Tải bản đầy đủ (.docx) (72 trang)

Khảo sát các thể bệnh theo y học cổ truyền và phương pháp điều trị tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt tại bệnh viện y học cổ truyền trung ương từ 2010 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (384.07 KB, 72 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ

Tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt (TSLTTTL) là thuật ngữ dùng thay thế
cho các tên gọi trước đây như: phì đại lành tính tuyến tiền liệt (TTL), u xơ
TTL, bướu lành TTL… Mặc dù là một bệnh lành tính, ít gây nguy hiểm đến
tính mạng; nhưng là bệnh hay gặp nhất ở nam giới trung niên và tăng dần theo
tuổi, ảnh hưởng đến chất lượng sống của người bệnh [1].
Tỷ lệ mắc TSLTTTL có xu hướng ngày một gia tăng trên toàn thế giới,
bệnh đang trở thành gánh nặng cho cá nhân và toàn xã hội [2]. Nghiên cứu
các kết quả sinh thiết cho thấy, TSLTTTL có tỉ lệ 20% nam giới ở độ tuổi 41 50, 50% ở độ tuổi 51 - 60, trên 90% khi > 80 tuổi [3].
Tại Mỹ TSLTTTL tác động đến 70% nam giới ở tuổi 60 - 69, và 80%
nam giới trên 70 tuổi [4].
Ở Việt Nam, theo Trần Đức Thọ và Đỗ Thị Khánh Hỷ, trong điều tra 1345
nam giới trên 45 tuổi, tỉ lệ mắc TSLTTTL là 61,2%; không có sự khác biệt giữa
các miền địa lí, môi trường sống và nghề nghiệp, tăng dần theo lứa tuổi [5].
Cùng với sự tiến bộ của y học, tuổi thọ càng cao thì tỷ lệ bệnh TSLTTTL
ngày càng tăng. Từ những năm 1980 bệnh này đã được các thầy thuốc tiết
niệu đặc biệt quan tâm, hằng năm có những hội nghị quốc tế về bệnh TTL. Để
điều trị TSLTTTL có thể dùng nhiều phương pháp khác nhau như ngoại khoa:
phẫu thuật nội soi, phẫu thuật mở…hoặc dùng các phương pháp nội khoa
bằng thuốc hóa dược để điều trị bảo tồn. Tuy nhiên cả hai phương pháp này
vẫn có một số tai biến và tác dụng không mong muốn [6], [7].
Ngày nay người ta đang tích cực tìm kiếm các thuốc có nguồn gốc thảo
dược và tìm đến các phương pháp điều trị theo y học cổ truyền (YHCT) khi
bệnh chưa xuất hiện các biến chứng nặng. Trong YHCT, TSLTTTL thuộc
phạm vi chứng “long bế”, “lâm chứng”, “di niệu” [8].
Đã có nhiều công trình nghiên cứu, báo cáo thống kê về tình hình bệnh
tật và điều trị TSLTTTL tại cộng đồng [9], hay các bệnh viện chuyên sâu về



2

YHHĐ như bệnh viện Lão khoa trung ương [10]; nhưng chưa có công trình
nghiên cứu, thống kê về bệnh TSLTTTL trong các bệnh viện YHCT. Do đó,
việc nghiên cứu tình hình bệnh tật, các biểu hiện lâm sàng và phương pháp
điều trị TSLTTTL tại các bệnh viện YHCT sẽ giúp cho việc định hướng chăm
sóc sức khỏe bệnh nhân bị TSLTTTL theo các phương pháp điều trị bằng
YHCT kết hợp YHHĐ; đồng thời giúp cho việc xây dựng cơ sở vật chất,
nguồn nhân lực đáp ứng với nhu cầu điều trị. Mặt khác, nó góp phần quan
trọng hoàn thiện bức tranh toàn cảnh về tình hình bệnh tật và phương pháp
điều trị TSLTTTL trong cả nước nói chung.
Bệnh viện YHCT Trung ương là bệnh viện đầu ngành về YHCT - trung
tâm hợp tác về YHCT của Tổ chức Y tế Thế giới tại Việt Nam. Trong tiến
trình phát triển, hội nhập YHCT với các nước trong khu vực và thế giới; bệnh
viện đang từng bước hiện đại hóa trên cơ sở giữ vững bản sắc của YHCT, kết
hợp tinh hoa của hai nền YHCT và YHHĐ. Trong những năm gần đây, số
lượng bệnh nhân nói chung và bệnh nhân có triệu chứng của TSLTTTL đến
khám và điều trị tại viện có chiều hướng gia tăng. Vì vậy chúng tôi thực hiện
đề tài “Khảo sát các thể bệnh theo y học cổ truyền và phương pháp điều
trị tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt tại bệnh viện Y học cổ truyền Trung
ương từ 2010 - 2014” với 2 mục tiêu:
1. Nhận xét các triệu chứng của tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt theo y
học hiện đại và đối chiếu với các thể bệnh của y học cổ truyền.
2. Khảo sát các phương pháp điều trị tăng sinh lành tuyến tiền liệt
được sử dụng tại Bệnh viện Y học cổ truyền Trung ương từ năm
2010 đến 2014.

Chương 1



3

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Tổng quan về tuyến tiền liệt
1.1.1. Sự hình thành và phát triển của tuyến
TTL có nguốn gốc từ xoang tiết niệu - sinh dục. Quá trình phát triển của
TTL có thể phân thành 4 giai đoạn: khi mới sinh TTL bằng hạt đậu Hà Lan
(vài gam) và phát triển chậm cho đến tuổi dậy thì, trung bình 0,14 g/năm.
Thời kỳ phát triển nhanh đầu tiên (10 - 30 tuổi), TTL tăng khoảng 0,84 g/năm.
Thời kỳ phát triển chậm thứ hai (30 - 50 tuổi), TTL tăng khoảng 0,21 g/năm.
Thời kỳ phát triển nhanh thứ hai (50 - 90 tuổi), TTL tăng khoảng 0,5 - 1,2
g/năm và có thể dẫn đến TSLTTTL [11].
1.1.2. Giải phẫu tuyến tiền liệt
1.1.2.1. Vị trí và hình thể
TTL nằm trên hoành chậu hông, dưới bàng quang, sau xương mu, giữa
hai cơ nâng hậu môn và trước trực tràng. TTL có hình nón hoặc hình trứng, mà
đáy ở trên rộng, đỉnh ở dưới hẹp. Có 4 mặt là mặt trước, mặt sau và hai mặt dưới
bên. Là nơi đi qua của niệu đạo TTL. TTL chia làm 3 thùy là thùy phải và thùy
trái ngăn cách nhau bởi một rãnh ở mặt sau. Thùy thứ 3 gọi là eo TTL hay thùy
giữa. Thùy giữa nằm giữa niệu đạo và ống phóng tinh. TTL rộng 4cm, cao 3cm
và dày 2cm; trọng lượng từ 15 - 25g, trung bình 18g, ở người già có thể to gấp
bội, thường phát triển to ra ở phần sau (hình 1.1) [12], [13], [14].
Về phương diện giải phẫu học ứng dụng, để tránh nhầm lẫn, McNeal
phân chia thành 5 vùng: vùng trung tâm chiếm khoảng 20% của tuyến; vùng
ngoại vi chiếm khoảng 76% của tuyến, nơi xuất phát chủ yếu của ung thư
TTL; vùng chuyển tiếp chiếm 5% của tuyến, nơi phát sinh TSLTTTL; vùng
mô trước TTL, chiếm 1% của tuyến và nằm dọc theo niệu đạo TTL; vùng
đệm xơ - cơ trước, chỉ gồm mô sợi và cơ trơn, tiếp giáp với cổ bàng quang và

cơ thắt vân [1], [12], [14], [15].


