Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Luận văn thạc sĩ: Phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (871.71 KB, 75 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ĐỨC TIẾN

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM
SỬ DỤNG CÔNG NGHỆ CAO TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ĐỨC TIẾN

PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM
SỬ DỤNG CÔNG NGHỆ CAO TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

Chuyên ngành : Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm
Mã số

: 8 38 01 05

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. PHẠM VĂN TỈNH


HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
Thạc sĩ Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm về “Phòng ngừa tình hình tội
phạm sử dụng công nghệ cao trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế” là hoàn toàn
trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Tác giả

Nguyễn Đức Tiến


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH
TỘI PHẠM SỬ DỤNG CÔNG NGHỆ CAO .........................................................8
1.1. Khái niệm phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao .....................8
1.2. Ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao ................12
1.3. Các nguyên tắc và chủ thể phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng CNC ........13
1.4. Mục đích, nội dung và các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng
công nghệ cao ............................................................................................................19
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM SỬ
DỤNG CÔNG NGHỆ CAO TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ ......23
2.1. Thực trạng nhận thức về ý nghĩa, mục đích, nguyên tắc, nội dung phòng ngừa
tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai
đoạn 2014-2018 .........................................................................................................23

2.2. Thực trạng các cơ sở để thiết lập hệ thống phòng ngừa tình hình tội phạm sử
dụng công nghệ cao trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 2014-2018 ..........25
2.3. Thực trạng các giải pháp và áp dụng các giải pháp phòng ngừa tình hình tội
phạm sử dụng công nghệ cao trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn 20142018 ...........................................................................................................................40
CHƯƠNG 3. TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM SỬ
DỤNG CÔNG NGHỆ CAO TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ ......47
3.1. Tăng cường nhận thức về ý nghĩa, mục đích, các nguyên tắc, nội dung phòng
ngừa tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế 47
3.2. Hoàn thiện các giải pháp và tổ chức phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng
công nghệ cao trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế .....................................................53
3.3. Tăng cường nguồn lực phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao
trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế .............................................................................60
KẾT LUẬN ..............................................................................................................64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

CNC

: Công nghệ cao


TTHS

: Tố tụng hình sự

TAND

: Tòa án nhân dân

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Số hiệu

Tên bảng

Trang

bảng
Mức độ tổng quan tuyệt đối của tình hình tội phạm sử dụng
2.1

CNC trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế gia đoạn từ năm 2014

26

– 2018
2.2


Tỷ lệ tội phạm sử dụng CNC thực hiện trong tình hình tội phạm
trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn từ năm 2014 – 2018

26

Mức độ phạm tội đối với các tội danh thuộc nhóm tội phạm
2.3

sử dụng CNC trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế giai đoạn từ

27

năm 2014 – 2018
2.4

2.5

Diễn biến của các tội phạm sử dụng CNC trên địa bàn tỉnh
Thừa Thiên Huế giai đoạn từ năm 2014 – 2018
Diễn biến của tội phạm sử dụng CNC trên địa bàn tỉnh Thừa
Thiên Huế giai đoạn từ năm 2014 – 2018 trong so sánh liên kế

28

29

Cơ cấu xét theo hình phạt ở cấp sơ thẩm áp dụng đối với tội
2.6


phạm sử dụng CNC trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai

31

đoạn từ năm 2014 – 2018
2.7

Cơ cấu xét theo giới tính của tội phạm sử dụng CNC trên địa
bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn từ năm 2014 – 2018

31

Cơ cấu xét theo độ tuổi người phạm tội tội phạm sử dụng
2.8

CNC trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn từ năm

32

2014 – 2018
Cơ cấu xét theo trình độ học vấn của người phạm tội phạm sử
2.9

dụng CNC trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn từ
năm 2014 – 2018

33


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Thừa Thiên Huế là một tỉnh ven biển Bắc Trung Bộ, Việt Nam. Thừa Thiên
Huế giáp tỉnh Quảng Trị về phía Bắc, biển Đông về phía Đông, thành phố Đà Nẵng
về phía Đông Nam, tỉnh Quảng Nam về phía Nam, dãy Trường Sơn và các tỉnh
Saravane và Sekong của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào về phía Tây. Thừa Thiên
Huế có diện tích phần đất liền 5025,30 km2, hiện có 9 đơn vị hành chính trực
thuộc. Dân số là 1.154.310 người, với mật độ dân số trung bình là 230 người/km2
(2017), với 5 dân tộc sinh sống trong đó có 4 tộc người thiểu số cư trú lâu đời (dân
tộc Bru-Vân Kiều, dân tộc Cơ tu, dân tộc Tà Ôi, dân tộc Pa Kôh) và có 4 tôn giáo
(Phật giáo, Công giáo, Tin lành và Cao đài) trên địa bàn.
Thừa Thiên Huế là một trong những trung tâm văn hoá, du lịch, trung tâm
giáo dục đào tạo, y tế lớn của cả nước và là cực phát triển kinh tế quan trọng của
vùng kinh tế trọng điểm miền Trung – Tây Nguyên. Đây là nơi thường diễn ra nhiều
sự kiện chính trị quan trọng và tổ chức các lễ hội lớn của đất nước. Trong những
năm qua, xu thế toàn cầu hóa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và tiếp tục đổi mới
để phát triển đã tạo cho tỉnh Thừa Thiên Huế có nhiều bước chuyển biến đáng kể,
cơ cấu kinh tế dần thay đổi theo hướng giảm nông nghiệp, tăng dịch vụ và công
nghiệp; tình hình dân trí, ý thức chấp hành pháp luật nói riêng của người dân cũng
được nâng cao rõ rệt.
Bên cạnh những mặt mạnh đã đạt được trong việc thực hiện chính sách phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội thì tình hình tội phạm, vi phạm pháp luật và các hiện
tượng tiêu cực khác đang diễn biến theo chiều hướng phức tạp. Đáng chú ý là tội
phạm sử dụng CNC ngày càng gia tăng, phương thức thủ đoạn gây án ngày càng
tinh vi, gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản Nhà nước, tài sản của công dân, ảnh
hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội tại địa phương.
Theo báo cáo của TAND tỉnh Thừa Thiên Huế, trong thời gian 5 năm từ năm
2014 đến năm 2018 trên địa bàn tỉnh xảy ra 141 vụ với 213 bị cáo, với thủ đoạn chủ

