Tải bản đầy đủ (.docx) (71 trang)

NHẬN xét TÌNH HÌNH sót RAU SAU PHÁ THAI BẰNG THUỐC điều TRỊ tại BỆNH VIỆN PHỤ sản TRUNG ƯƠNG TRONG 3 năm 2013 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.67 KB, 71 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Phá thai là vấn đề thường gặp và đáng quan tâm trong xã hội hiện nay.
Phá thai được hiểu một cách đơn giản là một biện pháp nhằm chấm dứt quá
trình thai nghén. Việc phá thai luôn tiềm ẩn những nguy cơ tai biến vì vậy cần
cân nhắc kỹ khi lựa chọn phương pháp phá thai.
Ở Việt Nam, từ những năm 1960 dịch vụ phá thai được coi là hợp pháp
và luôn sẵn có tại mọi tuyến được phân cấp trong hệ thống y tế, đáp ứng nhu
cầu của những phụ nữ mang thai ngoài ý muốn. Việt Nam là một trong những
nước có tỷ lệ phá thai cao nhất trong khu vực Đông Nam Á và cao thứ 5 trên
thế giới [1]. Theo thống kê của Hội KHHGĐ Việt Nam, mỗi năm cả nước có
khoảng 1,2 - 1,6 triệu ca nạo phá thai. Đó là chưa kể tới những ca nạo phá thai
tại các cơ sở y tế tư nhân mà chúng ta không có con số chính xác [2]. Bệnh
viện phụ sản Trung ương, hàng năm có khoảng 10 000 phụ nữ đình chỉ thai
nghén có tuổi thai đến 12 tuần. Phương pháp phá thai ngoại khoa chiếm
khoảng 80%, còn 20% là phá thai nội khoa đối với tuổi thai đến hết 9 tuần.
Tại Việt Nam, phương pháp phá thai bằng thuốc bắt đầu được nghiên cứu
từ năm 1992 trong một nghiên cứu thử nghiệm có đối chứng được tiến hành tại
nhiều trung tâm của Tổ chức Y tế Thế giới với hai liều lượng Mifepristone khác
nhau là 200mg và 600mg, tiếp theo là uống 400mcg Misoprostol [3] nhằm so
sánh tính hiệu quả của hai công thức khác nhau. Tuổi thai cao nhất là 63 ngày
kể từ ngày đầu của kỳ kinh cuối cùng.Từ đó đến nay đã có nhiều nghiên cứu
khác nhau. Dựa vào kết quả của các nghiên cứu này, tài liệu hướng dẫn chuẩn
Quốc gia của Bộ Y tế cho phép áp dụng phương pháp phá thai bằng thuốc cho
tuổi thai đến hết 63 ngày tùy theo tuyến y tế[4] .Có nhiều đường dùng khác
nhau, liều lượng và khoảng cách dùng cũng khác nhau[5] .Những trường hợp
được chỉ định phá thai bằng thuốc tại các bệnh viện, cơ sở chăm sóc sức khỏe


2



bà mẹ phải là những bác sĩ sản phụ được tập huấn về phá thai bằng thuốc.
Việc tùy tiện mua thuốc, tùy tiện chỉ định dùng thuốc có thể dẫn đến những
hậu quả đau lòng như băng huyết, nhiễm trùng tử cung – có thể phải cắt bỏ
tử cung. Nếu đi phá thai tại những cơ sở không đủ tiêu chuẩn, bác sĩ chưa
qua tập huấn về phá thai bằng thuốc, thai phụ sẽ không được kiểm tra đầy
đủ, có thể thai đã chết nhưng không được tống xuất hoàn toàn dẫn đến sót
thai, sót nhau thai khiến rong kinh, mất máu và nguy cơ nhiễm trùng tử cung
cao. Bên cạnh đó, không phải bất kỳ thai phụ nào muốn thực hiện phá thai
bằng thuốc cũng được mà phải căn cứ vào tình trạng thai (có nằm trong tử
cung hay không, tuổi thai có phù hợp với tuyến bệnh viện được phép áp
dụng hay không).
Phá thai bằng thuốc có ưu điểm không cần can thiệp vào BTC, tuy vậy
vẫn còn nhiều biến chứng mà hay gặp nhất là sót rau, sót thai và rong huyết,
băng huyết…
Hàng năm tại khoa Sản 3-BVPSTW đã tiếp nhận và điều trị nhiều
trường hợp ra máu kéo dài sau phá thai bằng thuốc và được chẩn đoán là sót
rau. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Nhận xét tình hình sót rau
sau phá thai bằng thuốc được điều trị tại bệnh viện Phụ Sản Trung ương trong
3 năm từ năm 2013-2015” với 2 mục tiêu sau:
1.Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của sót rau sau phá thai bằng
thuốc được điều trị tại Bệnh viện Phụ sản Trung Ương từ năm 2013-2015.
2. Nhận xét về xử trí sót rau sau phá thai bằng thuốc .


3

Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1.CÁC BIỆN PHÁP PHÁ THAI

1.1.1. định nghĩa về phá thai.
Phá thai là chủ động sử dụng các phương pháp khác nhau để chấm dứt
thai trong tử cung cho thai đến 22 tuần tuổi.
1.1.2 các biện pháp phá thai dưới 12 tuần.
Có 2 phương pháp phá thai dưới 12 tuần được áp dụng đó là phá thai
ngoại khoa và phá thai nội khoa.
Phá thai ngoại khoa: Sử dụng các thủ thuật qua cổ tử cung để chấm dứt
thai kỳ, bao gồm hút chân không, nong và gắp.
Phương pháp hút chân không
Có 3 loại: bơm 1 van bằng tay; bơm 2 van bằng tay; bằng máy hút bơm điện.
Là sử dụng áp lực từ máy hút hoặc từ bơm hút chân không bằng tay để
hút thai và rau trong buồng tử cung qua ống hút ra ngoài. Phương pháp này an
toàn, hiệu quả, nhanh. Tai biến có thể gặp như thủng tử cung, chảy máu,
nhiễm trùng và tai biến gây tê, gây mê. Hiện nay phương pháp này vẫn còn
được sử dụng rộng rãi để phá thai đến hết 12 tuần tuổi.
Phương pháp nong và nạo
Là thủ thuật phải nong cổ tử cung bằng dụng cụ rồi gắp thai, rau và nạo
sạch buồng tử cung bằng thìa nạo. Nguy cơ rách cổ tử cung, chảy máu, nhiễm
trùng, thủng tử cung cao hơn hút thai. Chính vì vậy phương pháp này còn rất
ít nơi sử dụng để phá thai dưới 12 tuần.


