Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Pháp luật về thi hành phán quyết trọng tài thương mại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.66 MB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------------------

NGUYỄN PHAN LINH

PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH PHÁN QUYẾT
TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
(Định hƣớng nghiên cứu)

HÀ NỘI, NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------------------

NGUYỄN PHAN LINH

PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH PHÁN QUYẾT
TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC


(Định hƣớng nghiên cứu)

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8380107

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Vũ Thị Lan Anh

HÀ NỘI, NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong Luận văn là trung thực.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện Luận văn này
đã được công bố tỏ lòng cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong Luận văn đã
được ghi rõ nguồn gốc.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Phan Linh


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, học viên đã nhận được sự giúp đỡ tận tình
của các thầy cô giáo và sự quan tâm giúp đỡ của các cơ quan, đồng nghiệp và
gia đình. Học viên xin được bày tỏ lòng biết ơn tới các tổ chức và các cá nhân
sau đây:
- Ban Giám hiệu; Ban chủ nhiệm Khoa Đào tạo Sau đại học – Trường
Đại học Luật Hà Nội;
- Cô giáo PGS. TS. Vũ Thị Lan Anh, giáo viên hướng dẫn Luận văn này;

- Ban lãnh đạo Cục thi hành án dân sự Thành phố Hà Nội.
- Ban lãnh đạo Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam.
Các thầy cô giáo, các đồng nghiệp và gia đình đã giúp tôi hoàn thành
luận văn này.
Học viên

Nguyễn Phan Linh


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS

Bộ luật dân sự

TTTM

Trọng tài thương mại

THADS

Thi hành án dân sự

THA

Thi hành án

VIAC

Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam



MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài ........................................................... 3
3. Mục đích, đối tƣợng và phƣơng pháp nghiên cứu ............................. 4
4. Kết cấu của Luận văn ............................................................................ 5
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THI HÀNH
PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI ............................................ 7
1.1. Khái niệm trọng tài thƣơng mại .......................................................... 7
1.2. Khái niệm, đặc điểm phán quyết trọng tài thƣơng mại .................. 10
1.2.1. Khái niệm phán quyết trọng tài thương mại ................................... 10
1.2.2. Đặc điểm phán quyết trọng tài thương mại. ................................... 12
1.3. Khái niệm, các nguyên tắc, vai trò của thi hành phán quyết trọng
tài thƣơng mại ............................................................................................ 14
1.3.1. Khái niệm ........................................................................................ 14
1.3.2. Nguyên tắc thi hành phán quyết trọng tài thương mại ................... 16
1.3.3. Vai trò của thi hành phán quyết trọng tài ...................................... 18
1.4. Những yếu tố ảnh hƣởng tới hiệu quả thi hành phán quyết trọng tài20
1.4.1.Nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của các chủ thể tranh
chấp

...................................................................................................... 20

1.4.2. Truyền thống văn hóa: .................................................................... 21
1.4.3. Mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật .................................... 21
1.4.4. Cam kết quốc tế............................................................................... 22
1.4.5. Điều kiện kinh tế xã hội .................................................................. 22
1.4.6. Năng lực của đội ngũ cán bộ THADS ............................................ 23
Kết luận Chƣơng 1 ........................................................................................ 23

CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI
HÀNH CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THI HÀNH PHÁN QUYẾT
TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI VIỆT NAM ................................................ 25


2.1. Thực trạng các quy định pháp luật về thi hành phán quyết trọng
tài thƣơng mại ............................................................................................ 25
2.2. Thực tiễn thi hành các quy định pháp luật về thi hành phán quyết
trọng tài thƣơng mại Việt Nam................................................................. 45
2.2.1. Tình hình thi hành quán quyết trọng tài thương mại...................... 45
2.2.2. Hạn chế, khó khăn và nguyên nhân của hạn chế, khó khăn trong thi
hành phán quyết Trọng tài thương mại .................................................... 49
Kết luận Chƣơng 2 ........................................................................................ 55
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT THI HÀNH PHÁN QUYẾT
TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI VIỆT NAM ................................................ 56
3.1. Những yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật về thi hành
phán quyết trọng tài thƣơng mại.............................................................. 56
3.1.1. Đảm bảo tính đồng bộ với các quy định pháp luật liên quan. ....... 56
3.1.2. Đảm bảo nguyên tắc tự định đoạt................................................... 56
3.1.3. Đảm bảo tính hội nhập quốc tế và sự tương thích với Điều ước
quốc tế ...................................................................................................... 57
3.1.4. Đảm bảo tính minh bạch, ổn định .................................................. 58
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về thi hành
phán quyết trọng tài thƣơng mại.............................................................. 58
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về thi hành
phán quyết trọng tài thƣơng mại.............................................................. 62
3.3.1. Giải pháp nâng cao nhận thức, năng lực của đội ngũ Chấp hành
viên làm công tác thi hành phán quyết TTTM. ......................................... 62
3.3.2. Giải pháp tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật về thi hành

phán quyết TTTM ...................................................................................... 65
3.3.3. Giải pháp quảng bá, nâng cao vị thế các Trung tâm Trọng tài ..... 66
KẾT LUẬN .................................................................................................... 68


