dục, sử dụng đội ngũ giáo viên tham gia giáo dục chuyên
đề này hầu như không có. Giáo dục BĐG cho học sinh ở các trường THCS đa
số do giáo viên chủ nhiệm, giáo viên các bộ môn (Giáo dục công dân, Sinh
học, Ngữ văn, Lịch sử...) kiêm nhiệm. Theo đó, việc giáo dục BĐG học sinh
THCS chưa được thực hiện rộng rãi và phổ biến mà chỉ trên cơ sở lồng ghép

vào một số môn học (GDCD, Ngữ văn,....), với thời lượng vô cùng ít ỏi (1-2
tiết). Trong khi đó, ở lứa tuổi học sinh THCS, tâm-sinh lý các em đã, đang có
sự thay đổi lớn cả về thể chất và tinh thần, tâm lý. Các em thích tìm tòi, học hỏi
nhũng gì liên quan về sự thay đổi của cơ thể, về sự biến đổi của đời sống xã hội
cũng như trong quan hệ khác giới,.... Tình hình này đặt ra sự cần thiết coi trọng
giáo dục BĐG cho học sinh THCS không chỉ dừng lại ở nhà trường mà còn là
cần phải có sự tham gia tích cực, tự giác của gia đình, của cộng đồng.
Đối với các trường THCS ở quận Long Biên, việc giáo dục BĐG cho
học sinh là vấn đề càng trở nên cần thiết. Trong những năm qua, dưới sự chỉ
đạo của các cấp, ngành giáo dục thành phố Hà Nội nói chung, quận Long
Biên nói riêng đã quan tâm tới công tác giáo dục BĐG cho học sinh THCS
qua các hoạt động khá đa dạng. Tuy nhiên, hoạt động giáo dục BĐG cho học
sinh ở các trường THCS trên địa bàn Quận vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất
cập. Việc giáo dục BĐG cho học sinh THCS cả ở nhà trường cũng như gia
đình, cộng đồng xã hội trên địa bàn Quận vẫn chưa coi là môn học chính thức
mà chủ yếu vẫn được lồng ghép ở các môn kỹ năng sống. Ở gia đình, cộng
đồng chưa có cách thức tổ chức giáo dục BĐG cho học sinh phù hợp với điều
kiện hiện có của cộng đồng, với đặc điểm tâm lý - lứa tuổi của học sinh
THCS. Việc xác định vai trò, trách nhiệm của các lực lượng tham gia vào quá
trình giáo dục BĐG cho học sinh THCS vẫn đang còn nhiều ý kiến khác nhau.

2


Về phương diện lý luận, vấn đề giáo dục BĐG, hoạt động giáo dục
BĐG cho học sinh THCS trong sự phối hợp của nhiều lực lượng (nhà trường,
gia đình, các Ban ngành, Đoàn thể, các tổ chức quần chúng tại cộng đồng,...)
đã được quan tâm nghiên cứu ở những góc độ của các chuyên ngành khác
nhau; với phạm vi, cách thức tiếp cận vấn đề khác nhau. Tuy nhiên, vẫn còn
thiếu những công trình nghiên cứu một cách hệ thống, có tính toàn diện về

hoạt động giáo dục BĐG cho học sinh THCS dựa vào cộng đồng xã hội.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài nghiên cứu của luận
văn là: “Giáo dục BĐG cho học sinh THCS dựa vào cộng đồng tại quận
Long Biên, thành phố Hà Nội”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, đánh giá thực, đề xuất biện pháp giáo
dục BĐG cho học sinh THCS dựa vào cộng đồng quận Long Biên, thành phố
Hà Nội nhằm góp phần phát triển toàn diện nhân cách các em.
3. Khách thể, đối tượng nghiên cứu
* Khách thể nghiên cứu: Quá trình thực hiện giáo dục BĐG học sinh THCS.
* Đối tượng nghiên cứu: Sự phối hợp giữa nhà trường và cộng đồng trong
giáo dục BĐG cho học sinh THCS tại quận Long Biên, thành phố Hà Nội.
4. Giả thuyết nghiên cứu
Giáo dục BĐG cho học sinh THCS tại quận Long Biên, thành phố Hà
Nội trong những năm gần đây, bên cạnh những kết quả đã đạt được, vẫn còn
tồn tại những hạn chế, thiếu sót. Nếu đề xuất được các biện pháp phối hợp các
lực lượng trong cộng đồng để giáo dục bình đẳng giới cho học sinh THCS thì
sẽ nâng cao hiệu quả giáo dục BĐG, góp phần phát triển toàn diện nhân cách
học sinh THCS tại quận Long Biên hiện nay.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về giáo dục BĐG cho học sinh THCS dựa
vào cộng đồng.

3


- Nghiên cứu thực trạng giáo dục BĐG cho học sinh THCS dựa vào
cộng đồng tại quận Long Biên, thành phố Hà Nội.
- Đề xuất một số biện pháp giáo dục BĐG cho học sinh THCS dựa vào
cộng đồng tại quận Long Biên, thành phố Hà Nội và khảo nghiệm.

6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu về nội dung: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu giáo
dục BĐG cho học sinh THCS dựa vào cộng đồng tại quận Long Biên, thành
phố Hà Nội. Lực lượng cộng đồng tham gia giáo dục bình đẳng giới cho học
sinh THCS gồm nhà trường, gia đình và các tổ chức chính trị, chính quyền địa
phương Quận Long Biên
Địa bàn nghiên cứu: Các trường THCS và cộng đồng tại quận Long
Biên, thành phố Hà Nội. Tiến hành khảo sát, điều tra, thu thập số liệu ở 5
trường THCS (Trường THCS Thượng Thanh; Trường THCS Đức Giang;
Trường THCS Bồ Đề; Trường THCS Việt Hưng; Trường THCS Gia Thụy)
trên địa bàn quận Long Biên, thành phố Hà Nội.
Phạm vi thời gian nghiên cứu: Các số liệu, tài liệu phục vụ cho nghiên
cứu đề tài sử dụng từ năm học 2014 đến 3/2018.
7. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp phân
tích, tổng hợp, phân loại, hệ thống hóa, khái quát hóa các tài liệu, giáo trình,
các luận án, luận văn và các bài báo khoa học về lý luận quản lý, quản lý giáo
dục, quản lý giáo dục học sinh để xây dựng căn cứ lý thuyết cho đề tài.
Nghiên cứu sản phẩm công tác giáo dục BĐG như: chương trình, kế
hoạch quản lý, giáo án, các biện pháp thực hiện giáo dục BĐG cho học sinh
THCS tại quận Long Biên, thành phố Hà Nội hiện nay.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp điều tra thực hiện điều tra bằng phiếu hỏi với cán bộ quản
lý, giáo viên, chuyên viên giáo dục, một số gia đình học sinh, để đánh giá