4

Phá thai nội khoa (phá thai bằng thuốc): Là phương pháp dùng thuốc để
gây sẩy thai. Thuốc gây sẩy thai là MFP và MSP. MFP có tác dụng làm ngừng
thai nghén, dựa trên cơ sở ngăn chặn thụ thể progesterone, là một nội tiết rất
cần thiết để duy trì sự sống của thai kỳ. Nếu sử dụng một mình MFP để phá
thai hiệu quả chỉ đạt khoảng 60%- 80% nhưng nếu sử dụng kết hợp với MSP
sẽ có hiệu quả phá thai cao hơn rất nhiều. MSP làm chín muồi cổ tử cung

(CTC) và gây cơn co tử cung (TC) để tống thai và rau từ trong buồng tử cung
(BTC) ra ngoài.
1.1.3 Các tai biến khi phá thai.
Phá thai luôn tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ và tai biến nhất là phá thai bằng
phương pháp ngoại khoa vì phải can thiệp trực tiếp vào BTC. Những tai biến
có thể xảy ra như:
- Có nguy cơ gây chấn thương tử cung(thủng tử cung, hoặc các
tạng lân cận) hay cổ tử cung.
- Phải sử dụng thuốc gây tê, an thần hoặc gây mê, do đó có nguy cơ bị dị
ứng hoặc shock với thuốc gây tê, gây mê
- Nguy cơ nhiễm khuẩn.
- Có thể để lại các biến chứng lâu dài như vô sinh, dính buồng tử cung,
chửa ngoài tử cung….
Phá thai nội khoa có ưu điểm là không can thiệp trực tiếp vào BTC, đảm
bảo tính riêng tư hơn, tuy nhiên vẫn có một số nhược điểm như:
- Ra máu kéo dài, có nguy cơ sót rau, sót thai.
- Phải chờ đợi, hoàn tất trong nhiều ngày, đôi khi vài tuần.
- Chỉ thực hiện trong phá thai sớm.
- Tái khám nhiều lần.
- Tốn kém hơn.


5

1.2. PHÁ THAI BẰNG THUỐC
Là phương pháp dùng thuốc để chấm dứt thai nghén đã được các thầy
thuốc nghiên cứu nhiều năm. Từ khi được công bố và chấp nhận chính thức là
một phương pháp phá thai ở các nước phương Tây, phương pháp phá thai
bằng Mifepristone kết hợp với Misoprostol ngày càng được các thầy thuốc và
chị em phụ nữ hưởng ứng [6]. Phương pháp phá thai này có thể áp dụng cho

tuổi thai từ 5 đến 9 tuần tuổi, kể từ ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối cùng. Tuổi
thai có liên quan đến tỷ lệ thành công của phương pháp. Tuổi thai càng lớn, tỷ
lệ thất bại có tăng. Hiệu quả đạt được cao nhất ở tuổi thai đến 7 tuần [7] .
Phương pháp phá thai nội khoa đã cho người phụ nữ một sự lựa chọn mới để
chấm dứt thai nghén. Một số nghiên cứu mới đây cho thấy nhiều phụ nữ ưa
thích phương pháp phá thai bằng thuốc hơn phá thai ngoại khoa và khi được
lựa chọn có nhiều phụ nữ đã lựa chọn phương pháp phá thai bằng thuốc. Phụ
nữ lựa chọn phá thai nội khoa cho biết phương pháp này có tính riêng tư hơn,
người phụ nữ được tự chủ hơn, phương pháp ít xâm hại hơn và có vẻ tự nhiên
hơn phá thai ngoại khoa. Các nhược điểm thường được nhắc đến gồm đau
bụng, thời gian ra máu, số lần thăm khám và thời gian phải chờ đợi tới khi kết
thúc quá trình sẩy thai nhiều hơn so với phá thai ngoại khoa.
1.2.1 Chỉ định của phá thai bằng thuốc.
Phá thai bằng thuốc được chỉ định cho những trường hợp sau:
- Một phụ nữ có thai muốn được phá thai.
- Tuổi thai 63 ngày vô kinh.
- Bệnh nhân phải được tư vấn đầy đủ về phương pháp phá thai, và phải
được theo dõi tại các cơ sở y tế với bán kính 25km
- Những trường hợp phá thai ngoại khoa khó khăn hay được dự kiến là
khó khăn.


6

1.2.2 Chống chỉ định của phá thai bằng thuốc
+Dị ứng với các thành phần của thuốc.
+ Suy thượng thận.
+ Bệnh hen nặng.
+ Rối loạn đông máu hay đang điều trị kháng đông.
+ Thai ngoài tử cung hoặc nghi ngờ.

+ Dụng cụ tử cung trong buồng tử cung (phải tháo dụng cụ tử cung trước
khi sử dụng Mifepristone).
+ Thiếu máu nặng.
+ Bệnh tâm thần.
1.2.3. Thuốc sử dụng trong phá thai nội khoa.
1.2.3.1 Misoprostol (MSP)
MSP là 1 dẫn chất tổng hợp có tác dụng tương tự prostaglandin E1, do
hãng Searle sản xuất dưới dạng viên nén có hàm lượng là 200µg.Vì vậy, MSP
có tính chất dược lý, cấu trúc hóa học tương tự prostaglandin E1.
Prostaglandin là một nhóm các chất có cấu trúc tương tự nhau, nhưng
tác dụng dược lý của các PG rất khác nhau, thay đổi tùy theo loại, tùy theo
liều lượng, tùy theo loài vật và tùy theo giới. Có thể tóm tắt các tác dụng dược
lý của các PG như sau[8]
- Gây co hoặc giãn cơ trơn phụ thuộc vào các Receptor.
- Làm thay đổi cấu trúc tổ chức cổ tử cung.
- Ức chế bài tiết dịch dạ dày.
- Ức chế hoặc thúc đẩy sự tập trung tiểu cầu.


