Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.5 MB, 113 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÊ HƢNG TỨ

PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
TẠI ỦY BAN NHÂN DÂN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hƣớng nghiên cứu)

HÀ NỘI – 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÊ HƢNG TỨ

PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
TẠI ỦY BAN NHÂN DÂN

Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số


: 8380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hƣớng nghiên cứu)

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Quang Tuyến

HÀ NỘI – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích
dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lê Hƣng Tứ


LỜI CẢM ƠN
Với lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến quý
Thầy, Cô trường Đại học Luật Hà Nội nói chung và Khoa Pháp luật
Kinh tế nói riêng, đã truyền đạt được vốn kiến thức quý báu trong thời
gian học cao học định hướng nghiên cứu.
Tôi xin dành lời cảm ơn sâu sắc nhất đến Phó Giáo sư, Tiến sỹ
Nguyễn Quang Tuyến, người đã trực tiếp hướng dẫn luận văn thạc sĩ
luật học, đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn tôi tìm ra hướng nghiên

cứu, tiếp cận vấn đề, tìm kiếm tài liệu, phân tích số liệu và giải quyết
vấn đề… nhờ đó tôi mới có thể hoàn thành luận văn của mình.
Học viên cao học
Lê Hƣng Tứ


MỤC LỤC
Mở đầu .......................................................................................................................1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI TẠI ỦY BAN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM ................7
1.1. Lý luận về giải quyết tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân .....................7
1.1.1. Lý luận về tranh chấp đất đai ..........................................................................7
1.1.2. Khái quát về địa vị pháp lí của Ủy ban nhân dân ........................................23
1.1.3. Lý luận về giải quyết tranh chấp đất đai .......................................................25
1.2. Lý luận pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân ..34
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai ......34
1.2.2. Sự cần thiết điều chỉnh quan hệ giải quyết tranh chấp đất đai bằng pháp
luật tại Ủy ban nhân dân .........................................................................................35
1.2.3. Điều kiện đảm bảo thực thi pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai ......37
1.2.4. Lược sử hình thành và phát triển pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai
...................................................................................................................................39
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................43
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
ĐẤT ĐAI TẠI ỦY BAN NHÂN DÂN VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH Ở VIỆT
NAM .........................................................................................................................44
2.1. Nội dung pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân44
2.1.1. Nội dung các quy định về hòa giải tranh chấp đất đai của Uỷ ban nhân dân
...................................................................................................................................44
2.1.2. Nội dung các quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai của Uỷ
ban nhân dân ............................................................................................................49

2.1.3. Nội dung các quy định về trình tự, thủ tục giải quyết vụ án tranh chấp đất
đai của Uỷ ban nhân dân .........................................................................................54


2.2. Đánh giá thực trạng thi hành pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai tại
Ủy ban nhân dân ở Việt Nam .................................................................................59
2.2.1. Thực trạng thi hành pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai tại Ủy ban
nhân dân ở nước ta ..................................................................................................59
2.2.2. Kết quả đạt được.............................................................................................62
2.2.3. Những tồn tại, hạn chế ..................................................................................64
2.2.4. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế ....................................................68
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................72
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI TẠI ỦY BAN NHÂN DÂN VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ THI HÀNH Ở VIỆT NAM ...........................................................................73
3.1. Định hƣớng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai tại Ủy
ban nhân dân và nâng cao hiệu quả thi hành ở Việt Nam ..................................73
3.1.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai tại Ủy
ban nhân dân ............................................................................................................73
3.1.2. Định hướng nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về giải quyết tranh chấp
đất đai tại Ủy ban nhân dân.....................................................................................77
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai tại Ủy ban
nhân dân và nâng cao hiệu quả thi hành ở Việt Nam..........................................80
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai tại Ủy ban
nhân dân ...................................................................................................................80
3.2.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về giải quyết tranh chấp
đất đai tại Ủy ban nhân dân.....................................................................................86
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ........................................................................................89
KẾT LUẬN ..............................................................................................................90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................92



1

Mở đầu
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trang chấp đất đai là hiện tượng xã hội khó tránh khỏi trong quá trình quản
lý và sử dụng đất khi phát sinh bất đồng, mâu thuẫn về quyền và nghĩa vụ của người
sử dụng đất giữa hai hay nhiều bên trong quan hệ đất đai. Kể từ khi nước ta chuyển
sang nền kinh tế thị trường (đặc biệt là những năm gần đây), tình hình tranh chấp
đất đai ngày càng gia tăng về số lượng và phức tạp về nội dung, tính chất. Các dạng
tranh chấp đất đai phổ biến trong thực tế là tranh chấp hợp đồng chuyển đổi, chuyển
nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng đất; tranh chấp do lấn, chiếm
đất; tranh chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất; tranh chấp đất đai là
tài sản chung của vợ chồng trong các vụ án ly hôn... Đã có nhiều công trình nghiên
cứu, tìm hiểu về tranh chấp đất đai chỉ ra nguyên nhân, bao gồm nguyên nhân chủ
quan và nguyên nhân khách quan; đồng thời, đề xuất các giải pháp khắc phục. Pháp
luật về giải quyết tranh chấp đất đai ra đời với mong muốn hướng dẫn các bên tranh
chấp có thái độ, cách hành xử văn minh khi giải quyết bất đồng, mâu thuẫn về đất
đai; đồng thời, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, mà một trong những cơ quan nhà nước đó là Ủy ban
nhân dân. Thực tiễn áp dụng pháp luật đất đai trong giải quyết các tranh chấp đất
đai của các cơ quan nhà nước nói chung và của Ủy ban nhân dân nói riêng thời gian
qua đã đạt được những kết quả tích cực như giải quyết tương đối ổn thỏa nhiều vụ
việc tranh chấp đất đai phức tạp, kéo dài dựa trên cơ sở pháp luật; nâng cao ý thức
tôn trọng và chấp hành pháp luật không chỉ của các bên đương sự mà còn của đội
ngũ cán bộ, công chức nhà nước thực hiện nhiệm vụ giải quyết tranh chấp đất đai.
Song bên cạnh những kết quả đạt được, việc áp dụng pháp luật trong giải quyết
tranh chấp đất đai của Ủy ban nhân dân còn bộc lộ một số hạn chế như vụ việc tranh
chấp đất đai kéo dài, khiếu kiện qua nhiều cấp, nhiều cơ quan giải quyết những vẫn

chưa giải quyết ổn thỏa; thậm chí có vụ việc giải quyết chưa đúng quy định của
pháp luật; hoạt động giải quyết chấp đất đai của Ủy ban nhân dân gặp không ít khó
khăn, trở ngại và đạt hiệu quả thấp v.v. Điều này có nguyên nhân từ việc áp dụng