4


thực trạng, đề xuất biện pháp giáo dục BĐG cho học sinh THCS dựa vào

cộng đồng quận Long Biên, thành phố Hà Nội.
Phương pháp nghiên cứu từ các công cụ quản lý: hệ thống sổ sách của
cán bộ quản lý và kế hoạch giáo dục của giáo viên, trong đó chú trọng các nội
dung giáo dục BĐG cho học sinh của giáo viên.
- Nhóm phương pháp bổ trợ: Sử dụng phương pháp
toán thống kê để xử lý các số liệu điều tra. Sử dụng phần mềm thống kê toán học
SPSS For Windown 13.0. Phương pháp chuyên gia: xin ý kiến các nhà khoa học,
nhà quản lý về một số vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến việc nghiên
cứu đề tài.
8. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn đã khái quát được những vấn đề cơ bản về lý luận giáo dục
BĐG cho học sinh THCS dựa vào cộng đồng. Phân tích đánh giá thực trạng
và đề xuất các biện pháp giáo dục BĐG cho học sinh THCS dựa vào cộng
đồng quận Long Biên, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho
học sinh hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
cơ quan chức năng, cán bộ quản lý, giáo viên trong thực hiện nhiệm vụ giáo
dục BĐG cho học sinh THCS dựa vào cộng đồng.
9. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục, nội dung chính của đề tài có kết cấu 3 chương.

5


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC BÌNH ĐẲNG GIỚI
CHO HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ DỰA VÀO CỘNG ĐỒNG
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Nghiên cứu về vấn đề giáo dục bình đẳng giới

dựa vào cộng động trên thế giới
* Nghiên cứu về vấn đề BĐG
Một là, tư tưởng về giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng nam nữ
trong lịch sử. Lịch sử nhận loại đã chứng minh, đấu tranh giải phóng phụ nữ,
thực hiện BĐG là nội dung không thể thiếu trong cuộc đấu tranh cho quyền
con người. Các nhà tư tưởng của giai cấp bóc lột vì bảo vệ chế độ thống trị
biện hộ cho “giá trị không đầy đủ” của người phụ nữ. Theo họ, “đàn bà đã là
nô lệ của đàn ông”, cho nên sự lệ thuộc của họ vào đàn ông là lẽ dĩ nhiên. Đối
lập quan điểm này, các nhà tư tưởng tiến bộ, đặc biệt là các nhà tư tưởng
CNXH không tưởng (Campanela, Tô Mat Morơ, Giăng Mêliê, G.Ba Bớp,
G.Uyn xtenly...) đã phê phán gay gắt, sâu sắc sự phân chia xã hội thành các
đẳng cấp, căn nguyên đẩy người phụ nữ tới tận cùng của áp bức. Dựa trên cơ
sở triết lý về “quyền bình đẳng tự nhiên”, Giăng Mêliê (1664 -1729) cho rằng,
con người ta sinh ra vốn có sự bình đẳng, bởi vì nó là sự “ban phát của tự
nhiên”; mọi sự bất BĐG được nảy sinh lại từ “chính con người”. Phuriê
(1772-1837) phê phán gay gắt chế định hôn nhân tư sản bị biến dạng thành
giao kèo buôn bán, hợp thức hóa sự sa đọa làm cho phụ nữ bị vô quyền. Ông
đã đưa ra luận điểm nổi tiếng, “giải phóng phụ nữ là thước đo mức độ tự do
trong mọi xã hội” [36, tr.176].
Trong tác phẩm “Đảo không tưởng” của Tô Mat Morơ đã giành cho trẻ
em trai và trẻ em gái sự giáo dục bình đẳng như nhau. Trong bức thư cuối
cùng gửi vợ con trước khi bị tử hình, G.Ba Bớp viết: “Tôi không thấy cách
nào khác làm cho em và các con hạnh phúc ngoài con đường đảm bảo đời

6


sống yên vui, hạnh phúc của mọi người” [36, tr.152]. G.Uyn xtenly, trong
“Luật hôn nhân” nhấn mạnh: “chống sự bạc đãi xảy ra trong mỗi gia đình,
nhất là đối với phụ nữ và trẻ em”. Như vậy, tư tưởng và hành động của các

nhà XHCN không tưởng về bình đẳng giữa nam và nữ thể hiện tính nhân văn,
có những giá trị lịch sử đối với nhân loại, thời đại.
Hai là, các nhà kinh điển Mác-Lênin luận giải thực hiện bình đẳng nam
nữ trong cách mạng XHCN. Kế thừa những tinh hoa trí tuệ của nhân loại,
cùng với trí tuệ uyên bác của mình, C.Mác, Ph.Ăngghen đã thực hiện cuộc
cách mạng thực sự về lý luận trong vấn đề thực hiện bình đẳng nam nữ. Trong
tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu, và của nhà nước”,
Ph.Ăngghen đã khái quát sự biến đổi địa vị của người phụ nữ qua hai thời kỳ
lịch sử lớn (mẫu quyền và phụ quyền); đồng thời, chỉ ra căn nguyên của sự
bất bình đẳng giữa nam và nữ (do xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất;
do ý đồ nô dịch về kinh tế của người đàn ông đối với người đàn bà; do ý
muốn để các của cải lại cho con cái của người đàn ông). Vì vậy, chế độ hôn
nhân cá thể quyết không phải đã xuất hiện trong lịch sử như sự hòa giải giữa
đàn ông và đàn bà mà “trái lại, nó thể hiện ra là một sự nô dịch của giới này
đối với giới kia, là việc tuyên bố sự xung đột giữa hai giới, sự xung đột mà
người ta chưa từng thấy trong suốt thời kỳ tiền sử” [23, tr.104].
V.I.Lênin bảo vệ, phát triển quan điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen trong
điều kiện mới, đồng thời đấu tranh chống lại luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa
Mác về vấn đề hôn nhân - gia đình, vạch trần bộ mặt thật của chế độ tư bản,
Hiến pháp tư sản. Theo V.I.Lênin, bình đẳng nam nữ không đồng nghĩa với sự
ngang bằng theo kiểu phụ nữ tham gia lao động với năng suất, khối lượng,
thời gian và điều kiện lao động như nam giới, bởi “ngay trong điều kiện hoàn
toàn bình đẳng, thì sự thật phụ nữ vẫn bị trói buộc vì toàn bộ công việc gia
đình đều trút lên vai phụ nữ” [17, tr.321].