7

- Làm tăng tính thấm thành mạch.
- Điều hoà thân nhiệt.
- Làm giảm hormon Steroid ở hệ thống sinh dục, tiết niệu.
- Ức chế các hormon phân giải Lipid.
- Giải phóng chất trung gian dẫn truyền ở hệ thống thần kinh.
1.2.3.2. Ứng dụng của MSP trong sản khoa.
- MSP đầu tiên được dùng để điều trị và phòng ngừa loét dạ dày, tá tràng [9].
- MSP có tác dụng làm chín muồi cổ tử cung trước khi làm thủ thuật như
nong nạo, soi buồng TC, làm giảm nguy cơ tổn thương CTC, đặc biệt ở thì

nong CTC giúp thủ thuật được tiến hành dễ dàng, an toàn, rút ngắn thời gian
làm thủ thuật. Với liều thay đổi từ 200 – 300 mcg.
- MSP có tác dụng gây sẩy thai: Tỷ lệ thành công phụ thuộc vào tuổi
thai, liều lượng và cách dùng. Có thể dùng MSP đơn độc hoặc kết hợp với
MFP. Với tổng liều có thể đến 2400 mcg.
- MSP tác dụng dự phòng và điều trị chảy máu sau đẻ.
1.2.3.3. Tác dụng phụ của MSP:
Tác dụng phụ của Misoprotol gồm: Buồn nôn, nôn, tiêu chảy, sốt, đau
bụng, rét run…Các tác dụng phụ này thường nhẹ và đáp ứng với các thuốc
điều trị thông thường, thường mất đi sau khi dùng thuốc từ 3 đến 5 giờ [10].
So với các PG khác thì MSP ít tác dụng lên hệ tim mạch, hệ hô hấp nên
có thể dùng cho các bệnh nhân tăng huyết áp và hen phế quản [10].
1.2.3.4. Mifepristone (RU 486)
1.2.3.5. Sử dụng trong sản khoa
MFP có nhiều ứng dụng trong lâm sàng nhưng phần lớn được sử dụng
để phá thai. Nếu sử dụng MFP đơn thuần trong phá thai sớm chỉ gây sảy thai
từ 60-80%. Hiệu quả phá thai đạt đến 95% nếu dùng phối hợp với


8

Prostaglandin sau 48 giờ. Do có khả năng làm giãn nở và mềm CTC nên MFP
còn được sử dụng để chuẩn bị cho phá thai 3 tháng đầu và 3 tháng giữa [ 11].
Ngoài ra, MFP còn được dùng như một biện pháp tránh thai khẩn cấp sau giao
hợp vì nó có tác dụng tránh thai thông qua cơ chế làm hỏng niêm mạc tử cung
ở liều thấp, mà ở liều này không làm thay đổi hoor mon khác trong kỳ kinh
[12]. MFP còn có ứng dụng khác như điều trị lạc nội mạc TC, u xơ TC…và
điều trị 1 số bệnh khác như bệnh Cushing, hay làm giảm áp lực nhãn cầu
trong bệnh Glocom…
1.2.3.6 Tác dụng phụ:

Có rất ít tác dụng phụ xảy ra sau khi uống MFP, thường gặp là nôn,
buồn nôn, đau bụng, ra máu âm đạo. Những tác dụng phụ này thường rất nhẹ.
Nếu có ra máu âm đạo chỉ gặp với lượng rất ít.
1.3. Các phác đồ phá thai bằng thuốc.
Dùng phối hợp Misoprostol với Mifepristone để phá thai sớm tuổi thai
đến 9 tuần, kể từ ngày đầu của kỳ kinh cuối cùng. Tỷ lệ gây sảy thai hoàn
toàn phụ thuộc vào tuổi thai và đường dùng thuốc. Theo những nghiên cứu
trước đây người ta sử dụng 600mg Mifepristone được uống với Protaglandin
đặt âm đạo hay đường uống. Tuy nhiên, một nghiên cứu của tổ chức y tế thế
giới đã nhận thấy rằng liều 200mg Mifepristone phối hợp với Gemeprost
(Một biệt dược của PG), có thể gây sẩy thai hoàn toàn như với liều 600 mg
[13]. Khi dùng với liều thấp hơn tác dụng phụ cũng giảm đi đáng kể. Tuy vậy,
nếu dùng với liều thấp hơn (50 hoặc 100mg) thì tỷ lệ gây sảy thai thành công
thấp hơn, tỷ lệ thai tiếp tục phát triển cao hơn so với liều 200 mg [ 14]. Vì vậy
liều 200mg Mifepristone được coi là liều thấp nhất có tác dụng gây sẩy thai.
Để phá thai đến 9 tuần, một nghiên cứu của Tổ chức Y tế Thế giới dùng
phối hợp 600mg Mifepristone, sau 48 giờ đặt 1mg Gemeporst (PG) vào âm
đạo. Tỷ lệ thành công gây sẩy thai hoàn toàn là 96% [15].


9

Ở nhiều nước trên thế giới, người ta cho phép sử dụng phá thai nội khoa
cho tuổi thai đến 7 tuần bằng cách phối hợp 200mg Mifepristone và 400mcg
Misoprostol đường uống. Tỷ lệ thành công từ 96 – 97,5 % [16].
Tại việt Nam, cũng có nhiều nghiên cứu khác nhau để tìm ra liều tối ưu
nhất. Theo nghiên cứu của Trần Thị Phương Mai và các cộng sự [17] phác đồ
được sử dụng là 200 mg Mifepristone kết hợp với 400 mcg Misoprostol uống
sau 48 giờ. Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Minh phác đồ phá thai ≤
63 ngày được sử dụng là 200 mg Mifepristone


kết hợp với 400 mcg

Misoprostol uống sau 48 giờ đối với thai ≤ 7 tuần tuổi, còn 800 mcg
Misoprostol đường uống, ngậm dưới lưỡi hoặc đặt âm đạo sau 48 giờ được áp
dụng với thai từ 8 – 9 tuần tuổi [18].
Theo tài liệu hướng dẫn chuẩn Quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức
khỏe sinh sản của Bộ Y tế cho phép sử dụng Mifepristone và Misoprostol để
đình chỉ thai nghén đến hết 9 tuần kể từ ngày đầu của kỳ kinh cuối cùng tùy
theo tuyến áp dụng [19].
Bảng 1.1. Các phác đồ phá thai bằng thuốc với Mifepristone-Misoprostol
thường dùng trên thế giới [1]
Liều Mifepristone
600mg uống

Liều và đường dùng
Misoprostol
400mcg uống

Nước áp dụng.
Ấn Độ, Hoa Kỳ, Nam Phi,
Pháp và hầu hết các nước

200mg uống
200mg uống

châu Âu.
400mcg uống
Tuynisi, Hoa Kỳ.
800mcg uống, hoặc đặt

Vương quốc Anh, Thụy

200mg uống

âm đạo
600mcg uống

Điển, Hoa Kỳ.
Phổ biến ở Trung Quốc.