2

chưa đúng, chưa chính xác pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai của Ủy ban
nhân dân cho dù pháp luật đất đai (trong đó có các quy định về giải quyết tranh
chấp đất đai) thường xuyên được sửa đổi, bổ sung nhằm phù hợp với thực tiễn. Để
khắc phục hạn chế này thì việc tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật về giải quyết
tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân và thực tiễn áp dụng vẫn là việc làm cần
thiết. Đặc biệt là trong bối cảnh Luật Đất đai 2013, Luật Tổ chức chính quyền địa
phương 2014, Luật Tố tụng hành chính 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành
khác được ban hành với những sửa đổi, bổ sung liên quan đến giải quyết tranh chấp
đất đai tại Ủy ban nhân dân.
Với lý do cơ bản trên đây, học viên lựa chọn đề tài "Pháp luật về giải quyết
tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân" làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về pháp luật giải quyết tranh chấp đất đai và thực tiễn áp dụng
chế định pháp luật này từ hoạt động giải quyết của Ủy ban nhân dân đã có nhiều
công trình được công bố. Trong những công trình này, chúng ta có thể nêu ra một số
công trình tiêu biểu sau đây: 1. Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình
Luật đất đai, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; 2. M. Nhất (2014), Một số quy định
về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai, trang Thông tin điện tử của Bộ Tư
pháp, ngày 22/12 – nguồn ; 3. Vụ Phổ biến, tuyên truyền
pháp luật – Bộ Tư pháp, Tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai và giải quyết tranh
chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai – Nguồn />Các công trình nghiên cứu trên đây đã phân tích luận giải một số vấn đề lý
luận và thực tiễn của việc giải quyết tranh chấp đất đai nói chung và giải quyết tranh
chấp đất đai của Ủy ban nhân dân nói riêng như giải mã khái niệm, đặc điểm, mục

đích và nguyên tắc giải quyết tranh chấp đất đai; thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải
quyết tranh chấp đất đai; đánh giá thực trạng thi hành pháp luật về giải quyết tranh
chấp đất đai và kiến nghị giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành. Tuy nhiên, nghiên
cứu các quy định về giải quyết tranh chấp đất đai của Ủy ban nhân dân một cách
đầy đủ, toàn diện, có hệ thống trên cơ sở lý luận và thực tiễn tham chiếu với những


3

sửa đổi, bổ sung của Luật Đất đai 2013, Luật Tổ chức chính quyền địa phương
2014, Luật Tố tụng hành chính 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành thì dường
như còn thiếu một công trình như vậy ở trình độ thạc sĩ. Trên cơ sở tham khảo và kế
thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đến đề tài đã công
bố, luận văn đi sâu tìm hiểu pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai tại Ủy ban
nhân dân.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu tổng quát của luận văn là đưa ra các giải pháp tiếp tục
hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân và nâng
cao hiệu quả thi hành lĩnh vực pháp luật này ở nước ta.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn xác định những nhiệm vụ nghiên
cứu cụ thể sau đây:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai
tại Ủy ban nhân dân bao gồm: i) Phân tích khái niệm và đặc điểm của tranh chấp đất
đai; các dạng tranh chấp đất đai; nguyên nhân và hậu quả của tranh chấp đất đai; ii)
Phân tích khái niệm, vai trò và chức năng của Ủy ban nhân dân; iii) Phân tích khái
niệm và đặc điểm của giải quyết tranh chấp đất đai; ý nghĩa của giải quyết tranh
chấp đất đai; các nguyên tắc giải quyết tranh chấp đất đai; các hình thức giải quyết
tranh chấp đất đai; đặc điểm và tính ưu việt của giải quyết tranh chấp đất đai tại Ủy

ban nhân dân; yêu cầu của việc giải quyết tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân;
iv) Phân tích cơ sở lý luận, khái niệm và đặc điểm của pháp luật về giải quyết tranh
chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân; cấu trúc pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai
tại Ủy ban nhân dân; các yếu tố bảo đảm thi hành pháp luật về giải quyết tranh chấp
đất đai tại Ủy ban nhân dân.
- Phân tích thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai tại Ủy ban
nhân dân và đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai tại
Ủy ban nhân dân.


4

- Đưa ra định hướng và giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật về giải quyết
tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân và nâng cao hiệu quả thi hành ở nước ta.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Dựa vào mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn xác định đối tượng
nghiên cứu khu trú vào các nội dung cụ thể sau đây:
- Quy định về giải quyết tranh chấp đất đai của Luật Đất đai 2013 và các văn
bản hướng dẫn thi hành.
- Quy định của Luật Tố tụng hành chính 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2014 và các văn bản
hướng dẫn thi hành.
- Các quan điểm lý luận, trường phái lý thuyết về tranh chấp đất đai, giải
quyết tranh chấp đất đai và áp dụng pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai tại Ủy
ban nhân dân.
- Thực tiễn thi hành pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai tại Ủy ban
nhân dân ở nước ta.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ có hạn của một bản luận văn thạc sĩ luật học, tác giả giới

hạn phạm vi nghiên cứu đề tài vào một số nội dung cụ thể sau đây:
- Về địa bàn, phạm vi: Thực tiễn áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp đất
đai tại Ủy ban nhân dân trong phạm vi cả nước.
- Về thời gian: Từ năm 1993 (thời điểm Luật Đất đai 1993 được ban hành)
đến này.
- Về đối tượng nghiên cứu: Các quy định hiện hành về giải quyết tranh chấp
đất đai tại Ủy ban nhân dân và các văn bản hướng dẫn thi hành.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã sử
dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau đây:


5

- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của Chủ nghĩa Mác - Lê nin.
- Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
i) Phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử, phương pháp lập luận lô gic,
phương pháp hệ thống, phương pháp nghiên cứu liên ngành,… được sử dụng khi
nghiên cứu Chương 1. Những vấn đề lý luận pháp luật về giải quyết tranh chấp đất
đai tại Ủy ban nhân dân ở Việt Nam.
ii) Phương pháp diễn giải, phương pháp phân tích kết hợp với luận giải được
sử dụng nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả thi hành pháp luật về giải
quyết tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân; các tiêu chí đánh giá hiệu quả áp dụng
pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân; yêu cầu của áp dụng
pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân.
iii) Phương pháp bình luận, phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh,
phương pháp nghiên cứu hệ thống,… được sử dụng khi đánh giá thực trạng thi hành
pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân trong phạm vi cả nước.
iv) Phương pháp tổng hợp, phương pháp quy nạp được sử dụng khi đề cập