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, trọng tài thương mại, với tư cách là
một cơ chế giải quyết tranh chấp ngoài toà án, đã và đang góp phần không
nhỏ vào sự ổn định của hoạt động thương mại trên thế giới. Ở nước ta, tiến
trình hình thành và phát triển của trọng tài thương mại được thể hiện qua ba
giai đoạn chủ yếu: giai đoạn sơ khai (trước năm 2003), giai đoạn chuyển tiếp
(năm 2003 – 2010) và giai đoạn hội nhập (năm 2010 – nay). Nền kinh tế thị
trường nước ta hiện nay đang trong giai đoạn phát triển với tốc độ nhanh
chóng với sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau. Hệ quả tất yếu của quá
trình phát triển kinh tế là những tranh chấp trong kinh tế nói chung, trong kinh
doanh thương mại nói riêng, các tranh chấp này diễn ra ngày càng đa dạng và
phức tạp về cả tính chất và quy mô. Do đó, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các chủ thể tham gia cũng như đáp ứng được môi trường lành mạnh
cần thiết cho phát triển kinh tế, cần phải có các phương thức giải quyết tranh
chấp phù hợp có hiệu quả. Đóng vai trò là một trong các phương thức giải
quyết tranh chấp phổ biến trên thế giới bên cạnh các phương thức như thương
lượng, hòa giải, tòa án, trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp có
nhiều ưu việt với khả năng bảo mật thông tin, mức độ linh hoạt cao giữa các
bên có tranh chấp.
Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại là xu thế
ngày càng phổ biến trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế. Trong hoạt động
thương mại, tôn trọng quyền tự quyết định về tài sản, quyền lợi kinh tế là một

trong những quyền quan trọng hàng đầu đối với doanh nghiệp và Luật Trọng
tài thương mại đã khắc phục khá triệt để những hạn chế của hoạt động giải
quyết tranh chấp trước đây, đảm bảo phù hợp với pháp luật trọng tài thương
mại quốc tế. Vụ trưởng Vụ Bổ trợ tư pháp (Bộ Tư pháp) Đỗ Hoàng Yến cho
biết: “Số lượng xét xử các vụ án kinh tế của toàn ngành Tòa án những năm


2

qua là rất hạn chế. Trong khi, nhu cầu giải quyết tranh chấp thương mại của
doanh nghiệp thì lớn gấp nhiều lần. Điều này cho thấy pháp luật về giải quyết
tranh chấp thương mại còn hổng ở nhiều chỗ. Nếu có tranh chấp thì việc phải
đưa vụ việc ra tòa án là chuyện “cực chẳng đã” đối với tất cả các doanh
nghiệp. Mà quan trọng là mất uy tín với thị trường, với bạn hàng. Chưa biết
sự việc đúng sai ra sao, nhưng doanh nghiệp đã phải ra tòa án thì cơ hội hợp
tác với các doanh nghiệp khác sẽ bị ảnh hưởng ít nhiều. Bên cạnh đó, thủ tục
để giải quyết một vụ tranh chấp thương mại tại tòa án thời gian qua cũng
khiến nhiều doanh nghiệp nản lòng bởi phải tốn nhiều thời gian để hoàn thiện
các thủ tục, nhiều khi các vụ tranh chấp thương mại còn luân chuyển từ tòa
kinh tế - tòa dân sự - tòa hành chính khiến cho doanh nghiệp gặp rất nhiều
khó khăn.”1. Trái ngược hẳn với phương thức giải quyết tranh chấp bằng con
đường Tòa án, việc lựa chọn phương thức Trọng tài thương mại có thể “linh
hoạt” trong việc tự do, lựa chọn hình thức trọng tài, lựa chon trọng tài viên,
quyền lựa chọn địa điểm…, không những đảm bảo được bí mật giữa các bên
có tranh chấp mà còn giữ được uy tín với các bạn hàng, tránh được những sức
ép từ bên ngoài, góp phần hạn chế tối đa những nguy cơ đến từ các tác động
bên ngoài khiến phát quyết trọng tài thiếu khách quan.
Tuy có nhiều ưu điểm là vậy nhưng trên thực tế, phương thức giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài dường như chưa thật sự được các chủ thể
trong quan hệ kinh doanh thương mại ưu tiên lựa chọn khi có tranh chấp xảy

ra. Nguyên nhân dẫn tới hạn chế này phần vì tâm lý của các thương nhân đều
cho rằng các phán quyết của TTTM sẽ không có giá trị thực thi do vậy họ vẫn
chưa lựa chọn sử dụng TTTM như là một trong những phương thức giải quyết
các tranh chấp ưu thế so với tòa án. Nguyên nhân cơ bản của tình trạng này là
do các quy định pháp luật thi hành phán quyết của Trọng tài hiện nay vẫn còn
chưa thích hợp, dẫn đến hiệu quả thi hành chưa cao. Phán quyết Trọng tài sẽ
1

truy cập ngày
10/7/2018


3

chỉ là những quyết định tồn tại trên giấy tờ nếu không được tổ chức thi hành
hoặc không được thi hành đầy đủ trên thực thế sẽ gây dư luận xấu, ảnh hưởng
trực tiếp đến lòng tin của các thương nhân nói riêng, của các chủ thể tham gia
nền kinh tế thị trường nói chung vào tính nghiêm minh của pháp luật.
Với những lý do trình bày nêu trên, học viên đã lựa chọn đề tài: “Pháp
luật về thi hành phán quyết Trọng tài thƣơng mại Việt Nam” làm luận
văn thạc sỹ của mình với mong muốn sẽ làm sáng tỏ một số vấn đề cơ bản về
lý luận cũng như thực tiễn thi hành các phán quyết của trọng tài thương mại
Việt Nam, qua đó có những đề xuất xây dựng một cơ chế thi hành phán quyết
Trọng tài thương mại phù hợp với lý luận cũng như thực tiễn tại Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Song hành cùng với sự phát triển của nền kinh tế, việc thi hành phán
quyết của trọng tài là vấn đề khá phức tạp, nhận được nhiều sự chú ý, quan
tâm, theo dõi từ phía các học giả, nhà nghiên cứu, giới luật gia trong và ngoài
nước, đặc biệt là các chuyên gia và những người làm công tác thực tiễn.
Không nằm ngoài xu thế đó, trên nhiều diễn đàn, sách báo, tạp chí, các buổi

