Tải bản đầy đủ (.docx) (58 trang)

ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ của PHƯƠNG PHÁP THAY HUYẾT TƯƠNG BẰNG DỊCH THAY THẾ ALBUMIN 5% TRONG điều TRỊ hội CHỨNG GUILLAIN BARRÉ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (376.66 KB, 58 trang )


B GIO DC V O TO

B Y T

TRNG I HC Y H NI

TRN èNH TRUNG

ĐáNH GIá HIệU QUả CủA PHƯƠNG PHáP
THAY HUYếT TƯƠNG BằNG DịCH THAY THế
ALBUMIN 5%
TRONG ĐIềU TRị HộI CHứNG GUILLAINBARRé

Chuyờn ngnh : Hi sc cp cu
Mó s

: 60720122

LUN VN THC S Y HC


Người hướng dẫn khoa học:
TS. Nguyễn Công Tấn

HÀ NỘI – 2018

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp này em đã nhận được sự động
viên, giúp đỡ nhiệt tình của nhiều cá nhân, tập thể, các th ầy cô, gia đình


và bạn bè.
Lời đầu tiên, em xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường Đại
học Y Hà Nội; Viện Đào tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng, Phòng
quản lí đào tạo Đại học Trường Đại học Y Hà Nội, Phòng Đào tạo,
Nghiên cứu khoa học, Bộ môn Thống kê – Tin học y h ọc đã tạo m ọi điều
kiện thuận lợi và giúp đỡ em trong quá trình học tập và nghiên c ứu đ ể
em có thể hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Em xin chân thành cảm ơn GS.TS. L ưu Ng ọc Ho ạt – ch ủ nhiệm
đề tài nghiên cứu “Nhu cầu chuyển đổi từ điều dưỡng bệnh viện
thành điều dưỡng cộng đồng và khả năng chi tr ả cho các khóa
học nâng cao năng lực cung cấp dịch v ụ tại nhà của điều dưỡng ”
đã cho phép em sử dụng một phần số li ệu c ủa đ ề tài để thực hi ện
luận văn tốt nghiệp.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám hiệu trường Cao
đẳng Y tế Thái Bình, các thầy cô và nhân viên tr ường Cao đẳng Y t ế


Thái Bình cùng toàn thể các bạn sinh viên đã nhiệt tình h ỗ tr ợ em
trong suốt quá trình tiến hành nghiên cứu.
Đặc biệt, với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới GS.TS. Lưu
Ngọc Hoạt và TS Nguyễn Thị Thu Dung, là hai thầy cô đã trực tiếp
hướng dẫn, chỉ bảo, giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất cho em trong
suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thiện luận văn này.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn!
Học viên
Trần Nhật Tuấn
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

LỜI CAM ĐOAN

Kính gửi:Phòng Đào tạo sau đại học trường Đại học Y Hà Nội.
- Viện đào tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng.
- Phòng Đào tạo, Nghiên cứu khoa học, Hợp tác quốc tế Viện
Đào tạo Y học dự phòng và Y tế công cộng.
- Hội đồng chấm luận văn tốt nghiệp.
Tên em là Trần Nhật Tuấn
Học viên lớp Cao học khóa 26 Y học dự phòng, Trường Đại học Y Hà
Nội
Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu được tiến hành
nghiêm túc, trung thực. Kết quả nghiên cứu chưa từng được công bố
trong công trình, tài liệu nào. Em đã được chủ nhiệm đề tài cho phép s ử


dụng một phần số liệu để thực hiện luận văn tốt nghiệp.

Hà Nội, ngày tháng năm 2018
Học viên

Trần Nhật Tuấn

DANH MỤC VIẾT TẮT

CĐYT

: Cao đẳng Y tế

CSSKTN

: Chăm sóc sức khỏe tại nhà


ĐDCSSKTN

: Điều dưỡng chăm sóc sức khỏe tại

nhà ĐDBV

: Điều dưỡng bệnh viện

DVCSSKTN

: Dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại nhà

CSSK

: Chăm sóc sức khỏe

HĐCSSK

: Hoạt động chăm sóc sức khỏe

HTYT

: Hệ thống Y tế


MỤC LỤC


DANH MỤC BẢNG



DANH MỤC BIỂU ĐỒ


9

ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo báo cáo chung tổng quan ngành y tế năm 2014, mô hình gánh nặng
bệnh tật của nước ta có sự dịch chuyển mạnh mẽ theo hướng càng ngày càng
tăng các bệnh mạn tính và tai nạn thương tích: đến năm 2010, gần 80% gánh
nặng bệnh tật là do các bệnh không lây nhiễm (66%) và tai nạn thương tích (13%)
[1]. Bên cạnh đó, Việt Nam là nước có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất trên thế
giới. Từ năm 2012 nước ta đã bước vào giai đoạn già hóa khi số người thuộc
nhóm tuổi từ 60 trở lên chiếm đến 10,2% tổng dân số [2]. Dự báo đến năm 2049 tỉ
lệ này sẽ lên tới 25% trong khi đó độ tuổi lao động giảm xuống chỉ còn 57% [3].
Trong khi đó, nhu cầu khám chữa bệnh của người dân ngày càng tăng [4], điều
này không chỉ gây áp lực rất lớn đến kinh tế, chính trị, xã hội mà còn tạo ra áp lực
rất lớn cho hệ thống chăm sóc sức khỏe, nhất là với các bệnh viện tuyến trên khi
mà y tế tuyến cơ sở và tuyến dưới còn yếu kém và người dân vẫn muốn “vượt
tuyến” để được khám chữa bệnh ở tuyến trên.
Thực tế, mức thu nhập của người dân ngày càng được cải thiện, hiểu biết
của người dân về sức khoẻ, y tế ngày càng tốt nên nhiều người dân đã quan
tâm đến vấn đề dự phòng bệnh tật và mong muốn được khám, điều trị chăm
sóc sức khoẻ tại nhà và tại y tế tuyến dưới nếu có hệ thống cung cấp dịch vụ
tốt với giá cả hợp lý. Để đáp ứng nhu cầu của người dân trong tình hình mới,
Bộ Y tế đã đề ra mục tiêu tăng cường y tế cơ sở và chăm sóc sức khỏe ban
đầu. Trong đó phát triển mô hình chăm sóc sức khỏe tại nhà (CSSKTN) nhằm
bảo đảm cung ứng đầy đủ các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu cho từng
người dân trên địa bàn theo hướng toàn diện, liên tục được xem là một hướng
đi mới giải quyết được nhiều vấn đề hiện nay [5].

