Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Luận văn thạc sĩ: Thu ngân sách nhà nước theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (988.15 KB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN XUÂN

THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN XUÂN

THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN NGŨ HÀNH SƠN,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.17

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HỒ NGỌC HIỂN

Hà Nội, năm 2019



LỜI CẢM ƠN
Kết quả của luận văn này là thành quả của quá trình học tập chăm chỉ và nỗ
lực không ngừng của chính bản thân tác giả và những người đã giúp tác giả thực
hiện đề tài này. Vì vậy, để tri ân những tấm chân tình đó, tác giả:
Xin chân thành cảm ơn quý thầy, cô Học Viện Khoa Học Xã Hội đã tận tâm
dạy dỗ và truyền đạt những kiến thức quý báu làm nền tảng cho việc nghiên cứu đề
tài này.
Xin chân thành cảm ơn TS. HỒ NGỌC HIỂN đã hướng dẫn tôi hoàn thành
luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn tất cả bạn bè, đồng nghiệp, các đơn vị và những
người đã giúp tôi thực hiện luận văn này.
Một lần nữa, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và kính chúc bạn bè, đồng
nghiệp, quý thầy, cô giáo sức khoẻ, hạnh phúc và phát triển.
Tác giả

Nguyễn Văn Xuân


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi được thực hiện
dưới sự hướng dẫn của TS. Hồ Ngọc Hiển
Tôi đã đọc và hiểu về các hành vi vi phạm sự trung thực trong học thuật. Tôi
xin cam kết bằng danh dự và cá nhân rằng nghiên cứu này do tôi tự thực hiện và
không vi phạm yêu cầu về sự trung thực trong học thuật. Các số liệu nêu trong luận
văn là đúng sự thật, có nguồn gốc rõ ràng và chưa từng được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các thông tin nghiên cứu trong luận văn là do tôi tự tìm tòi,
nghiên cứu phù hợp với thực tế.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung của luận văn.
Hà Nội, tháng 2 năm 2019

Tác giả luận văn

Nguyễn Văn Xuân


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THU NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VỀ THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC ............... 8
1.1. Những vấn đề lý luận về thu ngân sách nhà nước ..................................... 8
1.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật thu ngân sách nhà nước ................ 12
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THU NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC QUA THỰC TIỄN THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN
NGŨ HÀNH SƠN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG............................................. 23
2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của Quận Ngũ Hành Sơn,
Thành phố Đà Nẵng ........................................................................................ 23
2.2. Thực trạng về lập dự toán thu ngân sách ................................................. 28
2.3. Chấp hành dự toán thu ngân sách địa phương ......................................... 33
2.4. Quyết toán thu ngân sách địa phương ...................................................... 48
2.5. Đánh giá công tác quản lý, tổ chức thu ngân sách trên địa bàn Quận Ngũ
Hành Sơn ......................................................................................................... 50
CHƯƠNG 3. ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TẠI
QUẬN NGŨ HÀNH SƠN, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ............................... 56
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật thu ngân sách ...................................... 56
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật thu ngân sách nhà nước ............... 60
3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thu ngân sách tại Quận Ngũ Hành Sơn,
Thành phố Đà Nẵng ........................................................................................ 64
KẾT LUẬN .................................................................................................... 75

TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
HĐND

Hội đồng nhân dân

NSĐP

Ngân sách địa phương

NSNN

Ngân sách nhà nước

NSX

Ngân sách xã

NNT

Người nộp thuế

UBND

Ủy ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Số lượng hộ kinh doanh cá thể tại quận Ngũ Hành Sơn ..........................27
Bảng 2.2. Số lượng doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trên địa bàn quận Ngũ
Hành Sơn ...................................................................................................................28
Bảng 2.3. Tình hình thu ngân sách nhà nước quận Ngũ Hành Sơn ..........................33
Bảng 2.4. Tình hình thu ngân sách nhà nước quận Ngũ Hành Sơn năm 2015 .........35
Bảng 2.5. Tình hình thu ngân sách nhà nước quận Ngũ Hành Sơn năm 2016 .........36
Bảng 2.6. Tình hình thu ngân sách nhà nước quận Ngũ Hành Sơn năm 2017 .........37
Bảng 2.7. Quyết toán thu ngân sách nhà nước quận Ngũ Hành Sơn năm 2015 .......49
Bảng 2.8. Quyết toán thu ngân sách nhà nước quận Ngũ Hành Sơn năm 2016 .......49
Bảng 2.9. Quyết toán thu ngân sách nhà nước quận Ngũ Hành Sơn năm 2017 .......50

DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 2.1. Quy trình lập dự toán NSNN hàng năm ....................................................30


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự tồn tại và phát triển của một quốc gia luôn cần thiết phải có nguồn lực tài
chính đảm bảo cho hoạt động chi tiêu thường xuyên của hệ thống chính trị của quốc
gia đó. Tại Việt Nam, việc đảm bảo kinh phí hoạt động cho các cơ quan Đảng; các
cơ quan quản lý Nhà nước; các tổ chức chính trị - xã hội; quốc phòng, an ninh; phúc
lợi xã hội, đầu tư phát triển đất nước... để thực hiện được nhiệm vụ này thì Nhà
nước phải tạo ra các nguồn lực tài chính. Nguồn lực tài chính chủ yếu được huy
động từ nguồn thu của các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Tất cả quá
trình thu nộp, sử dụng nguồn tài chính huy động được đều phải được phản ánh qua
ngân sách nhà nước (NSNN).
Trong hệ thống tài chính quốc gia, Ngân sách nhà nước có vai trò rất quan trọng
nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng nhiệm vụ của nhà nước. Đồng thời là công cụ
để nhà nước điều chỉnh vĩ mô đối với toàn bộ đời sống kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh
quốc gia.