7


Ba là, cuộc đấu tranh nhằm thực hiện bình đẳng nam nữ không thể tách
rời các công trình nghiên cứu về giới, BĐG. Một trong những đỉnh cao của

phong trào là trào lưu “Phụ nữ trong phát triển” (Women in the development WID) diễn ra ở những nước phát triển như Anh, Pháp, Mỹ... những năm 1970.
Cách tiếp cận nổi bật của WID là phụ nữ đã có đóng góp lớn cho sự phát triển.
Tuy trào lưu WID đạt được một số kết quả nhất định, song sau hai thập niên, sự
bất BĐG, sự thấp kém về địa vị của người phụ nữ vẫn tiếp diễn.
Ở thập kỷ 1980, xuất hiện một trào lưu mới “Giới và sự phát triển”
(Gender and the development - GAD). GAD đã khắc phục được những hạn chế
của WID. GAD lấy con người (cả nam và nữ) làm trung tâm, hướng vào việc
xóa bỏ bất BĐG trên cơ sở đáp ứng lợi ích chính đáng của cả nam và nữ. Mục
tiêu của GAD là làm cho hai giới phát triển hài hòa, đồng trách nhiệm để thúc
đẩy xã hội phát triển. Tuy gặp nhiều thách thức, song phương pháp tiếp cận về
giới, BĐG đã thu hút sự chú ý, ủng hộ của nhiều quốc gia, của các nhà khoa
học. Ngày 18/12/1979 Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với
phụ nữ đã được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua. Cho đến nay, nó là
Công ước về nhân quyền xếp thứ hai (sau Công ước về quyền trẻ em) về số các
thành viên tham gia ký kết và phê chuẩn. Chưa có bao giờ cuộc đấu tranh cho
BĐG nhận được sự ủng hộ rộng rãi của nhiều quốc gia như hiện nay.
* Nghiên cứu về cộng đồng, mối quan hệ giữa nhà trường với gia đình
và xã hội trong giáo dục nhân cách học sinh. Giáo dục là một hiện tượng xã
hội lịch sử. Ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, cách tiếp cận nghiên cứu về
mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình với cộng đồng không hoàn toàn như
nhau. Song, các công trình nghiên cứu về mối quan hệ này trong lịch sử và
cho đến hiện nay đều tập trung luận giải sự cần thiết, tầm quan trọng của phối
hợp giữa nhà trường, gia đình với cộng đồng trong quá trình giáo dục.
Nhiều công trình khoa học đã khẳng định vai trò to lớn của nhà trường,
gia đình, cộng đồng trong giáo dục. Chẳng hạn, J.A.Komenxki (1592-1670),

8


V.A.Xukhomlinxki (1918-1970) là những người nghiên cứu khá toàn diện, có

hệ thống lý luận khoa học về vai trò, mục đích, nội dung, hình thức của bộ
phận của mối quan hệ thống nhất hữu cơ giữa nhà trường với gia đình và với
xã hội đối trong quá trình giáo dục học sinh. Ở một số nước phương Tây hiện
nay cũng đã đề cao hơn về sự cần thiết, vai trò, trách nhiệm của nhà trường,
gia đình và cộng đồng trong giáo dục nhân cách thế hệ trẻ. Đồng thời, đi sâu
nghiên cứu về mối quan hệ giữa nhà trường với gia đình trong chăm sóc, giáo
dục, bảo vệ trẻ em trước vấn nạn bạo lực, buôn bán, xâm hại nhân phẩm phụ
nữ, trẻ em. Đề cập đến vấn đề này, Alan Johnson đã kêu gọi cha mẹ không
nên phó thác việc giáo dục con em mình cho nhà trường. Theo Ông, tham gia
của gia đình trong phối hợp với nhà trường và cộng đồng sẽ có ý nghĩa xã hội
sâu sắc trong quá trình giáo dục thế hệ mới lớn.
1.1.2. Nghiên cứu về vấn đề giáo dục bình đẳng giới dựa vào cộng
đồng ở Việt Nam
* Nghiên cứu về vấn đề bình đẳng giới
Một là, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước đã có sự quan tâm đặc biệt về giải phóng phụ nữ và BĐG.
Sinh thời, Hồ Chí Minh khẳng định, trong mỗi gia đình phụ nữ phải được tôn
trọng, bởi “chúng ta làm cách mạng là để tranh lấy bình quyền, bình đẳng, trai
gái đều ngang quyền như nhau” [27, tr.195]. Người nghiêm khắc phê bình
hiện tượng đàn ông đánh chửi vợ, phê bình các cấp bộ Đảng, chính quyền,
đoàn thể bao che hoặc làm ngơ, thậm chí cũng có những đảng viên đánh vợ.
Như vậy, tư tưởng của Người đã đặt nền móng cơ bản cho việc xây dựng gia
đình “ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”, một đảm bảo cho sự BĐG.
Quan điểm BĐG ở những Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng về công tác phụ
nữ, như: Nghị quyết 04/NQ-TƯ ngày 12/7/1993 của Bộ Chính trị Trung ương
Đảng về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới;

9



Chỉ thị 37-CT/TƯ ngày 16-5-1994 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về một số
vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới. Trong đó, Đảng ta xác định rõ:
“Chống lại những biểu hiện lệch lạc, coi thường phụ nữ, khắt khe, hẹp hòi trong
đánh giá cán bộ nữ”; Nghị quyết 11-NQ/TƯngày 27/4/2007 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Mục tiêu mà Nghị quyết 11-NQ/TƯ đề ra là: “Phấn đấu để
nước ta là một trong các quốc gia có thành tựu BĐG tiến bộ nhất khu vực”.
Trong các bản Hiến pháp1946 và Hiến pháp sửa đổi, bổ sung vào các năm
1959, 1980 và 1992 quy định: Công dân nam nữ có quyền ngang nhau về mọi
mặt chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội và gia đình. Nghiêm cấm hành vi phân biệt
đối xử đối với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ [(Điều 63, Hiến pháp năm
1992)]. Luật BĐG do Quốc hội thông qua ngày 29/11/2006 là sự thể hiện
quyết tâm của Nhà nước và ý chí của toàn dân về vấn đề thúc đẩy BĐG.
Những nguyên tắc cơ bản được Luật BĐG ở nước ta xác định: Nam nữ bình
đẳng trong các lĩnh vực đời sống xã hội và gia đình; nam nữ không bị phân
biệt, đối xử về giới; biện pháp thúc đẩy BĐG không bị coi là phân biệt đối xử
về giới, bảo đảm lồng ghép vấn đề BĐG trong xây dựng và thực thi luật pháp,
thực hiện BĐG là trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, gia đình và cá nhân.
Chiến lược quốc gia về BĐG năm 2011-2020 chỉ rõ: “Đến năm 2020, về cơ
bản, bảo đảm BĐG thực chất giữa nam và nữ về cơ hội, sự tham gia và thụ
hưởng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, góp phần vào sự
phát triển nhanh và bền vững của đất nước” [5].
Hai là, nghiên cứu về Giới, BĐG với tư cách là một ngành khoa học
độc lập xuất hiện ở nước ta vào nửa cuối những năm 1980. Sau khi ra đời,
khoa học nghiên cứu về Giới, BĐG đã nhận được sự quan tâm, ủng hộ của
các cấp lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các nhà khoa học và toàn xã hội. Đầu
những năm 1990, nghiên cứu về Giới, BĐG có bước đột phá cách tiếp cận về