1.3.1. Tai biến khi phá thai bằng thuốc, chẩn đoán và hướng xử trí.


10

Mặc dù phá thai bằng thuốc là phương pháp phá thai an toàn và
hiệu quả cao, được nhiều khách hàng ưu tiên lựa chọn, tuy nhiên vẫn có một
số tai biến, những tai biến này là những tác dụng phụ mà vượt quá khả năng
chịu đựng của khách hàng như:
- Đau quặn bụng: Đau bụng do co bóp cơ tử cung, là tác dụng phụ được
mong đợi, vì nó là động lực gây sẩy thai. Đau quặn bụng ở trong PTNK phần
lớn khách hàng đều chấp nhận nó.
Hướng xứ lý: Chườm nóng vùng bụng dưới, nằm hoặc ngồi ở tư thế
thoải mái. Cần cung cấp thuốc giảm đau và tư vấn cách sử dụng cho khách
hàng PTNK. Tuy nhiên, chỉ có một số rất ít khách hàng cần sử dụng thuốc
giảm đau. Liều dùng: Paracetamol 500-1000mg, cách mỗi 6h. Hoặc Ibuprofen
200mg. Trong trường hợp đau nhiều có thể cho thêm 30- 40 mg codeine[20].
- Ra máu âm đạo: cũng giống như dấu hiệu đau bụng, đây là tác dụng
phụ mong đợi. Đây cũng là dấu hiệu làm cho khách hàng thấy phiền lòng nhất
khi sử dụng phương pháp PTNK, ra máu thường nhiều hơn và kéo dài hơn 1 chu

kỳ kinh nguyệt bình thường nhưng không ảnh hưởng đến nồng độ
Hemoglobin[21]. Lượng máu mất liên quan đến tuổi thai, máu ra nhiều nhất vào
khoảng 3 - 6 giờ sau khi dùng MSP, sau sẩy thai lượng máu ra giảm dần nhưng
sự ra máu rỉ rả, lốm đốm kéo dài khoảng hơn 1 tuần rồi mới chấm dứt hẳn.
Nghiên cứu của Jensen: thời gian ra máu trung bình khoảng 9,6 ngày. Cá
biệt có vài trường hợp ra máu rỉ rả đến 1 tháng và duy nhất có một phụ nữ
người Mỹ đã ra máu tới 3 tháng[22].
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng Minh thì thời gian ra máu khoảng 7
đến 14 ngày chiếm tỷ lệ 79,6%[5].
Tư vấn về sự ra máu trong PTNK cho khách hàng rất cần thiết. Cung cấp
những thông tin về sự ra máu gây đe dọa sức khỏe để họ cần quay lại tái khám.


11

- Buồn nôn, nôn chiếm tỷ lệ 30 - 50 %. Buồn nôn có thể giảm đi sau vài
giờ sử dụng MSP. Nôn và buồn nôn có thể gặp ở khách hàng có thai, và có thể
tăng lên khi sau khi sử dụng các thuốc gây sẩy thai.
- Sốt, rét run: Thỉnh thoảng MSP gây sốt, nhưng không quá hai giờ. Nếu
sốt cao kéo dài, sốt dai dẳng nhiều ngày thì phải tìm xem có phải sốt do nhiễm
trùng hay không.
Dùng thuốc hạ sốt và động viên khách hàng. Cung cấp những thông tin
để khách hàng cần tái khám ngay.
- Tiêu chảy gặp ở 25%, thường thoáng qua, nhanh chóng mất đi. Hướng
xử trí: trấn an khách hàng.
- Tê bì chân tay, hoa mắt, chóng mặt rất hiếm gặp.
- Băng huyết: Là sự chảy máu quá nhiều hoặc ra máu nhiều kéo dài gây
nên rối loạn huyết động, làm giảm nồng độ Hemoglobin. Biểu hiện ra máu
nhiều tới mức mỗi giờ thấm ướt 2 băng vệ sinh dày, liên tiếp trong 2 giờ.
Nguyên nhân thường do thai sẩy dở dang.

Hướng xử trí: Nếu có rối loạn huyết động thì hồi sức bằng truyền dịch,
truyền máu. Khi đủ điều kiện thì hút buồng tử cung cầm máu, thuốc tăng co
bóp cơ tử cung, kháng sinh, soi mô. Nếu không có rối loạn huyết động thì hút
buồng tử cung cầm máu, kháng sinh.
Băng huyết đến mức phải truyền máu rất hiếm gặp chỉ chiếm khoảng
0,1- 0,2% [23],[24].
- Vỡ tử cung: Các nghiên cứu về PTNK dưới 9 tuần trên thế giới đều
thông báo chưa gặp 1 trường hợp nào vỡ tử cung.
- Nhiễm trùng: Đường sinh dục dễ bị nhiễm khuẩn ngược dòng khi
CTC mở sau sẩy thai.


12

Nhiễm khuẩn nặng vùng chậu sau PTNK rất hiếm gặp. Có vài ca nhiễm
khuẩn kỵ khí không kèm theo sốt sau PTNK, ở Canada (một ca), ở Hoa Kỳ
(bốn ca). Không thấy một ca nào từ Trung Quốc hay từ Châu Âu. Cả năm ca
trên đều nhiễm Clostridium sordellii liên quan đến sốc nhiễm độc [25].
+ Với các trường hợp nhiễm trùng đường sinh dục mức độ nặng (sốt > 38oC,
sản dịch hôi, bạch cầu đa nhân trung tính tăng, nắn tử cung đau), cần siêu âm
buồng tử cung xác định sót thai hoặc sót rau, dùng kháng sinh đường tĩnh
mạch trước, hết dấu hiệu nhiễm trùng mới hút buồng tử cung, soi mô.
+ Nhiễm khuẩn đường sinh dục mức độ nhẹ, sản dịch hôi, còn ra máu
âm đạo, chỉ cần điều trị ngoại trú bằng kháng sinh đường uống (chiếm
khoảng 0,2%) [24].
- Sẩy thai không hoàn toàn hay còn sót các sản phẩm thụ thai: khám phụ
khoa thấy thể tích tử cung to hơn bình thường, cổ tử cung hé mở lỗ ngoài, còn
ra máu âm đạo.
Hướng xử trí: Tư vấn cho khách hàng về việc sử dụng thêm liều MSP lặp lại.
Nếu khách hàng đồng ý nên cho ngậm thêm 4 viên hoặc 8 viên hoặc 16 viên