Quận Ngũ Hành Sơn là một quận nằm ở vị trí cửa ngõ phía Đông Nam của
thành phố Đà Nẵng được thành lập từ ngày 01 tháng 01 năm 1997, nguồn thu Ngân
sách chủ yếu dựa vào các hoạt động du lịch dịch vụ sản xuất, kinh doanh trên địa bàn,
tuy nhiên việc quản lý nguồn thu NSNN trong thời gian qua còn thiếu tập trung;
nhiều nguồn lực tài chính không được động viên vào NSNN; chính quyền các cấp và
một số đơn vị có liên quan còn xem nhẹ công tác thu Ngân sách và coi đó là nhiệm
vụ của riêng ngành Thuế; nguồn thu NSNN trên địa bàn vẫn còn nhiều bất cập.
Từ thực tiễn nêu trên, cho thấy cần thiết phải nâng cao hơn nữa công tác
quản lý thu Ngân sách, tôi đã chọn đề tài: “Thu ngân sách nhà nước theo pháp luật
Việt Nam từ thực tiễn Quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan của đề tài
Vấn đề thu ngân sách nhà nước là vấn đề được nhiều nhà khoa học quan tâm và
đã có những bài viết trên các tạp chí và các công trình nghiên cứu liên quan như:
Các bài báo trên các tạp chí như:

1


Tác giả Sông Trà: “Quản lý thu và chống thất thu ngân sách nhà nước”, Tạp
chí báo điện tử Nhân dân số 08/2018, năm 2018. Tác giả đã nêu thực trạng công tác
quản lý thu và chống thất thu ngân sách nhà nước trong thời gian vừa qua đạt khá so
với nhiều năm gần đây, cả về tiến độ và tốc độ tăng thu. Để có kết quả này, ngành
thuế đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các chính sách thuế và quản lý
thuế mới đến người nộp thuế, nhất là những nội dung về cải cách thủ tục hành
chính, hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, tạo thuận lợi cho người nộp thuế.
Đây là giải pháp được ngành thuế rất chú trọng, bởi không những giải quyết nhanh
các vướng mắc phát sinh, mà còn tiết kiệm rất nhiều thời gian so với việc giải
quyết, xử lý theo thủ tục hành chính, vừa gây bức xúc cho người nộp thuế, vừa tạo
sự mệt mỏi không đáng có cho công chức thực thi nhiệm vụ. Ngoài ra, việc tăng
cường công tác kiểm tra, kiểm soát hồ sơ khai thuế, phát hiện kịp thời các trường

hợp kê khai không đúng, không đủ số thuế phát sinh, nộp không đúng, không đủ số
thuế phải nộp,... đóng vai trò rất quan trọng, bởi từ đó sẽ có biện pháp chấn chỉnh
kịp thời để nâng cao tính tự giác tuân thủ pháp luật về thuế. Giải pháp này được coi
là công cụ hữu hiệu nhằm đưa hoạt động quản lý thuế thật sự mang tính chất hậu
kiểm như mục tiêu đã đề ra. Ngoài ra, ngành còn kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ công
tác hoàn thuế, chủ yếu thực hiện hoàn thuế điện tử đối với số hồ sơ hoàn thuế xuất
khẩu và đầu tư. Do triển khai thực hiện đồng bộ các biện pháp quản lý nợ thuế, nên
đã đôn đốc thu hồi kịp thời cho ngân sách và hạn chế thấp nhất số nợ thuế mới phát
sinh. Việc xây dựng và giao chỉ tiêu thu nợ thuế hằng năm đến từng đơn vị và cá
nhân người đứng đầu cơ quan thuế đã phát huy tác dụng, khi cả hệ thống, từ các
lãnh đạo tổng cục tới từng đội trưởng, từng cán bộ thuế đều phải chủ động trong
công việc này. Đồng thời, tăng cường phối hợp giữa bộ phận quản lý nợ với bộ
phận kê khai, thanh tra, kiểm tra thuế trong nội bộ, với các ngân hàng thương mại,
Kho bạc Nhà nước, các cơ quan liên quan..
Tác giả Hoàng Anh: “Đà Nẵng thu ngân sách nhà nước đạt và vượt chỉ tiêu
năm 2018” Tạp chí báo đầu tư online số 12/2018, năm 2018. Tác giả đã nêu ra kết
quả công tác thu ngân sách trên địa bàn thành phố Đà Nẵng năm 2018 đạt và vượt chỉ

2


tiêu so với dự toán do Hội đồng nhân dân thành phố giao thể hiện qua nhiều nguồn
thu chủ yếu sau thu nội địa, thu nội địa không kể tiền sử dụng đất và xổ số kiến thiết,
thu tiền sử dụng đất và thu từ hoạt động xổ số kiến thiết; thu từ hoạt động xuất, nhập
khẩu. Tác giả cũng nêu nguyên nhân của kết quả thu ngân sách đạt được năm 2018 là
do nhiều nguyên nhân trong đó phải kể đến chủ trương “Năm đẩy mạnh thu hút đầu
tư” được triển khai thực hiện đạt kết quả bước đầu, thu hút đầu tư trong và ngoài
nước tăng khá về số lượng doanh nghiệp và vốn đăng ký. Các chính sách hỗ trợ
doanh nghiệp gắn với các hoạt động khởi nghiệp tiếp tục được quan tâm. Các công
trình trọng điểm cơ bản đảm bảo tiến độ… Tuy nhiên, bài báo cũng cho biết một số