10



phụ nữ. Cùng với nó là sự biến đổi nhanh chóng trong quan niệm, thái độ,
hành vi của xã hội và thực tiễn tạo lập BĐG ở mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội thời kỳ đổi mới. Trong tổ chức hoạt động thực tiễn, các lớp tập huấn về
giới, BĐG dành cho những nhà nghiên cứu, các cán bộ dự án hay các nhà
quản lý các ban, ngành, đoàn thể, cán bộ cơ sở và đông đảo phụ nữ và nam
giới cả ở nông thôn và thành thị.
Ba là, các công trình khoa học đã tiếp cận giới trong nghiên cứu vấn đề
BĐG ở Việt Nam đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Ở nước ta, việc
nghiên cứu về bình đẳng nam nữ được đề cập chủ yếu từ thời kỳ lịch sử cận đại
và hiện đại. Ban đầu, vấn đề nghiên cứu về bình đẳng giữa nam và nữ được đề
cập trong văn học, nghệ thuật, thi ca, sử học…. Các công trình khoa học đề cập
tới người phụ nữ ở khía cạnh: họ đã đóng góp rất lớn cho gia đình, xã hội,
nhưng vị thế của họ lại rất thấp kém. Nghiên cứu về phụ nữ đi sâu nhấn mạnh
mặt tự nhiên của phụ nữ. Tuy vậy, một số công trình nghiên cứu đã tuyệt đối
hóa mặt tự nhiên, coi đó là yếu tố không thể thay đổi được, chi phối các đặc
điểm có tính chất xã hội. Những hạn chế, phiến diện trong nghiên cứu phụ nữ
đã ảnh hưởng đến cách đặt vấn đề về bình đẳng nam nữ trong gia đình và xã
hội. Đáng chú ý, từ những năm 1990 đến nay, Việt Nam đã có nhiều dự án quốc
gia, nhiều đề tài liên kết với các nước, các tổ chức quốc tế nghiên cứu về giới và
những vấn đề có liên quan đến BĐG, giáo dục giới, BĐG cho mọi tầng lớp nhân
dân, trong đó có học sinh, sinh viên. Các khía cạnh được các công trình khoa học
nghiên cứu đã công bố, như: giáo dục sức khỏe sinh sản; giáo dục về tình yêu
trong thanh niên, học sinh; giáo dục đời sống gia đình …
* Nghiên cứu về cộng đồng, về mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình
và cộng đồng trong giáo dục nhân cách thế hệ trẻ
Có nhiều công trình nghiên cứu về cộng đồng. Mỗi công trình nghiên
cứu có cách tiếp cận riêng và đưa lại những giá trị của nó. Dựa vào địa lý,

11



cộng đồng được hiểu là cùng địa bàn, cùng lợi ích hoặc mối quan tâm, có
chung đặc điểm văn hóa-xã hội, có mối quan hệ ràng buộc nhất định. Dựa vào
chức năng, cộng đồng được quan niệm là cùng hoặc không cùng điạ phương
hoặc địa bàn cư trú, nhưng có cùng lợi ích (nghề nghiệp, sở thích, hợp tác,...).
Tác giả Nguyễn Đức Vinh quan niệm: Cộng đồng gồm những người có đặc
điểm hoặc mối quan tâm, lợi ích chung. Theo đó, tác giả quan niệm, cộng
đồng được đặc trưng bởi sự gắn kết các quan hệ, sự hỗ trợ lẫn nhau, sự tôn
trọng, chia sẻ, chấp nhận nhau và ý thức về lòng tự hào chung. Nó tạo ra các
cơ hội và sự tự do lựa chọn cho mọi người, tôn trọng sự đa dạng, cộng tác để
chia sẻ trách nhiệm vì mục đích chung [53, tr.7].
Giáo dục liên quan đến mọi người, là lợi ích của mọi người, của gia
đình và cộng đồng. Sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội là yêu
cầu khách quan. Đánh giá vai trò của sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình
và xã hội trong giáo dục, Hồ Chí Minh khẳng định: muốn giáo dục trẻ em
thành người tốt, nhà trường, đoàn thể, gia đình và xã hội đều phải kết hợp
chặt chẽ với nhau. Trong các nghị quyết của Đảng, các văn bản của Nhà nước
cũng đã nhiều lần khẳng định về vai trò của giáo dục, sự phối hợp giữa nhà
trường, gia đình với cộng đồng trong giáo dục nhân cách thế hệ trẻ cũng như
giáo dục BĐG cho học sinh nói riêng. Bởi một lẽ, “phát triển giáo dục là sự
nghiệp của toàn xã hội, của Nhà nước và mỗi cộng đồng, của từng gia đình và
mỗi công dân. Cần kết hợp tốt giáo dục học đường với giáo dục gia đình và
giáo dục xã hội, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh; người lớn làm
gương cho con trẻ noi theo.”…[18, tr.9]; “Nhà trường có trách nhiệm chủ
động phối hợp với gia đình và xã hội để thực hiện mục tiêu, nguyên lý giáo
dục” [43, tr.109].
Một số công trình khoa học dưới dạng sách, đề tài, bài viết, luận văn,
luận án đã nghiên cứu về vai trò, nhiệm vụ của gia đình, nhà trường và cộng