Ở các nước trên thế giới, mô hình CSSKTN đã xuất hiện từ thế kỷ 20
và ngày càng hoàn thiện [6] [7]. Các dịch vụ CSSKTN được cung cấp bởi cả
hệ thống chăm sóc sức khỏe công lập, tư nhân và cả các tổ chức từ thiện [6].
Nổi bật trong số đó có mô hình CSSKTN Buurtzorg tại Hà Lan [8]. Tuy nhiên
để phát triển mô hình CSSKTN thành công và bền vững, chúng ta cần học hỏi
kinh nghiệm từ các nước đi trước, áp dụng vào điều kiện thực tiễn của nước
ta. Bước đầu tiên cần tiến hành là thay đổi nguồn nhân lực y tế để bắt kịp với
nhu cầu và xu hướng sử dụng các dịch vụ y tế (DVYT) của người dân.


10

Hiện nay, cả nước có khoảng 200 cơ sở đào tạo nguồn nhân lực cho
ngành y, theo đánh giá của các chuyên gia là đủ để đáp ứng nhu cầu khám
chữa bệnh của người dân. Tuy nhiên, hiện nay nguồn nhân lực y tế của nước
ta ở tuyến dưới còn hạn chế, đặc biệt là hệ thống chăm sóc sức khỏe tại nhà
và tại cộng đồng như chưa có nhiều các cơ sở cung cấp bác sỹ gia đình, cung
cấp điều dưỡng chăm sóc tại nhà có chất lượng. Ngay cả điều dưỡng vốn
được đào tạo ra với nhiệm vụ chăm sóc thì cũng chỉ được đào tạo phục vụ
trong bệnh viện chứ không được đào tạo để phục vụ tại cộng đồng [9]. Tuy
nhiên đến năm 2021 thông tư liên tịch Bộ Nội vụ và Bộ Y tế có hiệu lực thì cả
nước sẽ dư thừa 100.000 điều dưỡng trung cấp [10] do chính sách hội nhập
khu vực, rất nhiều điều dưỡng cao đẳng được đào tạo ra cũng không xin được
việc tại các bệnh viện. Để có thể tận dụng nguồn lực này làm tham gia
CSSKTN thì việc thay đổi nhận thức của các điều dưỡng viên về CSSKTN là
rất quan trọng. Trong khi mô hình CSSKTN còn khá mới mẻ ở nước ta, các
nghiên cứu về CSSKTN chưa nhiều và chủ yếu khảo sát nhu cầu sử dụng dịch
vụ của người dân. Để phát triển thành công các mô hình CSSKTN thì một
nhân tố khác cũng rất quan trọng cần phải được tập trung nghiên cứu là nhóm
cán bộ y tế cung cấp dịch vụ, trong đó nhóm điều dưỡng đóng vai trò then

chốt.
Trường Cao đẳng Y tế Thái Bình mỗi năm đào tạo khoảng hơn 300
điều dưỡng hệ cao đẳng hệ chính quy ra trường. Hơn nữa, Ban giám hiệu Nhà
trường rất mong muốn và hưởng ứng mô hình cũng như chương trình đạo tạo
về CSSKTN. Chính vì những lý do nêu trên, chúng tôi tiến hành đề tài nghiên
cứu: “Kiến thức, thái độ, mức độ tham gia và khả năng chi trả các khóa
đào tạo về kỹ năng chăm sóc sức khỏe tại nhà của sinh viên điều dưỡng
năm cuối Trường Cao đẳng Y tế Thái bình năm 2018” với 2 mục tiêu:
1. Mô tả kiến thức và thái độ về chăm sóc sức khỏe tại nhà của sinh
viên điều dưỡng năm cuối Trường Cao đẳng Y tế Thái Bình năm
2018.
2. Mô tả mức độ tham gia và khả năng chi trả cho các khóa đào tạo
kỹ năng chăm sóc sức khỏe tại nhà của sinh viên năm cuối
Trường Cao đẳng Y tế Thái Bình năm 2018.