chỉ tiêu quan trọng về phát triển kinh tế chưa đạt kế hoạch đề ra. Việc triển khai các
chủ trương của Thành ủy, Ban Thường vụ Thành ủy liên quan đến một số công
trình, dự án động lực, trọng điểm của thành phố, nhất là về hạ tầng đô thị, giao thông,
môi trường… còn chậm, ảnh hưởng đến đời sống dân sinh, chưa đáp ứng kịp nhu cầu
phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Việc thực hiện Kết luận số 2852/KL-TTCP
của Thanh tra Chính phủ còn nhiều vướng mắc, gây khó khăn trong quản lý về đất
đai, ảnh hưởng đến quyền lợi của tổ chức, người dân. Công tác quản lý nhà nước trên
một số lĩnh vực vẫn còn hạn chế, gây bức xúc trong dư luận, xã hội …
Tác giả Ngọc Bích và Hữu Thịnh (VTV8): “Đà Nẵng tập trung chống thất
thu và thu hồi nợ đọng thuế” Tạp chí báo điện tử VTC new tháng 11/2018. Bài viết
đánh giá kết quả nổ lực của các địa phương trên địa bàn thành phố Đà Nẵng tập
trung công tác chống thất thu và thu hồi nợ đọng thuế trong đó phải kể đến quận
Ngũ Hành Sơn là địa phương đầu tiên ở Đà Nẵng có nhiều giải pháp đã thu đạt và
vượt dự toán ngân sách so với dự toán và tăng nhẹ so với cùng kỳ năm ngoái. Đây
là kết quả từ nỗ lực rất lớn của ngành thuế quận Ngũ Hành Sơn. Tuy nhiên, con số
thu ngân sách tăng của Ngũ Hành Sơn chủ yếu từ thu thuế đất đai. Đây cũng là thực
trạng chung của nhiều địa phương khác tại thành phố Đà Nẵng. Trong khi đó, các
khoản thu chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng thu ngân sách vẫn chưa bảo đảm tiến độ
dự toán. Để đảm bảo kế hoạch, trong giai đoạn nước rút cuối năm, ngành thuế Đà
Nẵng sẽ đẩy mạnh công tác chống thất thu thuế, tăng cường kiểm tra, kiểm soát việc

3


kê khai thuế của các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật về thuế; đồng
thời tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng nộp thuế qua kê khai điện tử, xúc tiến
thực hiện hóa đơn điện tử. Đây là những giải pháp giúp ngành thuế Đà Nẵng thu
đúng, đủ, kịp thời các khoản thuế, phí, lệ phí và thu khác vào ngân sách nhà nước;
giảm tỷ lệ nợ đọng thuế xuống dưới 5% tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn.
Trong thời gian qua, ở cấp độ cao học đã có một số đề tài nghiên cứu trong lĩnh

vực thu ngân sách nhà nước . Đó là:
- Nguyễn Đức Anh: “Quản lý thu ngân sách Nhà nước tại quận Đống Đa, thành
phố Hà Nội” luận văn thạc sĩ Tài chính – Ngân hàng tại Học viện Hành chính Quốc gia
của (2015). Luận văn đã khái quát lại những lý luận cơ bản về NSNN, quản lý thu, chi
ngân sách đồng thời khảo sát phân tích thực trạng quản lý thu NSNN tại quận Đống Đa
từ năm 2012 đến 2014. Bên cạnh đó tác giả đã đề xuất một số quan điểm và giải pháp
chủ yếu nhằm hoàn thiện quản lý thu NSNN của quận Đống Đa.
- Hoàng Thị Ánh Tuyết: “Hoàn thiện công tác quản lý thu Ngân sách tại thị
xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ, Luận văn Thạc sỹ, Trường Đại học Thái Nguyên, năm
2014. Luận văn đã nêu lên Ngân sách nhà nước là công cụ tài chính quan trọng để
Nhà nước quản lý vĩ mô nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hướng
tới tăng trưởng, phát triển và thực hiện công nghiệp hoá – hiện đại hoá (CNH –
HĐH) đất nước. Tuy nhiên, cho đến nay việc quản lý thu NSNN trên địa bàn cũng
còn một số hạn chế, tồn tại đó là: Trong công tác điều hành ngân sách ở một số
ngành, địa phương chưa bám sát dự toán được giao, việc điều hành, triển khai thu
của cơ quan thuế còn chậm, dồn nén vào cuối năm và còn để xảy ra tình trạng
không thực hiện được dự toán trong năm, đặc biệt là một số đơn vị làm hồ sơ hoàn
thuế, công tác quản lý thu thuế môn bài nay là lệ phí Môn bài đầu năm gặp khó
khăn….Những tồn tại, hạn chế do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan,
nhưng chủ yếu là do hệ thống cơ chế, chính sách và quản lý thu NSNN chưa hoàn
chỉnh, trình độ quản lý của cán bộ ngành thuế còn nhiều hạn chế bất cập nhất là cán
bộ thu thuế cấp cơ sở. Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong quản lý thu
NSNN nhiều khi chưa đồng bộ.

4


Nhìn chung, các bài viết trên tạp chí, các đề tài nghiên cứu trên đã cung cấp cơ
sở lý luận về các vấn đề liên quan như công tác quản lý thu ngân sách nhà nước, nêu ra
các bất cập trong quá quản lý thu ngân sách nhà nước tình trạng thất thu, nợ đọng thuế

còn diễn ra, công tác quản lý thu ngân sách còn chưa quyết liệt và nêu các nguyên nhân
kết quả đạt được trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp nhằm tăng cường công tác thu
ngân sách địa phương. Nhìn chung, các bài viết và công trình nghiên cứu trên từ việc
thu thập số liệu cập nhật các thông tin, trên cơ sở dựa trên những số liệu chỉ tiêu kinh
tế, thu ngân sách cụ thể để đánh giá một cách định lượng theo lĩnh vực khoa học quản
lý tài chính kinh tế và đưa ra các giải pháp cụ thể đối với công tác thu ngân sách nhà
nước, chưa đề cập chưa đi sâu nghiên cứu việc thực hiện pháp luật Việt Nam về công
tác quản lý thu ngân sách nhà nước. Những tài liệu đó là nguồn tư liệu quý giúp bản
thân tiếp thu tham khảo, làm định hướng cho đề tài nghiên cứu của mình. Việc nghiên
cứu vấn đề quản lý thu ngân sách nhà nước theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn quận
Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng hiện nay chưa có tác giả nào nghiên cứu một cách
sâu sắc và toàn diện... Cho nên, tác giả mạnh dạn nghiên cứu vấn đề này, với mong
muốn góp phần nhỏ bé vào công tác thu ngân sách nhà nước của địa phương nhằm để
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra trong tình hình mới hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn nhận diện thực trạng pháp luật qua thực
tiễn thực hiện tại quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. Từ đó, luận văn đề xuất
giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về công tác
thu ngân sách trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn được
xác định là:
- Hệ thống hóa kiến thức, phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về pháp
luật thu ngân sách, đặc biệt là về bản chất, đặc điểm, nội dung, chủ thế, khách thể…