4

1.1.2.2. Cấu trúc và các mối liên quan
- Niệu đạo TTL: niệu đạo xuyên qua TTL từ đáy đến đỉnh, dài khoảng
3cm. Trục của niệu đạo gần thẳng đứng, còn trục của tuyến đi chếch
xuống dưới và ra trước. Niệu đạo và trục tuyến bắt chéo ở phía dưới
nên phần lớn niệu đạo ở trước trục tuyến.
- Hệ thống cơ thắt niệu đạo: cơ thắt trơn niệu đạo gồm 2 lớp. Lớp cơ
dọc bên trong mỏng, lớp cơ vòng bên ngoài dày ở cổ bàng quang,
có vai trò duy trì trương lực cơ trơn ở cổ bàng quang và niệu đạo.
Cơ thắt vân niệu đạo còn gọi là cơ thắt ngoài, có tác dụng duy trì
khả năng tiểu tiện tự chủ.
- Các ống phóng tinh: ở mặt bên ụ núi, tạo thành do sự hội tụ của các
túi tinh và các ống dẫn tinh ở từng bên, chạy chéo xuống dưới và ra
trước (hình 1.1) [13], [14], [16].
Bàng quang
Tuyến tiền liệt
Xương mu
Trực tràng
Niệu đạo
Vật hang

Vật xốp

Hình 1.1. Tuyến tiền liệt qua thiết đồ đứng dọc [17].
1.1.2.3. Cấu tạo của tuyến tiền liệt
TTL gồm khoảng 70% mô tuyến và 30% lớp đệm mô sợi cơ. Lớp đệm

liên tục với vỏ, bao gồm các sợi collagen và nhiều sợi cơ trơn. Nó bao quanh
và có các tuyến của TTL co bóp trong lúc phóng tinh để đổ chất tiết của TTL
vào niệu đạo. TTL được bao bọc bởi một vỏ gồm: collagen, elastin, và nhiều
sợi cơ trơn. Vỏ ở mặt trước và bên dày trung bình 0,5 mm. Các tuyến của


5

TTL bình thường có thể thấy ở cơ vòng vân mà không có lớp mô đệm hay
“lớp vỏ”. Ở đáy TLT, các sợi dọc detrusor hoà lẫn và bện với lớp mô sợi cơ
của lớp vỏ [12], [15].
1.1.3. Sinh lý, chức năng tuyến tiền liệt
TTL tiết dịch trắng đục với pH khoảng 6,5 (kiềm hơn dịch âm đạo). Độ
pH kiềm hơn của dịch TTL đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ tinh
trùng cho đến khi thụ tinh. Prostaglandin của dịch TTL cũng như của dịch túi
tinh sẽ làm co cơ tử cung, tăng nhu động vòi tử cung giúp tinh trùng di chuyển
trong đường sinh dục nữ [18]. TTL và túi tinh giữ vị trí cửa ngõ bảo vệ bàng
quang và ống tinh, ngăn cản và làm chậm sự tấn công của các yếu tố bệnh lý
bên ngoài [11].
1.2. Tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt theo y học hiện đại
1.2.1. Nguyên nhân, cơ chế bệnh sinh
Cho đến nay nguyên nhân của TSLTTTL còn nhiều điều chưa thật sáng
tỏ. Vì bệnh xuất hiện ở nam giới cao tuổi và tinh hoàn có chức năng nên hiện
nay có 4 khuynh hướng được nghiên cứu là: vai trò của nội tiết tố; mối quan
hệ giữa tổ chức đệm với lớp biểu mô và các yếu tố tăng trưởng; sự cân bằng
giữa tăng sinh và tiêu hủy tế bào (apoptosis) và lý thuyết về tế bào gốc; sự
biến đổi của hệ thống miễn dịch và viêm nhiễm tại chỗ [11], [15], [19], [20],
[21], [22], [23].
1.2.1.1. Yếu tố nội tiết
Các yếu tố nội tiết tác động đến sự tăng sinh của TTL bao gồm:

Dihydrotestosteron (DHT), estrogen, androgen thượng thận và prolactin,
progesterone, các hormone hướng sinh dục (LH, FSH, GnrH); nhưng được đề
cập nhiều hơn cả là vai trò của DHT và estrogen.


Vai trò của DHT
Testosteron không trực tiếp gây ra TSLTTTL nhưng quá trình phát triển
của TSLTTTL không thể xảy ra nếu như không có sự có mặt của testosteron
trong suốt cuộc đời bệnh nhân từ lúc sinh ra, dậy thì và về già. Những người bị
cắt 2 tinh hoàn hoặc mắc bệnh di truyền không có khả năng sản xuất đủ


6

testosteron sẽ không bị TSLTTTL. Testosterone là sản phẩm chủ yếu từ tế bào
Leydig của tinh hoàn, chiếm 90% toàn bộ testosterone trong cơ thể. Để có hoạt
tính thực sự thì testosterone phải được chuyển thành DHT nhờ kết hợp với
men 5α - reductase, gắn vào màng tế bào làm cho phân chia nhân tế bào và
gây TSLTTTL. Nồng độ DHT trong máu bệnh nhân có TSLTTTL cao hơn
so với máu người bình thường cùng tuổi [24]. DHT không chỉ góp phần
vào sự tăng trưởng và biệt hóa của tế bào TTL mà còn ức chế quá trình tự tiêu
(apoptosis) [25].
∗ Vai trò của estrogen
Mô hình thí nghiệm trên động vật cho thấy có 2 loại receptor estrogen
trên mô tiền liệt tuyến: ER-α nằm trên tế bào đệm và ER-β nằm trên tế bào
biểu mô, cả hai đều liên quan đến các bệnh lý của TTL [25]. Ở nam giới, bình
thường estrogen được tạo ra phần lớn do chuyển hóa ngoại biên của các
androstenedione của tuyến thượng thận và từ testosterone dưới tác dụng của
men aromatase. Phối hợp với androgen, estrogen kích thích trực tiếp sự sinh
trưởng của TTL [26]. Theo McNeal (1979), TSLTTTL là sự thức tỉnh quá

trình hình thành tự nhiên của TTL trong bào thai.
Các công trình khác nhận thấy tỷ số testosterone/estrogen có sự thay đổi
do testosterone giảm xuống còn estrogen không giảm nên estrogen tăng lên
tương đối. Estrogen làm tăng tỷ lệ các cảm thụ đối với androgen trong TTL,
tác động lên SHBG (Sex Hormon Binding Globulin) làm tăng nồng độ nội tế
bào của DHT, tác động đến prolactin và làm tăng tiềm lực của androgen nên
gián tiếp gây TSLTTTL.
1.2.1.2. Yếu tố tăng trưởng
Các yếu tố tăng trưởng được phát hiện từ năm 1950 bởi Cohen và Levi
-Montalcini. Các yếu tố này được màng đáy của tế bào TTL quanh niệu đạo tiết
ra khi bị kích thích bởi các chấn thương nhỏ như đi tiểu, xuất tinh hay nhiễm
trùng mạn tính. Nhiều yếu tố tăng trưởng đã được tìm thấy trong TTL như:
keratinocyte growth factor (KGF), epidermal growth factor (EGF), insulin - like
growth factor (IGF), basis Fibroblast Growth Factor (bFGF)…góp phần cho sự