định hướng hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về giải quyết tranh
chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân ở nước ta.
v) Phương pháp lập luận logic được sử dụng khi nghiên cứu đề xuất các giải
pháp góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về giải quyết
tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Trên cơ sở tham chiếu với Luật Đất đai 2013, luận văn đã có một số đóng
góp nhất định. Những đóng góp này được khu trú vào một số vấn đề cụ thể sau:
- Luận văn hệ thống hóa và góp phần bổ sung hệ thống cơ sở lý luận pháp
luật về giải quyết tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân ở nước ta.
- Luận văn đã phân tích, bình luận, đánh giá về thực trạng thi hành pháp luật
về giải quyết tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân ở Việt Nam.


6

- Luận văn đề xuất định hướng và giải pháp góp phần hoàn thiện và nâng cao
hiệu quả thi hành pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân ở
Việt Nam.
Luận văn là tài liệu tham khảo bổ ích cho những ai quan tâm tìm hiểu về lĩnh
vực pháp luật này.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục, Bảng từ viết tắt, Danh mục tài liệu
tham khảo, luận văn được kết cấu gồm 3 Chương, cụ thể là:
- Chương 1. Một số vấn đề lý luận pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai
tại Ủy ban nhân dân ở Việt Nam.
- Chương 2. Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai tại Ủy ban
nhân dân và thực tiễn thi hành ở Việt Nam.
- Chương 3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai
tại Ủy ban nhân dân và nâng cao hiệu quả thi hành ở Việt Nam.



7

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
ĐẤT ĐAI TẠI ỦY BAN NHÂN DÂN Ở VIỆT NAM
1.1. Lý luận về giải quyết tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân
1.1.1. Lý luận về tranh chấp đất đai
1.1.1.1. Khái niệm về tranh chấp đất đai
Ở bất cứ quốc gia nào đất đai cũng là một loại hàng hóa đặc biệt. Tính đặc
biệt của loại hàng hóa này chính là gần như không thể sản xuất được, diện tích đất
là có hạn định và thậm chí dư địa có thể sử dụng được để sản xuất, kinh doanh hay
sinh hoạt lại chiếm thiểu số. Tuy nhiên, nhu cầu của con người đối với đất đai lại
luôn gia tăng, tăng không chỉ về số lượng người cần đất đai để sinh sống, mà còn
tăng cả về tham vọng muốn chiếm hữu loại hàng hóa đang dần khan hiếm này. Điều
này dẫn tới hệ quả tất yếu là tranh chấp đất đai. Lợi ích tiềm tàng ẩn trong đất đai đã
nhen nhóm ý đồ giành giật thứ hàng hóa đó ở các chủ thể tham gia quan hệ đất đai.
Để giải mã khái niệm tranh chấp đất đai, trước tiên cần hiểu “tranh chấp” là
gì? Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng: “Tranh chấp: 1. Giành giật, giằng co nhau
cái không rõ thuộc về bên nào, 2. Bất đồng, trái ngược nhau”1. Hoặc theo Từ điển
tiếng Việt “Tranh chấp: Giành nhau một cách giằng co cái không rõ thuộc về bên
nào”2. Như vậy, theo ngôn ngữ học, tranh chấp được hiểu là những bất đồng, trái
ngược nhau giữa hai hoặc nhiều thực thể trong tự nhiên hoặc xã hội. Theo Black’s
Law Dictionary thuật ngữ tranh chấp (dispute) được định nghĩa là một xung đột,
cuộc đấu tranh về tư tưởng hoặc là sự tranh luận, tranh cãi mà có thể trở thành một
vụ kiện3.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, sự xuất hiện của thuật ngữ tranh chấp
đất đai đã tồn tại từ rất lâu trong thực tiễn cuộc sống. Chẳng hạn, Luật Cải cách
ruộng đất 1953 có quy định: “Ở những nơi phát động quần chúng thực hiện cải cách

1

Nguyễn Như Ý (1996), Từ điển tiếng Việt thông dụng, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, tr 1165.
Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng – Trung tâm Từ điển học, Hà Nội, tr 1024.
3
Bryan A. Garner (2014), Black’s Law Dictionary, Thomson Reuters, USA, pp 572.
2


8

ruộng đất, sẽ lập Toà án Nhân dân Đặc biệt. Tòa án Nhân dân Đặc biệt có nhiệm vụ
xét xử những vụ tranh chấp về ruộng đất và tài sản có liên quan đến cải cách ruộng
đất”. Hoặc trong Thông tư số 45-NV/TC ngày 02 tháng 7 năm 1958 của Bộ Nội vụ
về việc phân phối và quản lý đất bãi sa bồi đã đề cập đến thuật ngữ “tranh chấp đất
bãi sa bồi” nhằm chỉ hiện tượng tranh chiếm đất bãi và hoa màu của người dân do
chưa kịp phân phối, điều chỉnh đất bãi sa bồi. Đây là những thuật ngữ tiền thân của
khái niệm tranh chấp đất đai trước khi được ghi nhận vào Luật Đất đai 1987, những
thuật ngữ này mang tính lịch sử khi chúng đều có đối tượng tranh chấp cụ thể (đất
ruộng, đất bãi sa bồi) mà chưa có tính khái quát hóa nên chỉ phù hợp với giai đoạn
lịch sử nhất định.
Luật Đất đai 1987 là đạo luật đầu tiên quy định về đất đai, chế độ sở hữu,
các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ đất đai. Từ Điều 38 đến Điều
40 của Luật Đất đai 1987 đã quy định về việc giải quyết tranh chấp đất đai. Chế
định giải quyết tranh chấp đất đai này cũng được luật hóa tương ứng trong Luật Đất
đai 1993. Tuy nhiên, cả hai đạo luật này đều chưa có bất kỳ giải thích cho nội hàm
khái niệm tranh chấp đất đai mà chỉ đang “ngầm hiểu” trong văn bản.
Từ Luật Đất đai 2003 đến Luật Đất đai 2013, khái niệm tranh chấp đất đai đã
được các nhà lập pháp ghi nhận và giải thích với cùng một nội dung, cụ thể: “Tranh
chấp đất đai là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc

nhiều bên trong quan hệ đất đai”4.
Trên diễn đàn khoa học pháp lí, định nghĩa của Luật Đất đai vừa đề cập đã
hình thành hai luồng quan điểm: Thứ nhất, tranh chấp đất đai chỉ là những tranh
chấp liên quan đến quyền sử dụng đất; Thứ hai, tranh chấp đất đai là tất cả tranh
chấp phát sinh trong quan hệ đất đai bao gồm tranh chấp về quyền sử dụng đất và
các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất.
Cả hai quan điểm này đều có điểm tựa pháp lí ở chế độ sở hữu toàn dân đối
với đất đai ở Việt Nam. Theo đó, Điều 4 Luật Đất đai 2013 quy định: “Đất đai
thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà
4