5


- Đánh giá thực trạng pháp luật về công tác thu ngân sách nhà nước trên địa

bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng đặc biệt từ khi Luật NSNN năm 2015
có hiệu lực. Rút ra những vấn đề còn bất cập trong quy định của pháp luật, khó
khăn, vướng mắc trong thực hiện pháp luật về công tác thu ngân sách nhà nước trên
địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, từ đó đề xuất, kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu
quả thực thi chế định pháp luật này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về các quy định về công tác thu ngân sách nhà nước cũng
như thực trạng thực thi pháp luật về thu ngân sách nhà nước trên địa bàn quận Ngũ
Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm của
Đảng và Nhà nước về NSNN nói chung, pháp luật về thu ngân sách nhà nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu như: tổng hợp, thống
kê, phân tích, so sánh các số liệu, dữ liệu về thu ngân sách nhà nước trên địa bàn
quận Ngũ Hành Sơn qua các bảng quyết toán, dự toán ngân sách của quận trong
năm 2017. Các phương pháp này chủ yếu được sử dụng ở Chương 2 của luận văn
nói về “Thực trạng pháp luật và thực tiễn thu ngân sách nhà nước qua thực tiễn
thực hiện trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng, cả về những kết
quả đạt được, những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân trong hoạt động này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn góp
phần cung cấp luận cứ khoa học cho việc nâng cao hiệu quả xây dựng và thực hiện
pháp luật về thu ngân sách nhà nước ở nước ta.

6



Về mặt thực tiễn: Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công
tác giảng dạy về pháp luật về thu ngân sách nhà nước tại Việt Nam; làm tài liệu nghiên cứu
cho tất cả những ai quan tâm, muốn tìm hiểu về pháp luật công tác thu ngân sách nhà nước.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thu ngân sách nhà nước và pháp luật về
thu ngân sách nhà nước
Chương 2: Thực trạng pháp luật về thu ngân sách nhà nước qua thực tiễn
thực hiện trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
thu ngân sách nhà nước tại quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.

7


CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ
PHÁP LUẬT VỀ THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1. Những vấn đề lý luận về thu ngân sách nhà nước
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm thu ngân sách nhà nước
a. Khái niệm ngân sách nhà nước
Trong chế độ phong kiến, ngân sách được xem như là cái túi của nhà vua,
trong đó có các khoản tiền để chi tiêu cho hoàng gia và những khoản tiền được chi
tiêu cho mục đích công cộng như đắp đê, phòng chống lũ lụt, xây dựng đường xá.
Tuy vậy hai khoản chi tiêu này không được tách biệt nhau. Vì vậy, giai cấp tư sản
đòi hỏi hoạt động chi tiêu công của nhà nước phong kiến phải được công khai, minh
bạch, có giới hạn và có tính hợp pháp. Các khoản chi tiêu công phải được sự giám
sát của công chúng đồng thời phải có sự tách bạch giữa chi tiêu của xã hội với chi

tiêu cá nhân của nhà vua. Như vậy có thể thấy thể chế ngân sách ra đời là kết quả
của cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản đối với nhà nước phong kiến.
Vào thế kỷ XVII các nước tư bản như Anh, Mỹ, Pháp đã áp dụng thể chế NSNN.
Thể chế NSNN ra đời đã làm thay đổi các phương thức quản lý tài chính của nhà nước,
khái niệm NSNN lúc này được hiểu là phạm trù phản ánh những thể chế được xã hội
thiết lập nhằm mục đích ấn định con số chi tiêu trong một năm, trong đó Nhà nước đưa
ra những quy tắc về kế toán để theo dõi chi tiết, chặt chẽ các khoản chi tiêu của Nhà
nước với mục đích là kiểm soát các khoản chi, tránh sự lãng phí. Hay nói cách khác
NSNN là các khoản thu, chi của Nhà nước được thực hiện trong một niên khoá tài
chính, là một đạo luật tài chính, được Quốc hội quyết định, thông qua.
Trong thực tiễn, khái niệm “ngân sách” thường để chỉ tổng số thu và chi của
một đơn vị trong một thời gian nhất định; một bản tính toán các chi phí để thực hiện
một kế hoạch, hoặc một chương trình cho một mục đích nhất
định của một chủ thể nào đó. Nếu chủ thể đó là Nhà nước thì được gọi là ngân sách
nhà nước.

8


Luật Ngân sách Nhà nước số 83/2015/QH13: "Ngân sách Nhà nước: “Ngân
sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để bảo đảm thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước” [12, điều 4, khoản 14].
Ngân sách Nhà nước cấp quận là toàn bộ các khoản thu, chi của nhà nước đã
được HĐND, UBND cấp quận quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm
bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước trên địa bàn quận.
b. Đặc điểm ngân sách nhà nước
NSNN vừa là nguồn lực để nuôi dưỡng bộ máy Nhà nước, vừa là công cụ hữu
hiệu để Nhà nước quản lý, điều tiết nền kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội nên
có những đặc điểm chính sau:

Thứ nhất, việc tạo lập và sử dụng quỹ NSNN luôn gắn liền với quyền lực kinh
tế - chính trị của Nhà nước, được Nhà nước tiến hành trên cơ sở những luật lệ nhất
định. NSNN là một bộ luật tài chính đặc biệt, bởi lẽ trong NSNN, các chủ thể của
nó được thiết lập dựa vào hệ thống các pháp luật có liên quan như hiến pháp, các
luật thuế,… nhưng mặt khác, bản thân NSNN cũng là một bộ luật do Quốc hội
quyết định và thông qua hằng năm, mang tính chất áp đặt và bắt buộc các chủ thể
kinh tế - xã hội có liên quan phải tuân thủ.
Thứ hai, NSNN luôn gắn chặt với sở hữu Nhà nước và luôn chứa đựng lợi ích
chung, lợi ích công cộng. Nhà nước là chủ thể duy nhất có quyền quyết định đến
các khoản thu, chi của NSNN và hoạt động thu, chi này nhằm mục tiêu giúp Nhà
nước giải quyết các quan hệ lợi ích trong xã hội khi Nhà nước tham gia phân phối
các nguồn tài chính quốc gia giữa Nhà nước với các tổ chức kinh tế - xã hội, các
tầng lớp dân cư...
Thứ ba, NSNN là một bản dự toán thu chi. Các cơ quan, đơn vị có trách nhiệm
lập NSNN và đề ra các thông số quan trọng có liên quan đến chính sách mà Chính
phủ phải thực hiện trong năm tài khóa tiếp theo. Thu, chi NSNN là cơ sở để thực
hiện các chính sách của Chính phủ. Chính sách nào mà không được dự kiến trong
NSNN thì sẽ không được thực hiện. Chính vì như vậy mà, việc thông qua NSNN là

9


một sự kiện chính trị quan trọng, nó biểu hiện sự nhất trí trong Quốc hội về chính
sách của Nhà nước. Quốc hội mà không thông qua NSNN thì điều đó thể hiện sự
thất bại của Chính phủ trong việc đề xuất chính sách đó, và có thể gây ra mâu thuẫn
về chính trị.
Thứ tư, NSNN là một bộ phận chủ yếu của hệ thống tài chính quốc gia. Hệ
thống tài chính quốc gia bao gồm: tài chính nhà nước, tài chính doanh nghiệp, trung
gian tài chính và tài chính cá nhân hoặc hộ gia đình. Trong đó tài chính nhà nước là
khâu chủ đạo trong hệ thống tài chính quốc gia. Tài chính nhà nước tác động đến sự

hoạt động và phát triển của toàn bộ nền kinh tế - xã hội. Tài chính nhà nước thực
hiện huy động và tập trung một bộ phận nguồn lực tài chính từ các định chế tài
chính khác chủ yếu qua thuế và các khoản thu mang tính chất thuế. Trên cơ sở
nguồn lực huy động được, Chính phủ sử dụng quỹ ngân sách để tiến hành cấp phát
kinh phí, tài trợ vốn cho các tổ chức kinh tế, các đơn vị thuộc khu vực công nhằm
thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.
* Đặc điểm của ngân sách nhà nước cấp quận
Một là, hoạt động NSNN gắn liền với quyền lực kinh tế - chính trị của nhà
nước cấp quận và được thực hiện theo Luật định : Cơ quan quyền lực nhà nước ở
quận là HĐND và UBND, đây là hai cơ quan hành pháp ở cấp quận.
Hai là, hoạt động NSNN nói chung, NSNN cấp quận nói riêng chứa đựng nội
dung về quan hệ kinh tế - xã hội (KT-XH) nhất định, về bản chất NSNN được thể
hiện đó là các quan hệ lợi ích kinh tế giữa nhà nước với các chủ thể như doanh
nghiệp, hộ gia đình, cá nhân... trong và ngoài địa phương, được gắn liền với việc tạo
lập NSNN thông qua việc huy động các nguồn lực bằng các hình thức cụ thể như
thu thuế, phí, lệ phí và các khoản thu theo quy định. Song song với quá trình tạo
lập, nhà nước sẽ tham gia vào việc phân phối, sử dụng quỹ tiền tệ tập trung vào
NSNN, nhằm đảm bảo cho các hoạt động của bộ máy nhà nước cấp quận.
Ba là, hoạt động NSNN hướng đến lợi ích chung của quốc gia nói chung và
địa phương nói riêng. Ở điểm này được hiểu là NSNN các cấp phải được quản lý
nghiêm ngặt để tránh sự lạm dụng, tham ô, tham nhũng của những người quản lý và

10


sử dụng NSNN, vì lợi ích của nhân dân và của toàn xã hội, nên NSNN là công cụ để
Nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Các cơ quan quản lý, sử dụng
NSNN không được vì lợi ích cục bộ của địa phương, đơn vị mình mà sử dụng
NSNN đi ngược lại với lợi ích chung của quốc gia, của địa phương.
1.1.2. Nội dung thu ngân sách nhà nước

a. Khái niệm thu ngân sách nhà nước
Để có nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu, Nhà nước thường sử dụng ba
hình thức động viên đó là: quyên góp của dân, vay của dân và dùng quyền lực Nhà
nước bắt buộc dân phải đóng góp. Trong đó hình thức quyên góp tiền và tài sản của
dân và hình thức vay của dân là những hình thức không mang tính ổn định và lâu
dài, thường được Nhà nước sử dụng có giới hạn trong một số trường hợp đặc biệt.
Để đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên, Nhà nước dùng quyền lực chính trị của
mình ban hành các luật thuế để bắt buộc dân phải đóng góp một phần thu nhập của
mình cho ngân sách Nhà nước. Đây chính là hình thức cơ bản nhất để huy động tập
trung nguồn tài chính cho Nhà nước. Vậy ta có thể nói rằng:
Thu NSNN là việc Nhà nước dùng quyền lực của mình để tập trung một phần
nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ NSNN nhằm thỏa mãn các nhu cầu chi tiêu
của Nhà nước.
b. Đặc điểm thu ngân sách nhà nước
Một là, phần lớn các khoản thu NSNN được xây dựng trên nền tảng nghĩa vụ
công dân, điển hình là thuế, các khoản phí, lệ phí, thu khác thuộc NSNN
Hai là, các khoản thu không mang tính bồi hoàn trực tiếp, Nhà nước sẽ dùng
các khoản tiền thu được để tạo ra hàng hoá và dịch vụ công, các hàng hoá này sẽ
được chính người dân hưởng thụ. Như vậy các khoản thu nhập công được chuyển
lại cho người dân theo một cách gián tiếp và công cộng.
Ba là, thu NSNN được gắn với việc thực hiện các nhiệm vụ của nhà nước. Nhà
nước thu để thực hiện chi tiêu công chứ không phải thu để tìm kiếm lợi nhuận.
Bốn là, thu NSNN gắn liền với các dịch vụ công như dịch vụ thu thuế, phí, lệ
phí của các cơ quan được Nhà nước uỷ quyền.

