Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Pháp luật về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất cho các mục đích quốc gia, công cộng và thực tiễn thi hành tại thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (921.26 KB, 94 trang )

B GIO DC V O TO

B T PHP

TRNG I HC LUT H NI

Tễ TH THANH HNG

Pháp luật về quyền và nghĩa vụ
của ng-ời sử dụng đất khi nhà n-ớc thu hồi đất
cho các mục đích quốc gia, công cộng và thực tiễn
thi hành tại thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2018


B GIO DC V O TO

B T PHP

TRNG I HC LUT H NI

Tễ TH THANH HNG

Pháp luật về quyền và nghĩa vụ
của ng-ời sử dụng đất khi nhà n-ớc thu hồi đất
cho các mục đích quốc gia, công cộng và thực tiễn
thi hành tại thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn


LUN VN THC S LUT HC

Chuyờn ngnh : Lut kinh t
Mó s

: 8 38 01 07

Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS Nguyn Th Nga

H NI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích
dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Tô Thị Thanh Hƣơng


MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU

1


Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA HỘ GIA
ĐÌNH, CÁ NHÂN KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT

1.1. Lý luận chung về thu hồi đất

5
5

1.2. Lý luận pháp luật về quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình khi Nhà
nước thu hồi đất

11

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ HỘ
GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT VÀ
THỰC TIỄN THỰC THI TẠI THÀNH PHỐ LẠNG SƠN

23

2.1. Thực trạng pháp luật về các quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá
nhân khi Nhà nước thu hồi đất

23

2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về quyền và nghĩa vụ của hộ gia
đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn thực thi tại thành
phố Lạng Sơn
2.3


44

Đánh giá chung công tác thu hồi đất và việc thực hiện quyền, nghĩa
vụ của hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất trên địa bàn thành phố
Lạng Sơn

50

Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NHẰM ĐẢM BẢO THỰC HIỆN
CÓ HIỆU QUẢ QUYỀN, NGHĨA VỤ CỦA HỘ GIA ĐÌNH,
CÁ NHÂN BỊ THU HỒI ĐẤT TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ
LẠNG SƠN

64

3.1. Yêu cầu về công tác thu hồi đất và đảm bảo quyền, nghĩa vụ của hộ
gia đình bị thu hồi đất trên địa bàn thành phố Lạng Sơn

64

3.2. Giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện có hiệu quả quyền, nghĩa vụ của
hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất trên địa bàn thành phố Lạng Sơn

66

KẾT LUẬN

75

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHÀO



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

GPMB

: Giải phóng mặt bằng

GCNQSDĐ : Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
QSDĐ

: Quyền sử dụng đất

TĐC

: Tái định cư

UBND

: Ủy ban nhân dân


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai có vai trò đặc biệt quan trọng đối với đời sống của con người, ngoài
chức năng vốn có của nó là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế, thành phần
quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố các khu dân cư, xây
dựng các công trình kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng thì trong thời

kỳ phát triển kinh tế mới, đất đai còn có thêm chức năng tạo nguồn vốn và thu hút
cho đầu tư phát triển mang ý nghĩa rất quan trọng. Trên con đường công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, để đưa đất đai thực sự trở thành nguồn vốn, nguồn thu hút
cho các nhà đầu tư phát triển thì hàng loạt những khu đô thị mới quy mô hiện đại đã
ra đời, các khu đô thị cũ được cải tạo nâng cấp và phát triển ngày càng mở rộng.
Thành phố Lạng Sơn là thành phố công nghiệp trẻ, có ưu thế về vị trí địa lý,
điều kiện tự nhiên, thuận lợi phát triển giao thông vận tải, du lịch. Kết cấu hạ tầng
của thành phố đang ngày càng hoàn thiện, công tác chỉnh trang, đô thị hóa diễn ra
nhanh, nhiều dự án lớn của thành phố và Trung ương đã và đang triển khai trên địa
bàn làm cho công tác quy hoạch, chỉnh trang đô thị được thực hiện đều khắp và
đồng bộ, tạo ra diện mạo đô thị trẻ ngày càng sầm uất, hấp dẫn. Trong quá trình
thực hiện dự án đầu tư xây dựng thì thu hồi đất là khâu đầu tiên không thể thiếu
được và nó ảnh hưởng trực tiếp tới tiến độ dự án.
Trong thời gian qua, vấn đề thu hồi đất và giải phóng mặt bằng (GPMB) để
thực hiện các dự án là lĩnh vực hết sức nhạy cảm, phức tạp vì nó liên quan đến
quyền và lợi ích của nhiều đối tượng khác nhau, có liên quan đến nhiều cấp, nhiều
ngành. Muốn vấn đề GPMB được thuận lợi để các dự án phát triển nhanh thì cần
đảm bảo quyền lợi cho hộ gia đình bị thu hồi đất trong vùng quy hoạch, có chính
sách bồi thường hợp lý đem lại lợi ích cho Nhà nước, chủ đầu tư và những người bị
thu hồi đất.
Từ những vấn đề trên, tôi chọn đề tài về "Pháp luật về quyền và nghĩa vụ
của người sử dụng đất khi nhà nước thu hồi đất cho các mục đích quốc gia, công
cộng và thực tiễn thi hành tại thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn" làm đề tài của
luận văn nhằm đi sâu tìm hiểu xem trong công tác thu hồi đất thì hộ gia đình sử
dụng đất được hưởng những quyền lợi gì và nghĩa vụ của họ ra sao, đồng thời qua


2

đó người dân đã ý thức được vai trò của mình như thế nào góp phần thúc đẩy việc

hoàn thành sớm các dự án.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Trong thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều đề tài, luận
văn đề cập đến công tác thu hồi đất GPMB. Thành quả của những công trình đó đã
cung cấp những luận cứ khoa học, thực tiễn cho việc xây dựng, triển khai công tác
công tác GPMB ở từng địa phương nói riêng và của cả nước nói chung.
Có thể lược khảo một số công trình như: Đánh giá thực trạng công tác thu
hồi, bồi thường, giải phóng mặt bằng của một số dự án trên địa bàn thị xã Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh, của Nguyễn Thị Minh Tâm, Luận văn thạc sĩ Nông nghiệp chuyên
ngành Quản lý đất đai, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, 2010; Đo lường sự
ảnh hưởng về kinh tế của chính sách giải tỏa đền bù đến các hộ dân tái định cư trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng, của Phạm Quang Tín, đăng trên Tạp chí Khoa học và
Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, số 4(39), 2010; Giải pháp hoàn thiện công tác bồi
thường giải phóng mặt bằng của các dự án trên địa bàn huyện Lý Nhân tỉnh Hà
Nam, của Nguyễn Hùng Cường, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Nông nghiệp
Hà Nội, 2011; Quản lý nhà nước về giải phóng mặt bằng trên địa bàn quận Sơn
Trà, của Huỳnh Hạnh, Luận văn Thạc sĩ - Học viện Hành chính Quốc gia, 2015; Tái
định cư trong các dự án phát triển: chính sách và thực tiễn, của TS. Phạm Mộng
Hoa - TS. Lâm Mai Lan, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000); GS.TSKH. Đặng
Hùng Võ, Giải phóng mặt bằng, còn nhiều khiếu kiện, Báo Kinh tế và Đô thị, số ra
ngày 09/10/2006; TS. Trần Quang Huy, Chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi
đất, Tạp chí Luật học, số 10/2010; TS. Nguyễn Quang Tuyến, Công khai minh bạch
để bảo vệ quyền lợi của người bị thu hồi đất, Tạp chí Luật học, số 3/2012; TS.
Doãn Hồng Nhung (Chủ biên), Pháp luật về định giá đất trong bồi thường, giải
phóng mặt bằng ở Việt Nam, sách chuyên khảo, Nxb Tư pháp, 2013...
Có thể thấy, các công trình nghiên cứu đã nêu trên chủ yếu tập trung nghiên
cứu về vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư (TĐC) khi Nhà nước thu hồi đất mà
chưa có công trình nghiên cứu nào tiếp cận ở khía cạnh quyền và nghĩa vụ của
người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi mà trong đó vấn đề bồi thường, hỗ trợ,
TĐC chỉ là một quyền trong một chuỗi các quyền, còn nghĩa vụ của người có đất bị
thu hồi lại chưa được các công trình nghiên cứu, đề cập. Đề tài luận văn sẽ nghiên

cứu chuyên sâu về vấn đề này.