Luật Đất đai, số 45/2013/QH13, Điều 3 khoản 24


9

nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này”.
Theo từ điển Luật học ghi nhận về quyền sử dụng đất:
Quyền của các chủ thể được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức
từ việc sử dụng đất được Nhà nước giao, cho thuê hoặc được chuyển
giao từ những chủ thể khác thông qua việc chuyển đổi, chuyển nhượng,
cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho,… từ những chủ thể khác có
quyền sử dụng đất.5
Như vậy, trong quan hệ tranh chấp đất đai, hai bên không sở hữu đất đai –
đối tượng mà chủ thể giành giật – mà chỉ có quyền sử dụng đất để tranh chiếm.
Điều này phù hợp với quan điểm thứ nhất. Đối với quan điểm thứ hai, tranh chấp
đất đai đã được mở rộng phạm vi bao gồm tranh chấp về quyền sử dụng đất và tranh
chấp trong quá trình giao dịch dân sự về đất đai. Trong đó, tranh chấp trong quá
trình giao dịch dân sự về đất đai, thực chất là tranh chấp dân sự, bao gồm tranh chấp
hợp đồng chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất

hoặc thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất hoặc tranh chấp
thừa kế quyền sử dụng đất. Mặt khác, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định tranh
chấp trong quá trình giao dịch dân sự về đất đai và tranh chấp thừa kế quyền sử
dụng đất chính là tranh chấp về giao dịch dân sự, hợp đồng dân sự hoặc tranh chấp
về thừa kế tài sản6. Theo quan điểm cá nhân, người viết nhận thấy quan điểm thứ
hai là tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền sử dụng đất và tranh chấp liên quan
đến quyền sử dụng đất có sự hợp lý cả về ngôn ngữ và thực tiễn áp dụng pháp luật ở
nước ta hiện nay.
Về mặt ngôn ngữ giải thích khái niệm của Luật Đất đai 2013, tác giả luận
văn có nhận xét là chưa thực sự khoa học, bởi lẽ quy định trên đã sử dụng một thuật
ngữ đang cần làm rõ là cụm từ “tranh chấp” để định nghĩa cho một khái niệm có nội
hàm tương tự tranh chấp đất đai. Tiếp đó, định nghĩa lại diễn giải theo hướng xác
định nội dung tranh chấp bao gồm tranh chấp về quyền và tranh chấp nghĩa vụ của
người sử dụng đất. Đối với tranh chấp về quyền là các xung đột, mâu thuẫn giữa các
5
6

Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb.Tư pháp - Từ điển bách khoa, Hà Nội, tr 655.
Bộ luật Tố tụng dân sự, số 92/2015/QH13, Điều 26 khoản 5.


10

bên trong quan hệ đất đai, khi hành vi của chủ thể trong quan hệ đó xâm phạm đến
khả năng xử sự theo những cách thức nhất định mà pháp luật cho phép. Chẳng hạn,
một bên trong quan hệ đất đai có hành vi trái phép xây dựng lấn chiếm diện tích đất
của hộ liền kề, điều này đã xâm phạm tới quyền sử dụng đất hợp pháp của những hộ
bị lấn chiếm. Còn đối với tranh chấp về nghĩa vụ, người viết cho rằng để giải thích
trong nội hàm khái niệm tranh chấp đất đai là không hợp lý. Bởi lẽ, nghĩa vụ là
“cách xử sự mà chủ thể buộc phải thực hiện theo quy định của pháp luật nhằm đáp

ứng việc thực hiện quyền của chủ thể khác”7. Do vậy, không ai lại muốn giành việc
thực hiện nghĩa vụ trừ khi nghĩa vụ đó cũng là quyền lợi.
Trong khi đó, theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học: “Tranh chấp đất đai:
tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật đất đai về quyền
và nghĩa vụ trong quá trình quản lý và sử dụng đất đai”. Theo Giáo trình Luật Đất
đai của Trường Đại học Luật Hà Nội định nghĩa: “Tranh chấp đất đai là sự bất
đồng, mâu thuẫn hay xung đột về lợi ích, về quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể khi
tham gia vào quan hệ pháp luật đất đai”8
Tóm lại, việc đưa ra một khái niệm tranh chấp đất đai cần phải được gắn với
chế độ sở hữu đất đai ở từng quốc gia, mà ở Việt Nam đó là chế độ sở hữu toàn dân
về đất đai. Từ những phân tích các quan điểm nêu trên và tham khảo các khái niệm,
luận văn sẽ đi vào tiếp cận khái niệm tranh chấp đất đai như sau: Tranh chấp đất
đai là sự xung đột, mâu thuẫn về quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất
giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai.
Để có cách hiểu đầy đủ về khái niệm tranh chấp đất đai, chúng ta cần đề cập
đến khái niệm khiếu nại về đất đai, là một thuật ngữ thường được cùng đề cập trong
thực tiễn cuộc sống. Trong bối cảnh tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai vẫn diễn
biến phức tạp, tính chất tranh chấp ngày càng gay gắt, kéo dài, tập trung vào bồi
thường giải phóng mặt bằng phát triển các khu đô thị (chiếm gần 70% tổng số vụ
khiếu nại, tố cáo9), trong đó, chủ yếu là khiếu nại về giá đất bồi thường, tiềm ẩn sự
7

Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, Nxb. CAND, Hà Nội, tr 158.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật Đất đai, Nxb. CAND, Hà Nội, tr 455.
9
Đình Dũng - Nguyễn Hạnh (2018), “Năm 2017 có trên 3.500 đơn khiếu nại về đất đai”,
ngày cập nhật: 05/06/2018.
8