1



yếu sử dụng máy tính, mạng internet, điện thọai di động… để thực hiện hành vi
trộm cắp, lừa đảo, cưỡng đoạt tài sản; đánh bạc; tuyên truyền văn hóa phẩm phản
động, đồi trụy, đưa thông tin sai lệnh làm nhục người khác…đã gây thiệt hại hàng
trăm tỷ cho các cơ quan, doanh nghiệp và các cá nhân trên địa bàn.
Chính vì vậy trong những năm qua, xác định được sự nguy hiểm của tội
phạm nói chung và tội phạm sử dụng CNC nói riêng. Tỉnh ủy, UBND tỉnh Thừa
Thiên Huế đã chỉ đạo và thực hiện có hiệu quả các văn bản của Đảng, Nhà nước
trong đấu tranh phòng chống tội phạm như: Thực hiện Chỉ thị số 48 CT/TW ngày
22/10/2010 của Bộ chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
phòng, chống tội phạm trong tình hình mới”, Quyết định số 1217/2012/QĐ-TTg
ngày 06/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình quốc gia
phòng chống tội phạm giai đoạn 2012 – 2015 và Quyết định số 623/2012/QĐ-TTg
ngày 14/4/2016 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình quốc gia
phòng chống tội phạm giai đoạn 2016 – 2025 và định hướng đến năm 2030; Chỉ thị
số 897/CT-TTg ngày 10/6/2011 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường triển khai
các hoạt động đảm bảo an toàn thông tin số. Tỉnh ủy ban hành kế hoạch số 06
KH/TU ngày 26/11/2010 của Ban thường vụ Tỉnh ủy về tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới; kế hoạch số
18/KH-TU ngày 7/9/2016 về triển khai thực hiện kết luận 05-KL/TW của Ban Bí
thư về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chỉ thị 48 CT/TW của Bộ Chính trị về “Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình
mới” và UBND tỉnh ban hành kế hoạch số 17/ KH-UBND ngày 8/3/2011 về thực
hiện chương trình, mục tiêu quốc gia phòng chống tội phạm giai đoạn 2011 đến
2015; ban hành kế hoạch số 148/KH-UBND ngày 30/6/2017 của UBND tỉnh Thừa
Thiên Huế về thực hiện Chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016
- 2025 và định hướng đến năm 2030.
Những văn bản chỉ đạo của Đảng và Nhà nước đối với công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm nói trên, là cơ sở quan trọng để các cơ quan chức năng và các
nhà nghiên cứu tội phạm học trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế có chỗ dựa vững chắc


2


về mặt tư tưởng về THTP, về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm và hệ
thống các biện pháp phòng ngừa nói chung và tội phạm sử dụng CNC nói riêng. Tuy
nhiên, những giải pháp của Đảng ủy, UBND và các cơ quan chức năng tỉnh Thừa
Thiên Huế áp dụng thời gian qua vẫn còn trên tinh thần đấu tranh phòng chống
chung với các loại tội phạm, chưa có văn bản, giải pháp cụ thể cho việc phòng ngừa
các tội phạm sử dụng CNC hoặc nếu có thì cũng chưa cụ thể và thật sự phù hợp với
sự phát triển hiện nay của khoa học về phòng ngừa tội phạm. Vì vậy, việc tìm ra các
giải pháp phòng ngừa thật sự hiệu quả và phù hợp đối với các tội phạm sử dụng
CNC trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế là vấn đề quan trọng cấp thiết. Chính vì thế,
tác giả đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng
công nghệ cao trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế” làm đề tài nghiên cứu Thạc sĩ
Luật học, chuyên ngành Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu lý luận chung về phòng ngừa tội phạm
Để có cơ sở lý luận cho việc thực hiện đề tài Luận văn, các công trình khoa
học sau đây đã được tham khảo:
- “Tội phạm học, Luật Hình sự và Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam” Nxb.
Chính trị quốc gia, 1994;
- “Tội phạm học Việt Nam-Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Viện Nhà
nước và Pháp luật, Nxb. Công an nhân dân, năm 2000;
- “Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm” - Sách chuyên khảo của
GS.TS Nguyễn Xuân Yêm, Nxb Công an nhân dân, năm 2001;
- Giáo trình “Tội phạm học” của GS.TS. Võ Khánh Vinh, Nxb. Công an
nhân dân, tái bản năm 2013;
- Giáo trình “Tội phạm học” của trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an
nhân dân, 2004…2010;

- Giáo trình “Tội phạm học” của Học viện Cảnh sát nhân dân, Nxb. Công an
nhân dân, 2002, 2013;
- “Một số vấn đề lý luận về THTP ở Việt Nam” của TS. Phạm Văn Tỉnh,

3


Nxb. Công an nhân dân, 2007;
- Đấu tranh với tình hình tội phạm chống người thi hành công vụ ở nước ta
hiện nay, một mô hình nghiên cứu tội phạm học chuyên ngành, Phạm Văn Tỉnh,
Đào Bá Sơn, Nxb. CAND, 2010;
- “Một số vấn đề tội phạm học Việt Nam” của Nguyễn Văn Cảnh và Phạm
Văn Tỉnh, do Học viện Cảnh sát nhân dân, Bộ Công an ấn hành năm 2013.
2.2. Tình hình nghiên cứu cụ thể có liên quan đến đề tài luận văn
- Đỗ Trí Tuệ (2010), Đấu tranh phòng, chống các tội sử dụng CNC qua
mạng máy tính ở Việt nam hiện nay, Luận văn thạc sỹ luật học tại cơ sở HVKHXH.
- Trần Văn Yên (2015), Tội phạm có sử dụng CNC trên địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh: tình hình, nguyên nhân, giải pháp phòng ngừa, Luận văn thạc sỹ luật
học tại cơ sở HVKHXH.
- Trần Thanh Bình (2015), Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông,
mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh
Bình Dương: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận văn thạc sỹ
luật học tại cơ sở HVKHXH.
- Nguyễn Thành Trung (2013), Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn
thông, mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng, chống,
Luận văn thạc sỹ luật học tại cơ sở HVKHXH.
- Trịnh Tiến Việt (2006), Tình hình tội phạm tin học trên thế giới, kinh
nghiệm đấu tranh phòng chống và vấn đề tiếp thu vào Việt Nam, TC Tòa án Nhân
Dân, số 7, tr.39-48;