3

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích
Nhằm nghiên cứu một cách cụ thể và chi tiết quyền và nghĩa vụ của người
sử dụng đất khi nhà nước thu hồi đất, bên cạnh đó giúp ta hiểu thêm về các chế định
về khiếu nại, khiếu kiện và tố cáo trong thu hồi đất, công tác đền bù, GPMB, những
kết quả đạt được cũng như những vướng mắc trong vấn đề này so với thực tiễn, từ đó
đưa ra giải pháp khắc phục, góp phần bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người dân.
* Nhiệm vụ
- Nghiên cứu tổng quan các chính sách, quy định pháp lý về công tác
GPMB của Nhà nước ta từ sau khi có Luật đất đai 2013 đến nay.
- Thu thập, tài liệu số liệu về công tác bồi thường, GPMB các dự án trên địa
bàn thành phố Lạng Sơn qua đó đánh giá, phân tích thực trạng công tác thu hồi đất,
làm rõ những nguyên nhân, những khó khăn vướng mắc trong GPMB của các dự án.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước về GPMB
của các dự án trên địa bàn thành phố Lạng Sơn.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu
Quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình bị thu hồi đất theo pháp luật đất đai hiện
hành và đặt vấn đề nghiên cứu các quyền và nghĩa vụ cụ thể trong một số dự án
theo Luật đất đai 2013 qua thực tiễn thành phố Lạng Sơn.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu về quyền và nghĩa vụ của hộ
gia đình bị thu hồi đất tại các dự án trên địa bàn thành phố Lạng Sơn. Cụ thể như
quyền được đảm bảo lợi ích hợp pháp, quyền được đền bù khi giải tỏa, quyền được
biết về quy hoạch, cũng như quyền khiếu nại, khiếu kiện, tố cáo khi quyền lợi của

họ bị xâm phạm do công tác thu hồi đất, GPMB của nhà nước. Từ đó nhìn thấy
được thực trạng khiếu nại, khiếu kiện và thực tiễn triển khai quyền và nghĩa vụ của
người dân trong việc thu hồi đất, GPMB
- Về thời gian: Dữ liệu phục vụ cho nghiên cứu đánh giá thực hiện từ sau
khi Luật Đất đai 2013 có hiệu lực.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu đề tài, có thể sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp. Trong
đó được sử dụng như là phương pháp luận để xem xét toàn bộ vấn đề của đề tài,


4

phương pháp sưu tầm và tổng hợp những bài nghiên cứu, ý kiến của các luật gia, dự
thảo luật,... kết hợp với phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu các quy định của
pháp luật nhằm tìm ra những điểm mới, những điểm hạn chế để từ đó có một bài
nghiên cứu hoàn chỉnh
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
* Ý nghĩa lý luận
Thông qua việc nghiên cứu, phân tích việc thực hiện các quy định pháp luật
về quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình bị thu hồi đất qua thực tiễn thành phố Lạng
Sơn để thấy được những mặt tích cực cũng như vướng mắc, bất cập trong các quy
định của Nhà nước về quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình bị thu hồi đất và rút ra
những bài học kinh nghiệm trong quá trình triển khai thực thi những quy định đó
trong thực tiễn nhằm góp phần hạn chế những khiếu nại, khiếu kiện và công tác thu
hồi đất nói riêng và công tác GPMB nói chung.
* Ý nghĩa thực tiễn
- Giúp nhìn nhận chính xác, khách quan thực trạng việc thực hiện quyền và
nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất trên địa bàn thành phố Lạng Sơn.
- Giúp cho cơ quan quản lý nhà nước về đất đai cấp quận tổng hợp, cập
nhật, nắm bắt thông tin liên quan đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của hộ gia

đình bị thu hồi đất kịp thời, chính xác, đầy đủ để đưa ra những giải pháp góp phần
hạn chế những khiếu nại, khiếu kiện và công tác thu hồi đất nói riêng và công tác
GPMB nói chung.
- Áp dụng một vài giải pháp phù hợp vào chính hoạt động thu hồi đất trên
địa bàn thành phố Lạng Sơn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân
khi Nhà nước thu hồi đất
Chương 2: Thực trạng thực hiện quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân
bị thu hồi đất trên địa bàn thành phố Lạng Sơn
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện quyền, nghĩa vụ
của hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất trên địa bàn thành phố Lạng Sơn


5

Chƣơng 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ
CỦA HỘ GIA ĐÌNH, CÁ NHÂN KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT
1.1. Lý luận chung về thu hồi đất
1.1.1. Khái niệm thu hồi đất
Thu hồi đất là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong các văn bản pháp
luật đất đai. Nếu như giao đất, cho thuê đất là cơ sở để làm phát sinh quan hệ pháp
luật đất đai, phát sinh quyền sử dụng đất (QSDĐ) của người được Nhà nước trao
quyền sử dụng; thì thu hồi đất là một biện pháp làm chấm dứt quan hệ pháp luật đất
đai bằng một quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thông
qua những hoạt động này, Nhà nước thể hiện rất rõ quyền định đoạt đất đai, với tư
cách là đại diện chủ sở hữu đối với đất đai.

Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng: "Thu hồi: Lấy lại cái đã đưa ra, đã cấp
phát ra hoặc bị người khác lấy"1.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, thu hồi đất được hiểu là: "Cơ
quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi quyền sử dụng đất của người vi phạm quy
định về sử dụng đất để Nhà nước giao cho người khác sử dụng hoặc trả lại cho chủ
sử dụng đất hợp pháp bị lấn chiếm. Trường hợp thật cần thiết, Nhà nước thu hồi đất
đang sử dụng của người sử dụng đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh,
lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng"2. Khái niệm này thực ra cũng chưa hẳn là một
định nghĩa rõ ràng về thu hồi đất, mặc dù có đề cập các trường hợp thu hồi đất
nhưng nội hàm của khái niệm này chưa bao quát hết các trường hợp thu hồi đất của
Nhà nước. Nhà nước không chỉ thu hồi đất của người có hành vi vi phạm về sử
dụng đất hay thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc
gia, lợi ích công cộng, mà còn thu hồi đất khi có vi phạm từ phía cơ quan quản lý
như đất được giao không đúng đối tượng, không đúng thẩm quyền hoặc thu hồi khi
người sử dụng đất chết mà không có người thừa kế,…
Trong các văn bản luật đất đai ở từng thời kỳ cũng không đưa ra khái niệm
cụ thể về thu hồi đất mà chỉ liệt kê các trường hợp bị thu hồi đất (Điều 14 Luật Đất
đai năm 1987 và Điều 26 Luật Đất đai năm 1993).
1. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (2012), Từ điển tiếng Việt thông dụng, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 759.
2. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học (Luật Đất đai, Luật Lao động,
Tư pháp quốc tế), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.