12


đồng xã hội đối với sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ, trong đó có giáo dục BĐG
cho học sinh, sinh viên. Chẳng hạn: “Xã hội hoá công tác giáo dục” của Phạm
Minh Hạc; “Suy nghĩ về trách nhiệm của gia đình đối với việc giáo dục thiếu
niên nhi đồng” của Nguyễn Đức Minh; “Văn hoá gia đình với việc hình thành
và phát triển nhân cách trẻ em” của Võ Thị Cúc; “Quản lý công tác phối hợp
giữa nhà trường với cha mẹ học sinh ở các trường trung học cơ sở vùng nông
thôn thị xã Bà Rịa” của Dương Văn Thạnh (2007); “Cần sự phối hợp ba môi
trường nhà trường, gia đình và xã hội” của La Thị Thúy (2017);…
Nhìn chung, các công trình khoa học nghiên cứu về sự phối hợp giữa
nhà trường, gia đình và cộng đồng xã hội đã khẳng định mục đích, ý nghĩa, sự
cần thế về phối hợp giữa nhà trường với gia đình và cộng đồng đối với giáo
dục học sinh. Một số công trình khoa học đã bàn đến nội dung, phương thức,
giáo dục nhân cách học sinh dựa vào cộng đồng. Tuy nhiên, việc giáo dục
BĐG cho học sinh THCS dựa vào cộng đồng chưa đwcọ quan tâm nghiên
cứu. Một số công trình khoa học đã bàn về khái niệm, nội dung, phương thức,
giải pháp nâng cao hoạt động giáo dục BĐG cho học sinh, sinh viên, nhưng chưa
có hệ thống. Những kết quả đạt được trong nghiên cứu về BĐG, giáo dục BĐG
cho học sinh, sinh viên có giá trị nhất định. Nó là cơ sở cho tác giả của luận văn
kế thừa, tiếp thu trong quá trình nghiên cứu đề tài của mình.
1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Khái niệm giới, bình đẳng giới và giáo dục bình đẳng giới
* Khái niệm giới
Nhìn từ góc độ xã hội, Giới (gender) là một thuật ngữ chỉ vai trò, trách
nhiệm và quyền lợi mà xã hội quy định cho nam và nữ. Đặc trưng cơ bản nhất
của giới là do dạy và học mà có, Vì vậy, những đặc trưng về giới mang tính xã
hội, do xã hội quy định. Giới thể hiện các đặc trưng của xã hội của phụ nữ và
nam giới nên rất đa dạng. Nó phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, văn


13


hóa của mỗi quốc gia, của các giai tầng xã hội. Các quan niệm, hành vi, chuẩn
mực xã hội về giới hoàn toàn có thể thay đổi được.
Theo góc độ xã hội, giới là những đặc điểm mà xã hội tạo nên ở người nam
và người nữ; là quy định của xã hội về người nam và người nữ, là những đặc
trưng xã hội ở nam và nữ. Đó là giới xã hội. Giới xã hội thường bao gồm các vấn
đề về vai trò, vị trí của mỗi giới, đặc điểm và nhiệm vụ của mỗi giới trong xã
hội… Những vấn đề này thường do xã hội quy định. Chúng biến đổi theo từng
giai đoạn lịch sử, ở mỗi quốc gia, tuỳ theo truyền thống, phong tục tập quán của
mỗi dân tộc. Giới đề cập đến “vai trò và trách nhiệm của nam giới và phụ nữ
được tạo ra trong gia đình, xã hội và nền văn hóa của chúng ta. Khái niệm giới
cũng liên quan tới những mong đợi về đặc điểm, khả năng và những hành vi,
ứng xử của cả phụ nữ và nam giới (nữ tính và nam tính)” [35].
Như vậy, giới là một tập hợp người trong xã hội có những đặc điểm sinh
học cơ bản giống nhau, bao gồm hai loại thuộc tính, thuộc tính sinh lý cơ thể và
thuộc tính xã hội.
Xét về mặt sinh lý cơ thể, giới là những đặc điểm bẩm sinh, có tính di
truyền. Xét về mặt xã hội, giới là những đặc điểm do xã hội tạo ra, do những
quy định, luật lệ, đòi hỏi của xã hội đối với con người là nam hay nữ. Ban đầu
dưới ảnh hưởng của đặc tính về sinh lý cơ thể như chiều cao, tầm vóc, sức
mạnh,… người nam và người nữ được phân công những công việc, những vai
trò khác nhau trong đời sống xã hội. Dần dần ở mỗi người, mỗi giới tạo nên
những đặc tính về mặt xã hội như vai trò của gia đình, địa vị xã hội… Giới
được thể hiện ở vai trò, chức năng, nghĩa vụ xã hội. Như vậy, giới có thể được
hiểu là giới sinh học hay giới xã hội.
Ở mặt xã hội, giới có nhiều vấn đề được quan tâm bao gồm: vai trò của
nam, nữ trong xã hội; những quan điểm đánh giá về vai trò của nam, nữ trong

xã hội; sự phát triển, tiến bộ của con người ở mỗi giới trong xã hội; mối quan

14


hệ xã hội và sự cư xử giữa hai giới. Ngày nay, trong xã hội, tồn tại nhiều vấn
đề phức tạp về giới xã hội, như: vấn đề BĐG, quan hệ giữa hai giới, vấn đề
giới tính ở mỗi giới… Gần đây còn xuất hiện những biểu hiện phức tạp như
quan điểm yêu đương ngoài hôn nhân, tình dục ngoài hôn nhân, tình bạn và sự
giao tiếp giữa những người khác giới.
Dựa vào nội dung trên, có thể quan niệm: giới tính được hiểu một cách đầy
đủ, toàn diện cả sinh lý và tâm lý, cá nhân và xã hội, hôn nhân và gia đình, tình
yêu và tình bạn, và biểu hiện trong các quan hệ xã hội, trực tiếp là quan hệ giữa
nam giới và nữ giới.
* Khái niệm bình đẳng giới
Bình đẳng giới là một vấn đề rất quan trọng được cả xã hội quan tâm.
Một trong những vấn đề cơ bản nhất của vấn đề đấu tranh của giải phóng phụ
nữ là quyền bình đẳng giữa nam và nữ. Điều 5 (khoản 3) Luật BĐG nước ta
khẳng định: BĐG là “việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau, được tạo điều
kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng,
của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó”.
Bình đẳng giới là sự thừa nhận và coi trọng như nhau về các đặc điểm
giống và khác nhau giữa nam giới và nữ giới; là nam giới và nữ giới cùng có
vị thế bình đẳng và được tôn trọng như nhau; cùng được tạo điều kiện và cơ
hội để phát huy khả năng và thực hiện các mong muốn của mình; cùng có cơ
hội để tham gia, đóng góp và thụ hưởng từ các nguồn lực của xã hội và quá
trình phát triển.
Bình đẳng giới có nghĩa là những ứng xử, những khát vọng và những
nhu cầu khác nhau của phụ nữ và nam giới đều được cân nhắc, đánh giá và
ủng hộ như nhau. Tuy vậy, BĐG không có nghĩa phụ nữ và nam giới phải trở

thành như nhau, nhưng các quyền, trách nhiệm và các cơ hội của họ sẽ không
phụ thuộc vào họ sinh ra là nam giới hay phụ nữ.