11


1.2. Những vấn đề lý luận về pháp luật thu ngân sách nhà nước
1.2.1. Khái niệm pháp luật về thu ngân sách nhà nước

Pháp luật về thu ngân sách Nhà nước là một hệ thống các văn bản pháp luật
do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ thu ngân sách Nhà nước và các
quan hệ xã hội phát sinh liên quan trực tiếp đến hoạt động thu ngân sách Nhà nước
trong quá trình Nhà nước thực hiện các hoạt động thu ngân sách Nhà nước.
Căn cứ vào nội dung của các quy phạm pháp luật, pháp luật về thu ngân sách
Nhà nước bao gồm các bộ phận sau:
– Pháp luật về thu ngân sách Nhà nước từ thuế.
– Pháp luật về thu ngân sách Nhà nước từ phí, lệ phí.
– Pháp luật về các khoản thu khác của ngân sách Nhà nước như vay nợ, tiền
viện trợ,…
1.2.2. Nội dung pháp luật thu ngân sách nhà nước
a. Các khoản thu từ thuế
Thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các thể nhân và pháp nhân có nghĩa vụ
phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật do Nhà
nước ban hành, không mang tính chất đối giá và hoàn trả trực tiếp cho đối tượng
nộp thuế. Thuế là nguồn thu quan trọng của ngân sách nhà nước. Các quốc gia đều
mong muốn thuế trở thành nguồn thu chính của ngân sách nhà nước vì nguồn thu từ
thuế phản ánh được tình hình phát triển kinh tế của quốc gia và thu nhập của người
dân. Thông thường, các quốc gia chỉ đặt chỉ tiêu thu thuế bằng tỉ lệ tương ứng với
tổng sản phẩm quốc dân (GDP).
Hệ thống pháp luật thuế của Nhà nước ta hiện nay bao gồm các loại thuế chủ
yếu như sau:
– Thuế sử dụng đất nông nghiệp.
– Thuế giá trị gia tăng.
– Thuế tiêu thụ đặc biệt.
– Thuế thu nhập doanh nghiệp.
– Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu.

12



– Thuế thu nhập cá nhân
– Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp.
– Thuế chuyển quyền sử dụng đất.
b. Các khoản thu từ phí, lệ phí
* Khái niệm
Phí là khoản thu nhằm thu hồi chi phí đầu tư cung cấp các dịch vụ công cộng
không thuần túy theo quy định của pháp luật và là khoản tiền mà các tổ chức, cá
nhân phải trả khi sử dụng các dịch vụ công cộng đó.
Dịch vụ công cộng thuần túy là những dịch vụ mà nhà nước có thể lượng hóa
được mức độ sử dụng của từng cá nhân tổ chức vì vậy mà nhà nước có thể thu lại
một phần hoặc toàn bộ chi phí đã bỏ ra để cung cấp dịch vụ cho các đối tượng này
thông qua chế độ thu phí.
Lệ phí là những khoản thu gắn liền với việc cung cấp các dịch vụ hành chính
pháp lý của nhà nước cho các cá nhân và tổ chức nhằm phục vụ cho công việc quản lý
hành chính nhà nước theo qui định của pháp luật. Cần lưu ý là khỏan tiền đó không phải
là giá của dịch vụ mà là khỏan thu phục vụ cho yêu cầu quản lý của nhà nước.
* Đối với phí
Phân cấp thẩm quyền
Chính phủ quy định đối với một số phí quan trọng, có số thu lớn, liên quan
đến nhiều chính sách kinh tế – xã hội của Nhà nước. Trong từng loại phí do Chính
phủ quy định, Chính phủ có thể ủy quyền cho Bộ, cơ quan ngang Bộ quy định mức
thu đối với từng trường hợp cụ thể cho phù hợp với tình hình thực tế.
– Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi
chung là cấp tỉnh) quy định đối với một số khoản phí về quản lý đất đai, tài nguyên
thiên nhiên; một số khoản phí gắn với chức năng quản lý hành chính nhà nước của
chính quyền địa phương.
– Bộ Tài chính quy định đối với các khoản phí còn lại để áp dụng thống nhất
trong cả nước.
– Thẩm quyền quy định đối với phí được quy định cụ thể trong Danh mục