11

mất ổn định ở một số nơi. Nguyên nhân của tình trạng đó có một phần từ quy định
của pháp luật về giải quyết tranh chấp, khiếu nại về đất đai chưa đủ rõ dẫn đến công
tác xét xử, giải quyết các tranh chấp, khiếu kiện về đất đai còn nhiều hạn chế; chế
tài xử lý chưa đủ mạnh để ngăn ngừa các hành vi vi phạm. Qua tìm hiểu, có thể hiểu
khái niệm khiếu nại về đất đai như sau:
Khiếu nại về đất đai là việc công dân (cơ quan, tổ chức) đề nghị cơ quan,
tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành
vi hành chính khi có căn cứ cho rằng những hành vi đó là xâm phạm đến
quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất.10
Mặc dù khiếu nại và tranh chấp về đất đai đều có điểm chung có hành vi xâm
phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân trong quan
hệ đất đai, nhưng khiếu nại về đất đai là quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước
với công dân, tổ chức, cơ quan. Đối tượng của khiếu nại về đất đai là quyết định
hành chính hoặc hành vi hành chính của người có thẩm quyền trong quản lý đất đai
khi thi hành công vụ, gây thiệt hại cho công dân, tổ chức. Mối quan hệ pháp lí trong
khiếu nại về đất đai là bất bình đẳng, còn mối quan hệ pháp lí trong tranh chấp đất
là địa vị pháp lí bình đẳng giữa hai hoặc các bên tranh chấp. Như vậy, có thể thấy
sự khác biệt về bản chất giữa tranh chấp đất đai và khiếu nại về đất đai, trong đó
những tranh chấp mang tính dân sự và cần phải theo các quy định của pháp luật về
dân sự, ngược lại khiếu nại là “tranh chấp” có tính chất hành chính và được giải
quyết theo pháp luật về hành chính.
Mặt khác, tranh chấp đất đai và khiếu nại về đất đai thuộc hai nguồn luật
điều chỉnh khác nhau, nhưng những năm vừa qua việc nhầm lẫn hai vấn đề này
trong quá trình giải quyết tại địa phương là khá phổ biến. Có rất nhiều vụ việc tranh
chấp đất đai được người giải quyết cho là “khiếu nại” nhưng sau đó người ta thêm
từ “đòi đất” hay “tranh chấp đất đai” để thành cụm từ không rõ ràng và chưa hề có
một văn bản pháp luật nào của Nhà nước ta quy định (như: “khiếu nại đòi đất”,
“khiếu nại tranh chấp đất đai”, “khiếu nại đòi đất cũ”, “khiếu nại đòi đất tập

10

Trường Đại học Luật Hà Nội, tlđd 8, tr 471.


12

đoàn”...). Theo đó, vì coi “tranh chấp” là “khiếu nại” nên trong quá trình giải quyết,
nhiều nơi không tuân theo quy định của Luật Đất đai (Điều 203 và 204) mà lại vận
dụng Luật Khiếu nại, tố cáo để giải quyết. Điều đó là sai vì trình tự, thẩm quyền giải
quyết, thời hạn, thời hiệu khác nhau và đặc biệt là quyết định giải quyết tranh chấp
là phán quyết chung thẩm, có hiệu lực thi hành ngay, còn đối với quyết định giải
quyết khiếu nại có thể bị khiếu nại lần hai hoặc khởi kiện vụ án hành chính.
1.1.1.2. Đặc điểm của tranh chấp đất đai
Thứ nhất, về đối tượng tranh chấp: Trước khi có Hiến pháp 1980, ở Việt Nam
ghi nhận 3 hình thức sở hữu về đất đai đó là sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể và sở
hữu cá nhân11 nên đối tượng của tranh chấp chính là quyền sở hữu đất đai. Sau khi
Hiến pháp năm 1980 ban hành chỉ công nhận một hình thức sở hữu duy nhất đối với
toàn bộ đất đai đó là sở hữu toàn dân về đất đai12. Do đó, đối tượng tranh chấp đất
đai lúc này là quyền sử dụng đất đai. Cụ thể, đối tượng của tranh chấp đất đai là
quyền quản lý, quyền sử dụng và những lợi ích vật chất khác phát sinh từ quyền
quản lý, sử dụng một loại tài sản đặc biệt không thuộc quyền sở hữu của các bên
tranh chấp mà thuộc quyền sở hữu toàn dân. Khác với Việt Nam, ở Trung Quốc tồn
tại hai hình thức sở hữu đối với đất đai đó là sở hữu Nhà nước và sở hữu tập thể nên
đối tượng tranh chấp vẫn có thể là tranh chấp quyền sở hữu đất đai13.
Thứ hai, về chủ thể tranh chấp đất đai: Chủ thể trong quan hệ tranh chấp đất
đai là người quản lý và sử dụng đất đai. Các bên tham gia tranh chấp không phải là
chủ sở hữu đối với đất đai. Họ chỉ có quyền quản lý, sử dụng khi được Nhà nước
giao đất, cho thuê đất, hoặc nhận chuyển nhượng, thuê lại, được thừa kế quyền sử
dụng đất hoặc được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất. Như vậy, giống như

các tranh chấp khác, chủ thể của các tranh chấp đất đai có thể là cá nhân; tổ chức;
hộ gia đình; cộng đồng dân cư hay các đơn vị hành chính. Tuy nhiên, khác với các

11

Hiến pháp nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa năm 1959, Điều 11;
Hiến pháp nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa năm 1946, Điều 12.
12
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980, Điều 19.
13
Bộ Tài nguyên và môi trường (2012), Báo cáo Kinh nghiệm nước ngoài về quản lý và pháp luật đất đai,
Hà Nội, tr 27