11

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Chăm sóc sức khỏe tại nhà
1.1.1. Khái niệm chăm sóc sức khỏe taị nhà
Tại Mỹ, từ thế kỷ 19 đã có các điều dưỡng thăm khám tại nhà như là tiền
thân của các hoạt động CSSKTN chuyên nghiệp sau này. Năm 1965, Chính
phủ Mỹ thành lập Medicare với mục đích hỗ trợ chăm sóc tại nhà cho người
cao tuổi đồng thời trực tiếp quản lí hệ thống chăm sóc tại nhà [6] [11]. Từ đó
khái niệm “chăm sóc sức khỏe tại nhà” được sử dụng rộng rãi ở Mỹ và nhiều
quốc gia khác. Năm 1980 tại Mỹ, Warhola đã đưa ra định nghĩa về CSSKTN.
Chăm sóc sức khỏe tại nhà là một phần của mục tiêu chăm sóc sức khỏe
toàn diện, bao gồm hàng loạt các dịch vụ y tế được cung cấp cho cá nhân và

gia đình ở tại nhà của họ với mục đích duy trì, phục hồi, nâng cao sức khỏe,
tăng cường mức độ độc lập của khách hàng, đồng thời giảm thiểu bệnh tật .
Các dịch vụ phù hợp với nhu cầu của từng cá nhân và gia đình được lên kế
hoạch, phối hợp và thực hiện bởi các nhà cung cấp. Các dịch vụ này được
thực hiện bởi các nhân viên chăm sóc sức khỏe cộng đồng cùng với các trang
thiết bị cần thiết [12].
Các dịch vụ CSSK tại nhà có thể được phân thành hai loại lớn là [12]:


CSSK chuyên nghiệp tại nhà là thực hành định hướng: có ranh giới rõ
ràng và được xác định bởi các tiêu chuẩn cụ thể trong nghề nghiệp dựa
trên cơ sở lý thuyết khoa học và nghiên cứu. Loại dịch vụ chăm sóc tại
nhà này được cung cấp bởi các điều dưỡng có giấy phép, chứng chỉ
hoặc đặc biệt trình độ về CSSK tại nhà.


12



CSSK kỹ thuật tại nhà là hướng sản phẩm và các nhà cung cấp dịch vụ
này không phải lúc nào cũng có tiêu chuẩn, quy định, hay giấy phép
hướng dẫn thực hành của họ. Thay vào đó, những nhân viên chăm sóc
sẽ tuân theo hoàn phí hướng dẫn chi tiết các khoản thanh toán của họ.
CSSK gia đình kỹ thuật các nhà cung cấp bao gồm các nhà cung cấp
thiết bị y tế lâu bền.

1.1.2. Điều dưỡng chăm sóc sức khỏe tại nhà
Điều dưỡng trên thế giới đang hoạt động trong hai hệ thống chính là điều
dưỡng bệnh viện và điều dưỡng chăm sóc sức khỏe cộng đồng (Community

health nursing - CHN). Nhiều nước như Canada, Ireland, Mỹ, Australia và một
số nước châu Âu đã thành lập CHN để mở rộng phạm vi và chất lượng CSSK
trong cộng đồng và thực hiện công bằng trong hệ thống y tế [13]. Hiện nay,
định nghĩa về CSSKCĐ chưa được thống nhất trên thế giới. Mỗi quốc gia
hoặc tổ chức đưa ra định nghĩa đều có ít nhiều sự khác biệt để phù hợp với
mô hình thực tiễn của mình .
Khi nói về cung cấp dịch vụ sức khỏe, đó là một quá trình chăm sóc của
một nhóm các NVYT bao gồm: Bác sĩ (đa khoa/chuyên khoa/bác sĩ gia đình),
điều dưỡng viên, các kỹ thuật viên (xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh, phục hồi
chức năng…), hộ lý, người chăm sóc,… [14]. Trong đó, các điều dưỡng chăm
sóc sức khỏe tại nhà (ĐDCSSKTN) là người tiếp xúc nhiều nhất với bệnh
nhân [15], kết nối tất cả các khía cạnh của chăm sóc bệnh nhân và là chìa
khóa để tiến tới một hệ thống chăm sóc sức khỏe ít phức tạp và ít tốn kém hơn
[16].
Một ĐDCSSKTN là một điều dưỡng chăm sóc sức khoẻ cộng đồng đã
tốt nghiệp chuyên ngành điều dưỡng và có các nhiệm vụ cơ bản sau [12]:
− Kết hợp các kiến thức thức từ chăm sóc sức khoẻ ban đầu, kiến
thức chuyên môn để đưa ra kế hoạch chăm sóc sức khỏe phù hợp


13

với từng người bệnh
− Tập trung vào việc phòng ngừa, phục hồi sức khoẻ, duy trì hoặc
giảm nhẹ.
− Tập trung vào bệnh nhân, người chăm sóc và gia đình của họ.
− Lồng ghép việc khuyến khích, hướng dẫn và tư vấn sức khoẻ
trong chăm sóc và điều trị.
− Theo dõi, quản lý và đánh giá các nguồn lực cần thiết cho bệnh
nhân để đạt được tình trạng sức khỏe tối ưu.