hội thảo đã có nhiều bài viết, các buổi trao đổi, các công trình nghiên cứu về
hoạt động Trọng tài thương mại. Tuy vậy, nhìn chung, các công trình, sách
báo, bài viết này đều chỉ tập trung phân tích làm rõ các quy định chung của
Trọng tài thương mại dưới giác độ lý luận hoặc thực trạng hoạt động của các
trung tâm trọng tài ở Việt Nam hay những hạn chế bất cập của pháp luật về
Trọng tài thương mại, từ đó đưa ra một số giải pháp cơ bản đề hoàn thiện.
Bên cạnh đó, đã có nhiều công trình về Trọng tài và giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài mà tiêu biểu là các công trình: “Giải quyết tranh chấp thương
mại bằng trọng tài - Thực tiễn hoạt động của các trung tâm trọng tài thương
mại trên địa bàn thành phố Hà Nội”- luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn
Mạnh Linh năm 2015; “Phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại bằng trọng tài và toà án dưới góc độ so sánh”- luận văn thạc sĩ


4

luật học của Cao Thị Thanh Thuỷ năm 2012; “Những vấn đề lý luận và thực
tiễn về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài thương mại”- luận văn
thạc sĩ luật học của Lê Thị Nhàn năm 2012; “Giải quyết tranh chấp thương
mại bằng trọng tài vụ việc tại Việt Nam” – luận văn thạc sỹ luật học của Trần
Thị Thắm năm 2013; “Những nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài thương mại” – luận văn thạc sỹ luật học của Nguyễn Thị Hiền năm 2013.
Tuy vậy, các công trình này chỉ tập trung chủ yếu vào phân tích, nghiên cứu
cơ cấu tổ chức và hoạt động của Trọng tài, cách thức, thẩm quyền giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài thương mại, còn vấn đề pháp luật về thi hành phán
quyết của Trọng tài thương mại Việt Nam ít được đề cập tới, hoặc có nhưng
đã không còn phù hợp với tình hình thực tế vốn có nhiều biến động như hiện
nay. Về cơ bản pháp luật về thi hành phán quyết trọng tài vẫn chưa được thực
sự quan tâm và như vậy cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu
cơ sở lý luận một cách cơ bản và toàn diện về vấn đề này.

3. Mục đích, đối tƣợng và phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích, lập luận để làm rõ một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về pháp luật thi hành phán quyết trọng tài thương mại Việt Nam, mục
đích của luận văn là đề xuất một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật về
thi hành phán quyết Trọng tài thương mại và bảo đảm hiệu quả hoạt động thi
hành phán quyết Trọng tài thương mại ở Việt Nam hiện nay nhằm tạo một
hành lang pháp lý an toàn chung, bảo đảm quyền tự do kinh doanh của các
chủ thể kinh doanh, hướng các quan hệ kinh doanh phát triển tích cực, đặt
chúng trong mối quan hệ hài hòa với lợi ích chung của nền kinh tế - xã hội.
Để đạt được mục đích nêu trên, nhiệm vụ của luận văn này bao gồm:
a) Nghiên cứu, làm rõ khái niệm và các đặc điểm của phán quyết trọng
tài; những vấn đề lý luận về thi hành phán quyết trọng tài thương mại
b) Phân tích thực trạng quy định pháp luật về thi hành phán quyết trọng tài
thương mại về trình tự, thủ tục thi hành phán quyết trọng tài thương


5

mại; so sánh với các quy định pháp luật về thi hành phán quyết trọng
tài ở các nước trên thế giới, tìm hiểu những vướng mắc, bất cập, hạn
chế nhằm đề xuất những giải pháp hoàn thiện pháp luật về thi hành
phán quyết trọng tài thương mại Việt Nam.
c) Phân tích thực trạng thi hành phán quyết trọng tài thương mại Việt
Nam hiện nay, những hạn chế, vướng mắc trong quá trình tổ chức thi
hành phán quyết Trọng tài thương mại, làm rõ những nguyên nhân của
thực trạng nói trên để từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật về thi hành phán quyết Trọng tài thương mại.
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là những quy định pháp luật về thi
hành phán quyết Trọng tài thương mại và thực tiễn thi hành phán quyết Trọng
tài thương mại ở Việt Nam hiện nay. Phạm vi nghiên cứu giới hạn ở các quy

định hiện hành về Trọng tài thương mại, chủ yếu được ghi nhận tại Luật
TTTM 2010, Luật thi hành án dân sự 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014.
Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được triển khai trên cơ sở phương pháp luận của triết học
Macxit chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp
các phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp so sánh, thống kê, điều tra,
phương pháp phân tích, tổng hợp, khảo cứu tài liệu... để làm sáng tỏ các khía
cạnh của vấn đề pháp luật về thi hành phán quyết trọng tài thương mại Việt
Nam.
4. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
có nội dung được chia thành 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về thi hành phán quyết trọng tài
thương mại


6

Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành các quy định
pháp luật Việt Nam về thi hành phán quyết trọng tài thương mại
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thi
hành phán quyết trọng tài thương mại Việt Nam.