- Lê Đăng Doanh (2006), Về định tội danh đối với hành vi làm, sử dụng thẻ
tín dụng giả hay các loại thẻ khác để mua hàng hóa hoặc rút tiền tại máy trả tiền tự
động của các ngân hàng, TC Tòa án Nhân Dân, số 6;
- Lê Đăng Doanh(2006), Thực trạng THTP lừa đảo chiếm đoạt tài sản có sử
dụng CNC và một số giải pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm này ở Việt Nam
trong điều kiện hội nhập WTO, TC Tòa án Nhân Dân, số tháng 12;

4


- Phạm Văn Lợi (2007), Tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, Nxb.
Tư pháp, Hà nội;
- Dự án hỗ trợ thể chế cho Việt Nam:“Tội phạm mạng và những vấn đề liên
quan”, Prorecct: VNM/B7/3010/2004/4339, Hà Nội 2009;
- Mai Anh Thông, Cao Anh Đức và Nguyễn Việt Dũng (2010), Một số lý
luận, thực tiễn và giải pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm liên quan đến sử
dụng CNC, Hội đồng khoa học VKSNDTC năm 2010;
- Cao Anh Đức (2015), Tội phạm có sử dụng CNC tại Việt Nam: Tình hình,
nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận văn thạc sĩ luật học, HVKHXH)
- PGS.TS Nguyễn Hòa Bình (2008): Tội phạm sử dụng CNC ở Việt Nam,
thực trạng và giải pháp phòng ngừa, đấu tranh của lực lượng Cảnh sát, đề tài khoa
học cấp Bộ.
- Nguyễn Ngọc Minh (2008): Đặc điểm hình sự tội phạm sử dụng CNC và
giải pháp nâng cao hiệu quả điều tra, luận văn thạc sĩ Luật học.
- Nguyễn Văn Tửng (2009), “Hoạt động phòng ngừa và điều tra tội phạm sử
dụng CNC của CA Thành Phồ Hồ Chí Minh”, luận văn thạc sĩ Luật học.
- TS. Hồ Thế Hòe, Giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh với tội phạm sử
dụng CNC trong bối cảnh toàn cầu hóa, (Cổng thông tin
điện tử Bộ Tư pháp).
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Tên của đề tài luận văn này đã cho biết mục đích nghiên cứu, tức là tìm ra
các giải pháp nhằm tăng cường và hoàn thiện hệ thống các biện pháp phòng ngừa
tội phạm sử dụng CNC trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, xác định mô hình lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng
CNC, tức là phải làm rõ những nội dung phải có của phòng ngừa tình hình tội phạm
sử dụng CNC trên cơ sở những tài liệu hiện có;
Thứ hai, đánh giá thực trạng hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng

5


CNC trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế theo mô hình đã được xác định;
Thứ ba, làm rõ những hạn chế, thiếu sót của hiện trạng phòng ngừa tình hình
tội phạm sử dụng CNC trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế;
Thứ tư, đề xuất các giải pháp tăng cường và hoàn thiện hệ thống các biện pháp
phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng CNC trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là quy luật của sự phạm tội sử dụng
CNC trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, tức là tìm ra các mối liên hệ phụ thuộc giữa
tình hình tội phạm sử dụng CNC (2014 – 2018) và các hiện tượng, các quá trình
kinh tế-xã hội-văn hóa …khác trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế. Để làm được
công việc khó khăn này, ngoài số liệu thống kê thường xuyên của ngành Tòa án, tác
giả luận văn còn sử dụng 100 các bản án xét xử sơ thẩm hình sự của TAND tỉnh
Thừa Thiên Huế giai đoạn 2014 – 2018.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn được nghiên cứu dưới góc độ Tội phạm học thuộc
chuyên ngành Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm;

- Về tội danh: Luận văn nghiên cứu các tội phạm trong lĩnh vực công nghệ
thông tin, mạng viễn thông (từ điểu 285 đến 294 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung
2017) và tội phạm sử dụng máy tính, thiết bị số, mạng máy tính, mạng viễn thông
làm công cụ, phương tiện phạm tội.
- Về không gian: Đề tài nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế;
- Về thời gian: Đề tài nghiên cứu phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng
CNC trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật
biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và hệ thống các quan điểm của Đảng và nhà nước về phòng ngừa tội phạm.

6


5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành việc nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể như:
- Phương pháp hệ thống;
- Phương pháp biện chứng;
- Phương pháp thống kê;
- Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh;
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm;
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Về mặt lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ hơn lý
luận tội phạm học về phòng ngừa tình hình tội phạm bằng cách áp dụng nó vào một
địa bàn cấp tỉnh, cụ thể là tỉnh Thừa Thiên Huế, đối với một nhóm tội cụ thể là
nhóm tội phạm sử dụng CNC. Kết quả này có thể được sử dụng làm tài liệu cho
nghiên cứu khoa học và đào tạo.

Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham mưu, tư
vấn cho hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng CNC trên địa bàn tỉnh
Thừa Thiên Huế trong thời gian tới. Đồng thời, kết quả này cũng có giá trị như một
tài liệu giúp cá nhân, cơ quan, tổ chức tham khảo để vận dụng vào việc tuyên
truyền, giáo dục nâng cao trình độ nhận thức cho quần chúng nhân dân và vận dụng
trong công tác điều tra, truy tố, xét xử tội phạm sử dụng CNC.
7. Cơ cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn có
ba chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng
công nghệ cao
Chương 2: Thực trạng phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao
trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế
Chương 3: Tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao
trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế

7


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM
SỬ DỤNG CÔNG NGHỆ CAO

1.1. Khái niệm phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao
1.1.1. Khái niệm tội phạm sử dụng công nghệ cao
Hiện có nhiều khái niệm bàn về đến tội phạm sử dụng CNC như: tội phạm
CNC tội phạm máy tính; tội phạm liên quan đến máy tính; tội phạm mạng; tội phạm
có sử dụng CNC… Nghiên cứu định nghĩa các khái niêm trên có thể thấy điểm
chung trong nội hàm của các khái niệm này đều chỉ các hành vi liên quan đến việc
sử dụng máy tính, thiết bị số, khai thác mạng máy tính, mạng viễn thông để gây

thiệt hại cho lợi ích của các tổ chức, cá nhân và toàn xã hội.
Tại Việt Nam, theo Khoản 1 điều 3 Nghị định số 25/2014/NĐ-CP của Chính
phủ ngày 07 tháng 4 năm 2014 quy định: “Tội phạm có sử dụng công nghệ cao là
hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS có sử dụng công nghệ
cao”. Theo khoản 1 điều 3 của Luật CNC năm 2008 quy định: Công nghệ cao là
công nghệ có hàm lượng cao về nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; được
tích hợp từ thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại; tạo ra sản phẩm có chất
lượng, tính năng vượt trội, giá trị gia tăng cao, thân thiện với môi trường; có vai trò
quan trọng đối với việc hình thành ngành sản xuất, dịch vụ mới hoặc hiện đại hóa
ngành sản xuất, dịch vụ hiện có.
Hiện nay theo các chuyên gia về tội phạm học thì tội phạm sử dụng CNC bao
gồm hai loại:
Thứ nhất là tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông (
quy định từ điểu 285 đến 294 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung 2017).
Đây là nhóm tội phạm sử dụng CNC thuần tuý xâm phạm an toàn thông tin. Các
hành vi phạm tội thuộc nhóm này tác động trực tiếp đến hệ thống thông tin, làm cản
trở, gây rối loạn hoạt động của máy tính, thiết bị số, mạng thông tin, mạng viễn
thông.

8


Thứ hai là tội phạm sử dụng máy tính, thiết bị số, mạng máy tính, mạng viễn
thông làm công cụ, phương tiện phạm tội.
Nhóm tội phạm CNC này gồm các tội phạm được quy định trong BLHS
nhưng được thực hiện với phương thức mới, tức sử dụng công nghệ thông tin để
thực hiện tội phạm. Các hành vi phạm tội thuộc nhóm này xâm phạm đến trật tự an
toàn thông tin ở khía cạnh tác động đến lợi ích của Nhà nước, quyền và các lợi ích
hợp pháp của các tổ chức, cá nhân như: quyền sở hữu tài sản, danh dự, nhân phẩm
con người, sở hữu trí tuệ, trật tự xã hội... trong quá trình phát triển, khai thác, ứng

dụng công nghệ thông tin. Việc xác định nhóm tội phạm này thuộc tội phạm sử
dụng CNC là vì với việc sử dụng công nghệ thông tin, tính chất của hành vi phạm
tội đã thay đổi hoàn toàn hoặc về cơ bản đến mức cần coi chúng là những tội phạm
mới. Mặt khác, các hành vi này phải có quan hệ mật thiết, khai thác kết quả của các
tội phạm thuộc nhóm thuần tuý xâm phạm trật tự an toàn thông tin.
Kế thừa những quan điểm đã nghiên cứu và từ những phân tích nêu trên, có
thể hiểu: Tội phạm sử dụng CNC là tội phạm sử dụng tri thức, kỹ năng, công cụ,
phương tiện công nghệ cao tác động trái pháp luật đến thông tin, dữ liệu, tín hiệu
được lưu trữ, xử lý, truyền tải trong hệ thống mạng máy tính, mạng viễn thông, thiết
bị số, xâm phạm đến trật tự an toàn thông tin, gây tổn hại lợi ích của Nhà nước,
quyền và các lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân.
Tội phạm là một thể thống nhất giữa các yếu tố khách quan và chủ quan không
tách rời nhau bao gồm khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ
thể của tội phạm, mặt chủ quan của tội phạm. Do vậy cần phải nhận thức đầy đủ các
dấu hiệu đặc trưng cho bốn yếu tố nói trên. Đối với tội phạm sử dụng CNC, cụ thể
như sau:
- Khách thể của các tội phạm sử dụng CNC
Tội phạm sử dụng CNC xâm phạm vào các quy định của Nhà nước trên lĩnh
vực trật tự an toàn thông tin, mạng viễn thông.
- Khách quan của tội phạm sử dụng CNC
Tội phạm sử dụng CNC là những hành vi được xác định là tội phạm theo quy

9


định của BLHS. Một hành vi chỉ được coi là tội phạm khi hành vi đó được quy định
trong BLHS. Vì vậy, khi xem xét một hành vi xâm phạm đến trật tự an toàn thông
tin, mạng viễn thông gây tổn hại cho xã hội có phải là tội phạm sử dụng CNC phải
xem hành vi đó có được quy định trong BLHS hay không.
Các hành vi phạm tội thuộc nhóm các tội phạm sử dụng CNC đều được thực