− Chăm sóc tại nhà hoặc nơi làm việc của người bệnh.
1.1.3. Xu hướng sử dụng và cung cấp dịch vụ CSSKTN
Ban đầu, các dịch vụ chăm sóc tại nhà được phát triển để hỗ trợ những
đối tượng dễ bị tổn thương như người cao tuổi, người khuyết tật, phụ nữ có
thai, trẻ nhỏ, người nghèo [17]. Sau này với sự tham gia của nhiều thành phần
(nhà nước, tư nhân, các tổ chức từ thiện…) đã làm cho các dịch vụ CSSKTN
ngày càng mở rộng đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng và phức tạp của
người dân. Hiện nay, các dịch vụ CSSKTN phát triển mạnh mẽ, hoàn toàn bao
phủ mọi nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người dân ở mọi độ tuổi, mọi tình
trạng bệnh. Từ bệnh cấp tính đến bệnh mạn tính, hồi phục sau phẫu thuật hay
phục hồi chức năng, các dịch vụ CSSKTN sẽ cung cấp sự chuyên nghiệp và
toàn diện nhất trong chăm sóc sức khỏe cho bệnh nhân ngay tại nhà của họ
[6]. Tuy nhiên, các dịch vụ CSSKTN phổ biến nhất vẫn là dành cho người cao
tuổi, bệnh nhân mắc bệnh mạn tính và chăm sóc giảm nhẹ bệnh nhân giai
đoạn cuối [18]..
1.2. Nhu cầu xã hội về CSSKTN và nhu cầu đào tạo ĐDCSSKTN
1.2.1. Nhu cầu xã hội về CSSKTN
Tăng trưởng nhanh về mặt xã hội và kinh tế ở các nước trên thế giới đã
làm tăng cả số người cao tuổi bị bệnh thoái hóa và mạn tính và các mô hình


14

bệnh tật mới do các yếu tố kinh tế xã hội như những nguy cơ nghề nghiệp, tai
nạn và ô nhiễm môi trường do ô nhiễm không khí, tiếng ồn và nước bị ô
nhiễm. Các cộng đồng đang phải vật lộn với một số lượng lớn người trong
suốt tuổi thọ, những người được CSSK tối thiểu hoặc không được chăm sóc
bởi vì họ không có khả năng hoặc không tiếp cận các dịch vụ. Hơn nữa,
những lo ngại của công chúng về chất lượng, chi phí, sự tiếp cận và phân
mảng của CSSK đã góp phần làm thay đổi chăm sóc từ các cơ sở chăm sóc

cấp tính truyền thống sang cộng đồng hơn.
Theo báo cáo của Hiệp hội Điều dưỡng Canada năm 2013, đa số các
khách hàng sử dụng các dịch vụ CSSKTN (60 - 70%) từ 65 tuổi trở lên. Có
khoảng 20 – 30% thuộc độ tuổi trên 21 và trẻ em đại diện cho khoảng 10%
các khách hàng sử dụng dịch vụ CSSKTN [18]. Khoảng 41% người cao tuổi
mắc từ hai bệnh mạn tính trở lên, ước tính khoảng 40% người già sau khi ngã
sẽ nhận sự trợ giúp từ các dịch vụ chăm sóc dài hạn. Từ những dự báo trên dễ
dàng nhận thấy nhu cầu và quy mô của các dịch vụ CSSKTN ở Canada ngày
càng được mở rộng.
Năm 2007 tại Mỹ, hệ thống CSSKTN đã cung cấp dịch vụ cho hơn chín
triệu người. Trong đó nhóm tuổi từ 65 trở lên chiếm 69,1%; các dịch vụ được
cung cấp chủ yếu cho nhóm khách hàng mắc bệnh mạn tính (tim mạch, tiểu
đường và cơ xương khớp) chiếm 68,5%. Hệ thống CSSKTN ngày càng được
mở rộng, từ năm 2000 đến năm 2007 có thêm hơn 400.000 dịch vụ CSSKTN
và hơn 3 triệu bệnh nhân [19].
Theo nghiên cứu của Đàm Trọng Hiếu và các cộng sự khảo sát về nhu cầu
chăm sóc sức khỏe người cao tuổi tại quận Tây Hồ năm 2016 cho thấy nhu cầu
chăm sóc tại nhà của người cao tuổi là rất lớn. Trong đó nhu cầu chăm sóc tại
nhà tập trung vào các nhóm bệnh nội tiết chuyển hóa, tim mạch và cơ xương
khớp chiếm khoảng 70%, nhóm bệnh chấn thương chỉ chiếm 0,3% [20].


15

Theo nghiên cứu của Hà Hữu Tùng khảo sát trên các khách hàng đã sử
dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại nhà do Bệnh viện Đa khoa Nông nghiệp
cung cấp năm 2016 cho thấy rằng nhu cầu chăm sóc sức khỏe phân bố rộng ở
nhiều lứa tuổi. Trong đó nhóm tuổi lao động từ 20-60 chiếm tỷ lệ lớn nhất
72,4% [21].
Có thể thấy được cái nhìn tổng quát rằng nhu cầu CSSKTN tại các quốc

gia là rất lớn và rất khác biệt, khách hàng sử dụng các dịch vụ cũng rất đa
dạng. Để đáp ứng được nhu cầu này thì các nhân viên y tế CSSKTN cần được
chuẩn bị kỹ lưỡng kiến thức, kĩ năng và liên tục đào tạo sau đó.
1.2.2. Nhu cầu đào tạo ĐDCSSKTN
Từ những nhu cầu thiết yếu của xã hội dẫn đến những thay đổi trong
thực hành điều dưỡng. Gần đây, đã có sự gia tăng số lượng điều dưỡng làm
việc bên ngoài bệnh viện, chủ yếu ở các cơ sở dựa vào cộng đồng tập trung
vào các cá nhân và gia đình. Ngoài ra còn có sự nhấn mạnh ngày càng tăng về
chăm sóc điều dưỡng tập trung vào cộng đồng. Dân số của các người bệnh già
đi và bệnh tuổi già đang tăng lên, và kết hợp với các điều kiện xã hội phức tạp
của ngày hôm nay, đã dẫn đến bệnh tật, làm tăng chi phí chăm sóc bệnh viện.
Các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ chuyên nghiệp không thể đáp ứng nhu cầu
chăm sóc sức khoẻ ngày càng tăng trong văn hoá y tế đang dần dần thay đổi
này. Bằng chứng cho thấy sự quan tâm ngày càng tăng lên về lối sống lành
mạnh, hành vi sức khỏe ngăn ngừa các vấn đề sức khoẻ và giảm nguy cơ sức
khoẻ. Vì vậy, tăng cường hệ thống CSSK cộng đồng dựa trên CSSKBĐ là
trọng tâm của cải cách chăm sóc sức khoẻ [22].
Hiện nay, điều dưỡng là nguồn nhân lực chuyên nghiệp được sử dụng
nhiều nhất trong chăm sóc tại nhà ở các quốc gia [18]. Trong đó các điều
dưỡng đóng vai trò tích cực trong việc duy trì sức khoẻ, quản lý và giáo dục
sức khoẻ, là người định hướng giúp mọi người dân tiếp cận và hiểu thông tin