7

CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THI HÀNH PHÁN QUYẾT
TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI
1.1. Khái niệm trọng tài thƣơng mại

Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó bên mua và bên bán thiết
lập quan hệ với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số
lượng hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Doanh nghiệp cũng là chủ thể cấu
thành của nền kinh tế, chúng được thành lập và hoạt động dưới nhiều hình
thức đa dạng phong phú như doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần hay công
ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, hai thành viên trở lên… Nhằm đáp
ứng được nhu cầu phát triển kinh tế, sự liên kết giữa các doanh nghiệp này
ngày càng trở nên phổ biến với những giao kết thương mại mang lại lợi ích
cho các bên tham gia. Tuy vậy, bên cạnh những giao dịch “thuận buồm xuôi
gió”, vẫn luôn tiềm ẩn những nguy cơ gây phát sinh mâu thuẫn, bất đồng giữa
các bên dẫn tới các tranh chấp thương mại. Tranh chấp thương mại có một số
đặc điểm như được phát sinh từ hoạt động thương mại – hoạt động nhằm mục
đích sinh lợi nhuận gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc
tiến thương mại…; chủ thể chủ yếu là các thương nhân; nội dung là những
mâu thuẫn, bất đồng, xung đột về lợi ích vật chất của các bên trong hoạt động
thương mại, thường là giá trị vật chất với giá trị lớn mà các bên hướng tới.
Trên thực tế, có nhiều phương thức giải quyết tranh chấp thương mại
như giải quyết bằng phương thức hòa giải, thương lượng, trọng tài hay tòa án.
Mỗi phương thức đều có ưu, – nhược điểm riêng. Nếu phương thức giải quyết
tranh chấp bằng tòa án mang tính quyền lực Nhà nước, – quyền tư pháp, –
biện pháp mà cực chẳng đã các bên mới lựa chọn để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình thì dường như phương thức giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài thương mại lại linh hoạt, kín đáo và được nhiều bên tranh chấp lựa
chọn. Trên thế giới, Trọng tài thương mại là một khái niệm “thân thuộc”


8

trong đời sống kinh tế, đặc biệt là ở các nước phát triển. Tuy vậy, có cách
hiểu khác nhau về khái niệm này. Theo cuốn Đại từ điển Kinh tế Thị

trường,“Trọng tài là một phương thức giải quyết một cách hòa bình các vụ
tranh chấp. Là chỉ đôi bên đương sự tự nguyện đem những sự việc, những vấn
đề tranh chấp giao cho người thứ ba có tư cách công bằng, chính trực xét xử,
phán quyết do người này đưa ra có hiệu lực ràng buộc với cả hai bên”2. Còn
theo Hiệp hội Trọng tài Hoa Kỳ: “Trọng tài thương mại là cách thức giải
quyết tranh chấp bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một hoặc một số
người xem xét, giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng có giá trị bắt
buộc các bên tranh chấp phải thi hành”3. Ở Việt Nam, pháp luật tiếp cận khái
niệm “Trọng tài” là một phương thức giải quyết tranh chấp như hầu hết pháp
luật các nước nhưng sử dụng thuật ngữ “Trọng tài thương mại” để gọi tên cho
phương thức này. Khoản 1, Điều 3 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 (sau
đây gọi tắt là Luật LTTTM ) quy định “LTTTM là phương thứcgiải quyết
tranh chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định của Luật
này”.
Bên cạnh phương diện là phương thức giải quyết tranh chấp, trọng tài
thương mại còn được hiểu là cơ quan giải quyết tranh chấp. Với cách hiểu
này, trọng tài sẽ bao gồm những cá nhân được các bên lựa chọn để giải quyết
các tranh chấp phát sinh giữa họ hoặc trọng tài là cơ quan trung gian được các
bên đương sự giao tranh chấp để xét xử. Về mặt tổ chức, Trọng tài có thể là
các trung tâm trọng tài thương mại – các cơ quan chuyên biệt hoạt động
thường xuyên, có trụ sở làm việc, danh sách trọng tài viên và điều lệ hoạt
động riêng của mình hoặc chỉ là cơ quan giải quyết tranh chấp được thành lập
theo vụ việc và tự giải tán sau khi hoàn thành việc giải quyết tranh chấp
(trọng tài ad-hoc).

2

Viện nghiên cứu và phổ biến tri thức Bách Khoa, Đại từ điển kinh tế thị trường (1998), tr. 550
truy cập ngày 20/5/2018
3



9

Ở Việt Nam, TTTM là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại.
Với tư cách là thiết chế giải quyết tranh chấp, TTTM có thẩm quyền giải
quyết tất cả các tranh chấp thương mại gồm: Tranh chấp giữa các bên phát
sinh từ hoạt động thương mại; Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít
nhất một bên có hoạt động thương mại; Tranh chấp khác giữa các bên mà
pháp luật quy định được giải quyết bằng Trọng tài (Điều 2, Luật TTTM). Khi
các bên tham gia tranh chấp đã có thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài, các chủ thể này có quyền lựa chọn giải quyết tranh chấp này tại trọng tài
thường trực (quy chế) hoặc trọng tài vụ việc.
Trọng tài vụ việc là hình thức trọng tài do các bên tranh chấp thỏa
thuận thành lập để giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên và Trọng tài sẽ tự
chấm dứt sự tồn tại khi giải quyết xong vụ tranh chấp. Bản chất của Trọng tài
vụ việc được thể hiện qua các đặc trưng cơ bản như: Trọng tài vụ việc chỉ
được thành lập khi phát sinh tranh chấp và tự chấm dứt hoạt động (tự giải thể)
khi giải quyết xong tranh chấp; Trọng tài vụ việc không có trụ sở thường trực,
không có bộ máy điều hành (vì chỉ được thành lập để giải quyết vụ tranh chấp
theo sự thỏa thuận của các bên) và không có danh sách Trọng tài viên riêng.
Trọng tài viên được các bên chọn hoặc được chỉ định có thể là người có tên
trong danh sách Trọng tài viên của bất cứ trung tâm nào hoặc không phải là
trọng tài viên của trung tâm nào; Trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tụng
dành riêng cho mình. Trọng tài quy chế là hình thức giải quyết tranh chấp tại
trung tâm trọng tài thành lập theo quy định của Luật trọng tài thương mại.
Theo pháp luật về TTTM, Trọng tài quy chế được tổ chức dưới dạng các
Trung tâm trọng tài. Trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân, có chức năng
tổ chức, điều phối hoạt động giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài và hỗ trợ
Trọng tài viên về các mặt hành chính, văn phòng và các trợ giúp khác trong

quá trình tố tụng Trọng tài.Trung tâm TTTM được thành lập theo sáng kiến
của các Trọng tài viên, sau khi được sự cho phép của cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền, do đó, không nằm trong hệ thống cơ quan nhà nước. Hoạt động