hiện bằng hành động. Hậu quả mà những hành vi đó gây ra, trước hết là những thiệt
hại đến trật tự an toàn thông tin, mạng viễn thông. Ngoài ra còn có thể gây thiệt hại
về tài sản, quyền và lợi ích hợp pháp khác của Nhà nước, tổ chức và công dân.
- Chủ thể của tội phạm sử dụng CNC
Về chủ thể, tội phạm sử dụng CNC có thể được thực hiện bằng bất kỳ ai có đủ
năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo quy định của BLHS. Tuy nhiên,
xuất phát từ tính chất của hành vi phạm tội, chủ thể trực tiếp thực hiện tội phạm sử
dụng CNC phải là những người có tri thức và kỹ năng cần thiết để trực tiếp khai
thác, sử dụng thiết bị, công cụ, phương tiện công nghệ hoặc trực tiếp phát triển, ứng
dụng công nghệ.
- Mặt chủ quan của tội phạm sử dụng CNC
Tội phạm sử dụng CNC được thực hiện bởi lỗi cố ý. Khi thực hiện tội phạm sử
dụng CNC, người phạm tội buộc phải ý thức rõ hành vi của mình là trái quy định
pháp luật, có thể gây hậu quả xấu cho các tổ chức, cá nhân có liên quan nhưng vẫn
thực hiện, mong muốn hoặc để mặc cho những hậu quả xấu xảy ra.
1.1.2. Khái niệm tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao dưới góc độ tội
phạm học
Tình hình tội phạm sử dụng CNC là một thuộc tính của xã hội tái sản xuất ra
các hành vi nguy hiểm đối với con người, xã hội và Nhà nước, là một hiện tượng
pháp luật – xã hội, được thay đổi về mặt lịch sử, tiêu cực, phổ biến, bao gồm tổng thể
các tội phạm sử dụng CNC được thực hiện ở một không gian và thời gian nhất định,
được đặc trưng bởi các chỉ số về lượng và chất. Tội phạm học khẳng định “Tình hình
tội phạm là một hiện tượng xã hội, pháp lý – hình sự được thay đổi về mặt lịch sử,
mang tính giai cấp bao gồm tổng thể thống nhất (hệ thống) các tội phạm thực hiện

10


trong một xã hội (quốc gia) nhất định trong một thời gian nhất định”
Khi các tội phạm sử dụng CNC xảy ra ở một địa bàn nhất định, trong một

thời gian nhất định, thì tội phạm học nhìn nhận đó là tình hình tội phạm sử dụng
CNC, tức là một hiện tượng xã hội tiêu cực phản ánh quy luật của sự phạm tội
thông qua những bản chất nhất định.
Tình hình tội phạm sử dụng CNC là rường hợp cụ thể của tình hình tội phạm
nói chung, do đó cũng có những dấu hiệu, các thuộc tính của tình hình tội phạm. Vì
vậy tình hình tội phạm sử dụng CNC trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế giai đoạn từ
2014-2018 phải được biểu hiện ở tổng thể tội phạm sử dụng CNC đã được thực hiện
trên địa bàn tỉnh trong khoảng thời gian từ năm 2014 đến năm 2018.
1.1.3. Định nghĩa khái niệm phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng CNC
Quan điểm chung trong đấu tranh chống tội phạm là tiến hành theo phương
châm nhanh chóng và kịp thời phát hiện tội phạm, không bỏ lọt tội phạm và người
phạm tội, tránh làm oan người vô tội, trừng trị và giáo dục, cải tạo người phạm tội,
hình thành thói quen phản ứng tích cực và hưởng ứng của Nhà nước và xã hội đối
với tội phạm. Vì vậy, phòng ngừa tội phạm chính là một trong những nội dung quan
trọng và chiếm một vị trí đặc biệt của lý luận về tội phạm học. Nghiên cứu về phòng
ngừa tội phạm chính là nghiên cứu cơ sở, nền tảng và xuất phát điểm để nghiên cứu
các nội dung khác trong lý luận về tội phạm học.
Bàn đến đến khái niệm phòng ngừa tình hình tội phạm, hiện nay ở Việt Nam
có hai xu hướng chính: xu hướng thứ nhất cho rằng rằng phòng ngừa tình hình tội
phạm bao gồm cả hoạt động phòng và chống tội phạm; xu hướng thứ hai cho rằng
phòng ngừa chỉ bao gồm hoạt động tác động vào nguyên nhân và điều kiện của tội
phạm nhằm ngăn ngừa trước không cho tội phạm xảy ra.
Tuy có nhiều quan điểm khác nhau về phòng ngừa tình hình tội phạm, nhưng
xét cho cùng thì phòng ngừa tình hình tội phạm trước hết phải làm sáng tỏ nguyên
nhân và điều kiện dẫn đến tình hình tội phạm, từ đó áp dụng các biện pháp nhằm
xóa bỏ nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, xóa bỏ nguồn gốc phát
sinh tội phạm. Đồng thời tiến hành quản lý, giáo dục đối với những người có điều

11



kiện, khả năng phạm tội nhằm không để họ tiếp tục thực hiện tội phạm, ngăn chặn,
hạn chế, làm yếu, làm giảm hoặc xóa bỏ tình hình tội phạm ra khỏi đời sống xã hội.
Do đó, Nhà nước cần quan tâm đến công tác phòng ngừa tình hình tội phạm nói
chung và phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng CNC nói riêng, xem đây là hoạt
động thường xuyên, có sự bảo đảm về vật chất cũng như các phương tiện pháp luật,
giáo dục, đạo đức khác.
Phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng CNC là hoạt động phòng ngừa đối
với nhóm tội phạm cụ thể, vì vậy phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng công nghệ
cao vừa có những đặc trưng riêng nhưng không tác rời phòng ngừa tình hình tội
phạm. Do đó, có thể định nghĩa: Phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng CNC là
việc áp dụng đồng bộ các biện pháp mang tính chất Nhà nước, xã hội như: biện
pháp chính trị, biện pháp kinh tế, biện pháp pháp luật…nhằm phát hiện ngăn chặn,
xóa bỏ các nguyên nhân, điều kiện làm nảy sinh tội phạm sử dụng CNC, phải phát
hiện, ngăn chặn, điều tra xử lý kịp thời khi có tội phạm sử dụng CNC xảy ra đồng
thời giáo dục kẻ phạm tội thành người có ích cho xã hội.
1.2. Ý nghĩa của phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao
1.2.1. Ý nghĩa lý luận
Dưới gốc độ tội phạm học có thể khẳng định, phòng ngừa tội phạm chính là
cái quyết định, đồng thời là mục đích của tội phạm học, để đạt được phải dựa trên cơ
sở đã hiểu rõ và xác định rõ quy luật vận động của tình hình tội phạm. Đây chính là
đối tượng nghiên cứu của tội phạm học và nó được xác định thông qua việc nghiên
cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm. Điều đó có nghĩa rằng, tội
phạm học thừa nhận tình hình tội phạm là hiện tượng xã hội tiêu cực, tồn tại khách
quan, do con người không phải bẩm sinh phạm tội gây ra. Chính vì vậy phòng ngừa
tội phạm phải hạn chế hoặc xóa bỏ được các yếu tố tiêu cực của con người ở trạng
thái tiềm tàng, cũng như từng bước đẩy lùi tội phạm khỏi đời sống xã hội.
Phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và phòng ngừa tình hình tội phạm
sử dụng CNC nói riêng là một quá trình lâu dài, đầy thử thách, khó khăn, phức tạp,
tuy nhiên xuất phát từ lý luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, của Đảng ta và