6

Luật Đất đai năm 2003 giải thích thuật ngữ thu hồi đất tại Khoản 5 Điều 4:
"Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng
đất hoặc thu lại đất đã giao cho tổ chức, Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản
lý theo quy định của Luật này".
Dù đã có sự điều chỉnh và mở rộng nội hàm của vấn đề thu hồi đất, song cách

giải thích này là chưa thật sự chính xác, bởi nó dẫn đến cách hiểu, người sử dụng
đất bị thu hồi chỉ là tổ chức hay Ủy ban nhân dân UBND xã, phường thị trấn, trong
khi theo quy định pháp luật, người sử dụng đất bị thu hồi còn có thể là hộ gia đình,
cá nhân sử dụng đất, không những thế đây còn là chủ thể phổ biến bị thu hồi đất.
Điều chỉnh hợp lý hơn, đối tượng bao quát hơn và nội dung phủ rộng hơn
về vấn đề thu hồi đất là Luật Đất đai 2013. Theo đó tại Khoản 11 Điều 3 quy định:
"Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử dụng đất của
người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất
vi phạm pháp luật về đất đai". Như vậy, thu hồi đất là một biện pháp pháp lý làm
chấm dứt quan hệ pháp luật đất đai để phục vụ cho lợi ích của Nhà nước, của xã
hội, hoặc xử lý vi phạm pháp luật đất đai của người sử dụng đất. Hình thức pháp lý
của thu hồi đất được thể hiện bằng một quyết định hành chính của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
Với khái niệm nêu trên cho thấy, việc thu hồi đất chỉ được thực hiện một
cách hợp pháp khi chúng được thực hiện bởi Nhà nước (thông qua một hệ thống cơ
quan nhà nước có thẩm quyền) được phân cấp, phân quyền một cách cụ thể, rõ ràng
theo quy định của pháp luật. Ngoài Nhà nước ra thì không ai có thể tùy tiện thu hồi
đất của những người đang khai thác và sử dụng đất. Bên cạnh đó, khái niệm thu hồi
đất nêu trên cũng chỉ rõ, thu hồi đất được đặt ra đối với những QSDĐ của người sử
dụng đất mà Nhà nước đã trao quyền sử dụng hoặc thu hồi đất do người sử dụng đất
có hành vi vi phạm pháp luật đất đai. So với Luật Đất đai 2003 trước đây định nghĩa
về khái niệm thu hồi đất như đã đề cập ở trên thì khái niệm thu hồi đất trong Luật
Đất đai 2013 thể hiện tính khái quát và khoa học hơn, phạm vi thu hồi đất cũng
được mở rộng hơn. Theo đó, nếu trước đây, thu hồi đất chỉ đặt ra đối với đất được
Nhà nước giao thì nay thuật ngữ "giao" được thay thế bằng thuật ngữ "trao" nghĩa là
Nhà nước thu hồi đất của người sử dụng đất mà Nhà nước đã trao QSDĐ cho họ
trước đó. Với sự thay đổi thuật ngữ này, chúng sẽ bao quát đầy đủ cơ sở phát sinh
QSDĐ của các chủ thể, và theo đó, khi Nhà nước với vai trò chủ sở hữu đại diện



7

toàn dân về đất đai có quyền xác lập - làm phát sinh QSDĐ đối với người sử dụng
thì Nhà nước bằng quyền lực của mình cũng có quyền làm chấm dứt QSDĐ của họ,
lẽ dĩ nhiên là việc chấm dứt đó phải có cơ sở và căn cứ pháp lý xác đáng.
Thu hồi đất là biện pháp pháp lý làm chấm dứt quan hệ pháp luật đất đai.
Hình thức pháp lý này là một quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền về giao đất, cho thuê đất. Biện pháp này thể hiện quyền lực nhà nước trong tư
cách là người đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai. Vì vậy, để thực thi nội dung
này, quyền lực nhà nước được thể hiện nhằm đảm bảo lợi ích của Nhà nước, của xã
hội đồng thời lặp lại trật tự kỷ cương trong quản lý nhà nước về đất đai. Để đảm bảo
hiểu đúng và đầy đủ thì nội hàm của vấn đề thu hồi đất phải được hiểu ở khía cạnh
sau đây:
- Là một quyết định hành chính của người có thẩm quyền nhằm chấm dứt
quan hệ sử dụng đất của người sử dụng;
- Quyết định hành chính thể hiện quyền lực nhà nước nhằm thực thi nội
dung của quản lý nhà nước về đất đai;
- Việc thu hồi đất xuất phát từ nhu cầu của Nhà nước và xã hội hoặc là biện
pháp chế tài được áp dụng nhằm xử lý các hành vi vi phạm pháp luật đất đai của
người sử dụng hoặc vì những lý do tự nhiên, khách quan khác mà theo quy định của
pháp luật buộc phải chấm dứt QSDĐ của một chủ thể.
1.1.2. Sự cần thiết thu hồi đất
"Đất là mẹ, sức lao động là cha đã sản sinh ra mọi của cải vật chất", C. Mác
đã khẳng định như vậy. Đúng là như thế, cha ông ta đã từng nói "tấc đất, tấc vàng".
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá của dân tộc ta, nó còn là tư liệu sản
xuất không gì có thể thay thế được trong sản xuất nông nghiệp.
Tính đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2016, tổng diện tích đất tự nhiên của
nước ta là 33.123.078 ha, bao gồm: Diện tích nhóm đất nông nghiệp: 27.284.906 ha;
diện tích nhóm đất phi nông nghiệp: 3.725.374 ha; diện tích đất chưa sử dụng:
2.112.798 ha.

Qua đó ta thấy diện tích đất chưa sử dụng còn khá nhiều mà chỉ tập trung vào
khu vực có điều kiện khó khăn. Mặt khác, dân số nước ta hiện nay khoảng 93,7 triệu
người, đứng thứ 14 trên thế giới. Nhưng dân cư phân bố không đồng đều, phần lớn
là tập trung vào các khu đô thị, các thành phố lớn. Theo số liệu đến năm 2015 của
Tổng cục Thống kê, Thành phố Hồ Chí Minh có tổng diện tích 2.095,5 km2, dân số


8

8.136,3 nghìn. Như vậy, mật độ dân số ở thành phố này là 3.888 người/km 2, cao
nhất cả nước. Hà Nội có tổng diện tích 3.324,5 km 2, dân số 7.216 nghìn. Mật độ
dân số của Hà Nội là 2.171 người/km2, cao thứ hai. Dân cư chủ yếu tập trung đông
ở những nơi kinh tế phát triển, có điều kiện tự nhiên thuận lợi. Trong khi những
khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao, điều kiện khó khăn thì dân cư ít sinh
sống và đây cũng là những vùng mà có diện tích đất bỏ hoang chưa đưa vào sử
dụng còn rất lớn.
Sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), chúng ta
đã đạt được những thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội, đã và đang tạo ra môi trường
kinh doanh thuận lợi, tạo ra nhiều cơ hội đầu tư mới cho nhà đầu tư trong và ngoài
nước. Khi nắm được thông tin Việt Nam sẽ gia nhập WTO, nhiều nhà đầu tư nước
ngoài đã "đón đầu" sự kiện, tích cực đầu tư vào Việt Nam. Chính vì vậy, từ năm
2006 nguồn vốn FDI vào Việt Nam đã tăng mạnh. Theo báo cáo của Vụ Quản lý
các khu kinh tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến hết tháng 5 năm 2017, cả nước có
325 khu công nghiệp được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên 94,9 nghìn ha.
Diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê đạt 64 nghìn ha, chiếm khoảng 67% tổng
diện tích đất tự nhiên. Các khu công nghiệp được thành lập trên 60 tỉnh, thành phố,
chủ yếu tập trung tại các vùng kinh tế trọng điểm nhằm phát huy lợi thế về vị trí địa
lý và tiềm năng phát triển kinh tế của các vùng. Chính vì vậy, nhu cầu về đất đai
cho các dự án đầu tư trong và ngoài nước là một vấn đề rất cần thiết và quan trọng.
Đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nên việc