10

của Trung tâm TTTM dựa trên nguyên tắc tự trang trải trên cơ sở thu phí từ
các vụ giải quyết tranh chấp chứ không được cấp kinh phí hoạt động từ ngân
sách Nhà nước. Phán quyết của trọng tài không nhân danh quyền lực Nhà
nước.
1.2. Khái niệm, đặc điểm phán quyết trọng tài thƣơng mại
1.2.1. Khái niệm phán quyết trọng tài thương mại
Khi các bên tranh chấp có thỏa thuận trọng tài đối với việc giải quyết
tranh chấp giữa các bên,một bên khởi kiện tại trọng tài và Trọng tài sẽ thụ lý
để giải quyết theo một trình tự, thủ tục mà pháp luật về TTTM quy định. Kết
thúc quá trình giải quyết tranh chấp (gọi là tố tụng trọng tài), TTTM sẽ đưa ra
quyết định giải quyết vụ việc để các bên thi hành.
Dưới giác độ ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt nêu rõ phán quyết được
hiểu là “quyết định để mọi người phải tuân theo”4 hay theo Đại từ điển kinh tế
thị trường, “phán quyết trọng tài là quyết định mà trọng tài viên hoặc cơ quan
trọng tài, theo trình tự luật định, sau khi xét xử, đưa ra đối với vụ việc đôi bên
đương sự tranh chấp”.5
Dưới giác độ luật học, để hiểu phán quyết trọng tài thì trước hết cần
làm rõ các loại quyết định của trọng tài. Các quyết định trọng tài có thể được
phân thành ba loại đó là: quyết định cuối cùng, quyết định từng phần và tạm
thời, và quyết định dựa trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên. Quyết định cuối
cùng là quyết định do hội đồng trọng tài ban hành, giải quyết mọi vấn đề
(hoặc các vấn đề còn lại) đã được đưa ra trọng tài. Quyết định từng phần và
tạm thời là quyết định do hội đồng trọng tài ban hành để giải quyết một hoặc

một số vấn đề riêng rẽ trong quá trình trọng tài trước khi ban hành quyết định
cuối cùng. Quyết định trên cơ sở thỏa thuận là quyết định do hội đồng trọng
tài đưa ra trên cơ sở thỏa thuận hòa giải mà các bên tranh chấp đạt được trong
4
5

Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản từ điển Bách Khoa, 2010, tr. 809
Viện nghiên cứu và phổ biến tri thức Bách Khoa, Đại từ điển kinh tế thị trường, 1998, tr.850


11

khi đang tiến hành tố tụng trọng tài.6 Về cơ bản, quyết định trọng tài cuối
cùng sẽ được đưa ra sau cùng, sẽ giải quyết hết tất cả các mâu thuẫn, xung đột
đang tồn tại, là kết quả của quá trình tố tụng trọng tài đồng thời chấm dứt
thẩm quyền của hội đồng trọng tài bởi khi quyết định cuối cùng được ban
hành, hội đồng trọng tài sẽ hết trách nhiệm và đã hoàn thành nhiệm vụ của
mình. Theo luật mẫu UNICITRAL, quyết định của hội đồng trọng tài giải
quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài được gọi
là phán quyết trọng tài. Trong khi đó Công ước New York – Công ước điều
chỉnh việc công nhận và thi hành phán quyết trọng tài đưa ra định nghĩa:
“Thuật ngữ các phán quyết trọng tài bao gồm không chỉ những phán quyết
đưa ra bởi các trọng tài được chỉ định cho từng vụ mà còn bao gồm các phán
quyết đưa ra bởi các tổ chức trọng tài thường trực được các bên đưa vụ việc
ra giải quyết”.
Ở Việt Nam, về khái niệm phán quyết Trọng tài, trong quá trình tiếp
thu các ý kiến góp ý để chỉnh lý, hoàn thiện Luật TTTM, có ý kiến đề nghị
không sử dụng khái niệm “Phán quyết Trọng tài” mà dùng khái niệm “Quyết
định Trọng tài”. Tuy nhiên, trong Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý Dự
thảo Luật TTTM số 320/BCUBTVQH12 ngày 12/5/2010, Ủy ban thường vụ

Quốc hội nhận thấy, “trong quá trình tố tụng Trọng tài, Hội đồng Trọng tài có
thẩm quyền ban hành các quyết định về tố tụng, quyết định áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời, quyết định giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và
chấm dứt tố tụng trọng tài. Các quyết định nêu trên được gọi chung là quyết
định Trọng tài và được thi hành và điều này trái với quy định của các nước
trên thế giới về các quyết định của Hội đồng trọng tài. Vì vậy, Ủy ban thường
vụ Quốc hội thấy rằng việc sử dụng khái niệm “Phán quyết Trọng tài” trong
dự thảo Luật là “để phân biệt giữa phán quyết cuối cùng của vụviệc với các
quyết định khác của Hội đồng trọng tài”.Vì thế, tại Khoản 10, Điều 3 Luật
6

Nguyễn Thị Phượng (2013), Hủy phán quyết trọng tài theo quy định của pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc
sỹ luật học, tr. 7