MSP, mỗi ngày ngậm 4 viên chia 2 lần. Hẹn khám lại sau 7 ngày. Ngày khám
lại nếu vẫn còn sót các sản phẩm thụ thai thì phải hút buồng tử cung, kháng
sinh, soi mô. Nếu đối tượng không đồng ý thì xử lý ngoại khoa.
Trong một số nghiên cứu, việc sử dụng MSP lặp lại hoặc thường quy cho
tất cả các phụ nữ hoặc cho những trường hợp sẩy thai không hoàn toàn. Liều
lặp lại của MSP có thể làm tăng tác dụng phụ của nó. Nhưng chưa có đủ bằng
chứng để khẳng định hiệu quả phá thai tăng khi sử dụng liều lặp lại MSP [11].
- Rong huyết là ra máu âm đạo trên 2 tuần, siêu âm thấy buồng tử cung
sạch; Khám phụ khoa: âm đạo còn ra máu, tử cung kích thước bình thường,
xét nghiệm độ β - hCG trong giới hạn bình thường (nếu nồng độ β - hCG


13

giảm gợi ý rằng thai đã sẩy, nếu tăng gợi ý thai còn phát triển, nếu nồng độ β hCG giảm 50% trong vòng 24 giờ thai có vẻ như đã sẩy hoàn toàn. Ở những
phụ nữ PTNK đã hoàn tất thì nồng độ HCG huyết thanh sau khi dùng MFP 2
tuần phải dưới 1000 IU/L [26]).
Xử trí: vòng kinh nhân tạo, kháng sinh.
- Choiocarcinoma: siêu âm buồng tử cung sạch, có thể có nang hoàng
tuyến, xét nghiệm β - hCG tăng cao.
Xử trí: chuyển khám, theo dõi chuyên khoa.
- Thai ngừng phát triển và lưu lại trong buồng tử cung: khách hàng có
thể không quan sát thấy khối thai sẩy; Siêu âm thấy hinh ảnh túi thai tồn lưu,
không thấy hoạt động tim thai.
Khám phụ khoa: TC thể tích to hơn bình thường, âm đạo còn ra ít máu.
Xử trí: Hút thai, kháng sinh.
- Thai vẫn tiếp tục phát triển: Khách hàng vẫn còn cảm giác nghén, máu
âm đạo ra ít, siêu âm còn thai trong tử cung, có phôi thai, có hoạt động tim
thai. Một tỷ lệ nhỏ 1% thai vẫn tiếp tục phát triển sau PTNK, chỉ có duy nhất
một ca dị tật được ghi nhận sau sử dụng MFP đơn độc, ca này được mô tả là

dính chi dưới, có thể không liên quan đến MFP [27]. Các nghiên cứu cho thấy
khoảng 10 ca dị tật trong 1000 ca sinh sống có dùng MSP trong thời kỳ mang
thai. Không thể xác định được nguyên nhân các ca dị tật đã báo cáo là do thuốc
phá thai, vì tỷ lệ khuyết tật khi sinh trong dân số bình thường khoảng 2% ca sinh.
MFP không phải là chất gây dị tật, nhưng khi kết hợp với một PG, gây cơn co tử
cung. Đây có thể là nguyên nhân của một số khuyết tật đã gặp [28].
Sẽ xử trí cần tư vấn cho khách hàng, nếu tiếp tục bỏ thai thì xử lý bằng
phương pháp phá thai ngoại khoa; Nếu quyết định không bỏ thai thì theo dõi


14

quá trình mang thai có nguy cơ cao về dị tật.
1.4. Biến chứng sót rau sau phá thai bằng thuốc.
1.4.1 Định nghĩa
Sót rau là tình trạng rau thai không được tống xuất hết ra ngoài mà còn
lưu lại trong BTC gây nên tình trạng rong huyết kéo dài và nguy cơ nhiễm
trùng tử cung.
1.4.2. Chẩn đoán sót rau sau phá thai bằng thuốc.
1.4.2.1. Triệu chứng lâm sàng.
- triệu chứng cơ năng thường xuất hiện muộn, sau phá thai 10-14 ngày,
đôi khi có một số trường hợp xuất hiện muộn hơn với các triệu chứng:
+ đau bụng: cảm giác đau âm ỉ, nặng tức ở vùng hạ vị, đau bụng
thường kéo dài hơn so với các trường hợp PTNK thông thường, đó là biểu
hiện của tình trạng bệnh lý, đôi khi có cảm giác đau bụng giống hành kinh,
nguyên nhân là do tử cung tăng co bóp để tống các sản phẩm còn sót trong
BTC ra ngoài, một số trường hợp nặng có biến chứng đau bụng do nhiễm
trùng tử cung gây nên. Tính chất đau bụng trong phá thai sót rau khác với đau
bụng khi sảy thai. Đau bụng khi sảy thai là do tác dụng của MSP, làm tăng co
bóp tử cung, cảm giác đau quặn bụng, dữ dội trước khi thai sảy, nhưng sau khi

khối thai được tống xuất ra ngoài, cảm giác đau bụng giảm hẳn và nhanh
chóng mất đi.
+ Ra máu âm đạo: ra máu thường kéo dài trên 2 tuần, thậm chí có trường
hợp ra máu kéo dài hàng tháng, rỉ rả ít một hoặc thấm giọt, máu đỏ thẫm đôi
khi có lẫn với máu cục, đa số các trường hợp ra máu không ảnh hưởng đến
nồng độ hemoglobin trong máu, tuy nhiên mộ số trường hợp nặng vẫn có biểu
hiện thiếu máu nặng ảnh hưởng đến tính mạng và cần phải điều trị. Đôi khi có