chuyển đổi mục đích sử dụng đất, triển khai các dự án lớn để phát triển kinh tế - xã
hội diễn ra mang tính quy luật. Vì vậy, Nhà nước cần lấy đi một phần đất để xây
dựng khu công nghiệp, khu đô thị mới và xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ phát
triển kinh tế - xã hội chung của đất nước. Tuy nhiên, việc lấy đất đã giao cho nông
dân sử dụng ổn định lâu dài để chuyển thành đất xây dựng là một vấn đề hết sức
nhạy cảm và phức tạp, cần cân nhắc và đòi hỏi có sự giải quyết thấu tình, đạt lý của
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thu hồi đất.
Các quy định của Luật Đất đai về thu hồi đất đã phần nào phù hợp với điều
kiện mới của đất nước và đã được thực thi trong cuộc sống, thúc đẩy phát triển kinh
tế góp phần ổn định chính trị xã hội. Việc sử dụng đất có hiệu quả hơn trong việc
xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển công nghiệp, dịch vụ và xây dựng đô thị hóa
làm thay đổi bộ mặt đô thị theo hướng văn minh hiện đại.


9

1.1.3. Những tác động, ảnh hưởng của việc thu hồi đất tới đời sống, sinh
hoạt của các hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất
Đất đai vừa là tư liệu sản xuất, vừa là môi trường sống của người dân. Do
đó mất đất, đồng nghĩa với mất chỗ ở, mất nơi tổ chức hoạt động sản xuất kinh
doanh. Nói cách khác, việc thu hồi đất của Nhà nước đã ảnh hưởng bất lợi đến
người dân bị mất đất trên các phương diện sau đây.
1.1.3.1. Mất chỗ ở
Chỗ ở của người dân không chỉ đơn thuần là nơi họ ăn, ngủ mà còn gắn với
tài sản, môi trường, các mối quan hệ kinh tế, xã hội, văn hóa đã gắn họ với địa bàn
đó. Khi thu hồi đất, Nhà nước không chỉ thu hồi quyền sử dụng diện tích đất, mà còn
tước đi của họ cơ hội tiếp nối cuộc sống quen thuộc của họ, buộc họ phải chuyến
sang một địa bàn mới với các quan hệ và cơ hội không giống trước. Đối với những
người khó thích nghi với điều kiện mới, nhất là đối với nông dân đã trên 40 tuổi, đối
với những người gắn với làng nghề truyền thống thì việc di dời là một biến cố nặng

nề. Nhiều người chưa được chuẩn bị sẵn cho việc di chuyển như vậy nên tương lai
của họ sẽ khó khăn hơn. Hơn nữa, khi chuyển nhà, các chi phí phát sinh do cần xây
dựng lại nhà cửa, vườn tược, tạo dựng hạ tầng sinh hoạt, dịch vụ chung... khá lớn,
nếu không có sự hỗ trợ bên ngoài, nhiều người dân mất đất không thể tự giải quyết
được. Đặc biệt, khi di dời bất đắc dĩ chỗ ở do đất bị thu hồi, nhiều người dân có tâm
lý không thoải mái, tâm lý bị thua thiệt. Nếu không có sự đả thông tư tưởng và một
số hình thức bồi thường thích hợp, những người dân mất chỗ ở có thể bị kích động,
phản ứng tiêu cực với chính sách thu hồi đất của Nhà nước.
1.1.3.2. Mất tư liệu sản xuất
Đất bị thu hồi là đất nông nghiệp hay phi nông nghiệp đều là tư liệu sản
xuất quan trọng của người sử dụng đất cũ. Khi Nhà nước thu hồi có bồi thường
bằng diện tích đất khác đi chăng nữa cũng làm cho người bị mất đất thua thiệt trên
các phương diện: mất địa thế của địa điểm đã quen dùng; mất một phần thành quả
đầu tư vào đất. Chính vì vậy, người sử dụng đất không muốn giao đất cho Nhà nước
nếu không được bồi thường xứng đáng.
Sự mất mát, thua thiệt, tâm lý lo sợ tương lai không rõ ràng khiến nhiều
người tìm mọi cách để không phải giao đất cho Nhà nước, từ vận động hành lang
quy hoạch đến chây ì, phản đối tập thể... Muốn thu hồi đất hiệu quả, Nhà nước phải
có phương án giải quyết thỏa đáng các mâu thuẫn này.


10

1.1.3.3. Bất ổn định về tâm lý, tình cảm, nếp sống và sinh hoạt của người bị
thu hồi đất
Với mỗi người dân, đất đai không chỉ đơn thuần là nơi ăn chốn ở, nguồn
sống, việc làm mà cao hơn ý nghĩa đó - đất đai là biểu tượng của "nơi chôn rau, cắt
rốn", là nơi cội nguồn của gia đình, dòng tộc "quê cha, đất tổ", nơi mà mỗi thành
viên trong gia đình, làng xóm, thôn bản... được sinh ra, lớn lên, tồn tại đều gắn bó,
hòa quyện. Vì lẽ đó, sự rời xa là vấn đề không phải dễ dàng đối với họ. Chính vì

vậy, thu hồi đất, chấm dứt cuộc sống trên những mảnh đất mà họ đã gắn bó cần phải
được nhìn nhận một cách thấu đáo, cần chú trọng không chỉ sự bù đắp về những
thiệt hại dưới khía cạnh vật chất, mà còn dành sự quan tâm thích đáng đến khía
cạnh tâm lý, tình cảm và các yếu tố văn hóa, tâm linh. Chỉ như vậy thì việc thu hồi
đất của những người đang sử dụng đất sử dụng cho mục đích quốc phòng, an ninh,
phát triển kinh tế, xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng đặt ra mới thấu tình đạt lý,
mới tìm được sự đồng thuận lớn của nhà nước, người dân và nhà đầu tư.
1.1.3.4. Bức xúc vì phân chia lợi ích không công bằng
Do chuyển mục đích sử dụng đất hoặc xây dựng cơ sở hạ tầng trên đất thu
hồi sẽ làm cho một số chủ thể kinh tế có lợi ích tăng lên (ví dụ như doanh nghiệp
nhận đất xây khu đô thị, người có đất hai bên đường mới làm...) đi đôi với thua thiệt
trông thấy của người mất đất dẫn đến các xung đột lợi ích gay gắt. Người mất đất sẽ
càng cảm thấy mình bị đối xử bất công hơn khi hàng xóm của mình giàu lên không
nhờ công sức của họ mà nhờ đất của mình bỏ ra làm đường, hoặc sẽ phẫn nộ khi giá
bồi thường cho họ thấp hơn nhiều giá đất doanh nghiệp bán cho họ...
Công tác TĐC khó khăn cũng làm cho người dân bị mất đất thua thiệt. Do
nhiều địa phương thiếu quỹ đất nông nghiệp để bồi thường thích đáng cho nông
dân, nên nhiều nông dân, sau khi nhận tiền đền bù, đã không có công ăn việc làm,
không có kinh nghiệm kinh doanh nên tiền bồi thường nhanh chóng tiêu hao. Nơi ở
mới nhiều khi không được xây dựng cơ sở hạ tầng hoàn thiện làm cho cuộc sống
của họ càng khó khăn hơn. Chính vì thế, nhiều người dân mất đất, hoặc rơi vào nghèo
khó, hoặc rơi vào tệ nạn xã hội, trở thành gánh nặng cho chính họ và cho xã hội.
Ngoài ra, việc thu hồi đất không chỉ gây tác động bất lợi cho người mất đất
mà còn tạo thêm sức ép cho Nhà nước về phương diện tài chính, quản lý và điều
hành. Chính vì thu hồi đất có nhiều tác động không mong muốn như vậy nên Nhà
nước, một mặt phải có quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất hợp lý, dài hạn, ổn định,