7

tăng trưởng tế bào TTL; ngược lại transforming growth factor - β (TGF - β) điều
hòa ức chế sự tăng trưởng nguyên bào sợi và tế bào biểu mô TTL [25].
1.2.1.3. Sự cân bằng giữa tăng sinh và tiêu hủy tế bào (apoptosis)
Apoptosis là hiện tượng “chết theo chương trình” có tính di truyền của
các tế bào có nhân được Kenr mô tả từ năm 1972 để nêu lên một hiện tượng
phổ biến và cần thiết cho cuộc sống, từ sự phát triển bình thường của cơ thể,
sự hằng định các mô cho đến việc loại trừ các tế bào bị viêm nhiễm hay sự
dung nạp về miễn dịch.
Trong TSLTTTL, các tế bào biểu mô của TTL cần đến sự có mặt của các
tác nhân tăng trưởng để tồn tại, một khi thiếu chúng hoặc thiếu androgen, các
tế bào biểu mô TTL sẽ chết theo chương trình. Chỉ số apoptosis (tỷ lệ số tế
bào chết theo chương trình/toàn bộ tế bào TTL) của mô tăng sản TTL thấp

hơn là TTL bình thường [25], [27].
1.2.1.4. Một số yếu tố khác
Một số nghiên cứu chứng minh rằng các yếu tố viêm, các cytokine do
các tế bào trong hệ miễn dịch tiết ra như: IL-2, IL-3, IL-7, interferon - α có
vai trò trong TSLTTTL [25].
Như vậy đã có nhiều giả thiết về quá trình hình thành TSLTTTL nhưng
cho tới nay chưa có thuyết nào hoàn chỉnh. Tuy nhiên các nhà niệu học đều
thống nhất các điều kiện hình thành bệnh là: tinh hoàn phải có chức năng và
tuổi cao, thường từ 45 tuổi trở lên.
1.2.2. Giải phẫu bệnh
1.2.2.1. Đại thể
TSLTTTL là một khối hình tròn hay bầu dục, chia làm 3 thùy, thùy giữa
và hai bên bao quanh niệu đạo, màu trắng ngà, mật độ chắc, có tính đàn hồi,
khối lượng từ 30g - 40g, có khi đến hơn 100g, nếu có nhiều tổ chức tuyến thì
mềm, có nhiều tổ chức xơ thì chắc hơn. U phát triển đẩy tổ chức TTL ra ngoại
biên tạo thành vỏ có nhiều lớp bao bọc khối u. Đây là cơ sở cho việc bóc gọn
u ra khỏi vỏ một cách dễ dàng [15], [19].


8

1.2.2.2. Vi thể
TSLTTTL gồm nhiều nhân nhỏ, mỗi nhân có nhiều thành phần: tuyến,
xơ, cơ và tổ chức đệm. Trong tổ chức đệm có các sợi cơ trơn và collagen.
Thành phần của tuyến gồm các chùm nang, có nhiều hình nhú. Có thể phân
biệt mô TSLTTTL và mô TTL bình thường dựa vào dấu hiệu nhồi máu, giãn
các chùm nang, dị sản tế bào nội mô [15], [19].
1.2.3. Ảnh hưởng của tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt lên hệ tiết
niệu
TSLTTTL là nguyên nhân thường gặp nhất gây hội chứng đường niệu

dưới ở người cao tuổi và ảnh hưởng tới hầu hết các phần của hệ tiết niệu [1],
[11], [15], [19], [20].
1.2.3.1. Ảnh hưởng đến niệu đạo
TTL bao quanh niệu đạo sát bàng quang nên khi tổ chức tuyến tăng sinh thì
niệu đạo sẽ bị ảnh hưởng đầu tiên. Đoạn niệu đạo TTL bị kéo dài và chèn ép bởi
các thùy của TTL, làm tăng áp lực cản trở dòng nước tiểu từ bàng quang xuống.
1.2.3.2. Ảnh hưởng đến cổ bàng quang
Cổ bàng quang bị đẩy lên cao vào trong lòng bàng quang và bị chèn ép.
Ngoài ra cổ bàng quang còn bị xơ cứng, mép sau bị đẩy lên cao làm thành bè
chắn, cản trở tiểu tiện.
1.2.3.3. Ảnh hưởng đến bàng quang
Ở giai đoạn còn bù, để thắng chướng ngại vật, cơ thành bàng quang phải
co bóp mạnh hơn để đẩy nước tiểu ra. Thành bàng quang có hình bè, hình cột,
hình hang và có thể có túi thừa. Ở giai đoạn này không có nước tiểu tồn dư
khi đi tiểu. Tình trạng trên kéo dài làm bàng quang ngày càng bị tăng áp lực,
khiến bệnh nhân phải đi tiểu ngay khi chỉ mới có một thể tích nước tiểu nhỏ,
đó là dấu hiệu của số lần đi tiểu tăng lên trong ngày.


9

Ở giai đoạn mất bù, sự phì đại chấm dứt, thành bàng quang ngày càng
giãn mỏng, khả năng co bóp càng giảm làm nước tiểu ứ đọng, dẫn đến tình
trạng viêm nhiễm bàng quang, có thể gây bí tiểu.
1.2.3.4. Ảnh hưởng đến niệu quản
Bình thường áp lực niệu quản tăng dần từ bể thận đến bàng quang. Đoạn
niệu quản trong bàng quang có hệ thống van chống trào ngược. Khi áp lực của
bàng quang càng tăng thì van càng đóng kín. TTL phì đại chèn ép niệu quản
và cổ bàng quang làm cho áp lực của bàng quang luôn tăng, khiến van đóng
kín cản trở sự lưu thông nước tiểu từ thận xuống bàng quang, dẫn đến niệu

quản giãn quá mức, ứ nước thận, lâu ngày sẽ gây suy giảm chức năng thận.
1.2.3.5. Ảnh hưởng đến thận
Niệu quản giãn lâu ngày làm nước tiểu ứ ở đài bể thận, tăng áp lực ở bể
thận, gây tăng áp lực thủy tĩnh ở khoang Bowman. Tình trạng này làm ảnh
hưởng đến chức năng lọc thận, tăng ứ nước ở bể thận, lâu ngày sẽ suy thận.
1.2.4. Triệu chứng lâm sàng của tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt
1.2.4.1. Hội chứng kích thích
Bàng quang dễ bị kích thích vì luôn phải tăng cường co bóp để chống lại
sức cản do TSLTTTL, nên bệnh nhân có các triệu chứng sau:
- Tiểu nhiều lần: cả ban ngày và đêm, nhất là về đêm nên thường gây
mất ngủ. Triệu chứng này có tính chất quan trọng để theo dõi tiến
triển của bệnh. Ở giai đoạn đầu, tăng số lần đi tiểu thường chỉ xuất
hiện vào nửa đêm và về sáng, giai đoạn sau xuất hiện cả về ban
ngày.
- Tiểu gấp: bệnh nhân buồn đi tiểu nhưng không nhịn được quá vài
phút, là yếu tố chứng tỏ bàng quang ức chế kém, là hậu quả của tăng
trương lực hệ cơ thắt bàng quang và co cơ bàng quang không ức chế
[1], [11], [15], [19], [20].