13

tranh chấp khác chủ thể của quan hệ tranh chấp đất đai không phải là chủ sở hữu
của đối tượng bị tranh chấp.
Bên cạnh đó, yếu tố quyền của chủ thể trong quan hệ tranh chấp đất đai có nét
đặc trưng là người có quyền sử dụng đất hợp pháp dù không có quyền sở hữu nhưng
vẫn có quyền định đoạt đất đai trong phạm vi quy định của pháp luật. Vì vậy, như
một số nhà khoa học pháp lý đã gọi đây là “Quyền sở hữu hạn chế”14, được người
đại diện chủ sở hữu trao cho người sử dụng đất. Do đó, tùy theo mối quan hệ giữa
các bên trong quan hệ tranh chấp đất đai mà việc áp dụng pháp luật, thẩm quyền để
giải quyết tranh chấp khác nhau. Ví dụ: Giải quyết tranh chấp bằng tòa án thì áp
dụng pháp luật Dân sự, Kinh tế; Giải quyết tranh chấp bằng Ủy ban thì áp dụng
pháp luật Đất đai, Luật Hành chính,…
Thứ ba, nội dung của tranh chấp đất đai: Tranh chấp đất đai ngày càng đa dạng
và phong phú bởi hiện nay đất đai không chỉ là tư liệu sản xuất không gì có thể thay
thế được của nền nông nghiệp giản đơn mà còn là một loại hàng hóa có giá trị đặc

biệt có khả năng sinh lời trên thị trường. Vì thế, tranh chấp đất đai không chỉ dừng
lại ở tranh chấp về quyền sử dụng đất mà còn phát sinh nhiều loại tranh chấp khác
như tranh chấp về các giao dịch về quyền sử dụng đất, tranh chấp về quyền thừa kế
quyền sử dụng đất, tranh chấp về tài sản gắn liền với đất.
1.1.1.3. Các dạng tranh chấp đất đai
Các dạng tranh chấp đất đai hiện nay rất đa dạng, phong phú, nhiều khi đan
xen lẫn nhau. Căn cứ vào tính chất pháp lý của các tranh chấp, có thể chia tranh
chấp đất đai thành ba loại như sau: (1) Tranh chấp về quyền sử dụng đất; (2) Tranh
chấp về quyền và nghĩa vụ phát sinh trong quá trình sử dụng đất; (3) Tranh chấp
chấp về mục dích sử dụng đất.
(1) Tranh chấp về quyền sử dụng đất là sự bất đồng, xung đột về lợi ích giữa
các bên về quyền quản lý, quyền sử dụng một diện tích đất đai nào đó hoặc một
phần trong diện tích đó. Cụ thể:

14

Nguyễn Cúc (2014), "Làm rõ thêm nội hàm sở hữu toàn dân về đất đai", Tạp chí Lý luận chính trị, (1), tr 12.


14

- Tranh chấp giữa những người sử dụng đất với nhau về ranh giới giữa các
vùng đất được phép sử dụng và quản lý: Đây là tranh chấp về ranh giới. Loại tranh
chấp này thường do một bên tự ý thay đổi ranh giới hoặc hai bên không xác định
được với nhau về ranh giới, một số trường hợp chiếm luôn diện tích đất của người
khác. Những trường hợp tranh chấp này xảy ra thường do ranh giới đất giữa những
người sử dụng đất liền kề không rõ ràng, đất này thường sang nhượng nhiều lần,
bàn giao không rõ ràng. Ngoài ra, việc tranh chấp ranh giới xảy ra nhiều khi do lỗi
của các cơ quan nhà nước, đó là khi cấp đất, cơ quan cấp đất có ghi diện tích, nhưng
không đo đạc cụ thể hoặc có sai sót trong đo đạc. Sau này khi đương sự đo lại thấy

diện tích đất ít hơn so với quyết định cấp đất cũng như giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất hoặc khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có phần diện tích chồng
lên nhau. Do đó cũng gây nên tranh chấp giữa các hộ liền kề nhau. Khi giải quyết
tranh chấp, các cơ quan có thẩm quyền phải xác định phần đất tranh chấp đó là
thuộc quyền sử dụng của ai.
- Tranh chấp về quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất trong quan hệ
thừa kế, quan hệ ly hôn giữa vợ và chồng. Đối với quan hệ thừa kế: dạng tranh chấp
xảy ra do người có quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất chết mà không để lại
di chúc hoặc để lại di chúc không phù hợp với quy định của pháp luật và những
người hưởng thừa kế không thỏa thuận được với nhau về phân chia thừa kế hoặc
thiếu hiểu biết về pháp luật dẫn đến tranh chấp. Đối với quan hệ ly hôn giữa vợ
chồng: Đây là trường hợp tranh chấp đất hoặc tài sản gắn liền với quyền sử dụng
đất khi vợ chồng ly hôn. Đất tranh chấp có thể là đất nông nghiệp, lâm nghiệp hoặc
đất để ở; có thể là giữa vợ chồng với nhau hoặc giữa một bên ly hôn với hộ gia đình
vợ hoặc chồng hoặc có thể xảy ra khi bố mẹ cho con đất, đến khi con ly hôn thì cha
mẹ đòi lại. Bất động sản tranh chấp có thể là tài sản chung tạo lập trong thời kỳ hôn
nhân, tài sản riêng của vợ hoặc chồng nhưng được nhập vào tài sản chung; tài sản
riêng của vợ hoặc chồng, không nhập vào tài sản chung nhưng một trong hai bên có
công quản lý, gìn giữ hoặc tôn tạo, nâng cấp sửa chữa khối tài sản đó.


15

- Tranh chấp đòi lại đất, tài sản gắn liền với đất của người thân trong những
giai đoạn trước đây mà qua các cuộc điều chỉnh ruộng đất đã được chia cấp cho
người khác. Sau cải cách ruộng đất, nông nghiệp, nông thôn bước vào thời kỳ hợp
tác hóa nông nghiệp. Đặc biệt từ năm 1958, phong trào hợp tác hóa nông nghiệp
theo mô hình sản xuất tập thể, quản lý tập trung. Ruộng đất và các tư liệu sản xuất
của nông dân được tập trung vào hợp tác xã. Đến khi thực hiện Nghị quyết Trung
ương 10/TW năm 1988, đất đai được phân chia đến hộ gia đình, cá nhân để sản