11


nhằm hạn chế xáo trộn; mặt khác, phải xây dựng chính sách bồi thường, hỗ trợ và
TĐC đối với người dân bị mất đất một cách hợp lý.
1.2. Lý luận pháp luật về quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình khi Nhà
nƣớc thu hồi đất
1.2.1. Khái niệm quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân khi Nhà
nước thu hồi đất
1.2.1.1 Khái niệm quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất
Theo Từ điển Luật học thì khái niệm quyền công dân được hiểu "là khả
năng tự do lựa chọn hành vi của công dân mà Nhà nước phải bảo đảm khi công dân
yêu cầu"3, còn nghĩa vụ công dân "là việc Nhà nước đòi hỏi công dân phải thực hiện
những hành vi cần thiết khi Nhà nước yêu cầu, nếu không thực hiện thì Nhà nước
buộc phải áp dụng bằng mọi biện pháp từ giáo dục, thuyết phục đến cưỡng chế"4.
Theo giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật 2000, quyền và nghĩa vụ của
chủ thể được hiểu như sau: Quyền chủ thể "là cách xử sự mà pháp luật cho phép
chủ thể được tiến hành. Nói cách khác, quyền chủ thể là khả năng của chủ thể xử sự
theo cách thức nhất định được pháp luật cho phép. Nói là khả năng có nghĩa là chủ
thể có thể lựa chọn giữa việc xử sự theo cách thức mà nó được phép tiến hành hoặc
không xử sự như vậy"5; còn nghĩa vụ chủ thể được quan niệm "là cách xử sự mà
Nhà nước bắt buộc chủ thể phải tiến hành nhằm đáp ứng việc thực hiện quyền của
chủ thể khác. Nghĩa vụ pháp lý tự nó không phải là hành vi mà chỉ là sự cần thiết
phải xử sự như vậy. Nếu sự cần thiết ấy được thể hiện trong hoạt động thực tiễn thì
nghĩa vụ pháp lý đó đã được thực hiện"6.
Như vậy, có thể thấy quyền và nghĩa vụ là hai mặt thống nhất không thể
tách rời, bất cứ khi nào một chủ thể tham gia vào một quan hệ pháp luật thì chủ thể
đó luôn luôn được hưởng các quyền do pháp luật quy định và được Nhà nước bảo
hộ các quyền này. Nhưng đồng thời, họ cũng phải gánh vác các nghĩa vụ, trách
nhiệm nhằm đáp ứng các quyền của chủ thể khác và Nhà nước cũng có trách nhiệm
đảm bảo việc thực hiện các nghĩa vụ trên thực tế. Không thể có chuyện một chủ thể
3. Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr. 649.
4. Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr. 561.

5. Trường Đại học Luật Hà Nội (2000), Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội, tr. 448.
6. Trường Đại học Luật Hà Nội (2000), Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp luật, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội, tr. 449.


12

chỉ được hưởng quyền mà không phải thực hiện bất kỳ nghĩa vụ pháp lý nào và
ngược lại khi tham gia vào một quan hệ pháp luật cụ thể.
Trong quan hệ đất đai, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất có thể
được hiểu như sau: "Quyền của người sử dụng đất là khả năng mà pháp luật cho
phép người sử dụng đất được thực hiện những hành vi nhất định trong quá trình sử
dụng đất nhằm sử dụng đất đúng mục đích, tiết kiệm và đạt hiệu quả kinh tế cao".
Nghĩa vụ của người sử dụng đất "là cách xử sự mà pháp luật bắt buộc người sử
dụng đất phải tiến hành trong quá trình sử dụng đất nhằm không làm tổn hại đến
quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước và của các chủ thể sử dụng đất khác"7.
Cũng cần lưu ý trong quan hệ đất đai, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất một
mặt do pháp luật quy định sẵn như: quyền được cấp giấy chứng nhận, được Nhà
nước bồi thường khi thu hồi đất, quyền được Nhà nước bảo vệ khi người khác xâm
hại hay người sử dụng đất phải thực hiện nghĩa vụ tài chính cho Nhà nước khi sử
dụng đất, có nghĩa vụ sử dụng đất đúng mục đích, giao lại đất khi có quyết định thu
hồi; mặt khác, các quyền và nghĩa vụ có thể do chính người sử dụng đất tạo ra (như
khi khai thác sử dụng đất phát hiện được tài nguyên, khoáng sản…) hoặc lựa chọn
khi bắt đầu tham gia quan hệ pháp luật đất đai, trong suốt quá trình sử dụng đất và
cho đến khi kết thúc quan hệ pháp luật đất đai (thông qua việc lựa chọn hình thức sử
dụng đất) hay lựa chọn phương thức trả tiền thuê đất hàng năm hay thuê đất trả tiền
một lần cho toàn bộ thời gian thuê.
Theo quy định của pháp luật đất đai hiện hành, các chủ thể khi tham gia
quan hệ pháp luật đất đai, không phân biệt chủ thể đó là tổ chức, hộ gia đình, cá

nhân, chủ thể đó là trong nước hay nước ngoài, chủ thể đó sử dụng đất cho mục
đích nông nghiệp hay phi nông nghiệp... họ đều được hưởng các quyền chung theo
quy định tại Điều 166 Luật Đất đai 2013 và đều phải thực hiện các nghĩa vụ theo
quy định tại Điều 170 Luật Đất đai 2013. Đối với hộ gia đình, cá nhân, tùy thuộc
vào hình thức sử dụng đất khác nhau, nguồn gốc hình thành QSDĐ khác nhau, họ
còn được hưởng các quyền tương ứng được quy định tại Điều 179 Luật Đất đai
2013. Nghiên cứu các quy định này có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu các
cơ sở tiền đề và những đảm bảo của Nhà nước đối với các quyền của người sử dụng
đất nói chung và những đảm bảo đối với các quyền của người đang sử dụng đất bị
Nhà nước thu hồi nói riêng.
7. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật đất đai, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tTr 191.


13

Cùng với việc được hưởng các quyền, người sử dụng đất phải thực hiện các
nghĩa vụ như: Sử dụng đất đúng mục đích, đúng ranh giới thửa đất, đúng quy định
về độ sâu trong lòng đất và chiều cao trên không, bảo vệ các công trình công cộng
trong lòng đất và tuân theo các quy định khác của pháp luật có liên quan; thực hiện
và kê khai đăng ký đất đai; làm đầy đủ thủ tục khi chuyển đổi, chuyển nhượng, cho
thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho QSDĐ, thế chấp, góp vốn bằng QSDĐ; thực
hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật; thực hiện các biện pháp bảo vệ
đất; tuân theo các quy định về việc tìm thấy vật trong lòng đất; giao lại đất khi có
quyết định thu hồi đất, khi hết thời hạn sử dụng đất mà không được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền gia hạn sử dụng. Khi có quyết định thu hồi, người sử dụng đất
phải tuyệt đối chấp hành, người nào vi phạm sẽ bị Nhà nước cưỡng chế thu hồi.
Nghiên cứu các nghĩa vụ của người sử dụng đất cho phép người nghiên cứu
rút ra nhận định rằng, với bổn phận và trách nhiệm của người sử dụng đất được Nhà
nước trao QSDĐ, được hưởng các quyền trong quá trình sử dụng đất thì họ cũng
đồng thời phải thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước, với cộng đồng và toàn xã