10

1.2.4.2. Hội chứng tắc nghẽn
- Tiểu gắng sức: khi đi tiểu bệnh nhân phải rặn nhiều mới đi tiểu được,
khó khăn khi bắt đầu đi tiểu, chậm xuất hiện dòng tiểu, thời gian đi tiểu
kéo dài.
- Tiểu yếu: tia nước tiểu yếu và nhỏ, có khi nước tiểu nhỏ xuống dưới chân.
- Tiểu ngắt quãng: tia nước tiểu bị ngừng đột ngột khi đang đi, phải đi
làm nhiều lần.
- Tiểu không hết: cảm giác bàng quang vẫn còn nước tiểu khi vừa đi

xong, vẫn muốn đi tiếp; khoảng cách giữa 2 lần đi tiểu ngắn,
thường chưa đến 2 giờ.
- Cuối cùng là bí đái hoàn toàn [1], [11], [15], [19], [20].
1.2.4.3. Tiến triển và biến chứng
∗ Dựa vào các triệu chứng bệnh chia làm 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: là giai đoạn cơ năng chưa có tổn thương thực thể, chưa
có nước tiểu tồn dư (NTTD) sau khi tiểu, hoặc nếu có thì < 100ml,
thành bàng quang dày.
- Giai đoạn 2: là giai đoạn có tổn thương thực thể, bàng quang giãn và
lượng NTTD sau khi đái ≥ 100ml. Ngoài các triệu chứng đái khó
tăng lên có thể có dấu hiệu nhiễm khuẩn tiết niệu (NKTN) gây đái
buốt, đái rắt.
- Giai đoạn 3: tổn thương thực thể nặng hơn vì đã ảnh hưởng tới chức
năng thận. Giai đoạn mất bù, thành bàng quang mỏng mất trương
lực, thể tích NTTD tăng, các triệu chứng đái khó tăng đến mức bệnh
nhân phải đi tiểu nhiều lần, có khi dẫn đến tình trạng nghịch lý là
đái rỉ liên tục do nước tiểu tràn đầy bàng quang giãn căng, bệnh
nhân có thể biến chứng suy thận do tắc nghẽn đường niệu [19], [20].
∗ Biến chứng:
- Bí đái hoàn toàn: có thể xuất hiện ở bất cứ giai đoạn nào của bệnh.
- NKTN: thường xuất hiện khi có ứ đọng nước tiểu và vi khuẩn phát
triển từ niệu đạo hoặc do thông tiểu.


11

- Sỏi tiết niệu: do ứ đọng nước tiểu và nhiễm khuẩn.
- Túi thừa bàng quang: khi niêm mạc của một số hang thoát vị ra khỏi
thành bàng quang.
- Suy thận: ở giai đoạn cuối của bệnh, đặc biệt khi có NKTN kèm theo

[1], [15], [19], [20].
1.2.5. Chẩn đoán xác định tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt
Chẩn đoán TSLTTTL dựa vào các yếu tố sau [1], [6], [15], [19], [28], [29]:
1.2.5.1. Triệu chứng cơ năng
∗ Hỏi bệnh: hỏi tiền sử, bệnh sử có liên quan, những phẫu thuật trước đó ảnh
hưởng tới hệ tiết niệu, các loại thuốc đã dùng giúp thầy thuốc chẩn đoán rõ
giai đoạn bệnh.
∗ Nhật ký đi tiểu: giải thích và hướng dẫn cho bệnh nhân điền vào phiếu theo dõi
tình trạng đi tiểu để đánh giá tình trạng đi tiểu của bệnh nhân trong ngày (24
giờ): số lần đi tiểu, khoảng cách giữa mỗi lần đi tiểu, lượng nước tiểu về đêm...
Nhật ký đi tiểu nên được theo dõi tối thiểu là trong 3 ngày liên tục.
∗ Xác định các triệu chứng cơ năng: dựa trên những câu hỏi của bảng điểm
quốc tế triệu chứng tuyến tiền liệt (IPSS: International prostate symptom
score) và bảng điểm chất lượng cuộc sống (QoL: Quality of Life).
- Thang điểm IPSS: dùng để đánh giá mức độ các triệu chứng và đề ra
biện pháp điều trị cũng như theo dõi khi được điều trị. Thang điểm
gồm 7 câu hỏi, mỗi câu được trả lời theo mức độ nặng nhẹ của
bệnh. Với thang điểm này tổng số điểm là từ 0 - 35, chia ra 3 mức
độ: nhẹ (0 - 7), vừa (8 - 19), nặng (20 - 35) [1], [29], [30].
- Thang điểm QoL: để đánh giá mức độ ảnh hưởng của TSLTTTL đến
chất lượng cuộc sống, người ta sử dụng thang điểm QoL do hội nghị
tiết niệu quốc tế năm 1991 đề ra. Thang điểm bao gồm các câu hỏi
đánh giá liên quan đến tình trạng tiểu tiện với 7 mức độ cảm nhận
khác nhau của người bệnh và được cho điểm từ 0 đến 6, chia làm 3
mức độ: nhẹ từ 0 - 2, trung bình từ 3 - 4, nặng từ 5 - 6 [19], [31].