15

thể nhầm lẫn với viêm niêm mạc tử cung sau phá thai. Chẩn đoán phân biệt
bằng khám lâm sàng kết hợp với hình ảnh niêm mạc tử cung trên siêu âm.
+ Viêm niêm mạc tử cung: là hình thái nhẹ của nhiễm khuẩn sản khoa.
Là hình thái thường gặp và đầu tiên, có thể dẫn đến những biến chứng nặng
hơn như viêm tử cung toàn bộ, viêm phúc mạc toàn bộ, nhiễm khuẩn huyết
nếu không điều trị kịp thời.
+ Tính chất ra máu trong viêm niêm mạc tử cung: sản dịch hôi lẫn máu
đỏ, có khi lẫn mủ thối nhất là khi có vi khuẩn yếm khí hoặc trực khuẩn E.coli.
-Triệu chứng toàn thân:
+ Toàn trạng mệt mỏi, khó chịu, đau đầu (trong trường hợp có thiếu máu)
+ Sốt: biểu hiện của tình trạng nhiễm trùng tử cung, sốt thường trên
38°C, một số trường hợp có thể sốt cao đột ngột 39 – 40° C, rét run ở trường
hợp viêm niêm mạc tử cung nặng[29],[30].
Thực thể:
-

Tử cung kích thước có thể to hơn bình thường, mật độ mềm trường hợp
muộn, có biến chứng nhiễm trùng nặng di động tử cung đau.


-

Cổ tử cung đóng (trong trường hợp đọng dịch) hoặc hé mở, đôi khi có thể sờ
thấy rau, màng rau ở lỗ trong cổ tử cung[31].
1.4.1.2 Triệu chứng cận lâm sàng.
- CTM: có thể có tình trạng thiếu máu tùy theo mức độ, số lượng HC,
lượng huyết sắc tố giảm, tùy từng trường hợp mà mức độ thiếu máu khác
nhau biểu hiện: mệt mỏi, da xanh tái, niêm mạc nhợt, mạch nhanh…
+ Chẩn đoán thiếu máu dựa vào [32], [33]

-

Dấu hiệu lâm sàng: liên quan với sự giảm hemoglobin trong máu(da xanh,


16

niêm mạc nhợt), dấu hiệu thiếu máu tổ chức(khó thở khi gắng sức, chóng mặt,
đau đầu, nhịp tim nhanh).
-

Xét nghiệm sinh hoá dựa vào lượng huyết cầu, tỷ lệ hemoglobin dưới mức
bình thường: nữ 12 g%, người có thai và người già 11g%, trẻ sơ sinh 14g%,
trẻ em 11g% [33].

-

Phân loại mức độ thiếu máu dựa theo số lượng hồng cầu và nồng độ
hemoglobin.
Các chỉ tiêu

Lượng hồng cầu (triệu/ mm3)
Hemoglobin(g%)

Mức độ thiếu máu
Nặng

Trung bình

Nhẹ

< 2,5. 106

2,6-3,5.106

>3,5. 106

<8g%

8-11g%

11-12g%

+ Công thức bạch cầu nếu có nhiễm khuẩn kèm theo thì số lượng BC
tăng cao trên 10000/mm3, là sự phản ứng tự vệ của cơ thể trước tác nhân xâm
nhập của môi trường. Số lượng BC tăng cao trong máu ngoại vi đặc biệt là số
lượng BC đa nhân trung tính. Trường hợp nhiễm khuẩn nặng, có khi BC tăng
từ 15000/mm3 – 20000/mm3[34].
- Định lượng CRP:Xét nghiệm protein phản ứng C (CRP): CRP là một
loại protein được tổng hợp trong quá trình viêm hay tổn thương mô cấp tính.
Ở người bình thường, nồng độ CRP rất thấp chỉ khoảng 4-6 mg/l, trong

trường hợp nhiễm khuẩn nặng, CRP có thể tăng cao gấp nhiều lần. CRP có giá
trị trong chẩn đoán sớm, theo dõi diễn biến và đánh giá hiệu quả điều trị các
biến chứng sau đẻ như nhiễm trùng vết mổ, viêm niêm mạc tử cung, viêm tắc
tĩnh mạch…[35],[36]. Giá trị CRP càng cao, mức độ nhiễm khuẩn càng
nặng[37],[38]. CRP còn được dùng để phân biệt các viêm nhiễm do vi khuẩn
và virus mà dấu hiệu lâm sàng không phân biệt được[39].


17

+ Nhiễm khuẩn nhẹ:

6-48 mg/l.

+ Nhiễm khuẩn vừa:

49-96mg/l.

+ Nhiễm khuẩn nặng:

97-192 mg/l.

+ Nhiễm khuẩn rất nặng:

> 192 mg/l

- Nồng độ β-hCG(human chorionic gonadratropin) trong huyết thanh:
Bình thường sau PTNK thành công, nồng độ β-hCG sẽ giảm nhanh
chóng, ít nhất 50% trong vòng 24 giờ, và trở về âm tính trung bình từ 30-60
ngày[40], Ở những phụ nữ PTNK đã hoàn tất thì nồng độ HCG huyết thanh

sau khi dùng MFP 2 tuần phải dưới 1000 IU/L[40]. Những trường hợp sót
rau, do gai rau vẫn còn tồn tại, tiếp tục sản xuất ra β-hCG, do đó nồng độ βhCG sẽ không giảm hoặc giảm chậm hơn so với tiến trình trên, tuy nhiên cần
phân biệt sự tồn tại β-hCG với một số trường hợp bệnh lý khác.
+ bệnh nguyên bào nuôi: siêu âm buồng tử cung sạch, có thể có nang
hoàng tuyến, xét nghiệm β - hCG tăng cao.
+ bệnh nhân có thai lại: có dấu hiện nghén, tử cung kích thước to lên, xét
nghiệm β-hCG tăng lên gấp đôi trong vòng 48h…
- Siêu âm tử cung- phần phụ: là một xét nghiêm vô hại, dễ dàng, có thể
làm nhiều lần. Siêu âm đánh giá tử cung (kích thước, vị trí, niêm mạc tử
cung), hình ảnh siêu âm niêm mạc tử cung rất có ý nghĩa trong chẩn đoán sót
rau, niêm mạc tử cung thường dày trên 15mm[41], không đồng nhất, có chỗ
tăng giảm âm không đồng đều, một số trường hợp có thể có hình ảnh đọng
dịch trong BTC[42] .
1.4.1.3 Hướng xử trí khi chẩn đoán sót rau.
-

Điều trị nội khoa:

+

Kháng sinh toàn thân khi có dấu hiệu nhiễm trùng.