12

TTTM năm 2010 quy định “Phán quyết trọng tài là quyết định của Hội đồng
TTTM giải quyết toàn bộ vụ tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài buộc
các bên tranh chấp phải thực hiện”.
Từ những phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm: Phán quyết
TTTM là quyết định của Hội đồng TTTM bằng văn bản giải quyết toàn bộ vụ
tranh chấp thương mại giữa các bên tranh chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài,
có giá trị ràng buộc các bên tranh chấp phải thực hiện.
1.2.2. Đặc điểm phán quyết trọng tài thương mại.
Phán quyết TTTM (sau đây gọi tắt là phán quyết trọng tài) mang một
số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, phán quyết trọng tài có giá trị chung thẩm buộc các bên
tranh chấp phải thực hiện.
“Phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm” – đây là một trong

những nguyên tắc hoạt động nền tảng của TTTM, mang ý nghĩa sống còn
trong tố tụng trọng tài. Với ý nghĩa là sau khi TTTM đưa ra phán quyết thì
các bên không có quyền kháng cáo trước bất kỳ một tổ chức hoặc tòa án nào
(trừ quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền hủy phán quyết trọng tài nếu có đủ
căn cứ) – một lợi thế đáng kể xuất phát từ bản chất của TTTM khi so sánh với
phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng con đường Tòa án bởi
phán quyết TTTM là do một chủ thể (trọng tài viên hoặc hội đồng trọng tài)
được xác định theo sự lựa chọn của các bên, sau khi cân nhắc kỹ lưỡng đưa
ra, do đó, vì thế, các bên tranh chấp không bị kéo vào vòng kiện tụng liên
miên nhiều cấp xét xử, tốn kém tiền bạc, thời gian, thậm chí ảnh hưởng đáng
kể tới uy tín trên thương trường. Cụ thể hơn, tại Khoản 2, Điều 32 Bản quy
tắc trọng tài UNCITRAL năm 1976 quy định “Phán quyết sẽ được lập bằng
văn bản và sẽ là chung thẩm và ràng buộc các bên, các bên cam kết thực thi
phán quyết không chậm trễ”. Với cùng tinh thần như vậy, Điều 45 Luật Trọng
tài Nhật Bản quy định “Phán quyết trọng tài có hiệu lực như bản án chung


13

thẩm…”7 hay Điều 8 Luật Trọng tài Trung Quốc cũng có quy định “Trọng tài
sẽ tiến hành việc ra phán quyết một cấp và chung thẩm. Nếu một bên đưa ra
Trọng tài hoặc Tòa án nhân dân về cùng một vụ tranh chấp đã có phán quyết
Trọng tài, Hội đồng trọng tài hoặc Tòa án nhân dân sẽ không thụ lý vụ
kiện”8…
Không phải ngẫu nhiên mà các “đầu tầu” kinh tế thế giới đều quy định
phán quyết Trọng tài có giá trị chung thẩm, sở dĩ các nước này quy định vậy
là bởi Trung tâm trọng tài là một loại hình tổ chức xã hội – nghề nghiệp, với
đặc điểm thủ tục xét xử một cấp, các Trung tâm trọng tài độc lập với nhau,
không có sự phân cấp, phân vùng xét xử; bên cạnh đó, việc đưa tranh chấp ra
giải quyết tại Trọng tài là kết quả của sự thỏa thuận giữa các bên, trọng tài

viên do các bên lựa chọn cho nên, Hội đồng trọng tài hình thành trên cơ sở ý
chí tối cao của các bên đương sự. Do vậy, các bên phải có nghĩa vụ tôn trọng
kết quả giải quyết của Hội đồng đó. Các bên không có quyền kháng cáo mà
chỉ có nghĩa vụ thực hiện phán quyết.
Thứ hai, phán quyết Trọng tài là quyết định giải quyết toàn bộ vụ tranh
chấp và chấm dứt tố tụng trọng tài của Hội đồng trọng tài.
Đối với trường hợp tranh chấp được giải quyết tại Trung tâm trọng tài
thì quá trình giải quyết toàn bộ vụ tranh chấp được tính từ thời điểm “Trung
tâm trọng tài nhận được đơn khởi kiện của nguyên đơn” còn đối với trường
hợp tranh chấp được giải quyết bằng Trọng tài vụ việc thì được tính từ thời
điểm bị đơn nhận được đơn khởi kiện đến khi Trọng tài họp phiên cuối cùng
đưa ra quyết định về giải quyết tranh chấp. Kết thúc quá trình này, một phán
quyết được ban hành, tuân theo trình tự thủ tục luật định, phán quyết đó là
chung thẩm. Phán quyết này giải quyết những mâu thuẫn, xung đột, giữa các
bên trong vụ kiện, là kết quả của một chuỗi những tranh luận cẩn thận, thấu
đáo, hợp tình hợp lý của Hội đồng trọng tài. Khi phán quyết Trọng tài được
7
8

Luật Trọng tài Nhật bản, điều 45
Luật Trọng tài Trung Quốc, điều 8


14

đưa ra đồng nghĩa với việc vụ tranh chấp đã được giải quyết toàn bộ, cho dù
phán quyết đó chấp thuận toàn bộ, một phần hay không chấp thuận yêu cầu
của bên khởi kiện, yêu cầu phản tố và thủ tục trọng tài chấm dứt. Như vậy, có
thể hiểu phán quyết của Trọng tài là sản phẩm cuối cùng của quá trình tố tụng
trọng tài. Với ý nghĩa là phán quyết của một cơ quan tài phán, phán quyết