12

1.2.5.2. Khám lâm sàng

∗ Thăm trực tràng: TSLTTTL được phát hiện như một khối tròn đều, trơn láng
nhẵn, có tính đàn hồi, không đau, còn rãnh giữa hay không sờ thấy, mật độ đồng
đều, không có nhân rắn, ranh giới rõ rệt, mềm hoặc chắc nhưng không bao giờ
cứng như gỗ (có thể gặp trong ung thư TTL) [1], [15], [19], [20], [32].
∗ Khám tiết niệu sinh dục và toàn thân: phối hợp khám bộ phận sinh dục ngoài
và vùng hạ vị, khám vùng thắt lưng 2 bên để phát hiện thận to do ứ nước.
Khám vùng hạ vị để phát hiện cầu bàng quang. Khám toàn thân để phát hiện
các biến chứng [1], [15], [19], [20].
1.2.5.3. Cận lâm sàng
∗ Xét nghiệm phân tích nước tiểu: nhằm xác định sơ bộ tình trạng NKTN
(nitrite, bạch cầu niệu), hồng cầu niệu, đường niệu…
∗ Xét nghiệm máu:
- Đánh giá chức năng thận: định lượng creatinine, ure máu.
- Xét nghiệm định lượng PSA (Prostatic Specific Antigen): là một
kháng nguyên đặc hiệu của TTL. PSA < 4 ng/ml tiếp tục theo dõi và
thử lại PSA mỗi 2 năm. PSA từ 4 - 10 ng/ml, thử tỉ lệ PSA tự
do/toàn phần. Nếu tỉ lệ < 20% có chỉ định sinh thiết TTL qua trực
tràng dưới hướng dẫn của siêu âm. Nếu tỉ lệ ≥ 20% thì tiếp tục theo
dõi và xét nghiệm lại PSA hằng năm. PSA >10 ng/ml, chỉ định sinh
thiết TTL qua trực tràng dưới hướng dẫn của siêu âm [1], [15], [19],
[20], [31], [32].
- Công thức máu: khi có nghi ngờ NKTN.
∗ Siêu âm tuyến tiền liệt: là một phương pháp áp dụng rộng rãi với ưu điểm
không gây sang chấn. Người ta đã dùng nhiều đường vào khác nhau để làm
siêu âm TTL. Đường vào qua trực tràng được coi là tốt nhất hiện nay. Siêu âm
cung cấp các thông tin về khối lượng, hình dạng phát triển và mật độ của TTL, tìm
những vùng calci hóa TTL, những vùng giảm âm của nhu mô, thùy giữa của TTL,
sự cân xứng của các túi tinh…Siêu âm bàng quang trên xương mu để đánh giá thể
tích NTTD, đo bề dày khối cơ bàng quang; tìm sỏi, túi thừa bàng quang và các tổn



13

thương phối hợp; tìm thùy giữa TTL. Siêu âm thận, niệu quản để đánh giá ảnh
hưởng của TSLTTTL lên đường niệu trên [1], [15], [19], [20].
∗ Các xét nghiệm khác:
- Đo lưu lượng dòng tiểu: có thể bằng máy hoặc phương pháp thủ
công để đánh giá tốc độ dòng tiểu trung bình, tốc độ dòng tiểu cực
đại (Qmax), lượng nước tiểu đi được, thời gian đi tiểu... Đánh giá
tình trạng tắc nghẽn đường tiểu dưới: tắc nghẽn trung bình khi
Qmax từ 10 - 15 ml/s; tắc nghẽn nặng khi Qmax < 10 ml/s.
- Cấy nước tiểu: thực hiện trong trường hợp cần xác định NKTN và
xác định danh tính vi khuẩn, sự nhạy cảm của vi khuẩn với kháng
sinh.
- Chụp X quang hệ tiết niệu: chỉ định trong trường hợp nghi ngờ có sỏi
bàng quang hoặc sỏi hệ tiết niệu kèm theo.
- Soi bàng quang - niệu đạo: chỉ định trong trường hợp nghi ngờ có
một số bệnh lý khác kèm theo ở bàng quang, niệu đạo (u bàng
quang…).
- Đo áp lực bàng quang, niệu đạo: chỉ định trong trường hợp nghi ngờ
có một số bệnh lý ở bàng quang kèm theo như tăng hoạt bàng
quang…
1.2.6. Chẩn đoán phân biệt tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt
1.2.6.1. Tuyến tiền liệt to do các nguyên nhân khác
- Viêm tuyến tiền liệt: viêm, đau vùng sinh dục, sốt…
- Áp xe tuyến tiền liệt: thăm trực tràng thấy có hậu môn nhão, khối mủ
bùng nhùng khác biệt rõ ràng với TTL bình thường.
- Ung thư TTL: thăm trực tràng có một hoặc nhiều u nhỏ, rắn chắc, cứng
như đá, không nhẵn; thường xét nghiệm PSA máu tăng > 4 ng/ml; các
xét nghiệm khác như siêu âm, sinh thiết, chụp cắt lớp vi tính [1], [15],

[19], [20], [32].
1.2.6.2. Triệu chứng đường tiết niệu dưới do các nguyên nhân khác
- Hẹp niệu đạo, xơ cứng cổ bàng quang: phát hiện qua soi bàng quang…


14

- Bàng quang thần kinh: xuất hiện sau chấn thương cột sống, tủy sống,
viêm tủy hoặc can thiệp ngoại khoa tủy sống…
- Ung thư bàng quang: soi bàng quang thấy khối u…[1], [15], [19], [20].
1.2.7. Điều trị tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt
TSLTTTL hiện nay được điều trị theo phác đồ sau [1], [6], [15], [28], [29]:
1.2.7.1. Theo dõi
∗ Chỉ định: cho những bệnh nhân có triệu chứng đường tiểu dưới nhẹ và vừa
(IPSS < 20 điểm), chưa có tình trạng tắc nghẽn nặng (Qmax > 15 ml/s), bệnh
nhân chưa có những than phiền về các triệu chứng trên. Các thông số trên xét
nghiệm cận lâm sàng còn ở mức độ bình thường hoặc rối loạn mức độ nhẹ.
∗ Các chỉ tiêu theo dõi: theo dõi định kỳ 3 - 6 tháng
- Thăm khám để biết mức độ phàn nàn của bệnh nhân về các triệu
chứng đường tiết niệu dưới.
- Đánh giá chỉ số IPSS và QoL.
- Siêu âm đo kích thước tuyến tiền liệt, khảo sát hình thái hệ tiết niệu,
đo thể tích nước tiểu tồn lưu.
- Xét nghiệm nước tiểu.
- Đo lưu lượng dòng tiểu (bằng phương pháp thủ công hoặc bằng máy
nếu có).
Nếu các chỉ số trên có biến đổi theo hướng nặng dần thì cần chọn
phương pháp điều trị thích hợp [6].
1.2.7.2. Điều trị nội khoa
Có hai cơ chế gây rối loạn bài tiết nước tiểu đó là: sự phì đại của TTL, sự

co cơ hay tăng trương lực cơ thắt ở cổ bàng quang và TTL; đều chịu ảnh
hưởng của yếu tố nội tiết và các thụ thể α - andrenergic (chủ yếu là α1). Do đó
các thuốc điều trị nội nhằm tác động vào 2 cơ chế này [1], [6].
Điều trị nội khoa được chỉ định khi chưa có biến chứng, rối loạn tiểu tiện
từ trung bình đến nặng (IPSS > 20), không có chỉ định bắt buộc ngoại khoa,