16

sức khoẻ [23]. Để thực hiện tốt những vai trò phức tạp đó chương trình đào
tạo cho điều dưỡng ngay từ ở các trường học cần được thay đổi để phù hợp
với những chức năng mới của người điều dưỡng khi CSSKTN. Đồng thời cần
xác định nhu cầu đào tạo để thu hẹp khoảng trống nhân lực y tế CSSK tại
cộng đồng [16].

1.2.3. Chính sách về ĐDCSSKTN ở Việt Nam
Ngày 01/7/2016, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
đã ra Nghị định 109/2016/NĐ-CP về quy định cấp chứng chỉ hành nghề và
cấp giấy phép hoạt động đối với các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Nghị định
đã cho phép thành lập các phòng khám chuyên khoa tư vấn từ xa, tiêm
truyền tại cộng đồng và đặc biệt là đưa ra các điều kiện cấp giấy phép hoạt
động đối với các cơ sở dịch vụ CSSK tại nhà. Bên cạnh đó, Thông tư số
02/2017/TT-BYT ban hành ngày 15/3/2017 đã có quy định về mức tối đa
khung giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh, trong đó có mức thu phí tối đa cho
dịch vụ Telemedicine là 1.500.000 đồng. Đây là điều kiện thuận lợi để phát
tiển các dịch vụ CSSK tại nhà và là hướng đi có triển vọng đối với các điều
dưỡng tương lai làm việc tại cộng đồng dưới sự hướng dẫn, tư vấn từ xa của
các bác sỹ.
1.3. Thực trạng nhận thức về CSSKTN và nhu cầu đào tạo ĐDCSSKTN
1.3.1. Thực trạng nhận thức về CSSKTN
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đào tạo điều dưỡng theo hướng
phục vụ tại các bệnh viện và môi trường thực hành cũng tại các bệnh viện
[9] [24]. Khảo sát ở nhiều trường Đại học cho thấy một tình trạng chung là rất
ít sinh viên điều dưỡng lựa chọn chăm sóc sức khỏe tại cộng đồng.
Theo nghiên cứu của nhóm tác giả tại Hà Lan trên đối tượng sinh viên
điều dưỡng về lựa chọn khu vực thực hành lâm sàng bệnh viện chiếm 71,2%;
khu vực CSSK khác là 23,4% và CSSK tại cộng đồng chỉ chiếm 5,4%. Trung


17

bình điểm nhận thức về CSSK cộng đồng của các sinh viên ở mức 6,47
(thang 10 điểm) cho thấy nhận thức tích cực nhưng chưa được rõ ràng của
sinh viên về CSSK tại cộng đồng [24].
Một nghiên cứu khác năm 2009 trên sinh viên mới tốt nghiệp tại Ý,

kết quả thu được tương tự cho thấy rằng sinh viên điều dưỡng rất ít lựa
chọn thực hành lâm sàng tại cộng đồng. Trong nghiên cứu này chỉ có 4,4%
các sinh viên chọn chăm sóc tại cộng đồng/ tại nhà/ tại viện dưỡng lão, các
sinh viên khác đều lựa chọn làm việc ở một chuyên ngành hoặc các đơn vị
chăm sóc đặc biệt [25].
Nhìn tổng quát, nhận thức của sinh viên về chăm sóc sức khỏe cộng
đồng còn nhiều hạn chế. Phần lớn sinh viên điều dưỡng nhận thức được tầm
quan trọng, ý nghĩa nhân đạo và lợi ích của các hoạt động chăm sóc sức khỏe
cộng đồng, CSSKTN. Tuy nhiên lĩnh vực này chưa có sức hấp dẫn đối với các
sinh viên. Vì vậy cần có các chiến lược truyền thông, giáo dục có ảnh hưởng
tích cực đến nhận thức của sinh viên. Từ đó thu hút được nguồn điều dưỡng
có trình độ tham gia vào công tác chăm sóc sức khỏe cộng đồng [26].
Những yếu tố có thể ảnh hưởng tới và liên quan đến nhận thức của sinh
viên điều dưỡng bao gồm các yếu tố về đặc điểm cá nhân, đặc điểm của việc
CSSKTN [27] [24] [25] [28] và các yếu tố về kinh tế xã hội thì hầu như
không liên quan đến nhận thức của sinh viên về công việc CSSKTN [27]. Một
số yếu tố được chứng minh có liên quan đến nhận thức của sinh viên điều
dưỡng là:
- Tự tin vào kiến thức, kỹ năng của bản thân có thể chăm sóc tốt bệnh
nhân là một yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến lựa chọn làm việc
tại cộng đồng.
-