13


chi tiết phí, lệ phí ban hành kèm theo Nghị định 24/CP ngày 06 tháng 03 năm 2006
Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 57/2002/NĐ-CP ngày 03 tháng 6
năm 2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Phí và Lệ phí. Thẩm
quyền quy định đối với phí bao gồm việc quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản
lý và sử dụng đối với từng phí cụ thể.
Trường hợp Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định về
khoản phí chưa có tên trong Danh mục chi tiết phí, lệ phí ban hành kèm theo Nghị
định 24/CP thì Bộ Tài chính quy định mức thu, chế độ quản lý, sử dụng tiền phí thu
được cho phù hợp với Điều
Nguyên tắc xác định mức thu phí
– Mức thu phí đối với các dịch vụ do Nhà nước đầu tư hoặc do tổ chức, cá
nhân đầu tư vốn đều phải trên cơ sở bảo đảm thu hồi vốn trong thời gian hợp lý; phù
hợp với khả năng đóng góp của người nộp; thuận tiện cho cả người thu phí và người
nộp phí. Ngoài ra, mức thu đối với các dịch vụ do Nhà nước đầu tư còn phải bảo
đảm thi hành các chính sách phát triển kinh tế – xã hội của Đảng, Nhà nước trong
từng thời kỳ và phù hợp với tình hình thực tế.
– Các khoản chi phí để thực hiện các dịch vụ thu phí, phục vụ cho việc xác
định mức thu phí bao gồm:
+ Chi phí xây dựng, mua sắm, duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa thường xuyên và
định kỳ máy móc, thiết bị, phương tiện làm việc,… hoặc thuê ngoài tài sản trực tiếp
phục vụ công việc thu phí. Chi phí này được phân bổ theo mức độ hao mòn của
những tài sản trực tiếp phục vụ công việc thu phí;
+ Chi phí vật tư, nguyên, nhiên, vật liệu sử dụng trong quá trình thực hiện
công việc thu phí;
+ Chi trả các khoản tiền lương hoặc tiền công, các khoản phụ cấp, các khoản
đóng góp theo tiền lương, tiền công, theo chế độ hiện hành cho lao động trực tiếp

thu phí, lệ phí;
– Mức thu đối với những loại phí thuộc thẩm quyền của Chính phủ quy định
thì thực hiện theo quy định của Chính phủ đối với từng loại phí cụ thể.

14


– Thời gian hợp lý để thu hồi vốn đầu tư thực hiện các dịch vụ thu phí căn cứ
vào đánh giá khả năng thu phí, hiệu quả thu phí, vốn đầu tư và nhu cầu cần thu hồi
vốn đầu tư để thực hiện dịch vụ thu phí, được xác định (dự kiến) trong đề án thu phí.
– Căn cứ vào quy định của pháp luật, tổ chức, cá nhân được thu phí có trách
nhiệm xây dựng mức thu kèm theo đề án thu phí (gồm: phương thức đầu tư, thời
gian đầu tư hoàn thành, thời gian đưa dự án đầu tư vào sử dụng, thời gian dự kiến
bắt đầu thu phí, dự kiến mức thu và căn cứ xây dựng mức thu, đánh giá khả năng
đóng góp của đối tượng nộp phí, hiệu quả thu phí và khả năng thu hồi vốn) để trình
cơ quan có thẩm quyền quy định về phí (Chính phủ, Bộ Tài chính hoặc Hội đồng
nhân dân cấp tỉnh) xem xét, quyết định.
Mức thu phí trước khi trình cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc sửa đổi,
bổ sung cần có ý kiến của cơ quan tài chính cùng cấp, trừ trường hợp cơ quan xây
dựng mức thu là cơ quan tài chính. Ý kiến bằng văn bản của cơ quan tài chính phải
được gửi kèm trong hồ sơ và là một căn cứ pháp lý để cơ quan có thẩm quyền quy
định về phí xem xét, quyết định. Việc quy định mức thu phí phải căn cứ vào chủ
trương chính sách của Nhà nước; tình hình kinh tế – chính trị – xã hội và đặc điểm
của các vùng trong từng thời kỳ; tính chất, đặc điểm của từng dịch vụ thu phí, có
tham khảo mức thu loại phí tương ứng ở các nước trong khu vực và thế giới (nếu có).
* Đối với lệ phí
Việc phân cấp thẩm quyền quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử
dụng đối với lệ phí như sau:
– Chính phủ quy định đối với một số lệ phí quan trọng, có số thu lớn, có ý
nghĩa pháp lý quốc tế;

– Bộ Tài chính quy định đối với những lệ phí còn lại.
Mức thu lệ phí được ấn định trước bằng một số tiền nhất định đối với từng
công việc quản lý nhà nước được thu lệ phí, không nhằm mục đích bù đắp chi phí
để thực hiện công việc thu lệ phí. Riêng đối với lệ phí trước bạ, mức thu được tính
bằng tỷ lệ phần trăm (%) trên giá trị tài sản trước bạ theo quy định của Chính phủ.
Bộ Tài chính hướng dẫn việc xác định mức thu đối với những lệ phí thuộc

15


thẩm quyền của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định, để bảo đảm việc thi hành
thống nhất trong cả nước
c. Các khoản thu khác ngoài thuế, phí, lệ phí.
Các khoản thu từ bán tài sản của nhà nước và thu từ lợi tức cổ phần của nhà nước
Để quản lý và điều tiết các hoạt động kinh tế xã hội, Chính phủ tham gia vào
các hoạt động kinh tế ở những mức độ nhất định như đầu tư, tài trợ, góp vốn…Việc
nhà nước tham gia vào các hoạt động đó có thể phát sinh các khoản thu từ lợi tức cổ
phần, thu hồi vốn của nhà nước đầu tư vào các cơ sở kinh tế. Khoản thu về sử dụng
vốn ngân sách Nhà nước là một khoản thu vào yếu tố sản xuất, kinh doanh tính trên
số vốn ngân sách Nhà nước cấp và có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước bao gồm
cả vốn cố định và vốn lưu động. Ngoài ra, nhà nước có thể cho thuê hoặc bán các tài
sản của nhà nước. Tiền bán hoặc cho thuê công sản là khoản thu thuộc về ngân sách
nhà nước Chế độ thu về sử dụng vốn ngân sách Nhà nước:
Chế độ thu ngân sách Nhà nước về vay nợ
– Vay trong nước. Các khoản vay trong nước đều được thực hiện thông qua
việc Chính phủ phát hành các loại giấy tờ có giá như trái phiếu, công trái, trái phiếu
kho bạc, tín phiếu kho bạc. Toàn bộ nguồn vốn thu được từ việc phát hành các loại giấy
tờ có giá đều phải được tập trung vào ngân sách nhà nước để sử dụng cho các nhu cầu
chi đầu tư phát triển kinh tế theo kế hoạch và mục tiêu đã được Chính phủ đề ra.
– Vay nước ngoài. Đó là các khoản vay do Chính phủ vay và cam kết thực