15

khối lượng TTL dưới 60g, thể tích NTTD < 100ml, tình trạng tắc nghẽn trung
bình (Qmax từ 10 - 15 ml/s) [1], [6], [28], [29].
∗ Các thuốc chẹn alpha1: được sử dụng ưu tiên cho những trường hợp
TSLTTTL có triệu chứng đường tiết niệu dưới, mức độ tắc nghẽn trung bình,
thuốc có tác dụng sớm. Cơ chế: giảm áp lực cơ trơn trong TTL, vỏ tuyến và
cổ bàng quang. Có thể gây mệt mỏi và hạ huyết áp tư thế. Các thuốc trong
nhóm này gồm:
- Alfuzosin: liều 10mg, 1 lần/ngày.
- Tamsulosin: liều dùng 0,4 mg/ngày, có thể tăng đến 0,8 mg/ngày.
Dùng 1 lần trong ngày.
- Doxazosin: liều dùng 1 mg/ngày, có thể tăng đến 2mg - 4mg và tối
đa 8mg. Dùng 1 lần trong ngày.
∗ Thuốc ức chế 5 alpha reductase (5 - ARI): ngăn cản sự chuyển hóa
testosterone thành DHT do đó làm giảm khối lượng TTL. Thuốc được chỉ
định cho những trường hợp có triệu chứng đường tiết niệu dưới, mức độ tắc
nghẽn trung bình trở lên, khối lượng TTL > 30g. 5 - ARI có thể làm giảm
nguy cơ bí tiểu cấp và phẫu thuật. Thuốc có công dụng làm giảm kích thước
TTL và đạt hiệu quả lâm sàng tối đa bắt đầu từ tháng thứ 3.
- Dutasteride: liều dùng 0,5 mg/ngày (một lần).
- Finasteride: liều dùng 5 mg/ngày (một lần).
∗ Chiết xuất từ thảo mộc: Các thuốc trong nhóm thường được sử dụng:

permixon, tadenan, prostamol. Cơ chế tác dụng vẫn còn là giả thiết, đang
được nghiên cứu tiếp: giảm gắn protein với nội tiết tố sinh dục, ức chế hoạt
động của 5 - alpha reductase, có tác dụng kháng oestrogen, ức chế các yếu tố
tăng sinh, ngăn chặn tổng hợp prostaglandin, chống viêm; không có tác dụng
phụ nên có thể dùng kéo dài trong nhiều năm.
- Tadenan viên 50mg x 1 viên/ngày.
- Permixon viên 80mg x 2 viên x 2 lần/ ngày.


16

1.2.7.3. Điều trị ngoại khoa
∗ Chỉ định:
- Chỉ định điều trị ngoại khoa tuyệt đối: nhiễm khuẩn đường tiết niệu
tái diễn, sỏi bàng quang thứ phát, tiểu máu tái diễn, bí tiểu cấp tái
diễn, giãn niệu quản do trào ngược bàng quang niệu quản, túi thừa
bàng quang, suy thận do trào ngược nguyên nhân từ tắc nghẽn do
TSLTTTL.
- Chỉ định điều trị ngoại khoa tương đối: điều trị nội khoa không hiệu
quả [6], [28], [29].
∗ Mổ mở
- Phương pháp: có thể sử dụng đường vào qua bàng quang hoặc đường
sau xương mu bóc nhân TSLTTTL.
- Chỉ định: chỉ định cho bệnh nhân TSLTTTL có triệu chứng đường
tiểu dưới và có khối lượng TTL > 80g, túi thừa bàng quang có chỉ
định cắt bỏ, phẫu thuật nội soi thất bại, sỏi bàng quang lớn [6], [15],
[19].
∗ Phẫu thuật nội soi qua niệu đạo
Là phương pháp được sử dụng rộng rãi hiện nay. Chỉ định dùng phương
pháp nội soi rất thuận lợi đối với u phì đại dưới 80g, ở những bệnh nhân già

yếu, có bệnh mãn tính. Phương pháp này ít gây đau, ít chảy máu và có khả
năng rút ngắn thời gian nằm điều trị. Phẫu thuật nội soi qua niệu đạo có thể
dùng các cách sau:
- Cắt đốt TSLTTTL nội soi qua niệu đạo bằng dao điện đơn cực.
- Cắt đốt TSLTTTL nội soi qua niệu đạo bằng dao điện lưỡng cực.
- Xẻ rãnh TTL nội soi qua niệu đạo (chỉ định khi khối lượng TTL<
30g và không có thùy giữa lớn).
- Bốc hơi TTL [6], [15], [19].


17

* Các phương pháp điều trị khác
- Rạch TTL qua đường niệu đạo
- Liệu pháp laser
- Dùng giá đỡ và nong niệu đạo bằng bóng
- Điều trị bằng vi sóng áp nhiệt tại vùng TTL qua trực tràng.
* Các biến chứng cuả phẫu thuật
Chảy máu trong mổ và sau mổ, nhiễm khuẩn, suy thận, đái rỉ do tổn
thương cơ thắt vân, hẹp niệu đạo hội chứng nội soi [6], [15], [19], [ 33].
1.3. Tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt theo y học cổ truyền
1.3.1. Khái niệm chung
Trong YHCT không có bệnh danh TSLTTTL, nhưng các chứng trạng của
bệnh với tiểu khó, tiểu rắt, tiểu bí, thường được quy vào phạm vi “lâm
chứng”, “long bế”, “di niệu” của y học cổ truyền [34], [35].
1.3.1.1. Long bế
Là tên chung các chứng bệnh mà tiểu tiện lượng ít, nhỏ giọt, thậm chí
tiểu tiện bế tắc không thông dẫn đến người bệnh bí tiểu. Trong đó tiểu không
thông, nhỏ giọt, nước tiểu ít, bệnh diễn biến từ từ gọi là “long”, buồn đi tiểu mà
không đi được, nhỏ giọt, không thông, thể bệnh cấp, đột ngột gọi là “bế”; mặc

dù có mức độ khác nhau xong tiểu khó ra đều gọi là “long bế” (bí tiểu) [35].
“Long bế” được chia làm 2 nghĩa rộng và hẹp. “Long bế” với nghĩa rộng
là do rối loạn chức năng tạng phủ mà không sinh ra được nước tiểu nên không
có nước tiểu để bài xuất ra hoặc nước tiểu chỉ sinh ra một lượng ít, còn sự bài
xuất nước tiểu không bị trở ngại (tương đương với trường hợp vô niệu, thiểu
niệu của YHHĐ). Tạng phủ bị bệnh chủ yếu trong trường hợp này là phế, tỳ,
thận, tam tiêu. “Long bế” theo nghĩa hẹp là sinh ra nước tiểu vẫn bình thường
nhưng khi bài xuất ra thì khó khăn do đường tiểu bị tắc trở. Có thể thấy rằng
“long bế” nghĩa rộng là chỉ bệnh lý chung của đường tiết niệu; còn “long bế”
nghĩa hẹp là ứng với TSLTTTL, nguyên nhân bệnh chủ yếu liên quan đến thận,
bàng quang, do khí hóa ở bàng quang không thông lợi.