xuất. Do việc phân chia đất đai không hợp lý một số cán bộ xã, huyện đã làm sai
như chia đất sản xuất cho những người không phải là nông dân để rồi những người
này đem bán, cho thuê, trong khi đó nông dân không có đất sản xuất, một số hộ
trước khi vào tập đoàn, hợp tác xã có đất, đến khi giải thể họ không có đất để canh
tác. Một số hộ thực hiện chính sách “nhường cơm sẻ áo” của Nhà nước trong những
năm 1981 - 1986 đã nhường đất cho những người khác sử dụng, nay đòi lại ở miền
Nam, Nhà nước thực hiện chính sách cải tạo công thương nghiệp, quốc hữu hóa đất
đai, nhà cửa, tư liệu sản xuất của địa chủ, tư bản và tay sai chế độ cũ hoặc giao nhà
cửa, đất đai cho người khác sử dụng, đến nay, do có sự hiểu lầm về chính sách họ
cũng đòi lại những người đang quản lý, sử dụng. Ngoài ra, một số người bỏ đi nơi
khác hoặc ra nước ngoài sinh sống, nay trở về đòi lại đất đai, tài sản trước đây đã
được giao cho người khác quản lý, sử dụng.
- Tranh chấp giữa đồng bào đi xây dựng vùng kinh tế mới với đồng bào dân
tộc sở tại: Đây là dạng tranh chấp thường xảy ra ở vùng Tây Nguyên. Việc di dân,
đặc biệt là di dân tự do khi đến nơi ở mới không phải lúc nào chính quyền sở tại
cũng cấp đất cho người dân di cư, dẫn đến việc người mới đến phá rừng, lấn chiếm
đất đai dẫn đến tranh chấp với đồng bào dân tộc sở tại.
- Tranh chấp giữa các nông trường, lâm trường và các tổ chức sử dụng đất
khác với nhân dân địa phương: Do cơ chế trước đây nên dẫn đến tình trạng các
nông trường, lâm trường, các đơn vị quân đội bao chiếm một lượng lớn đất đai,
không sử dụng hết để đất bỏ hoang hoặc cho người dân sử dụng theo hình thức phát
canh, thu tô. Mặt khác, nhiều nông trường, lâm trường, các đơn vị quân đội quản lý


16

đất đai lỏng lẻo dẫn đến tình trạng người dân chiếm đất để sử dụng. Do đó cũng dẫn
đến tranh chấp đất đai.
(2) Tranh chấp về quyền và nghĩa vụ phát sinh trong quá trình sử dụng đất:
Đây là dạng tranh chấp xảy ra khi có một bên vi phạm, làm cản trở tới việc thực

hiện quyền của phía bên kia hoặc một bên không làm đúng nghĩa vụ của mình làm
phát sinh mâu thuẫn, xung đột về lợi ích. Cụ thể:
- Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, là việc các bên
tranh chấp trong quá trình thực hiện các giao dịch về đất đai. Loại tranh chấp này
thường là do các bên thực hiện việc chuyển nhượng khi chưa có đầy đủ điều kiện
pháp luật cho phép; Thực hiện không đúng hoặc không thực hiện đầy đủ các điều
khoản quy định trong hợp đồng; Không tuân thủ các quy định của pháp luật trong
khi giao dịch. Hiện nay đây là loại tranh chấp phổ biến và có số lượng nhiều nhất,
mức độ phức tạp lớn nhất.
- Tranh chấp về việc bồi thường giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi
đất để sử dụng vào mục đích an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công
cộng. Trong tranh chấp loại này chủ yếu là khiếu kiện hành chính về giá đất đền bù,
diện tích đất được đền bù, giá cả đất tái định cư và đền bù không đúng người, giải
tỏa quá mức quy định để chừa đất cấp cho các đối tượng khác. Trong tình hình hiện
nay, việc quy hoạch mở mang đường sá, đô thị quá lớn đẫn đến việc tranh chấp loại
này rất gay gắt, phức tạp và có nhiều người, tập thể đồng loạt khiếu kiện.
(3) Tranh chấp về mục đích sử dụng đất: Các tranh chấp này hiện nay cũng
diễn ra khá phổ biến, đó là tranh chấp giữa việc sử dụng đất vào việc trồng lúa với
việc dùng đất vào việc nuôi trồng thu sản, giữa dùng đất đất trồng cây hàng năm
với dùng đất trồng cây lâu năm, giữa sử dụng đất nông nghiệp hoặc đất trồng cây
lâu năm với đất thổ cư trong quá trình phân bổ và sử dụng đất. Đây là tranh chấp
giữa người được Nhà nước giao quản lý với người được giao đất.
Ngoài ra, tranh chấp đất đai giữa các đơn vị hành chính cấp tỉnh, huyện, xã
với nhau. Đây thường là những tranh chấp diễn ra ở các khu vực có vị trí thuận lợi
cho phát triển kinh tế địa phương nhưng tại đây sự phân chia ranh giới hành chính


17

chưa rõ ràng dẫn đến tranh chấp phát sinh. Đây là tranh chấp giữa những người

được Nhà nước giao quản lý đất đai. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của luận văn cũng
như quan điểm của tác giả, những tranh chấp về địa giới hành chính được giải quyết
theo quy định khoản 4 Điều 29 Luật Đất đai 2013. Theo đó, khi có tranh chấp địa
giới hành chính giữa các đơn vị hành chính thì Ủy ban nhân dân của các đơn vị
hành chính đó cùng phối hợp giải quyết. Trường hợp không đạt được sự nhất trí về
việc giải quyết thì do Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định. Như
vậy, về trình tự giải quyết tranh chấp về địa giới hành chính không theo quy định tại
Điều 203 Luật Đất đai 2013 mà tác giả sẽ phân tích ở Chương 2.
1.1.1.4. Nguyên nhân phát sinh tranh chấp đất đai
Tranh chấp đất đai, khiếu kiện phát sinh, kéo dài xảy ra do nhiều nguyên
nhân khách quan và chủ quan gây ra. Để góp phần giải quyết triệt để, dứt điểm các
tranh chấp, khiếu kiện đất đai kéo dài thì việc nhận diện nguyên nhân phát sinh mâu
thuẫn, xung đột là điều rất cần thiết.
- Nguyên nhân khách quan:
Tìm hiểu nguyên nhân tranh chấp đất đai dưới góc độ khách quan cho thấy
tranh chấp đất đai ở nước ta bắt nguồn từ các nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, nguyên nhân về lịch sử. Trước năm 1945, ở Việt Nam đất đai phần
lớn nằm trong tay địa chủ, phong kiến và thực dân Pháp. Sau Cách mạng tháng Tám
1945 và đặc biệt sau năm 1953, ở miền Bắc, Đảng và Chính phủ tiến hành cải cách
ruộng đất, xóa bỏ chế độ chiếm hữu ruộng đất của chế độ cũ, thiết lập quyền sở hữu
ruộng đất cho người nông dân. Năm 1960, thông qua con đường hợp tác hóa nông
nghiệp, ruộng đất của người nông dân được đưa vào làm tư liệu sản xuất. Đất đai
trở thành sở hữu tập thể, tình hình sử dụng đất tương đối ổn định. Ở miền Nam trải
qua hai cuộc kháng chiến, tình hình sử dụng đất có nhiều phức tạp. Trong gần 10
năm kháng chiến, Chính phủ đã tiến hành chia ruộng đất cho người nông dân hai
lần vào năm 1949-1950 và năm 1954. Nhưng đến năm 1954, ngụy quyền Sài Gòn
đã thực hiện cải cách điền địa, thực hiện việc "truất hữu" ruộng đất của nông dân
nhằm xóa bỏ thành quả cách mạng, gây ra những xáo trộn lớn về đất đai. Chiến