18

+

Thuốc co hồi tử cung Oxytocin, Ergometrin.

+


Hạ sốt kháng viêm.

+

Bồi phụ nước, điện giải và truyền máu nếu cần.

-

Điều trị sản khoa:

+

Nạo BTC trong trường hợp có khối trong BTC mà điều trị nội khoa không kết
quả.

+

Nong CTC và hút trong trường hợp bế sản dịch.

+

Hút BTC khi trong BTC có dịch.

-

Điều trị ngoại khoa:
Trong trường hợp sót rau sau PTNK điều trị nội khoa, sản khoa không
kết quả hoặc có biến chứng viêm phúc mạc, chảy máu, nhiễm trùng huyết có
thể phải cắt TC bán phần phối hợp với kháng sinh liều cao để loại trừ ổ

nhiễm khuẩn nguyên phát.
1.5. Tình hình nghiên cứu tại việt nam và trên thế giới.
1.5.1 Tình hình nghiên cứu trên thế giới.
Harwood B và cộng sự nghiên cứu trên 668 phụ nữ có thai lên đến 49
ngày với vết sẹo mỗ cũ ở tử cung trước đó [26] mục đích của nghiên cứu này
là để điều tra xem khoảng thời gian chảy máu âm đạo là bao lâu,hình ảnh siêu
âm và xét nghiêm nồng độ β-hCG huyết thanh sau khi phá thai nội khoa có
thể xác định chính xác phụ nữ với những vết sẹo tử cung phá thai không
thành công và phải tiến hành thủ thuật nong và nạo.

-

Phương pháp được tiến hành: Sáu trăm sáu mươi tám phụ nữ với một vết sẹo
tử cung và lên đến 49 ngày của thai kỳ đã trải qua một phá thai nội khoa với
mifepristone và misoprostol. Mỗi người phụ nữ sử dụng 50 mg và 25 mg


19

mifepristone đường uống vào buổi sáng và buổi tối, tương ứng, cho 2 ngày và
600 mcg misoprostol uống vào ngày thứ ba.
Kết quả: Trong số 668 phụ nữ, 6 (0,9%) đã bị mất để theo dõi. Tỷ lệ phá
thai hoàn toàn là 91,7%; 55 phụ nữ phá thai nội khoa thất bại trong đó có 2
phụ nữ bị chảy máu nặng, 3 phụ nữ có thai liên tục và 34 phụ nữ bị sẩy thai
không trọn.
+ Tỷ lệ sót rau lớn hơn đáng kể ở những phụ nữ có chảy máu dai dẳng
kéo dài 21 ngày so với những phụ nữ có chảy máu dai dẳng kéo dài 14
+ Tỷ lệ sót rau cũng cao hơn ở phụ nữ có huyết thanh β-hCG là ≥500
IU/L so với phụ nữ có huyết thanh β-hCG < B500 IU /L.
+ Tỷ lệ sót rau lớn hơn ở phụ nữ có độ dày nội mạc tử cung ≥15 mm so

với phụ nữ có độ dày nội mạc tử cung <15mm
Kết luận: Sự kết hợp của mifepristone và misoprostol được là một
phương pháp an toàn và hiệu quả để chấm dứt thai kì ở phụ nữ sinh mổ trước
đó. Nếu một người phụ nữ với một vết rạch tử cung trước khi trải qua khoảng
thời gian chảy máu âm đạo≥21 ngày và / hoặc đã có một bề dày nội mạc tử
cung ≥15 mm và / hoặc huyết thanh β-hCG ≥500 IU / L sau khi phá thai nội
khoa thì nên điều trị bằng can thiệp thủ thuật nong và nạo.
Sahar Elbaradie và cộng sự tiến hành nghiên cứu trên 2 nhóm đối tượng
phá thai nội khoa thành công và thất bại [41], so sánh kết quả nồng độ β-hCG
và hình ảnh siêu âm của 2 nhóm đối tượng rút ra được kết luận như sau:


20

+ Độ dày nội mạc tử cung của nhóm phá thai thành công là 11,2 ± 3,9 mm
Độ dày nội mạc tử cung của nhóm sót rau là 14.6 ± 6.1 mm, với độ nhạy
88.5%, độ đặc hiệu là 73,7%, sự khác biệt giữa 2 nhóm này có ý nghĩa thống
kê với p=0,003.
+ nồng độ β-hCG của nhóm phá thai thành công vào ngày thứ 15 là 73,9 ±
23.9 UI/L, nồng độ β-hCG của nhóm sót rau là 109.4 ± 68,4, p <0,001
1.5.2 Tại Việt Nam
Các nghiên cứu ở Việt Nam cho thấy phá thai bằng thuốc có hiệu quả
cao. Tỷ lệ sẩy thai từ 92-96 %, tương đương với nhiều kết quả được báo cáo
trên thế giới. Phụ nữ Việt Nam chấp nhận và lựa chọn phương pháp phá thai
bằng thuốc vì họ nghĩ rằng phương pháp này an toàn hơn, tự nhiên hơn và ít
ảnh hưởng đến sức khoẻ của họ. So với nạo hút thai những thuận lợi của
phương pháp này được biết là: Tránh được nguy cơ thủng tử cung, dính buồng
tử cung hay tổn thương cổ tử cung và cũng không gây những tai biến liên
quan đến gây mê, gây tê[43].
Năm 2004 Nguyễn Thị Hồng Minh thực hiện tại Viện Bảo vệ BMTSS

Hà nội nghiên cứu so sánh kết quả của hai phác đồ phá thai nội khoa:
+ Trong phác đồ thứ nhất với liều dùng 200mg Miferpriston và 400 mcg
Misoprostol tỉ lệ thành công là 98%.
+ Trong phác đồ thứ hai với liều 2400 mcg Misoprostol chia đặt âm đạo
3 lần, mỗi lần 800mcg cách nhau 3 giờ, tỉ lệ thành công là 89% [44].
Ra huyết kéo dài trong phá thai bằng thuốc luôn là mối lo ngại cho
những người làm nghiên cứu và bệnh nhân, mặc dù thời gian ra huyết ở nhóm
phá thai bằng thuốc kéo dài hơn nhưng khi đánh giá bằng định lượng nồng độ
hemoglobin trước và sau nghiên cứu của các tác giả không ghi nhận sự khác