12


từ thực tiễn công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, chúng ta có thể tin tưởng sẽ
đấu tranh thắng lợi và loại trừ nó ra khỏi đời sống xã hội. Hơn nữa, phòng ngừa
không để xảy ra tội phạm còn là yêu cầu đòi hỏi của Nhà nước và mỗi công dân
nhằm đảm bảo cuộc sống hạnh phúc, bình yên.
1.2.2. Ý nghĩa thực tế
Phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng CNC góp phần thực hiện nghiêm
chỉnh và đầy đủ các Nghị quyết, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, đảm bảo tính pháp chế xã hội chủ nghĩa. Qua đó làm cơ sở vững chắc trong
công tác bảo vệ An ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Đồng thời là cơ sở
trong việc xây dựng thế trận an ninh nhân dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của
quần chúng nhân dân, các tổ chức, các đoàn thể tham gia tích cực vào phòng ngừa
tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội.
Nghiên cứu các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng CNC thể
hiện ý nghĩa thực tế trong hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và
tội phạm sử dụng CNC nói riêng. Qua đó tạo những điều kiện thuận lợi trong phòng
ngừa tình hình các loại tội phạm khác. Đặc biệt, đối với công tác điều tra, xử lý tội
phạm, làm tốt công tác phòng ngừa, vận động quần chúng nhân dân tham gia đấu
tranh, tô giác, phòng chống tội phạm, quản lý các đối tượng trong diện sưu tra, xác
minh hiềm nghi, chuyên án là điều kiện phục vụ công tác điều tra vụ án nhanh
chóng, kịp thời và đem lại hiệu quả cao.
Việc nghiên cứu phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng CNC còn tác động
tích cực đến các lĩnh vực khác trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước như
phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội, an ninh quốc phòng… Đồng thời qua đó giúp
Nhà nước nâng cao được hoạt động quản lý của mình, tăng cường hiệu quả trong
hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của các cơ quan bảo vệ pháp luật.
1.3. Các nguyên tắc và chủ thể phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng

CNC
1.3.1. Các nguyên tắc phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao
Phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng CNC là loại hoạt động thực tiễn xã hội

13


có những đặc trưng riêng, vì vậy cách thức tổ chức và hoạt động phải tuân thủ theo
nguyên tắc nhất định. Nguyên tắc này là những tư tưởng chỉ đạo toàn bộ các hoạt
động phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng CNC từ khâu xây dựng kế hoạch đến
hướng dẫn, triển khai áp dụng tới khâu đôn đốc kiểm tra. Những nguyên tắc này phản
ánh quy luật khách quan và kinh nghiệm thực tiễn của hoạt động phòng ngừa tình
hình tội phạm.Trên cơ sở phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung, phòng ngừa tình
hình tội phạm sử dụng CNC nói riêng cần đảm bảo các nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc pháp chế
Nguyên tắc này đòi hỏi phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng CNC phải
dựa trên cơ sở pháp luật, tôn trọng Hiến pháp và pháp luật. Để đảm bảo thực hiện
nguyên tắc này thì pháp luật phải quy định rõ ràng, cụ thể, minh bạch toàn bộ việc
thành lập, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu hình thức hoạt động của các chủ
thể phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng CNC. Đồng thời các chủ thể phòng
ngừa phải nghiêm chỉnh tuân thủ theo pháp luật.
- Nguyên tắc dân chủ
Dân chủ thể hiện bản chất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, đây là nguyên tắc
cơ bản trong các hoạt động của Nhà nước và xã hội. Nguyên tắc này yêu cầu các
chủ thể phòng ngừa phải bồi dưỡng và xây dựng cho quần chúng có đầy đủ ý thức
và năng lực làm chủ, tinh thần chủ động, tự giác đảm nhiệm, dám nghĩ, dám làm
trong phòng, chống tội phạm, tệ nạn xã hội và ngăn ngừa tai nạn để quần chúng
thực sự là người làm chủ trong công tác bảo vệ an ninh trật tự. Đồng thời, phải tạo
ra nhiều hình thức hoạt động thích hợp để thu hút quần chúng tham gia. Phải thực
sự tôn trọng, bảo vệ quyền làm chủ và kiên quyết đấu tranh chống mọi hành vi vi

phạm quyền làm chủ của nhân dân.
- Nguyên tắc nhân đạo
Nguyên tắc nhân đạo nhằm đảm bảo tính nhân văn, bảo vệ những quyền tối
thiểu của con người dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Nguyên tắc này thể hiện bản
chất Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân của Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Thể hiện tư tưởng vì con người của định hướng đi lên nhà