hội trong quá trình sử dụng đất, trong đó có nghĩa vụ phải thực hiện khi Nhà nước
thu hồi đất để sử dụng cho mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế xã hội
vì lợi ích quốc gia, công cộng.
1.2.1.2 Khái niệm quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân khi Nhà
nước thu hồi đất
Bên cạnh các quyền và nghĩa vụ chung nêu trên, tùy thuộc vào từng mối
quan hệ đất đai được xác lập giữa người sử dụng đất với Nhà nước hoặc giữa những
người sử dụng đất với nhau, với tính chất và đặc điểm khác nhau, Nhà nước quy
định các quyền và nghĩa vụ riêng tương ứng. Các quyền và nghĩa vụ riêng này nhằm
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất trong mối quan hệ ấy
được đảm bảo duy trì, bảo vệ và có cơ chế đảm bảo cho quyền đó được thực hiện có
hiệu quả. Cùng với đó, người sử dụng đất cũng phải thực hiện các nghĩa vụ tương
ứng cho phù hợp với tính chất của quan hệ mà mình đang thiết lập thể hiện nghĩa vụ
cơ bản của công dân, tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật; mặt khác,
thực hiện nghĩa vụ của mình trước Nhà nước hay đối với chủ thể khác cũng chính là
cơ hội để thúc đẩy các quyền của mình được thực hiện và đảm bảo.
Trong quan hệ về thu hồi đất, mối quan hệ được thiết lập giữa một bên là
Nhà nước, một bên là người có đất bị thu hồi, ở mối quan hệ này, Nhà nước với tư


14

cách là đại diện chủ sở hữu luôn ở vị thế là bên có quyền, còn người sử dụng đất với
tư cách là bên có nghĩa vụ phải thực hiện. Tuy nhiên, do hệ quả bởi các quy định
thu hồi đất tác động và ảnh hưởng rất lớn đến đời sống, việc làm, tâm lý của người
dân như đã đề cập ở phần trên nên Nhà nước phải có trách nhiệm bù đắp những
thiệt hại, tổn thất cả về vật chất và tinh thần cho người có đất bị thu hồi bởi những
thiệt hại đó không do người sử dụng đất gây ra mà do tác động của quyết định thu
hồi đất của Nhà nước. Việc bù đắp này đối với người sử dụng đất của Nhà nước
được biểu hiện dưới dạng "Quyền" - đó là quyền được bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi

Nhà nước thu hồi đất. Bên cạnh đó, để đảm bảo quyền này được thực hiện trên cơ
sở của sự công bằng, minh bạch và khách quan, có cơ chế thiết thực để hiện thực
hóa trên thực tế, người có đất bị thu hồi còn được yêu cầu Nhà nước phải minh
bạch, công khai hóa từ quy trình, thủ tục thu hồi đất, đến cơ sở, căn cứ phê duyệt
phương án bồi thường, GPMB, nhằm đảm bảo sự công bằng, dân chủ và chính xác,
tuân thủ đúng pháp luật đối với công tác này. Hơn nữa, nếu người có đất bị thu hồi
thấy việc bồi thường, hỗ trợ, TĐC mà Nhà nước áp dụng cho mình chưa thỏa đáng,
chưa công bằng, thì Nhà nước còn cho phép người có đất bị thu hồi thực hiện quyền
công dân của mình - khiếu nại về quyết định hành chính, hành vi hành chính mà
mình cho rằng không thỏa đáng, hoặc được tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp
luật, xâm phạm tới lợi ích hợp pháp của mình trong quá trình thực hiện thu hồi đất,
bồi thường, hỗ trợ, TĐC.
Với các quyền nêu trên của người có đất bị thu hồi trên thực tế được đảm
bảo, quyền và lợi ích của người bị thu hồi được bù đắp, thì quay trở lại họ cũng
phải thực hiện nghĩa vụ của mình trước Nhà nước, nhà đầu tư và trước xã hội bởi
người sử dụng đất phải ý thức được rằng, quyết định thu hồi đất của Nhà nước
không phải phục vụ cho những mục đích cá nhân riêng lẻ, của nhóm lợi ích nào
mà là vì lợi ích chung của quốc gia, dân tộc, lợi ích chung của xã hội - đó là thu
hồi đất cho mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế xã hội vì lợi ích quốc
gia, công cộng.
Như vậy, với phân tích nêu trên có thể hiểu: Quyền và nghĩa vụ của hộ gia
đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất là khả năng của hộ gia đình, cá nhân được
hưởng các quyền và lợi ích khi Nhà nước thu hồi đất và trách nhiệm của người có
đất bị thu hồi phải thực hiện một hoặc một số hành vi nhất định nhằm đảm bảo cho
việc thu hồi đất của Nhà nước được thực hiện.


15

1.2.2. Lý luận pháp luật về quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân

khi Nhà nước thu hồi đất
1.2.2.1. Cơ sở của việc xây dựng pháp luật về quyền và nghĩa vụ của hộ gia
đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất
Với tư cách đại diện chủ sở hữu đất đai, Nhà nước trao QSDĐ cho các chủ
thể có nhu cầu sử dụng, đồng thời họ có quyền được hưởng thành quả lao động, kết
quả đầu tư trên đất được giao. Như vậy, QSDĐ đã được đại diện chủ sở hữu đất đai
chuyển giao cho người sử dụng đất, nó trở thành một loại quyền về tài sản thuộc sở
hữu của người sử dụng đất. Khẳng định như vậy bởi lẽ, người sử dụng đất được
pháp luật trao cho các quyền năng mở rộng trong quá trình thực hiện QSDĐ của
mình như chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho, thừa kế
QSDĐ, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị QSDĐ. Với những quyền năng
được ghi nhận và bảo hộ như vậy, dường như người sử dụng đất ở Việt Nam đã là
người được "sở hữu" một loại quyền về tài sản đó là "quyền sử dụng đất". Mặt khác,
quyền sở hữu tài sản của công dân là một quyền năng được pháp luật ghi nhận và
bảo hộ, điều này đã được khẳng định tại đạo luật gốc đó là Hiến pháp. Thật vậy,
Điều 12 Hiến pháp 1946 quy định: "Quyền sở hữu về tài sản của công dân Việt
Nam được bảo đảm". Tiếp đó, tại Hiến pháp 1992, Điều 58 cũng ghi nhận: "Công
dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh
hoạt, tư liệu sản xuất…Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế
của công dân"; Hiến pháp năm 2013 cũng đã quy định: "Mọi người có quyền sở hữu
về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sản xuất,…Quyền sở hữu tư
nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ" (Khoản 1, 2 Điều 32 Hiến pháp năm
2013). Như vậy, quyền sở hữu về tài sản hợp pháp của mọi cá nhân và tổ chức được
Hiến pháp ghi nhận và bảo hộ. Vì vậy, khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào
mục đích quốc gia, công cộng thì giá trị QSDĐ bị thu hồi và toàn bộ tài sản hợp
pháp gắn liền với đất bị thu hồi của người đang sử dụng đất sẽ được bồi thường theo
thời giá thị trường.
Căn cứ vào bản chất ưu việt của nhà nước ta. Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, là Nhà nước do nhân dân lao động thiết lập nên, đại diện cho ý
chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân. Điều này đã được ghi nhận trong Hiến

pháp, các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước và các văn kiện của Đảng. Nhà nước
theo đuổi sứ mạng cao cả và mang đầy tính nhân văn đó là phục vụ và chăm lo cho