21

biệt có ý nghĩa thống kê. Kết luận của nghiên cứu này đưa ra nhận định phá
thai bằng thuốc là phương pháp an toàn, có thể chấp nhận như một bổ sung
cho sự lựa chọn của phụ nữ Việt Nam. Tỷ lệ thành công 96% là kết quả cao
nhất quan sát được ở các nước đang phát triển và có thể so sánh tương đương
với kết quả ở các nước phát triển.
Trong thời gian này, một nghiên cứu khác được tiến hành tại Bệnh viện
Từ Dũ với liều dùng 150mg Mifepristone và 400mcg Misoprostol ở những
phụ nữ có thai dưới 8 tuần. Tỷ lệ thành công là 88,5% .
Năm 2000-2001, Vụ BMTE Bộ Y tế kết hợp với Hội đồng Dân số Thế
giới triển khai nghiên cứu tại 8 điểm trên cả nước Việt Nam với tuổi thai ≤ 56
ngày. Ở miền Bắc, nghiên cứu được tiến hành tại 3 nơi Viện Bảo vệ Bà mẹ và
Trẻ sơ sinh, Trung tâm BVSKBMTE/KHHGĐ các thành phố Hà Nội và Hải
Phòng, ở miền Trung có Trung tâm BVSKBMTE/KHHGĐ tỉnh Thừa Thiên
-Huế và Khoa Sản Bệnh viện đa khoa thành phố Đà Nẵng, và ba điểm tại
thành phố Hồ Chí Minh là Bệnh viện Hùng Vương, Trung tâm
BVSKBMTE/KHHGĐ thành phố và Trung tâm Y tế huyện Hóoc Môn. Như
thế, nghiên cứu đã bao trùm phạm vi lớn các vùng và các tuyến chăm sóc y tế

khác nhau và bao gồm cả khu vực thành thị và nông thôn. Kết quả cho thấy
hiệu quả phác đồ phá thai bằng thuốc đạt 92-96% .


22

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những bệnh nhân được chẩn đoán sót rau sau
phá thai bằng thuốc đối với thai dưới 9 tuần tuổi được điều trị tại khoa sản 3Bệnh viện Phụ sản Trung ương từ năm 2013-2015.
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng.
-Những bệnh nhân được chẩn đoán sót rau sau phá thai bằng thuốc được
điều trị tại khoa sản 3, có kết quả giải phẫu bệnh chẩn đoán chính xác.
- Phá thai bằng thuốc khi tuổi thai dưới 9 tuần tuổi.
- Có đầy đủ hồ sơ bệnh án, có đủ các thông tin cần thiết về bệnh nhân
nằm trong bệnh án.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ:
- HSBA không có kết quả giải phẫu bệnh
- Thiếu các dữ liệu cơ bản trong hồ sơ nghiên cứu.
2.2. Thời gian nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành trong 03 năm, từ năm 2013 đến 2015
2.3. Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu đượctiến hành tại Khoa Sản 3, Bệnh viện Phụ sản TrungƯơng.
2.4. Thiết kế nghiên cứu
Là thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang, sử dụng kỹ thuật hồi cứu để thu
thập số liệu lưu trên HSBA.



23

2.5. Cỡ mẫu
Tỷ lệ thất bại trong phá thai bằng thuốc (sẩy không trọn), được báo cáo
trong một số nghiên cứu gần đây là khoảng 4%-6%[42]. Dựa trên cơ sở chỉ số
quan trọng nhất, với giả thuyết phương pháp của chúng tôi có kết quả tương
tự nhưng ở mức là 5%. Áp dụng công thức xác định cỡ mẫu cho việc ước
lượng tỷ lệ là:
n = Ζ12−α / 2

p(1 − p)
∆2

(Trường Đại học Y tế Công cộng (2001), Giáo trình Thống kê Y tế, tr.
65, Hà Nội).
Trong đó:
n là cỡ mẫu cần thiết cho việc ước lượng tỷ lệ.
z là hệ số tin cậy, với α = 0,05 thì z = 1,96.
∆là sai số chấp nhận được chúng tôi ấn định là 4% (0,04).

p là tỷ lệ cần ước lượng, giả thuyết là 0,05.
q = 1-p và bằng 0,95.
Thay vào công thức:
n = 1,96 2

0,95.0,05
0,04 2

Trong trường hợp này, theo công thức trên thì n =112, làm tròn là 120.
2.6. Công cụ thu thập số liệu

- Các hồ sơ, bệnh án và các sổ sách liên quan đến bệnh nhân.
- Số liệu liên quan đến bệnh nhân được lưu trữ trong máy tính.


24

2.7. Các biến số nghiên cứu.
2.7.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
- Tuổi của bệnh nhân là tuổi tính theo năm, lấy theo năm dương lịch.
- Tuổi được chia thành các nhóm tuổi như sau:
+ <20 tuổi
+ 20-29 tuổi
+ 30-39 tuổi
+ ≥40 tuổi
- Nghề nghiệp:Chia thành 3 nhóm chính:
° Cán bộ, công chức, viên chức
° Công nhân, nông dân, nội trợ.
° Học sinh, sinh viên.
-

Trình độ học vấn:
° Tiểu học.
° Trung học cơ sở.
° Trung học phổ thông.
° Cao đẳng- Đại học.

- Tình trạng hôn nhân:
° Chưa có chồng
° Đang có chồng



25

- Tiền sử sản khoa:Số lần nạo hút thai, sảy thai, chửa ngoài tử cung…
° 0 lần.
° 1 lần.
° 2 lần.
° ≥ 3 lần.
° Số lần sinh: chia thành 3 nhóm:
° 0 lần.
° 1 lần.
° 2 lần.
° ≥ 3 lần.
2.7.2. Đặc điểm và một số yếu tố nguy cơ làm tăng tỷ lệ sót rau sau phá
thai bằng thuốc.
- Nơi phá thai
° tại viện (viên PSTW, viện nội thành hà nội, các viện khác)
° phòng khám tư nhân
° Tự mua thuốc ở hiệu thuốc về sử dụng
- Tuổi thai: dựa vào KCC để tính tuổi thai trong trường hợp kinh nguyệt
đều. trường hợp không nhớ ngày kinh hoặc kinh nguyệt không đều phảo dựa
vào hình ảnh siêu âm
Các mốc để tính tuổi thai theo siêu âm:
Thai 5 – 6 tuần: Kích thước túi ối từ 10 mm trở lên, có hình ảnh túi noãn


×