Lương và các phúc lợi đi kèm
Chủ động chăm sóc người bệnh tại nhà
Tạo mối quan hệ gắn bó với người bệnh và người nhà


18


-

Cơ hội học tập và nâng cao kỹ năng.
Sử dụng kỹ năng khác nhau trong công việc và cuộc sống
Tăng cường năng lực làm việc theo nhóm và làm việc độc lập

1.3.2. Thực trạng nhu cầu đào tạo ĐDCSSKTN
a. Thực trạng nhu cầu đào tạo trên thế giới
Thiếu điều dưỡng có trình độ là tình trạng chung của nhiều quốc gia khi
áp dụng mô hình CSSKTN. Trong khi nhu cầu CSSK của người dân ngày
càng được nâng cao thì các điều dưỡng viên và các sinh viên điều dưỡng chưa
thực sự quan tâm đến CSSKTN. Hệ thống giáo dục trong ngành y cần đào tạo
hướng tới cộng đồng để phù hợp với xu hướng sử dụng các dịch vụ chăm sóc
sức khỏe hiện nay. Cùng với nó phải tiến hành các nghiên cứu để xác định
nhu cầu đào tạo để kịp cung cấp nguồn nhân lực có trình độ cho hệ thống
CSSKTN [24].
Báo cáo của Hiệp hội Điều dưỡng Canada (CAN) dự đoán đến năm
2020, hai phần ba điều dưỡng của Canada sẽ làm việc tại cộng đồng và
CSTN, so với tỷ lệ 30% vào năm 2006 [23]. Ở Châu Âu, mỗi quốc gia đều có
các yêu cầu riêng về giáo dục cho điều dưỡng CSSKTN. Nhìn chung, điều
dưỡng được đào tạo tại các trường đào tạo chuyên nghiệp về chuyên ngành
điều dưỡng từ 3 đến 4 năm. Sau đó khoảng 1/3 các quốc gia ở Châu Âu yêu
cầu điều dưỡng cần phải có chứng chỉ đào tạo về CSSKTN hoặc vượt qua các
kì thi tổ chức định kì. Trong khi quá trình thực hành CSSKTN điều dưỡng
viên cần tiếp tục tham gia các khóa học ngắn hạn để bổ sung kiến thức, kỹ
năng mới được tổ chức bởi các cơ quan chăm sóc tại nhà của các quốc gia. Số
liệu về nhân lực CSSKTN ở các quốc gia không được đưa ra trong các báo
cáo, nhưng các chuyên gia ở một số quốc gia bày tỏ sự lo ngại của họ về sự
thiếu hụt nhân lực có trình độ trong CSSKTN [29].
b. Thực trạng nhu cầu đào tạo tại Việt Nam

Ở nước ta chưa có mã ngành đào tạo điều dưỡng cộng đồng cung cấp


19

nguồn nhân lực cho các dịch vụ CSSKTN. Mặc dù đã có rất nhiều trung tâm
cung cấp các dịch vụ CSSKTN, nhưng thường tuyển dụng các điều dưỡng có
kinh nghiệm làm ở các cơ sở y tế khác. Các điều dưỡng viên sau đó có thể
được hoặc không cần đào tạo ngắn hạn rồi sau đó tham gia làm việc như
những điều dưỡng CSSKTN. Ngoài ra, một số bệnh viện đã triển khai trực
tiếp các mô hình CSSKTN theo yêu cầu của bệnh nhân. Các điều dưỡng viên
hiện nay đều được đào tạo theo xu hướng làm việc trong bệnh viện [9], nên
khi thực hành lâm sàng tại cộng đồng sẽ khó tránh khỏi những bất lợi, thiếu
sót trong quá trình chăm sóc người bệnh.
Nghiên cứu sự hài lòng về dịch vụ CSSKTN tại Bệnh viện Đa khoa
Nông nghiệp năm 2016 của Hà Hữu Tùng cho thấy rằng hơn 10% khách hàng
CSSKTN không hài lòng với chất lượng dịch vụ được cung cấp [21]. Trong
khi đó, một nghiên cứu khác trên người cao tuổi ở quận Tây Hồ - Hà Nội năm
2016 của Đàm Trọng Hiếu cho thấy đến hơn 50% người sử dụng ở khu vực
này vẫn chưa hài lòng với chất lượng dịch vụ [20].
Một số nghiên cứu có liên quan tới dịch vụ CSSKTN cho thấy rằng, tại
Nam Định, tỷ lệ người dân được cán bộ y tế chắm sóc sức khỏe tại nhà còn
thấp [30]. Tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội, năm 2011 nghiên cứu của tác giả
Trần Thanh Long khi làm khảo sát về nhu cầu dịch vụ chăm sóc sức khỏe
ngoài giờ và tại nhà của người sử dụng dịch vụ tại bệnh viện Đại học Y Hà
Nội cho thấy hơn 70% bệnh nhân nội trú, người nhà bệnh nhân mong muốn
bệnh viện triển khai mô hình CSSKTN [31].
Thực trạng trên đã chỉ ra rằng để phát triển mô hình CSSKTN ở Việt
Nam cần thiết có những chương trình đào tạo phù hợp với nguồn nhân lực
phục vụ trong các dịch vụ CSSKTN.