14


nước xã hội chủ nghĩa.. Đối tượng của hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm sử
dụng CNC hướng đến con người nói chung và người phạm tội phạm sử dụng CNC
nói riêng nên cần tuân thủ nguyên tắc nhân đạo.
Nguyên tắc này đòi hỏi các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm sử
dụng CNC phải luôn chú ý đến nhiều khía cạnh như độ tuổi, tình trạng sức khỏe,
hoàn cảnh gia đình để xác định biện pháp phòng ngừa phù hợp, điều đó xuất phát từ
đạo đức, truyền thống dân tộc Việt Nam.
- Nguyên tắc khoa học và tiến bộ
Phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng CNC có sự tham gia đồng bộ nhiều
chủ thể với nhiều phương tiện khoa học kỹ thuật, biện pháp, do đó đòi hỏi phải
được tiến hành một cách khoa học. Bên cạnh đó, các đối tượng thực hiện hành vi
phạm tội sử dụng CNC là những người có trình độ, hiểu biết về khoa học kỹ thuật,
chúng hoạt động ngày càng tinh vi, xảo quyệt, luôn có ý thức che giấu tội phạm, do
đó hoạt động phòng ngừa đối với loại tội phạm này phải tuân thủ nguyên tắc khoa
học và tiến bộ.
Nội dung của nguyên tắc này đòi hỏi phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng
CNC phải có cơ sở khoa học chặt chẽ và ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật
tiến bộ của nhân loại. Vì vậy, Nhà nước cần tạo điều kiện trong việc nghiên cứu
khoa học về phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng CNC và đưa vào ứng dụng
những kết quả nghiên cứu đó. Tính khoa học sẽ đảm bảo khả năng thành công, tiết

kiệm sức lực, tiền bạc và hạn chế được các rủi ro, tổn thất trong hoạt động phòng
ngừa tình hình tội phạm sử dụng CNC .
- Nguyên tắc quốc tế
Nguyên tắc quốc tế thể hiện ở chỗ các hoạt động phòng ngừa tội phạm phải
phù hợp với quan điểm của quốc tế về phòng ngừa tội phạm và xu hướng hoạt động
phòng ngừa của các nước trên thế giới, các chủ thể tiến hành phòng ngừa tội phạm
không ngừng nâng cao hợp tác quốc tế thể hiện qua việc ký kết các hiệp định hợp
tác song phương và đa phương, tổ chức học tập kinh nghiệm phòng chống tội phạm
của các nước bạn.

15


1.3.2. Các chủ thể phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao
Chủ thể phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và tội phạm sử dụng CNC
nói riêng là Đảng cộng sản Việt Nam, các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và
công dân thực hiện phòng ngừa trong phạm vi thẩm quyền của mình và chịu trách
nhiệm đối với nhiệm vụ đó, cụ thể như sau:
- Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện trong
hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao
Khoản 1, Điều 4 Hiến pháp 2013 có quy định “Đảng Cộng sản Việt Nam…
là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Sự lãnh đạo của Đảng đảm bảo cho
đường lối, chủ trương, biện pháp của công tác phòng ngừa luôn đúng đắn, sáng tạo
và phù hợp với mọi giai đoạn cách mạng. Đảng lãnh đạo mới huy động được sức
mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống chính trị, của toàn xã hội vào phòng ngừa tình
hình tội phạm nói chung và tình hình tội phạm sử dụng CNC nói riêng.
Đảng lãnh đạo trực tiếp hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng
CNC thể hiện ở nội dung: Đảng đề ra đường lối, chính sách và phương pháp phòng
ngừa, ban hành những Chỉ thị, Nghị quyết về công tác phòng ngừa. Trực tiếp lãnh
đạo Nhà nước thể chế hóa Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng thành những quy định của

pháp luật về công tác phòng ngừa. Trực tiếp kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường
lối, chính sách về hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm. Đảng lãnh đạo tuyệt
đối yêu cầu các công tác nghiệp vụ chuyên môn phải tuyệt đối phục tùng đường lối
chính trị của Đảng, nếu công tác nghiệp vụ chuyên môn tách rời sự lãnh đạo của
Đảng, theo tư tưởng chuyên môn thuần túy sẽ dẫn đến mất phương hướng, thậm chí
phạm sai lầm nghiêm trọng. Đảng lãnh đạo toàn diện thể hiện ở nội dung Đảng lãnh
đạo cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và các hoạt động phòng ngừa tình hình tội
phạm nói chung và tình hình tội phạm sử dụng CNC nói riêng.
- Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là chủ thể quản lý về mặt quyền
lực Nhà nước trong hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng CNC
Trong bối cảnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tất cả mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội đều được đặt dưới sự quản lý thống nhất của Nhà

16


nước, việc tăng cường sự quản lý của nhà nước trên lĩnh vực phòng ngừa tình hình
tội phạm là một mặt hết sức cơ bản và quan trọng trong đường lối của Đảng. Có
tăng cường sự quản lý của nhà nước mới phát huy được quyền làm chủ của nhân
dân lao động và thể hiện đầy đủ sự lãnh đạo của Đảng về nhiều mặt, trong đó có
vấn đề phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và phòng ngừa tình hình tội phạm
sử dụng CNC nói riêng.
Với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của cả nước và ở từng
địa phương, Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là nơi thể hiện ý chí của nhà
nước và của nhân dân, vì vậy Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp có vai trò đặc
biệt quan trọng trong phòng ngừa tình hình tội phạm trong đó có phòng ngừa tình
hình tội phạm sử dụng CNC. Vai trò của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp
trong phòng ngừa tình hình tội phạm được thể hiện trên các khía cạnh sau: Ban
hành các đạo luật, các nghị quyết, các văn bản pháp lý làm cơ sở và tạo điều kiện
cho các cơ quan, ban ngành và mọi công dân thực hiện tốt hoạt động phòng ngừa

tình hình tội phạm; thành lập các ủy ban, các tiểu ban giúp Quốc hội soạn thảo, ban
hành các văn bản pháp luật để quản lý xã hội, phòng ngừa tình hình tội phạm; giám
sát chặt chẽ việc tuân thủ pháp luật trong đấu tranh phòng, chống tội phạm của các
cơ quan, tổ chức, cá nhân.
- Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp là chủ thể quản lý chung trong hoạt
động phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng CNC
Trong phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và phòng ngừa tình hình tội
phạm sử dụng CNC nói riêng, Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp là cơ quan
quản lý, tổ chức và điều hành, phối hợp, đảm bảo các điều kiện cần thiết cho hoạt
động phòng ngừa: Cụ thể hóa các chỉ thị, nghị quết của Đảng bằng các văn bản có
tính pháp quy hướng dẫn, tổ chức các chủ thể phòng ngừa tình hình tội phạm; sử
dụng các cơ quan chuyên trách trực thuộc phạm vi quản lý (như Công an, Quân đội,
thanh tra) để tiến hành hoạt động phòng ngừa tình hình tội phạm; phối hợp điều
hành đồng bộ hoạt động giữa các chủ thể khác nhau thuộc thẩm quyền quản lý
nhằm hướng tập trung các lực lượng này theo một kế hoạch thống nhất; đảm bảo về