hiện nghĩa vụ với nước ngoài. Đó cũng có thể là những khoản vay do Chính phủ uỷ
quyền cho các doanh nghiệp vay được Bộ Tài chính hoặc Ngân hàng nhà nước Việt
Nam đứng ra bảo lãnh. Toàn bộ vốn vay nước ngoài của Chính phủ đều phải được
cân đối vào ghi vào ngân sách.
Các khoản viện trợ:
Viện trợ là nguồn vốn thuộc chương trình hợp tác của chính phủ các nước,
các tổ chức nước ngoài dành cho 1 quốc gia. Viện trợ nước ngoài là nguồn quan
trọng để bổ sung cho ngân sách nhà nước, góp phần hỗ trợ nhà nước thực hiện các
khoản chi phát triển, cải cách kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống của người dân.

16


Viện trợ có thể là song phương hoặc đa phương. Viện trợ có thể dưới hình
thức có hoàn lại hoặc không hoàn lại. Thông thường, các khoản viện trợ có hoàn lại
sẽ được thể hiện dưới dạng cho vay ưu đãi, lãi suất thấp, thời hạn hoàn trả gốc dài
và có thể được ân hạn. Ngoài ra, thu ngân sách nhà nước còn có thể bao gồm các
khoản đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
1.2.3. Chủ thể quan hệ pháp luật thu ngân sách nhà nước
Các chủ thể có trách nhiệm thu ngân sách là hải quan, cơ quan thuế và Cơ
quan tài chính và các cơ quan khác.
*Các chủ thể có trách nhiệm thu ngân sách:
Hải quan: Là cơ quan có trách nhiệm thu thuế xuất khẩu, nhập khẩu, thuế
VAT đối với hàng nhập khẩu, thế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng nhập khẩu và các
khoản thu khác thuộc phạm vi qui định của pháp luật.
Cơ quan thuế: Có trách nhiệm thu thuế, phí, lệ phí, và các khoản thu khác
theo quy định của pháp luật trừ các khoản thuế mà hải quan đã thu.
Cơ quan tài chính và các cơ quan khác: sẽ tiến hành thu các khoản thu còn
lại cho ngân sách nhà nước theo sự cho phép của Chính phủ hay được Bộ tài chính
ủy quyền ( Tòa án thu án phí, Bệnh viện thu viện phí, Phòng công chứng thu phí

công chứng).
*Các chủ thể đóng góp vào ngân sách nhà nước: Các chủ thể có nghĩa vụ tài
chính đối với nhà nước
*Các phương thức thu ngân sách nhà nước:
Thu trực tiếp vào Kho bạc Nhà nước:
Đối tượng áp dụng: Tổ chức, cá nhân có địa điểm kinh doanh cố định, những
đối tượng mà có thể quản lý được trên giấy tờ.
Quy trình thu:
– Cơ quan thu sẽ gởi thông báo thu đến đối tượng nộp. Thông báo nêu rõ ai
nộp, lý do, số tiền, thời gian nộp.
– Dựa trên thông báo của cơ quan thu, đối tượng nộp đến nộp trực tiếp tại
Kho bạc Nhà nước theo yêu cầu. Kho bạc Nhà nước sau khi thu đủ tiền phải giao 2

17


biên lai thu tiền cho đối tượng nộp.
– Đối tượng nộp lại 1 biên lai cho cơ quan thu và tự quản lý biên lai còn lại
để chứng minh việc hoàn thành nghĩa vụ của mình.
Thu thông qua cơ quan thu:
Đối tượng áp dụng: Đối tượng không có địa điểm kinh doanh cố định, hộ tiểu
thương có mức thu nhập nhỏ, đến thu thuế sử dụng đất nông nghiệp, lệ phí Môn bài,
các khoản thu khác ở các địa bàn cửa khẩu, nơi không tổ chức được điểm thu của
Kho bạc Nhà nước.
Quy trình thu:
– Thông báo như trên
– Đối tượng nộp theo thông báo thu sẽ đến nộp tiền trực tiếp tại cơ quan thu.
Cơ quan thu có nghĩa vụ bố trí cán bộ thu. Sau khi thu tiền mặt cán bộ thu có nghĩa
vụ xuất biên lai cho đối tượng nộp.
– Cơ quan thu có nghĩa vụ nộp toàn bộ số tiền mặt thu được cho Kho bạc

Nhà nước.
1.2.4. Nguyên tắc quản lý thu ngân sách nhà nước
Nguyên tắc quản lý thu ngân sách nhà nước được quy định tại Điều 3 Thông
tư 328/2016/TT-BTC hướng dẫn thu và quản lý các khoản thu ngân sách nhà nước
qua Kho bạc Nhà nước do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành, cụ thể như sau:
Việc tổ chức thu NSNN được thực hiện theo quy định của Luật NSNN, Luật
Quản lý thuế và quy định khác của pháp luật về thu NSNN. Mọi cơ quan, tổ chức,
đơn vị, cá nhân, kể cả các tổ chức và cá nhân nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nghĩa vụ chấp hành nộp đầy đủ, đúng
hạn các khoản thuế, phí, lệ phí và các khoản phải nộp khác vào NSNN qua tài
khoản của KBNN tại NHTM hoặc nộp trực tiếp vào KBNN theo đúng quy định
hiện hành của pháp luật; trường hợp không nộp hoặc chậm nộp mà không được
pháp luật cho phép thì bị xử lý theo quy định hiện hành của pháp luật.
Về nguyên tắc, các khoản thu NSNN phải được nộp qua ngân hàng hoặc nộp
trực tiếp tại KBNN. Trường hợp ở những địa bàn có khó khăn trong việc nộp qua

18


×