1.4. Trường Cao đẳng Y tế Thái Bình
1.4.1. Lịch sử phát triển


20

Trường Cao đẳng Y tế Thái Bình được thành lập tháng 10/1960 theo
quyết định của Bộ trưởng Bộ Y tế dưới tên gọi trường Y sỹ Thái Bình. Năm
1974, trường được đổi tên thành trường Trung học Y tế Thái Bình và tháng
1/2008 trường được nâng cấp lên thành trường Cao đẳng Y tế Thái Bình. Sau
khi được thành lập, trường đã xây dựng Đề án tổ chức trình UBND Tỉnh phê
duyệt, xây dựng đề án mở mã ngành Cao đẳng Điều dưỡng chính quy và liên
thông, tổ chức tuyển sinh và đào tạo ngay trong năm 2008. Hiện nay Nhà
trường là một trong các trường đào tạo nghề trọng điểm cả nước với 3 mã
ngành cao đẳng chính quy: Cao đẳng Điều dưỡng, Dược và Xét nghiệm, 3 mã
ngành cao đẳng liên thông chính quy cũng như các mã ngành cao đẳng, trung
cấp văn bằng 2.
1.4.2. Chức năng, nhiệm vụ
Trường Cao đẳng Y tế Thái Bình mang một số chức năng, nhiệm vụ sau
đây:
- Giáo dục và Đào tạo: Đào tạo cán bộ y tế có trình độ cho các bệnh
viện. Chất lượng đào tạo luôn được xác định là vấn đề then chốt trong
sự phát triển của nhà trường. Sinh viên khi ra trường được trang bị
kiến thức cơ bản vững vàng, kiến thức chuyên môn sâu và kỹ năng
thực hành tốt; đủ để đáp ứng nhanh chóng yêu cầu của các cơ sở y tế.
- Nghiên cứu khoa học và hợp tác Quốc tế: Chủ động xây dựng kế
hoạch hoạt động khoa học, công nghệ phù hợp với sứ mệnh nghiên
cứu và phát triển của trường. Hoạt động KHCN được đa số đội ngũ
cán bộ, giảng viên tham gia. Trong những năm học tới, nhà trường
tiếp tục đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, đặc biệt chú trọng

tiến hành các sáng kiến về phương pháp giảng dạy nhằm nâng cao
chất lượng đào tạo học sinh sinh viên. Làm việc trực tiếp với Hiệp hội
các trường Điều dưỡng Nhật Bản, Đài Loan, Đức…


21

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Thời gian, địa điểm nghiên cứu
-

Thời gian: Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 11/2017 đến tháng

-

10/2018
Thời gian thu thập số liệu: Tháng 8/2018
Địa điểm nghiên cứu: Trường Cao đẳng Y tế Thái Bình

2.2. Thiết kế nghiên cứu
-

Nghiên cứu định lượng (mô tả cắt ngang)

2.3. Đối tượng , cỡ mẫu và chọn mẫu nghiên cứu
2.3.1. Đối tượng
-

Đối tượng: Sinh viên năm cuối hệ cao đẳng chính quy của trường Cao


-

đẳng Y tế Thái Bình năm học 2017—2018.
Tiêu chuẩn lựa chọn:

+ Sinh viên điều dưỡng năm cuối hệ cao đẳng chính quy của trường Cao đẳng
Y tế Thái Bình năm học 2017—2018.
+ Trực tiếp tham gia vào buổi giới thiệu về ĐDCSSKTN
+ Tự nguyện tham gia nghiên cứu
2.3.2.Cỡ mẫu và chọn mẫu nghiên cứu
-

Cỡ mẫu: Tất cả sinh viên điều dưỡng năm cuối hệ cao đẳng chính quy

-

của trường Cao đẳng Y tế Thái Bình năm học 2017-2018
Phương pháp chọn mấu: Chọn mẫu toàn bộ
Mẫu thực tế: 269 sinh viên

2.4. Công cụ và quy trình thu thập thông tin
2.4.1. Công cụ
-

Công cụ thu thập: Bộ câu hỏi tự điền


22


-

Bộ câu hỏi bao gồm 5 phần:

+,Phần A: Thông tin chung đối tượng nghiên cứu gồm 9 câu hỏi
+,Phần B: Nhận thức các kiến thức về dịch vụ mà điều dưỡng có thể
cung cấp tại nhà (17 câu) gồm 3 phần nhỏ sau: nhận thức về nhu cầu
CSSKTN của người dân (6 câu); nhận thức về nhu cầu đào tạo thêm của điều
dưỡng để tham gia CSSKTN (4 câu); nhận thức một số thuận lợi, khó khắn
của điều dưỡng CSSKTN (7 câu).
+,Phần C: Nhận xét về dự án gồm 6 câu hỏi
+,Phần D: Mức độ tham gia đào tạo thành ĐDCSSKTN gồm 5 câu hỏi
+,Phần E: Khả năng chi trả các khóa đào tạo ĐDCSSKTN gồm 2 câu hỏi
2.4.2. Quy trình thu thập thông tin
-

Bộ câu hỏi tự điền sẽ được sử dụng để thu thập số liệu . Bộ công cụ
sau khi được xây dựng sẽ được tiến hành thử nghiệm trên 20 sinh
viên điều dưỡng trường Cao đẳng Y tế Thái Bình. Bộ công cụ sẽ được

-

hoàn thiện dựa trên kết quả điều tra thử.
Quy trình thu thập số liệu:

+, Liên hệ phòng Công tác HSSV của nhà trường để thống nhất phương
án triển khai kế hoạch nghiên cứu
+, Thông báo cho toàn bộ sinh điều dưỡng về kế hoạch triển khai và ý
nghĩa của nghiên cứu này
+, Phối hợp với phòng Công tác HSSV, tới từng lớp học tiến hành phát

phiếu điều tra dưới sự hướng dẫn của điều tra viên
+, Sau khi điền phiếu xong, các sinh viên nộp lại phiếu cho điều tra viên,
sau khi đã được soát lại phần trả lời để tránh bỏ sót hoặc điền sai thông tin.
2.4.3. Biến số, chỉ số nghiên cứu
Mục tiêu 1: Mô tả kiến thức và thái độ về chăm sóc sức khỏe tại nhà của sinh
viên điều dưỡng năm cuối Trường Cao đẳng Y tế Thái Bình năm 2018.