16

lợi ích, sự phồn vinh của nhân dân, của xã hội. Về cơ bản, lợi ích của Nhà nước là
đồng nhất với lợi ích của nhân dân. Vì vậy, Nhà nước phải có trách nhiệm và nghĩa
vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Mặt khác, để phát huy nội lực,
tinh thần đoàn kết dân tộc và khơi dậy lòng yêu nước, sự tin tưởng đồng thuận của
người dân vào Đảng, vào Nhà nước, đóng góp hiệu quả vào sự nghiệp chấn hưng
đất nước, thì điều quan trọng là Nhà nước phải biết tôn trọng và bảo hộ những
quyền lợi chính đáng của người dân. Khi quyền và lợi ích hợp pháp của người sử
dụng đất bị thiệt hại do việc thu hồi đất của Nhà nước gây ra thì Nhà nước phải có
nghĩa vụ bồi thường. Việc làm này xuất phát từ lợi ích của người dân và cũng chính
là xuất phát từ nhu cầu tồn tại, sự phát triển kinh tế, xã hội của bản thân Nhà nước.
Hơn nữa, chủ thể được hưởng lợi từ việc Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục
đích quốc gia, công cộng là toàn thể mọi thành viên trong xã hội. Vì vậy, các thành
viên này phải có nghĩa vụ bù đắp thiệt hại cho người bị thu hồi đất thông qua Nhà
nước - tổ chức đại diện cho xã hội. Rõ ràng, khi Nhà nước thu hồi đất mà làm
phương hại đến lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất thì Nhà nước phải có trách
nhiệm bồi thường thiệt hại cho họ. Đối với đất ở khi thu hồi, Nhà nước có thể bồi
thường bằng tiền (tiền bồi thường đối với đất ở cao hơn gấp nhiều lần tiền bồi
thường đối với đất nông nghiệp), hoặc bồi thường bằng một mảnh đất ở khác hoặc
nhà ở tại khu TĐC. Nhưng đối với đất nông nghiệp việc bồi thường không đơn
giản, phương thức bồi thường bằng đất đã không phát huy tác dụng, bởi chúng ta
đâu còn đất nông nghiệp để bồi thường; việc bồi thường bằng tiền cũng không được
người dân đồng thuận trong nhiều trường hợp bởi sự chênh lệch quá lớn giữa đất
nông nghiệp và đất phi nông nghiệp. Hơn thế nữa, vấn đề đặt ra không đơn giản là
tiền bồi thường nhiều hay ít, mà là nhu cầu sống còn của người nông dân cần có đất

nông nghiệp để sản xuất, để duy trì cuộc sống đã không thể là hiện thực. Đây là vấn
đề lớn của xã hội trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần phải giải quyết
nó một cách hài hòa để đảm bảo ổn định xã hội. Bên cạnh đó do tâm lý bẩn ổn của
người dân trong quá trình Nhà nước thu hồi đất như đã phân tích ở phần khái niệm
thu hồi đất cũng là yếu tố ảnh hưởng tới tiến độ thực hiện các dự án. Xét thấy, Nhà
nước cần phải quan tâm đến việc xây dựng chính sách pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ khi thu hồi đất để đảm bảo được quyền của người sử dụng đất hài hòa với việc
thực hiện các nghĩa vụ về thu hồi đất (như tuân thủ phương án bồi thường, hỗ trợ,
TĐC, bàn giao mặt bằng theo đúng tiến độ..).


17

1.2.2.2. Khái niệm pháp luật về quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân
khi Nhà nước thu hồi đất
Bất cứ một lĩnh vực nào, một quan hệ xã hội nào phát sinh trong đời sống
xã hội cũng rất cần đến sự điều chỉnh của pháp luật, nhằm định hướng các quan hệ
này đi theo một trật tự chung thống nhất, phù hợp với lợi ích của Nhà nước, của các
bên tham gia quan hệ và vì lợi ích chung của toàn xã hội.
Trong lĩnh vực đất đai, cùng với quá trình thu hồi đất là hàng loạt các quy
phạm pháp luật được ban hành quy định về nguyên tắc, điều kiện, nội dung và
phương thức bồi thường, trình tự, thủ tục cũng như việc giải quyết các khiếu nại, tố
cáo về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Qua đó, pháp luật về quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân khi Nhà
nước thu hồi đất có thể được hiểu như sau: Pháp luật về quyền và nghĩa vụ của hộ gia
đình, cá nhân khi Nhà nước thu hồi đất là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà
nước ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất vào mục đích quốc gia, lợi ích công cộng,
nhằm giải quyết hài hòa lợi ích của Nhà nước và lợi ích của người bị thu hồi đất.
Cơ chế điều chỉnh của pháp luật khi Nhà nước thu hồi đất được thể hiện

bằng việc Nhà nước sử dụng pháp luật tác động vào hành vi xử sự của các chủ thể
quan hệ bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất theo hướng: Một là, đối với những
hành vi xử sự của các chủ thể phù hợp với quy định của pháp luật khi Nhà nước thu
hồi đất, như hành vi thu hồi đất đúng thẩm quyền, thực hiện đúng trình tự, thủ tục
thu hồi đất, v.v... thì pháp luật bảo vệ, tạo điều kiện khuyến khích để nó phát triển;
Hai là, đối với những hành vi xử sự của các chủ thể trái hoặc không phù hợp với
quy định của pháp luật khi Nhà nước thu hồi đất như thu hồi đất không đúng thẩm
quyền, áp dụng giá đất bồi thường không đúng pháp luật v.v... thì pháp luật xử lý,
ngăn ngừa và tiến tới loại bỏ dần khỏi đời sống xã hội; qua đó, việc tuân thủ pháp
luật về khi Nhà nước thu hồi đất được xác lập và thực hiện triệt để.
Mặt khác, tác động của cơ chế điều chỉnh pháp luật khi Nhà nước thu hồi
đất thể hiện trên hai phương diện:
- Phương diện tích cực: Nếu nội dung các quy định của pháp luật khi Nhà
nước thu hồi đất phù hợp với thực tiễn khách quan, đáp ứng yêu cầu phát triển của
đất nước thì sẽ điều chỉnh, hướng dẫn hành vi xử sự của các chủ thể quan hệ tuân
thủ đúng pháp luật và góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế.


18

- Phương diện tiêu cực: Nếu nội dung các quy định của pháp luật khi Nhà
nước thu hồi đất lạc hậu, không phù hợp với thực tiễn khách quan và chậm sửa đổi,
bổ sung sẽ trở thành rào cản hành vi xử sự của các chủ thể.
Có thể thấy, việc ban hành hệ thống pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ
khi Nhà nước thu hồi đất gắn với việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người sử
dụng đất, được quy định cụ thể tại Chương 6 về Thu hồi đất, trưng dụng đất, bồi
thường, hỗ trợ, TĐC của Luật Đất đai 2013.
1.2.3.3. Cơ cấu pháp luật điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá
nhân khi Nhà nước thu hồi đất
Nội dung điều chỉnh của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình cá