15


Có thể hiểu, BĐG là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau về quyền
lợi và nghĩa vụ đối với những vấn đề liên quan đến bản thân, gia đình và xã hội.
* Giáo dục bình đẳng giới
Từ điển Từ và ngữ Hán Việt: Giáo dục là quá trình hoạt động có ý thức,
có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức nhằm bồi dưỡng cho người học những
phẩm chất đạo đức và tri thức cần thiết để họ có khả năng tham gia mọi mặt
đời sống của xã hội. Trong lĩnh vực giáo dục, vấn đề BĐG càng có ý nghĩa sâu
sắc. Giáo dục có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội của con
người. Nghiên cứu giáo dục BĐG là đòi hỏi cấp thiết trong xã hội hiện đại, nhằm
tìm ra các biện pháp nâng cao BĐG trong giáo dục và trong xã hội. Nhiều nước
trên thế giới, vấn đề giáo dục BĐG đã trở thành một môn học giảng dạy ở nhà
trường phổ thông với các tên gọi khác nhau.
Ở Việt Nam, Đảng, Nhà nước và các lực lượng cộng đồng xã hội trong
những năm gần đây tiếp tục khẳng định vai trò của việc giáo dục BĐG đối với
mọi tầng lớp nhân dân. Khoa học hiện đại cũng đã khẳng định ý nghĩa của giáo
dục BĐG trong đời sống xã hội. Với cách xem xét biện chứng như vậy, giáo dục
BĐG là hướng cho con người đạt tới mục đích xã hội chân chính, với tư cách là
con đường dẫn dắt tới sự nếm trải trọn vẹn của hạnh phúc làm người.
Như vậy, giáo dục BĐG là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có
chủ định của chủ thể giáo dục tác động đến đối tượng giáo dục một cách có
hệ thống và thường xuyên nhằm thành ở họ tri thức, tình cảm và hành vi phù
hợp với các yêu cầu về giá trị, chuẩn mực BĐG của xã hội.
1.2.2. Giáo dục bình đẳng giới cho học sinh trung học cơ sở
Luật Giáo dục chỉ rõ: giáo dục THCS được “thực hiện trong bốn năm, từ

lớp sáu đến lớp chín. Học sinh vào học lớp sáu phải hoàn thành chương trình
tiểu học, có độ tuổi là mười một tuổi” [39, tr.46]. Như thế, học sinh THCS là
trẻ em có độ tuổi từ 11 đến 15 tuổi. Mục đích sâu xa của giáo dục BĐG cho

16


học sinh THCS là góp phần xây dựng nhân cách cho vị thành niên, làm cho
nhân cách của các em phát triển phù hợp với yêu cầu kỳ vọng của xã hội hiện
đại. Giáo dục BĐG có chất lượng, hiệu quả sẽ giúp cho học sinh ở tuổi vị
thành niên có những hiểu biết để vững bước vào đời, biết tông trọng, có trách
nhiệm trong quan hệ với bạn khác giới và biết tự bảo vệ mình.
Với tư cách là một bộ phận của xã hội, sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn
diện GD-ĐT ở nước ta hiện nay không thể không tính đến vấn đề giáo dục
BĐG. Bởi vì, giáo dục BĐG là một bộ phận, chiều sâu của giáo dục xã hội.
Giáo dục BĐG tốt sẽ tăng hiệu quả giáo dục xã hội. Giáo dục BĐG được xem
xét như một bộ phận hợp thành của nền giáo dục xã hội. Nó có mối liên hệ mật
thiết với giáo dục dân số, kế hoạch hoá gia đình, hôn nhân và gia đình và với
các hoạt động giáo dục khác trong trường THCS. Học sinh THCS có tuổi đời
ứng với thiếu niên, do vậy các em còn có tên gọi khác là thiếu niên. Việc giáo
dục BĐG cho học sinh THCS là yêu cầu tất yếu, có tính thực tiễn sâu sắc.
Dựa vào cách tiếp cận và kế thừa kết quả của các quan niệm trên,
chúng tôi khẳng định: Giáo dục BĐG cho học sinh THCS là hoạt động có
định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục mà trực tiếp là giáo
viên nhằm giúp cho học sinh có những hiểu biết về BĐG, trên cơ sở đó hình
thành thái độ và hành vi ứng xử trong quan hệ về giới đúng đắn.
1.2.3. Khái niệm cộng đồng
Xã hội là biểu hiện tổng số những mối liên hệ và những quan hệ của các
cá nhân, là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người. C.Mác
viết: “Xã hội không phải gồm các cá nhân, mà xã hội biểu hiện tổng số những

mối liên hệ và những quan hệ của các cá nhân đối với nhau” [25, tr.355]; “Xã
hội - cho dù nó có hình thức gì đi nữa - là cái gì? Là sản phẩm của sự tác động
qua lại giữa những con người” [24, tr.657]. Các cá nhân bao giờ sống, hoạt
động trong các nhóm, cộng đồng và tập đoàn xã hội khác nhau, mang tính lịch

17


sử xác định. Như thế, “xã hội bao giờ cũng do các cá nhân hợp thành. Những
cá nhân này sống và hoạt động trong những nhóm, cộng đồng, tập đoàn xã hội
khác nhau do điều kiện lịch sử cụ thể quy định” [9, tr.615]. Theo đó, trong xã
hội có nhiều loại, dạng thức cộng đồng đã, đang tồn tại và vận động, phát triển.
Những loại, dạng thức cộng đồng đó không chỉ khác nhau về bản sắc, hình thức
tổ chức, nguyên tắc vận hành mà còn có vai trò khác nhau trong đời sống hiện
thực. Những loại hình, dạng thức phong phú của cộng đồng vừa tồn tại độc lập
tương đối, vừa đan xen với những mối liên hệ đa diện, phức tạp. Dù loại hình,
dạng thức cộng đồng có khác nhau, nhưng mẫu số chung của nó là sức cố kết
và là sức sống của các cộng đồng đó, đều dựa trên ý thức cộng đồng nhất định.
Đảng ta chỉ rõ: “Xây dựng một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó các giai
cấp, các từng lớp dân cư đoàn kết, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi.... Thực
hiện BĐG và hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ” [6, tr.80].
Cộng đồng là thuật ngữ dùng để chỉ một nhóm người có cùng sở thích
hoặc cùng cư trú trong một vùng lãnh thổ nhất định [8]. Cộng đồng
là một nhóm xã hội của các cơ thể sống chung trong cùng một môi trường
thường là có cùng các mối quan tâm chung. Những kế hoạch, niềm tin, các mối
ưu tiên, nhu cầu, nguy cơ và một số điều kiện khác có thể có và cùng ảnh
hưởng đến đặc trưng, sự thống nhất của các thành viên trong cộng đồng.
Một cộng đồng là một thể thống nhất các đối tượng sống trong cùng một môi
trường. Như vậy, cộng đồng là tập hợp người sinh sống, có những điểm giống
nhau, gắn bó thành một khối trong sinh hoạt xã hội dựa trên những tiêu chí,

nguyên tắc xác định.
1.2.4. Khái niệm giáo dục bình đẳng giới cho học sinh trung học cơ
sở dựa vào cộng đồng
Quan điểm, chủ trương của Ðảng về BĐG được thể hiện xuyên suốt
trong các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác quần chúng, công tác vận
động phụ nữ, công tác giáo dục. Nhà nước ta cũng đã ban hành nhiều văn bản,