23



Nhóm biến số nhận thức của sinh viên về chăm sóc sức khỏe tại
nhà

Nhóm
biến số

Nhận thức
về nhu cầu
CSSKTN
của người
dân

Nhận thức
về nhu cầu
đào tạo
thêm của
điều
dưỡng để

tham gia
CSSKTN

Biến số

Loại
biến số

Tuổi thọ và tỷ lệ mắc bệnh mạn tính
ngày càng tăng
Bệnh mạn tính tăng nhiều hơn
Người dân muốn được khám và chữa
bệnh ở tuyến trên
Nhiều bệnh có thể khám và điều trị
tại nhà
Người dân sẵn sàng tham gia dịch vụ
CSSKTN
Người dân sẵn sàng chi trả dịch vụ
CSSKTN
ĐDBV dễ chuyển đổi thành
ĐDCSSKTN
ĐD cần có thêm kỹ năng khác để
tham gia CSSKTN
Biến thứ
ĐD chưa xin được việc có nhu cầu
hạng
đào tạo
ĐD đang học có nhu cầu đào tạo

Làm việc chủ động, tạo lòng tin sự uy

tín với người bệnh
KHCN giúp việc CSSKTN thuận tiện
Nhận thức
Nhiều cơ hội tăng thu nhập
một số
Dễ xin việc khi chỉ thành tạo một việc
thuận lợi
Thiếu tự tin khi chăm sóc người bệnh
khó khăn
một mình
của điều
Không có đồng nghiệp bên cạnh để
dưỡng
trao đổi khi gặp khó khăn về chuyên
CSSKTN
môn.
Tự tin hơn khi được đồng nghiệp hỗ
trợ


Nhóm biến số về đặc điểm đối tượng nghiên cứu

Công cụ và
cách thu
thập

BCH tự điền


24


Công cụ
Tên biến số

Định nghĩa biến

Loại biến

và cách

số

thu thập

Tuổi

Tuổi theo năm dương lịch

Liên tục

Giới tính

Nam/ Nữ

Nhị phân

Dân tộc

Kinh/ Khác


Nhị phân

Chưa kết hôn/ Đang có vợ
Tình trạng hôn nhân

hoặc chồng/ Ly hôn hoặc ly Danh mục
thân/ Góa
Nông thôn/ Thị trấn,Thị xã/

Nơi ở hiện tại

Thành phố

Danh mục

Tổng thu nhập của
gia

đình

trong

1 Dưới 5 triệu/ Từ 5-10 triệu/

tháng

Thứ hạng

Từ 10-20 triệu/Từ 20-30 triệu/


điền

Trên 30 triệu
Mức kinh tế tự đánh Nghèo/ Trung bình/ Khá giả/
giá

Giàu

BCH tự

Thứ hạng

Tham gia các hoạt
động CSSK tại cộng Có/ Không

Nhị phân

đồng
Loại hình các hoạy Tình

nguyện/Trong

chương Danh mục

động CSSK tại cộng trình đào tạo/Khác
đồng
Mục tiêu 2: Mô tả mức độ tham gia và khả năng chi trả cho các khóa đào tạo
kỹ năng chăm sóc sức khỏe tại nhà của sinh viên năm cuối Trường Cao đẳng
Y tế Thái Bình năm 2018.



25



Nhóm biến số về nhu cầu đào tạo để tham gia CSSKTN
Công cụ

Tên biến số

Định nghĩa biến

Loại

và cách

biến số thu thập
Sẵn sàng

Nhị

tham gia đào Có/ Không

phân

BCH tự

tạo

điền

Khóa học chăm sóc với từng bệnh cụ thể/

Danh

Chăm sóc bệnh nhân mắc bệnh mạn tính/

mục

Chăm sóc giảm đau bệnh nhân ung thư/
Chăm sóc người cao tuổi, người suy kiệt/
Chăm sóc phục hồi chức năng/ Chăm sóc
Các khóa đào bệnh nhân sa sút trí tuệ/bệnh lý tâm thần/
tạo

Khoá học nâng cao kỹ năng giao tiếp, tư vấn/
Khoá học nâng cao kỹ năng làm việc độc lập
và làm việc nhóm/ Khoá học ứng dụng

KHCN trong CSSKTN/Khác
Nội dung đào Kiến thức/ Thái độ/ Kỹ năng

Danh

tạo
Thời gian đào Liên tục/ Ngoài giờ buổi tối/ Chỉ vào cuối

mục
Danh

tạo


tuần/ Một số ngày nhất định trong tuần

mục

Thời lượng Tối đa 1 tuần/ Từ 2-4 tuần/ Từ 5-8 tuần/ Từ
đào tạo


2-6 tháng

Danh
mục

Nhóm biến số về khả năng chi trả các khóa đào tạo CSSKTN

Tên biến số

Định nghĩa biến

Loại
biến số

Công cụ
và cách


×