nhân khi Nhà nước thu hồi đất nằm trong các quy định của pháp luật khi Nhà nước
thực hiện các trình tự về thu hồi đất bao gồm: hoạt động GPMB; bồi thường và
chính sách bồi thường; hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất và TĐC.
* Nhóm các quyền mà Nhà nước cần bảo đảm đối với hộ gia đình, cá nhân
khi bị thu hồi đất
Trong quá trình thu hồi đất thì trước hết là phải chú trọng đặt lợi ích của
người dân lên trên hết vì suy cho cùng đều nhằm phục vụ cho người dân có điều
kiện sống tốt hơn. Quyền của công dân khi bị thu hồi đất phải được xem xét một
cách đầy đủ nhất vì đây là việc thiết yếu tác động trực tiếp đến lợi ích của người dân
nên đòi hỏi phải có mục đích cụ thể và phù hợp với thực tiễn nhằm không làm cho
người dân bức xúc.
Đầu tiên là quyền được biết lý do thu hồi, thời gian và kế hoạch di chuyển,
phương án tổng thể về bồi thường, hỗ trợ, TĐC, quyền được phổ biến và lấy ý kiến
về phương án bồi thường, hỗ trợ, TĐC về quy hoạch của Nhà nước phải thu hồi đất
của mình, điều này thể hiện sự làm chủ của nhân dân và tôn trọng ý kiến của người
dân. Tiếp đến là được bồi thường đất, tài sản, hoa màu, cây cối và công trình trên
đất. Hơn nữa, quyền của người dân trong bồi thường, hỗ trợ, TĐC còn thể hiện ở
việc Nhà nước thực hiện pháp luật hỗ trợ để người dân ổn định cuộc sống sau thu
hồi đất, hỗ trợ việc làm và TĐC. Bên cạnh đó, người dân có quyền khiếu nại, khiếu
kiện đến cơ quan chức năng để yêu cầu xem xét và bảo vệ lợi ích chính đáng cho họ
nếu trường hợp lợi ích của họ bị xâm hại hoặc bị người khác xâm hại trong bồi
thường, hỗ trợ, TĐC khi bị thu hồi đất.


19

Luật đất đai 2013 đã quy đị nh theo hướng tăng cường hơn sự tham gia trực
tiếp của nhân dân trong việc đo đạc , kiểm đếm đất đai , tài sản gắn liền với đất và
xây dựng phương án bồi thường , hỗ trợ và tái đị nh cư ; trách nhiệm đối thoại và giải
trình của cơ quan nhà nướccó thẩm quyền khi người dân chưa có ý kiến đồng thuận

.
Quyền được bồi thường, hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất, Luật Đất
đai sửa đổi đã quy định khá chi tiết và bổ sung những quy định rất quan trọng như:
Quy định giá đất bồi thường không áp dụng theo bảng giá đất mà áp dụng giá đất cụ
thể do UBND cấp tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất; quy định cụ
thể điều kiện được bồi thường về đất, bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại, bồi
thường tài sản gắn liền với đất; bồi thường khi thu hồi đối với từng loại đất và từng
đối tượng cụ thể. Đặc biệt, yêu cầu đảm bảo sinh kế cho người có đất thu hồi đã
được quy định cụ thể, rõ ràng, đầy đủ hơn trong Luật sửa đổi thông qua quy định về
các khoản hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất như: Hỗ trợ ổn định đời sống và sản
xuất; hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi nghề và tạo việc làm; hỗ trợ TĐC đối với trường
hợp thu hồi đất ở mà phải di chuyển chỗ ở và một số khoản hỗ trợ khác. Luật giao
UBND cấp tỉnh có trách nhiệm tổ chức lập và thực hiện phương án đào tạo, chuyển
đổi nghề, hỗ trợ tìm kiếm việc làm cho người có đất thu hồi là đất nông nghiệp, đất
ở kết hợp kinh doanh dịch vụ và phê duyệt đồng thời với phương án bồi thường, hỗ
trợ, tái cư. Đồng thời, quy định khi thu hồi đất mà phải bố trí TĐC thì UBND cấp
tỉnh, cấp huyện có trách nhiệm tổ chức lập và tổ chức thực hiện dự án TĐC trước
khi thu hồi đất. Khu TĐC tập trung phải xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ bảo đảm
tiêu chuẩn, quy chuẩn xây dựng; phù hợp với điều kiện, phong tục, tập quán của
từng vùng, miền. Việc thu hồi đất ở chỉ được thực hiện sau khi hoàn thành xây dựng
nhà ở hoặc cơ sở hạ tầng của khu TĐC. Luật cũng quy định cụ thể hơn về quyền
tham gia của người dân trong quá trình lập và thực hiện phương án bồi thường, hỗ
trợ TĐC; thẩm quyền.
* Nhóm các quy phạm quy định về nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân phải
thực hiện khi Nhà nước thu hồi đất
Khoản 1, Điều 15 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Quyền của công dân
không tách rời nghĩa vụ của công dân". Thông thường bên cạnh quyền được hưởng
thì kèm theo vẫn là nghĩa vụ phải thực hiện, nhằm đảm bảo sự công bằng về mặt lợi
ích nói chung và trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ, TĐC nói riêng. Các nghĩa vụ
của người dân khi bị thu hồi đất được tổng quan như sau:



20

Trước hết, người dân phải tuân thủ các nghĩa vụ của mình, tuân thủ quy
hoạch chung của cả nước và mục tiêu phát triển đã vạch ra. Trong một số trường
hợp Nhà nước thu hồi đất vì mục đích an ninh quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích
công cộng thì bắt buộc Nhà nước phải GPMB các công trình xây dựng, nhà ở, hoa
màu trên đất đó, người dân phải tính tới lợi ích lâu dài mà tuân thủ theo hướng quy
hoạch chung của xã hội. Phải đảm bảo di dời theo đúng pháp luật, không gây cản
trở cho việc thực hiện thu hồi đất "Trong khi chờ giải quyết khiếu nại, khiếu kiện
người bị thu hồi đất vẫn phải chấp hành di chuyển GPMB và giao đất đúng kế
hoạch được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định". Bên cạnh tuân thủ vì lợi
ích chung, thì người dân khi được bồi thường thỏa đáng phải thực hiện tốt pháp luật
trong vấn đề này, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước.
Ngoài ra, để được bồi thường bắt buộc người dân phải có đầy đủ giấy tờ
theo quy định tại khoản 1 Điều 75 của Luật Đất đai năm 2013 và tuân thủ đầy đủ
những nội dung quy định những trường hợp không được thực hiện sau quy hoạch
tại khoản 1 Điều 76 Luật Đất đai năm 2013.
Đặc biệt, theo quy định của Luật Đất đai năm 2013 là nếu người dân vi phạm
các nghĩa vụ trong thu hồi đất thì phải chịu trách nhiệm hành chính và có thể bị áp
dụng các biện pháp khắc phục hậu quả. Ngoài ra, nếu vi phạm nghiêm trọng thì phải
chịu trách nhiệm hình sự trong bộ luật hình sự tại Điều 206 Luật Đất đai năm 2013.
Việc quy định nghĩa vụ của người bị thu hồi đất nhằm góp phần người có
đất bị thu hồi ý thức được trách nhiệm bàn giao mặt bằng đúng thời gian quy định
đảm bảo tiến độ thực hiện dự án, góp phần chỉnh trang hoặc xây dựng mới các công
trình khu đô thị ngày một tốt đẹp hơn, đưa cuộc sống của người dân được nâng cao hơn.
* Nhóm quy phạm quy định về trình tự, thủ tục thu hồi đất và GPMB
Ngoài các quy định về quyền và nghĩa vụ mà hộ gia đình, cá nhân được
hưởng hoặc phải tuân tủ, chấp hành khi Nhà nước thu hồi đất thì việc quy định trình

tự, thủ tục trong quá trình thực hiện thu hồi đất, bồi thường và GPMB cũng là
những quy phạm không thể thiếu nhằm đảm bảo các quyền của người có đất bị thu
hồi được tuân thủ đúng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về minh
bạch, dân chủ, công bằng và công khai trong công tác này.
- Việc thực hiện trình tự, thủ tục trong thu hồi đất, đó là: "Người có đất thu
hồi có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, giải
phóng mặt bằng trong quá trình điều tra, khảo sát, đo đạc, kiểm đếm, xây dựng


×