18


cụ thể hóa thành chính sách nhằm thúc đẩy hoạt động BĐG trong các lĩnh vực
hoạt động của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực GD-ĐT. Trong thực tiễn,
giáo dục BĐG cho học sinh, sinh viên không chỉ trách nhiệm của nhà trường
mà còn của cộng đồng xã hội. Cộng đồng có tác động rất lớn đến sự hình thành,
phát triển nhân cách thế hệ trẻ cũng như học sinh THCS.
Giáo dục BĐG cho học sinh THCS là một trong những nhiệm vụ của nhà
trường; là trách nhiệm chung của cộng đồng xã hội. Tại Điều 9 trong Luật Bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em quy định: “Việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em là trách nhiệm của gia đình, nhà trường, Nhà nước, xã hội và công dân.
Trong mọi hoạt động của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân có liên quan đến trẻ
em thì lợi ích của trẻ phải được quan tâm hàng đầu. Nhà nước khuyến khích và
tạo điều kiện để cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân ở trong nước và nước ngoài
góp phần vào sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em”. Luật Giáo dục
quy định: “Nhà trường chủ động phối hợp với gia đình và xã hội để thực hiện
mục tiêu, nguyên lý giáo dục” [39, tr.109].
Trong Chiến lược Quốc gia về BĐG giai đoạn 2011 - 2020, cũng chỉ rõ:
“Công tác BĐG là một trong những yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc
sống của từng người, từng gia đình và toàn xã hội” [41, tr.29]. Hiện thực hóa
quan điểm của Đảng, chủ trường, chính sách và luật pháp của Nhà nước, trong
Quy chế công nhận trường THCS, trường trung học phổ thông và trường phổ

thông có nhiều cấp đạt chuẩn quốc gia (Chương 2, Điều 9) quy định: “Nhà
trường chủ động phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước, các đoàn thể, tổ chức
địa phương đề xuất biện pháp cụ thể nhằm thực hiện chủ trương và kế hoạch
phát triển giáo dục địa phương” [37]. Giáo dục BĐG cho học sinh THCS dựa
vào cộng đồng là phát huy vai trò của các cá nhân, tổ chức thuộc cộng đồng
cùng chung tay, chung sức bên nhau vì các lợi ích chung và cùng quan tâm đến
những ảnh hưởng từ cộng đồng trong thực hiện luật BĐG đối với thế hệ trẻ.

19


Như vậy, giáo dục BĐG cho học sinh THCS dựa vào cộng đồng là một
trong những phương thức giáo dục mang ý nghĩa xã hội rộng lớn, nhằm phát
huy sức mạnh của cộng đồng tham gia có trách nhiệm trong quá trình giáo
dục trẻ em. Quan niệm này bao gồm:
Một là, mục đích và lực lượng: giáo dục BĐG cho học sinh THCS dựa
vào cộng đồng chính là hoạt động có mục đích của gia đình, các tổ chức chính
trị-xã hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp, các doanh nghiệp, cơ quan đơn vị hoạt
động ở trên địa bàn nhất định cùng phối hợp với nhà trường trong giáo dục
bình đẳng giới cho học sinh.
Hai là, tầm quan trọng và cấp độ biểu hiện của phương thức giáo dục
BĐG cho học sinh THCS. Thông qua phương thức giáo dục này, cộng đồng
dân cư các địa phương cùng với nhà trường, gia đình phối hợp cùng giải
quyết các vấn đế liên quan đến hoạt động giáo dục; đồng thời, thúc đẩy cộng
đồng chia sẻ trách nhiệm với nhà trường trong giáo dục BĐG cho học sinh
nói chung, học sinh THCS nói riêng.
Ba là, cách tiếp cận về giáo dục BĐG cho học sinh THCS dựa vào cộng
đồng cho thấy có sự giống và khác nhau giữa nhà trường và cộng đồng và có
sự khác nhau trong trọng tâm của mỗi phương pháp. Những sự khác nhau tập
trung vào cấp độ và thời gian của việc tham gia giáo dục trong chương trình nội

dung giáo dục, phương thức phối hợp giữa nhà trường và cộng đồng. Giáo dục
BĐG cho học sinh THCS dựa vào cộng đồng là phương pháp lấy cộng đồng
làm nền tảng, đặt trọng tâm vào cộng đồng. Trong khi giáo dục BĐG cho học
sinh THCS tại nhà trường là một hình thức căn bản của quá trình giáo dục theo
nghĩa rộng. Giáo dục BĐG cho học sinh THCS tại nhà trường và dựa vào cộng
đồng cũng được tổ chức dưới những hình thức khác nhau.
Giáo dục BĐG cho học sinh THCS ở nhà trường có phạm vi và quy mô
hẹp hơn giáo dục BĐG cho học sinh THCS dựa vào cộng đồng với việc tập

20


trung vào cả bên trong và bên ngoài cộng đồng. Chính quyền có thể đóng vai
trò chủ yếu trong giáo dục BĐG cho học sinh THCS; ngược lại, giáo dục
BĐG cho học sinh tại nhà trường từ cách tiếp cận trên. Như vậy, giáo dục
BĐG cho học sinh THCS dựa vào cộng đồng và giáo dục BĐG cho học sinh
THCS đều là những quá trình giáo dục lâu dài, dựa trên nhiều hoạt động giáo
dục đặc trưng. Trong đó, giáo dục BĐG cho học sinh THCS tại nhà trường là
hạt nhân trong quá trình giáo dục.