18

TSLTTTL giai đoạn đầu và giai đoạn 2 với các biểu hiện: tiểu khó, nước
tiểu ra chậm, dòng nước tiểu ngắt quãng, đi tiểu xong còn nhỏ giọt, thời gian đi
tiểu kéo dài. Các triệu chứng này tương ứng với “long bế” của YHCT.
1.3.1.2. Lâm chứng
Là thứ bệnh tiểu tiện đi luôn, nhiều lần, ngắn rít, nhỏ rắt từng giọt, đau
buốt, muốn đái ra không hết, bụng dưới đau lan đến eo lưng. Có 6 chứng lâm
đó là: khí lâm, huyết lâm, nhiệt lâm, cao lâm, thạch lâm, lao lâm . Trong mối
liên hệ giữa YHHĐ và YHCT thì nội khoa học cho rằng các chứng nhiễm
trùng đường tiết niệu, sỏi tiết niệu, đái ra dưỡng chấp của YHHĐ tương ứng
với chứng lâm của YHCT [8], [36], [37].
TSLTTTL giai đoạn 2 là giai đoạn có tổn thương thực thể, bàng quang
giãn và thể tích NTTD > 100ml. Ngoài các triệu chứng đái khó tăng lên có thể
có dấu hiệu NKTN gây đái buốt, đái rắt. Giai đoạn này có thể thấy tương ứng
với “chứng lâm” (nhiệt lâm) của YHCT.
1.3.1.3. Di niệu

Di niệu là chỉ về chứng trạng mà nước đái tự bài tiết không chịu sự khống
chế của ý thức con người. Bệnh có quan hệ trực tiếp với thận và bàng quang. Nếu
thận khí hư hoặc bàng quang không chế ước được thì sẽ gây bệnh [35].
TSLTTTL giai đoạn 3 là giai đoạn tổn thương thực thể nặng vì đã ảnh
hưởng đến chức năng thận. Giai đoạn mất bù, thành bàng quang mỏng, mất
trương lực, thể tích NTTD tăng, triệu chứng đái khó tăng lên đến mức phải đi
tiểu nhiều lần, có khi dẫn đến tình trạng nghịch lí là đái rỉ liên tục do nước
tiểu tràn đầy bàng quang giãn căng. Giai đoạn này tương ứng với “di niệu” ở
người già.
Qua nghiên cứu các khái niệm về “lâm chứng”, “long bế” và “di niệu” của
YHCT, rõ ràng bệnh lý TSLTTT liên quan đến cả 3 khái niệm trên.
1.3.2. Bệnh nguyên bệnh sinh theo y học cổ truyền
Theo nội kinh, tam tiêu có chức phận khơi thông thủy đạo. Bàng quang
là nơi chứa niệu dịch, lại là phủ quản lý xuất nạp nước tiểu. Bàng quang và
thận có quan hệ biểu lý cho nên khi thận bị bệnh cũng dẫn đến bệnh lý của


19

bàng quang. Bàng quang muốn bài xuất được nước tiểu phải nhờ sự khí hóa
của tam tiêu, mà sự khí hóa của tam tiêu lại nhờ sự ôn ấm của thận dương. Vì
thế chỉ khi thận, tam tiêu, bàng quang cùng phối hợp với nhau mới hoàn thành
được công năng bài xuất nước tiểu.
TSLTTTL thường gặp ở người cao tuổi, khi đó chính khí thường suy
giảm, công năng tạng phủ thất điều, khí huyết âm dương hư tổn ảnh hưởng tới
khí hóa bàng quang và tam tiêu mà sinh bệnh.
Bàng quang là nơi chứa đựng nước tiểu và quản lý việc quản lý bài xuất
nước tiểu, việc hình thành long bế chủ yếu do khí hóa của bàng quang kém
làm bệnh nhân đi tiểu không hết. Mặt khác, thận chủ nhị tiện, do đó khi thận
dương hư làm cho bệnh nhân có các chứng tiểu yếu, tiểu nhỏ giọt, tiểu đêm…

Vì vậy nguyên nhân gây bệnh thường do:
- Thấp nhiệt ứ trệ: do thấp nhiệt ứ trệ ở vùng hạ tiêu làm rối loạn khí
hóa của bàng quang dẫn đến rối loạn tiểu tiện.
- Huyết ứ khí trệ ở vùng hạ tiêu cũng là ảnh hưởng tới khí hóa của
bàng quang làm trở ngại đường đào thải nước tiểu.
- Ở những người cao tuổi thường có biểu hiện thận khí hư, thận dương
hư, thận là gốc của thủy hỏa, thận dương hư không làm ôn ấm được
vùng hạ tiêu, cũng làm cho khí hóa của bàng quang suy giảm dẫn
đến rối loạn tiểu tiện [8], [35], [36].
1.3.3. Các thể bệnh theo y học cổ truyền
Những biểu hiện triệu chứng trên lâm sàng của TSLTTTL nằm trong
phạm vi của “lâm chứng”, “long bế”, “di niệu” theo YHCT. Có nhiều quan
điểm về phân chia các thể bệnh. Theo Hoàng Bảo Châu chia làm tám thể
gồm: thấp nhiệt úng trệ, nhiệt kết ở hạ tiêu, nhiệt úng thịnh ở phế, thấp nhiệt
không hóa được ở vị, khí hư thương thấp ở tỳ, khí cơ uất trệ, niệu đạo bị tắc,
thận dương suy tổn [36]. Theo tác giả Trần Thúy và Vũ Nam bệnh có sáu thể:
bàng quang thấp nhiệt, phế nhiệt ủng thịnh, can khí uất trệ, niệu quản trở tắc,
trung khí không đủ, thận dương suy kém [35]. Có thể thấy trong cách chia thể


20

bệnh này “long bế” được hiểu theo nghĩa rộng và các tạng phủ bị bệnh là phế,
tỳ, thận, tam tiêu.
Tuy nhiên hiện nay trên lâm sàng TSLTTTL được chia thành ba thể: thể
thấp nhiệt, thể khí trệ huyết ứ, thể thận khí hư [8]. Như vậy TSLTTTL liên
quan đến “lâm chứng”, “di niệu” và “long bế” theo nghĩa hẹp của YHCT.
1.3.3.1. Thể thấp nhiệt
- Triệu chứng: tiểu tiện nhiều lần, mỗi lần đi có cảm giác đau rát, đôi
khi nước tiểu đục có lẫn máu, bụng dưới đau. Toàn thân có thể sốt,

khát nước, đại tiện táo, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch hoạt sác.
- Pháp điều trị: thanh nhiệt hóa thấp, thông lợi bàng quang.
- Bài thuốc: Bát chính tán gia giảm
Sa tiền tử
16g

Mộc
thông
Hoạt thạch
16g
Chi tử
Đại hoàng
Cam
8g
chế
thảo
Kim ngân
Liên
16g
hoa
kiều
Tất cả làm thang sắc uống ngày 1 thang chia 2 lần.
- Châm cứu (châm tả): Quan nguyên, Khí hải, Trung

12g
10g
6g
12g
cực, Khúc cốt,


Tam âm giao, Thái khê.
1.3.3.2. Thể khí trệ huyết ứ
- Triệu chứng: tiểu tiện nhiều lần, nước tiểu không thông, dòng nước
tiểu nhỏ, đứt quãng hoặc đi tiểu nhỏ giọt, chất lưỡi bình thường
hoặc đỏ, rêu lưỡi trắng, mạch huyền hoãn.
- Pháp điều trị: thanh lợi hạ tiêu, hoạt huyết hóa ứ.
- Bài thuốc: Tiểu kế ẩm tử gia giảm
Sinh địa
20g
Tiểu kế
Hoạt thạch
20g
Mộc thông
Bồ hoàng (sao 12g
Ngẫu tiết

20g
12g
12g


21

đen)
Đương quy
12g
Chi tử
Chích cam thảo
6g
Tất cả làm thang sắc uống ngày 1 thang chia 2 lần.