18

tranh xảy ra ở miền Nam Việt Nam, với chính sách dồn dân lập ấp chiến lược của
Mỹ, Ngụy, nhiều người dân đã bỏ ruộng đất, đi lánh nạn. Sau năm 1975, đất nước
nối liền một dải, Nhà nước đã tiến hành hợp tác hóa nông nghiệp, đồng thời xây
dựng hàng loạt các nông trường, lâm trường, trạm trại - những tổ chức bao chiếm
quá nhiều diện tích nhưng sử dụng lại kém hiệu quả. Đặc biệt, qua hai lần điều
chỉnh ruộng đất vào năm 1978-1979 và năm 1982-1983, cùng với chính sách chia
đất theo kiểu bình quân đã dẫn đến những xáo trộn lớn về ruộng đất, ranh giới, số
lượng, mục đích sử dụng đất. Các hiện tượng khiếu kiện đòi lại đất diễn ra ngày
càng phức tạp và phổ biến trong đời sống nhân dân15.
Thứ hai, sự chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta từ cơ chế tập trung
sang cơ chế thị trường định đã làm cho tranh chấp đất đai diễn ra ngày càng phức
tạp hơn. Trong cơ chế bao cấp, Nhà nước không thừa nhận đất có giá, đất đai không
được tham gia vào lưu thông dân sự. Trong cơ chế thị trường, đất đai ngày càng trở
nên có giá và biến động theo quy luật giá trị của kinh tế thị trường. Cơ chế thị
trường gây ra những cơn sốt đất, nhất là tại các đô thị, thành phố, trung tâm công
nghiệp lớn. Quyền của người sử dụng đất được mở rộng và gần như tiệm cận với
quyền sở hữu về đất đai, mặc dù pháp luật chỉ thừa nhận chế độ đất đai thuộc sở
hữu toàn dân. Điều đó đã khiến đất đai được tham gia vào các giao kết dân sự làm
gia tăng giá trị của đất. Cùng với đó, dân số tăng nhanh, trong khi quỹ đất quốc gia
chỉ có giới hạn, mâu thuẫn giữa cung và cầu về đất đai trong xã hội là động lực đẩy
giá đất thậm chí vượt xa giá trị thực. Những thực trạng trên đã góp phần dẫn đến
việc phát sinh các tranh chấp, khiếu kiện đất đai ngày càng nhiều.
- Nguyên nhân chủ quan:
Thứ nhất, Chính sách, pháp luật đất đai và các chính sách, pháp luật liên
quan đến đất đai thiếu tính thống nhất, không đồng bộ qua các thời kỳ. Trong hệ
thống pháp luật Việt Nam, hệ thống văn bản pháp luật đất đai dược xem như là lĩnh
vực chiếm tỉ trọng văn bản lớn nhất. Các văn bản này không những nhiều về số
15


Doãn Hồng Nhung (2008),“Những dạng tranh chấp đất đai chủ yếu ở nước ta hiện nay và khuôn khổ pháp
luật liên quan”, Báo cáo tham luận tại hội thảo “Tình trạng tranh chấp và kiếu kiện đất đai kéo dài: Thực
trạng và giải pháp”, tại Buôn Mê Thuột – Đắc Lắc.


19

lượng, do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác nhau ban hành mà còn có sự
hạn chế về thống nhất, đồng bộ về nội dung trong việc điều chỉnh quan hệ đất đai
qua các thời kỳ. Ví dụ như: Theo Hiến pháp năm 1959, ở nước ta có 3 hình thức sở
hữu đất đai đó là sở hữu Nhà nước, sở hữu tập thể và sở hữu cá nhân. Do đó, việc
mua bán chuyển nhượng đất đai được phép thực hiện, không bị cấm. Thời kỳ sau
Hiến pháp năm 1980 cho đến trước khi Luật Đất đai 1993 ra đời, Nhà nước trở
thành đại diện duy nhất của chủ sở hữu đối với đất đai. Pháp luật về đất đai nghiêm
cấm việc mua bán, chuyển nhượng, phát canh thu tô dưới mọi hình thức. Kể từ khi
Luật Đất đai 1993 ra đời và đặc biệt là sau khi Luật Đất đai 2003 có hiệu lực thì đất
đai vẫn thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu nhưng người sử
dụng đất lại được phép thực hiện các quyền của người sở hữu đối với đất đai mà
mình đang sử dụng, quyền sử dụng đất đai trở thành một loại hàng hóa. Chính vì sự
thiếu đồng bộ này nên thực tế các quan hệ đất đai nảy sinh qua các thời kỳ là rất
phức tạp, khi phát sinh tranh chấp gây khó khăn trong áp dụng văn bản quy phạm
pháp luật để giải quyết.
Như vậy, trong thực thi chính sách của mỗi lần biến động không tránh khỏi
sự thiếu phù hợp thực tế của một số quy định và càng không tránh khỏi yếu tố chủ
quan khi thực thi chính sách của chính quyền các cấp tạo nên những sai sót. Thực tế
áp dụng pháp luật đất đai để giải quyết, xử lý các quan hệ đất đai (đặc biệt là các
vấn đề đất đai có nguồn gốc lịch sử) nảy sinh qua các thời kỳ là rất phức tạp và gặp
nhiều khó khăn. Bởi lẽ, sự áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết tranh chấp
đất đai sẽ tạo cùng tạo nên cả lợi ích và thiệt hại cho một trong các bên hoặc có thể

là quyền lợi công cộng. Không những vậy, kết quả áp dụng pháp luật mà có sự thiếu
thống nhất trong cùng một vụ việc ở những địa phương khác nhau tạo ra sự bất bình
đẳng trong việc xử lý quan hệ đất đai. Do đó, những thay đổi của chính sách pháp
luật qua từng thời kỳ là yếu tố nội sinh của tranh chấp đất đai ở Việt Nam.
Thứ hai, cơ chế quản lý đất đai chưa đầy đủ và phù hợp, công tác quản lý tồn
tại nhiều yếu kém. Do hoàn cảnh khách quan đất nước trải qua hai cuộc chiến tranh
kéo dài, toàn dân tộc dồn mọi sức lực và khả năng cho công cuộc kháng chiến


×