Trọng tài kết thúc quá trình tố tụng. Về hình thức, phán quyết Trọng tài tạo ra
một sự kiện pháp lý mà theo đó tranh chấp chấm dứt. Về nội dung, phán
quyết Trọng tài đưa ra các kết luận khách quan về tranh chấp, quy định quyền
và nghĩa vụ mà các bên tranh chấp phải thực hiện.
Như vậy, phán quyết trọng tài là quyết định cuối cùng, mang tính
chung thẩm và buộc các bên phải thi hành, tạo điều kiện để tranh chấp được
giải quyết một cách nhanh chóng, tiết kiệm thời gian, chi phí cho các bên
tranh chấp, đồng thời phán quyết trọng tài cũng phải đảm bảo là kết quả của
một quá trình xét xử công minh, vô tư, phải tuân theo các nguyên tắc giải
quyết tranh chấp bằng Trọng tài và phải được tuyên bố theo đúng thủ tục ra
phán quyết Trọng tài mà pháp luật về TTTM quy định.
1.3. Khái niệm, các nguyên tắc, vai trò của thi hành phán quyết trọng
tài thƣơng mại
1.3.1. Khái niệm
Như đã phân tích ở trên, phán quyết Trọng tài là văn bản có giá trị pháp
lý chung thẩm, các bên trong tranh chấp có nghĩa vụ phải thi hành. Theo Từ
điển Tiếng Việt thi hành có nghĩa là “làm cho thành có hiệu lực điều đã được
chính thức quyết định”10. Điều này có nghĩa là khi một quyết định được ban
hành thì phải làm cho nó trở thành hiện thực, không chỉ là phán quyết
“miệng”, tuyên xong để đấy hoặc chỉ như những “giấy tờ” không có giá trị
pháp lý. Nếu hoạt động tố tụng là quá trình đi tìm sự thật của các vụ việc đã
diễn ra để trên cơ sở đó đưa ra cách giải quyết vụ việc theo quy trình hết sức
10

Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Ttừ điển Bách Khoa, năm 2010,
tr. 1060


15


chặt chẽ và phải bảo đảm các nguyên tắc như bình đẳng, công khai, dân chủ,
tôn trọng quyền và lợi ích của người tham gia tố tụng thì hoạt động thi hành là
quá trình tiến hành các hoạt động nhằm thực hiện các phán quyếtcủa TTTM
đã có hiệu lực pháp luật. Quá trình này có thể do các chủ thể bị thi hành tự
giác thi hành hoặc do các cơ quan có thẩm quyền buộc các chủ thể đó phải thi
hành. Vì các quán quyết của trọng tài có tính chất chung thẩm, các chủ thể
tham gia tranh chấp không thể kháng cáo trước bất kỳ một tổ chức, Tòa án
nào và cũng không thể bị cơ quan nào kháng nghị, do đó, không có lý do gì để
nó không được thi hành trên thực tế. Tuy vậy, từ thực tiễn thi hành xảy ra ba
trường hợp cơ bản như sau:
Thứ nhất, cả hai bên đều tự nguyện thi hành phán quyết Trọng tài.
Trường hợp này thì rất đơn giản vì điều quan trọng nhất là phán quyết TTTM
đã được thi hành trên thực tế mà không cần có sự can thiệp của Nhà nước.
Thứ hai, cả hai bên đều phản đối phán quyết Trọng tài. Trường hợp này
hiếm khi xảy ra, tuy nhiên không phải là không thể xẩy ra. Trong trường hợp
này, rõ ràng phán quyết sẽ không được thực hiện.
Thứ ba, chỉ một bên không đồng ý với phán quyết Trọng tài, bên không
đồng ý là bên thua trong phán quyết TTTM và phải thi hành phán quyết đó.
Trong trường hợp này nếu bên thua không có đủ căn cứ yêu cầu Tòa án hủy
phán quyết Trọng tài và cũng không tự nguyện thi hành phán quyết Trọng tài
thì sẽ bị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật áp
dụng biện pháp cưỡng chế thi hành. Trong trường hợp này, việc thi hành phán
quyết TTTM đã có sự can thiệp của Nhà nước.
Có thể khẳng định rằng, không có kết quả của hoạt động tố tụng trọng
tài thì không thể có hoạt động thi hành phán quyết Trọng tài. Song thi hành
phán quyết Trọng tài là một dạng hoạt động hành chính - tư pháp, là hoạt
động có tính chấp hành chứ không phải là hoạt động tố tụng. Từ những phân
tích nêu trên, có thể định nghĩa rằng thi hành phán quyết TTTM là “hành vi



16

tự nguyện thực hiện phán quyết TTTM của các bên tranh chấp hoặc hành vi
của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền buộc các bên tranh chấp phải thực hiện
phán quyết Trọng tài theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định”.
1.3.2. Nguyên tắc thi hành phán quyết trọng tài thương mại
Thực tiễn chứng minh, để giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh
thương mại đều phải dựa trên những nguyên tắc nhất định nhằm định hướng
hoạt động vào khuôn khổ nhất định. Thi hành phán quyết trọng tài cũng vậy,
các nguyên tắc thi hành phán quyết trọng tài là những quan điểm chỉ đạo, định
hướng tư duy trong toàn bộ quá trình tổ chức thi hành phán quyết Trọng tài
thương mại, thể hiện tính đặc thù của hoạt động này.
*Nguyên tắc về thẩm quyền thi hành của cơ quan thi hành án dân sự
khi bên phải thi hành phán quyết TTTM không tự nguyện thi hành phán quyết.
Nguyên tắc này không những thể hiện sâu sắc tính chuyên trách của
hoạt động thi hành phán quyết trọng tài mà còn thể hiện vai trò của Nhà nước
trong việc hỗ trợ đối với quá trình thi hành phán quyết trọng tài. Với vị thế là
một tổ chức xã hội – nghề nghiệp do các Trọng tài viên tự thành lập nên hoặc
do các bên đương sự thỏa thuận thành lập nhằm giải quyết các tranh chấp
thương mại, lúc này, Trọng tài không nhân danh quyền lực Nhà nước mà
nhân danh sự công bằng, lẽ phải, công lý để ra các phán quyết. Do vậy, các
phán quyết này mang tính “quyền lực tư” nhiều hơn và khi bên có nghĩa vụ
thi hành phán quyết trọng tài không thi hành thì Nhà nước cần phải có sự can
thiệp, hỗ trợ để đảm bảo giá trị pháp lý của phán quyết trong thực tế cũng như
khẳng định vai trò , vị thế của TTTM trong quá trình hội nhập. Vì lẽ đó, tại
Điều 66 Luật TTTM Việt Nam quy định: “Hết thời hạn tự nguyện thi hành
phán quyết Trọng tài mà bên phải thi hành phán quyết không tự nguyện thi
hành và cũng không yêu cầu hủy phán quyết Trọng tài theo quy định tại Điều
69 của Luật này, bên được thi hành phán quyết Trọng tài có quyền làm đơn
yêu cầu cơ quan THADS có thẩm quyền thi hành phán quyết Trọng tài”. Như