Luận văn tiếp cận nghiên cứu cả hai

phương diện được bàn luận trên đây.
1.3. Giáo dục bình đẳng giới cho học sinh trung học cơ sở
1.3.1. Vai trò của giáo dục bình đẳng giới cho học
sinh trung học cơ sở
Theo Điều 4 Luật BĐG, khẳng định tính mực đích và vai trò thực hiện
BĐG là “xoá bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ
trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới BĐG
thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cố quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam,

nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình”. Để thực hiện Điều 4
Luật BĐG, Chính phủ đã tập trung vào chỉ đạo xây dựng các văn bản quy
phạm pháp luật về BĐG; chỉ đạo xây dựng bộ máy và đội ngũ cán bộ làm
công tác BĐG; tổ chức tuyên truyền, phổ biến chính sách và pháp luật về
BĐG. Theo đó, giáo dục BĐG cho học sinh THCS là cung cấp hệ thống kiến
thức cơ bản, chính xác, hữu ích về giới tính, BĐG cho học sinh. Trên cơ sở
đó, hình thành kiến thức, kĩ năng và hành vi tạo lập BĐG đối với cả học sinh
nam và học sinh nữ. Học sinh nữ có lòng tự tin vào giá trị của bản thân, học
sinh nam xóa bỏ định kiến giới thể hiện ở thái độ, hành vi tôn trọng giá trị bạn
khác giới; qua hoạt động giáo dục BĐG giúp các học sinh có những kiến thức
ban đầu về luật hôn nhân gia đình, góp phần xây dựng gia đình hạnh phúc,
văn minh, bắt kịp xu thế phát triển của thời đại, nhân loại.

21


Như vậy, vai trò của giáo dục BĐG cho học sinh THCS là trang bị cho
học sinh THCS những kiến thức về giới, về bình đẳng giữa nam và nữ nhằm
giúp học sinh THCS hình thành thái độ, hành vi đúng đắn trong các mối quan
hệ bạn bè khác giới, biết cách giải quyết các vấn đề liên quan đến tình bạn, tình
cảm; giúp vượt qua được những khó khăn trong lứa tuổi vị thành niên, góp
phần xây dựng cuộc sống lành mạnh, có văn hóa và hướng tới cuộc sống hạnh
phúc tương lai. Hình thành cho học sinh THCS hệ thống kiến thức về BĐG, có
thái độ, hành vi phù hợp với các chuẩn mực, giá trị xã hội mong đợi trong giải
quyết các mối quan hệ xã hội nói chung, mối quan hệ về BĐG nói riêng.
1.3.2. Nội dung giáo dục bình đẳng giới cho học sinh trung học cơ sở
Trong Chiến lược Quốc gia về BĐG giai đoạn 2010-2020 của Chính phủ
chỉ rõ: “Đưa nội dung về BĐG vào giảng dạy trong hệ thống giáo dục quốc
dân, đặc biệt ở các cấp trung học phổ thông, THCS và tiểu học” [5]. Giáo dục
về kỹ năng giao tiếp ứng xử trong quan hệ giữa bạn trai, bạn gái ở tuổi vị thành

niên, hành vi giao tiếp, ứng xử, quyền hạn và trách nhiệm của nam giới và nữ
giới, giữa cha mẹ, anh em trong gia đình. Giáo dục bạn nam biết tôn trọng, bảo
vệ bạn nữ và ý thức thực hiện BĐG; giáo dục luật hôn nhân gia đình....
Tổng kết thức tiễn cho thấy có một số phương án thực hiện giáo dục
BĐG cho học sinh như: xây dựng môn học về giáo dục BĐG đưa vào chương
trình môn học ở bậc THCS; lồng ghép hoặc tích hợp nội dung giáo dục BĐG
vào các môn học có ưu thế và vào các hoạt động giáo dục khác. Tuy nhiên,
trong lòng ghép hoặc tích hợp nội dung giáo dục BĐG cho học sinh THCS
vào các môn học cũng gặp những khó khăn nhất định. Những môn học này
phải đảm bảo có những yếu tố tương đồng với đặc trưng của giáo dục BĐG
(chú trọng thực hành; thiết lập hành vi cụ thể trong từng tình huống cụ thể
trong thực hiện BĐG...). Đồng thời, khó khăn trong việc đảm bảo nội dung
giáo dục BĐG đã được lồng ghép, tích hợp. Bởi vì, do tính chất của lồng ghép

22


hoặc tích hợp nội dung giáo dục BĐG có tính độc lập nhất định so với nội
dung của môn học được sử dụng để lồng ghép hoặc tích hợp nên việc khai
thác nội dung giáo dục BĐG đến đâu phụ thuộc vào từng giáo viên, thậm chí
từng tiết học của môn học được lồng ghép hoặc tích hợp.
Lồng ghép hoặc tích hợp nội dung giáo dục BĐG phù hợp với các môn
học trong nội dung chương trình các môn học ở bậc THCS. Giải quyết mối
quan hệ giữa phần kiến thức cơ bản của các môn học cơ bản với việc lồng
ghép nọi dung giáo dục BĐG cho học sinh. Việc lồng ghép hoặc tích hợp nội
dung giáo dục BĐG trong các môn học cần lựa chọn và phù hợp với đặc điểm
từng môn học, kiến thức nào cần lồng ghép,...; khắc phục sự chồng chéo và
lặp lại kiến thức ở các môn học, giúp học sinh hứng thú với môn học và với
phần lồng ghép nội dung giáo dục BĐG. Tăng cường tính chủ động học tập
của học sinh THCS ở phần lồng ghép hoặc tích hợp nhằm giúp các em tự

nhận thức vấn đề thông qua quá trình trải thực hiện BĐG trong các hoạt động
học tập, vui chơi.
Nội dung giáo dục BĐG cho học sinh THCS được lồng ghép hoặc tích
hợp vào chương trình dạy chữ (chương trình các môn học) ở các mức độ khác
nhau, gắn với giáo dục giáo dục kỹ năng sống, giáo dục quyền, bổn phận của
mỗi công dân, giáo dục giới tính, giáo dục sức khoẻ sinh sản, giáo dục bảo vệ
môi trường, giáo dục phòng chống bạo lực gia đình, bạo lực học đường, giáo
dục tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh,... Các nội dung được tích hợp, lồng ghép
trong nội dung giáo dục BĐG cho học sinh THCS là căn cứ, cơ sở cho giáo
viên lên lớp lựa chọn nội dung chính và các nội dung giáo dục cần lòng ghép
hoặc tích hợp để tổ chức hoạt động giáo dục BĐG cho học sinh THCS.
Tính toàn diện, tính hệ thống và lòng ghép hoặc tích hợp các môn học,
nội dung giáo dục BĐG cho học sinh THCS được biểu hiện ở chỗ: Giáo dục
cho học sinh THCS con gái và con trai được ưa thích như nhau; phụ nữ và

23


×