10g

- Châm cứu (châm tả): Thần môn, Nội quan, Tam âm giao, Thái xung,
Quan nguyên, Nhiên cốc, Huyết hải.
1.3.3.3. Thể thận khí hư
- Triệu chứng: tiểu tiện nhiều lần không thông, đi tiểu thường không
hết bãi, rặn yếu, lưng gối đau mỏi, váng đầu hoa mắt, tinh thần
mệt mỏi, ít ngủ, hay mơ, sắc mặt tái nhợt, lưỡi hồng nhợt, rêu
lưỡi trắng, mạch trầm tế hoặc huyền sác.
- Pháp điều trị: ôn dương, ích khí, bổ thận, thông lâm.
- Bài thuốc: Tế sinh thận khí thang gia vị
Thục địa
Sơn thù
Phục linh
Ngưu tất
Kim ngân

16g
8g
12g
12g

Hoài sơn
Đan bì
Trạch tả
Sa tiền

16g
Ngũ gia bì gai

hoa
Tất cả làm thang sắc uống ngày 1 thang chia 2 lần.

12g
8g
12g
12g
16g

- Châm cứu (châm bổ hay ôn châm): Thận du, Mệnh môn, Quan
nguyên, Trung cực, Thái khê, Tam âm giao [8].


22

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
229 bệnh án của bệnh nhân được chẩn đoán “tăng sinh lành tính tuyến
tiền liệt”, điều trị nội trú tại bệnh viện YHCT Trung ương từ năm 2010 đến 2014
(có danh sách kèm theo).
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh án
Tất cả hồ sơ bệnh án của bệnh nhân được chẩn đoán “ tăng sinh lành tính
tuyến tiền liệt”, điều trị nội trú tại bệnh viện Y học cổ truyền Trung ương từ
năm 2010 đến năm 2014.
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
Các bệnh án không có đầy đủ thông tin về: tuổi của bệnh nhân; xét
nghiệm siêu âm ổ bụng và TTL.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu hồi cứu mô tả cắt ngang.
2.2.2. Cách thức tiến hành nghiên cứu
- Nghiên cứu hồi cứu tất cả bệnh án ra viện của bệnh nhân được chẩn
đoán “tăng sinh lành tính tuyến tiền liệt”, điều trị nội trú tại bệnh
viện Y học cổ truyền Trung ương từ năm 2010 đến năm 2014.
- Số liệu thu thập tại Phòng kế hoạch tổng hợp của bệnh viện YHCT
Trung ương.
2.2.3. Công cụ nghiên cứu
- Mẫu bệnh án nội khoa YHCT do Bộ y tế ban hành.
- Thông tin về mỗi bệnh nhân được thu thập theo phiếu nghiên cứu có
sẵn (phụ lục 1).


23

2.2.4. Xử lý số liệu
- Phần mềm quản lý, xử lý số liệu: Epidata 3.1 và Stata 11.0.
- Sử dụng các thuật toán:
+ Tính giá trị trung bình ( X ), độ lệch chuẩn (SD), giá trị nhỏ nhất
(min), giá trị lớn nhất (max).
+ Tính tần số, tỷ lệ phần trăm (%).
+ Test χ2 để so sánh sự khác nhau giữa các tỷ lệ %.
+ Test Fisher’s exact để so sánh sự khác nhau giữa các tỷ lệ không
đủ điều kiện tính χ2 (tần số lý thuyết < 5).
Nếu p < 0,05 hoặc p < 0,01 được coi là có ý nghĩa thống kê với độ tin
cậy 95% hoặc 99%.
2.2.5. Các chỉ tiêu nghiên cứu
2.2.5.1. Tuổi.
2.2.5.2. Thời gian mắc bệnh
2.2.5.3. Các bệnh kèm theo

2.2.5.4. Triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng theo YHHĐ
- Triệu chứng cơ năng.
- Triệu chứng thực thể.
- Các biến chứng.
- Các triệu chứng cận lâm sàng: siêu âm ổ bụng, xét nghiệm máu, xét
nghiệm nước tiểu.
2.2.5.5. Các thể bệnh theo YHCT
Bệnh nhân được phân loại các thể bệnh của YHCT dựa vào tứ chẩn
(vọng, văn, vấn, thiết) theo bảng sau [8]:


24

Bảng 2.1. Tiêu chuẩn chẩn đoán các thể bệnh
Tứ chẩn

Vọng

Văn

Vấn

Thiết

Thể thấp nhiệt

Thể khí trệ huyết ứ
- Sắc mặt hồng.
- Sắc mặt đỏ.
- Chất lưỡi tím, hoặc

- Chất lưỡi đỏ, rêu vàng.
đỏ sẫm, có điểm ứ
huyêt; rêu lưỡi
trắng.
- Tiếng thở thô hoặc bình - Tiếng nói hơi thở
bình thường.
thường.

Thể thận khí hư
- Sắc mặt nhợt.
- Lưỡi hồng nhợt,
rêu trắng.

- Tiếng nói hơi thở
yếu.

- Hơi thở có thể có mùi
hôi.
- Sốt, khát nước, ra nhiều - Có thể có sốt nếu - Đau đầu chóng
mồ hôi.
kèm theo thấp nhiệt.
mặt, mệt mỏi
ngủ ít. Lưng gối
- Tiểu: buốt, rắt; nước - Tiểu: không thông,
đau mỏi.
tiểu ít, vàng, đỏ hoặc
dòng tiểu nhỏ đứt
đục.
quãng, tiểu nhỏ - Tiểu: nhiều lần
giọt, tiểu nhiều lần.

không thông,
- Đại tiện táo.
tiêu không hết
- Bụng dưới đầy
- Bụng dưới đau.
bãi, tiểu yếu,
trướng.
đải rỉ.
- Mạch: hoạt sác.
- Mạch: sáp.
- Mạch: trầm tế
hoặc trầm trì.

2.2.5.6. Các phương pháp điều trị
- Phương pháp điều trị: YHHĐ, YHCT, kết hợp YHHĐ và YHCT.
- Các phương pháp điều trị cụ thể bằng YHHĐ: nội khoa, ngoại khoa.
- Các phương pháp điều trị cụ thể bằng YHCT:
+ Các dạng thuốc.
+ Các nhóm thuốc.
2.2.5.7. Thời gian điều trị:
Căn cứ vào ngày vào viện và ra viện trên bệnh án.
2.2.5.8. Hiệu quả điều trị:
Tình trạng khi ra viện: khỏi, đỡ, như cũ, khác.
2.3. Địa điểm nghiên cứu
Bệnh viện Y học cổ truyền trung ương.


25

2.4. Thời gian nghiên cứu

Từ tháng 10 năm 2014 đến tháng 5 năm 2015.
2.5. Đạo đức nghiên cứu
- Đề tài này nghiên cứu hoàn toàn nhằm mục đích khoa học, không vì
mục đích gì khác.
- Trung thực với các số liệu thu thập được, tính toán đảm bảo chính xác.
- Không làm hư hỏng hay thất lạc bệnh án, hoàn trả lại phòng lưu trữ
sau khi thu thập số liệu.

Chương 2


×