17

vậy, thẩm quyền của cơ quan THADS chỉ phát sinh khi bên phải thi hành án:
(i) không tự nguyện thi hành, (ii) cũng không yêu cầu hủy phán quyết tại Tòa
án; (iii) có đơn yêu cầu thi hành. Thiếu bất cứ điều kiện nào thì không làm
phát sinh thẩm quyền của cơ quan THADS. Ngoài ra, về thẩm quyền thi hành
phán quyết trọng tài thuộc về cơ quan THADS tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương nơi Hội đồng trọng tài ra phán quyết và ngoài cơ quan này ra,
không có bất kỳ cơ quan nào khác có thẩm quyền thi hành, đảm bảo tối đa
tính thống nhất khi thi hành các phán quyết của TTTM.
*Nguyên tắc về hiệu lực thi hành phán quyết trọng tài
Tương tự như các quốc gia văn minh trên thế giới, việc tôn trọng triệt
để và thi hành nghiêm chỉnh phán quyết Trọng tài là điều kiện tiên quyết
nhằm đảm bảo tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong tranh chấp.
Giá trị pháp lý của “phán quyết Trọng tài” ngang với bản án của Tòa án dù
chỉ là cơ quan tài phán tư, đều có thể do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thi
hành, điều này không những giảm thiểu tối đa thiệt hại của các bên trong
tranh chấp mà còn góp phần đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa. Với vai trò
là nguyên tắc hiến định, hiệu lực thi hành phán quyết TTTM phải được tuyệt
đối thi hành mà không có bất kỳ sự chống đối, cản trở nào.
*Nguyên tắc kết hợp hài hòa giữa giáo dục, thuyết phục và áp dụng
biện pháp cưỡng chế.
Thực tiễn công tác THADS đã khẳng định rằng công tác vận động,
thuyết phục đương sự tự nguyện thi hành án là một trong những công tác rất
quan trọng, cần phải được Cơ quan THADS, chấp hành viên, công chức
THADS tôn trọng và bảo đảm thực hiện bởi khi làm tốt công tác vận động,
thuyết phục đương sự tự nguyện thi hành phán quyết không những bảo đảm
cho các mối quan hệ xã hội trở hiện trạng tốt đẹp, hài hòa ban đầu của nó mà

còn nhằm khôi phục lại quan hệ xã hội đã bị xâm phạm, vi phạm, bảo đảm
tính nhân văn, cao cả của nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Điều 65 Luật TTTM


18

quy định: “Nhà nước khuyến khích các bên tự nguyện thi hành phán quyết
của Trọng tài”, bởi biện pháp ưu tiên hàng đầu và xuyên suốt quá trình thi
hành phán quyết trọng tài vẫn là biện pháp giáo dục và thuyết phục. Tuy vậy,
trong nhiều trường hợp, khi biện pháp giáo dục thiếu tính khả thi, rõ ràng, lúc
đó cơ quan THADS mới áp dụng biện pháp cưỡng chế, tức là việc cơ quan
THADS có thẩm quyền sử dụng quyền năng mà pháp luật trao cho để buộc
bên phải thi hành phán Trọng tài thực hiện nghĩa vụ của họ đối với bên được
thi hành phán quyết Trọng tài mà nghĩa vụ đó đã được ấn định trong phán
quyết để đảm bảo phán quyết Trọng tài được thi hành trên thực tế, đảm bảo
quyền, lợi ích các bên cũng như uy quyền của Nhà nước. Hài hòa giữa giáo
dục thuyết phục và áp dụng cưỡng chế khi cần thiết không những giúp cho
quá trình thi hành phán quyết Trọng tài thuận lợi, đạt hiệu quả cao mà còn
góp phần nâng cao ý thức pháp luật của các thương nhân, doanh nghiệp, hạn
chế tối đa những thiệt hại về vật chất và những hệ lụy về mặt tinh thần đối với
các bên tranh chấp và các cá nhân, tổ chức có liên quan.
*Nguyên tắc về trình tự, thủ tục thi hành phán quyết Trọng tài
Khi một trong các bên tham gia tranh chấp không tự nguyện thi hành
phán quyết TTTM thì Chấp hành viên cơ quan THADS – người được Nhà
nước giao nhiệm vụ thi hành án bản án có hiệu lực pháp luật phải tổ chức kịp
thời, đầy đủ, theo đúng quy định của pháp luật và tuyệt đối không được tùy
tiện thay, sửa đổi nội dung phán quyết cũng như trì hoãn hoặc kéo dài thời
gian giải quyết mà không có căn cứ pháp luật, đồng thời phải tuân thủ nghiêm
ngặt trình tự thủ tục tổ chức thi hành phán quyết Trọng tài và phải chịu trách
nhiệm trước chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án và đươc

pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín. Nguyên
tắc này chống những tiêu cực có thể phát sinh trong quá trình thi hành phán
quyết Trọng tài cũng như bảo vệ được quyền và lợi ích của các đương sự.
1.3.3. Vai trò của thi hành phán quyết trọng tài


×