17


cơ sở vật chất (ngân sách, phương tiện, điều kiện làm việc…) cho hoạt động phòng
ngừa tình hình tội phạm; thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động phòng ngừa tình
hình tội phạm của các cơ quan, ban ngành thuộc thẩm quyền quản lý; có các hình
thức, biện pháp nhằm động viên, khuyến khích, huy động sức mạnh của toàn dân
tham gia đấu trah phòng, chống tội phạm.
- Các cơ quan quản lý hành chính nhà nước
Các cơ quan này với tư cách là chủ thể trực tiếp tham gia hoạt động phòng
ngừa tình hình tội phạm trong đó có phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng CNC,
các cơ quan quản lý hành chính nhà nước tùy vào chức năng, nhiệm vụ của mình có
trách nhiệm tiến hành hoạt động triển khai, thi hành pháp luật phòng ngừa tình hình
tội phạm sử dụng CNC trong phạm vi toàn quốc hay trong từng địa phương nhất

định, nhằm hạn chế các nguyên nhân, điều kiện phát sinh tội tội phạm sử dụng CNC
trong lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý; xây dựng các phương án phòng ngừa, các
tổ chức phòng ngừa tình hình tội phạm mang tính chất quần chúng, bán chuyên
trách trong cơ quan; tổ chức và sử dụng có hiệu quả lực lượng này trong phòng,
chống tội phạm; cung cấp thông tin, phối hợp hoặc thực hiện yêu cầu của cơ quan
bảo vệ pháp luật để thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa tình hình tội phạm. Bên cạnh
đó, các cơ quan hành chính nhà nước còn tham mưu, đóng góp ý kiến hoàn thiện hệ
thống pháp luật về phòng ngừa tình hình tội phạm thuộc lĩnh vực phụ trách; phối
hợp tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia phong trào toàn dân bảo vệ an ninh
Tổ quốc.
- Các cơ quan bảo vệ pháp luật là lực lượng nòng cốt, xung kích trong hoạt
động phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng CNC
Các cơ quan bảo vệ pháp luật gồm Công an, Viện kiểm sát, Tòa án. Đây là
chủ thể có vai trò quan trong phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng CNC. Vai trò
của các chủ thể này được xác định trước hết ở chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn
của mỗi cơ quan. Các chủ thể này tiến hành các hoạt động nghiên cứu, phân tích
tình hình tội phạm sử dụng CNC, xác định nguyên nhân, điều kiện phát sinh tình
hình tội phạm sử dụng CNC từ đó tham mưu, đề xuất các chương trình, kế hoạch và

18


biện pháp phòng ngừa đối với loại tội phạm này một cách hiệu quả; sử dụng các
biện pháp theo pháp luật và các biện pháp nghiệp vụ chuyên môn theo chức năng cụ
thể để trực tiếp phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng CNC; phối hợp, hướng dẫn
các cơ quan, ban ngành, các tổ chức xã hội và quần chúng nhân dân trong phòng
ngừa tình hình tội phạm sử dụng CNC.
- Các tổ chức xã hội, các tổ chức quần chúng tự quản và toàn thể quần
chúng nhân dân
Các tổ chức xã hội, các tổ chức quần chúng tự quản có vai trò hết sức quan

trọng trong phòng ngừa tình hình tội phạm nói chung và phòng ngừa tình hình tội
phạm sử dụng CNC nói riêng. Các tổ chức này phối hợp, hỗ trợ các cơ quan chuyên
môn trong quá trình xây dựng chương trình, kế hoạch phòng ngừa tình hình tội
phạm; phối hợp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; quản lý đối tượng theo
pháp luật tại địa bàn dân cư; trực tiếp tham gia các hoạt động phòng ngừa tình hình
tội phạm tại địa bàn, khu vực. Đặc biệt, trong phòng ngừa tình hình tội phạm sử
dụng CNC, các tổ chức quần chúng tự quản là nơi để vận động, tập hợp, thu hút
quần chúng nhân dân tham gia vào hoạt động phòng ngừa.
Quần chúng nhân dân là lực lượng đông đảo giữ vai trò hết sức quan trọng
trong phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng CNC. Với vai trò là chủ thể phòng
ngừa tình hình tội phạm sử dụng CNC, quần chúng nhân dân có trách nhiệm tuân
thủ các quy định pháp luật; tích cực phát hiện, tố giác, cung cấp thông tin, tài liệu và
cộng tác với các cơ quan chuyên trách trong phòng, chống tội phạm sử dụng CNC;
kiến nghị với chính quyền hoặc cơ quan chuyên trách khắc phục những sơ hở, thiếu
sót trong tất cả các mặt công tác có ảnh hưởng đến công tác phòng ngừa tình hình
tội phạm nói chung và tình hình tội phạm sử dụng CNC nói riêng; đồng thời tích
cực tham gia phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc tại cơ sở.
1.4. Mục đích, nội dung và các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm
sử dụng công nghệ cao
1.4.1. Mục đích phòng ngừa tình hình tội phạm sử dụng công nghệ cao
Mục đích cuối cùng và quan trọng nhất của phòng ngừa tình hình tội phạm

19


×