Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Đánh giá tác dụng phục hồi chức năng vận động ở bệnh nhân nhồi máu não sau giai đoạn cấp bằng laser trên huyệt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.17 KB, 59 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Tai biến mạch não (TBMN) là một trong những nguyên nhân hàng đầu
gây tử vong và tàn tật ở các quốc gia trên thế giới. TBMN gây ra ước tính
khoảng 5,7 triệu người chết trong năm 2005, trong đó 87% các ca tử vong ở
các nước thu nhập thấp và thu nhập trung bình. Nếu không có sự can thiệp, số
ca tử vong trên toàn cầu dự kiến sẽ tăng lên 6,5 triệu vào năm 2015 và 7,8
triệu vào năm 2030 [1]. Dự kiến cho tới năm 2030, TBMN vẫn là nguyên
nhân thứ ba gây tử vong trên thế giới [2].
Tại Việt Nam, kết quả điều tra dịch tễ học tại ba thành phố của Miền
Nam năm 2004, trong đó có thành phố Hồ Chí Minh, cho thấy tỷ lệ TBMN
khá cao, khoảng 6060/1.000.000 dân. Trong các trường hợp bị TBMN thì
nhồi máu não (NMN) chiếm 70-80% [3].
Với sự tiến bộ của y học trong thời gian gần đây, tỷ lệ mới mắc và tử
vong do TBMN đã giảm xuống, tuy nhiên gần một nửa số người sống sót bị
khuyết tật ở mức độ trung bình đến nặng [4], [5], [6], [7]. Điều này đã làm
ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân cũng như làm tăng gánh
nặng cho xã hội. Ở Mỹ (2008), tổng chi phí cho TBMN ước tính vượt quá 65
tỷ USD, trong đó 67% cho các chi phí trực tiếp và 33% là chi phí gián tiếp, ở
Anh là 8,9 tỷ bảng Anh. Và ở 27 nước EU , con số này là 27 tỷ Euro [8], [9],
[10], [11]. Một nghiên cứu về các chi phí cho TBMN cho thấy, trung bình
0,27% tổng sản phẩm trong nước đã được chi cho TBMN thông qua hệ thống
y tế quốc gia, chăm sóc và chiếm xấp xỉ 3 % tổng chi y tế [12]. Do đó, phục
hồi chức năng, đặc biệt là chức năng vận động, cho bệnh nhân TBMN nói
chung và nhồi máu não nói riêng đã trở thành một vấn đề bức bách và cần
thiết, không chỉ của ngành y tế mà của toàn xã hội.


Y học hiện đại đã đạt được những thành tựu to lớn trong việc chẩn
đoán, điều trị, phục hồi chức năng cũng như dự phòng cho bệnh nhân TBMN.
Bên cạnh đó Y học cổ truyền cũng đã góp phần không nhỏ trong việc điều trị
phục hồi di chứng tai biến mạch máu não, bằng các phương pháp rất phong


phú và đa dạng: thuốc, châm cứu, xoa bóp, dưỡng sinh… đã có rất nhiều đề
tài khoa học áp dụng các bài thuốc Y học cổ truyền, các phương pháp châm
cứu để điều trị di chứng do TBMN cho kết quả rất khả quan.
Hiện nay, tại khoa Y học cổ truyền Bệnh viện Bạch Mai đang áp dụng
phương pháp laser trên huyệt bằng thiết bị laser bán dẫn hồng ngoại châm cứu
ACULASER PLUS+, kết hợp với điện châm để điều trị cho người bệnh có di
chứng TBMN nói chung và Nhồi máu não nói riêng đạt kết quả tốt. Tuy nhiên
chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào đánh giá tác dụng của laser trên
huyệt để điều trị di chứng nhồi máu não. Trên cơ sở đó, chúng tôi thực hiện đề
tài “Đánh giá tác dụng phục hồi chức năng vận động ở bệnh nhân nhồi máu
não sau giai đoạn cấp bằng laser trên huyệt” Với hai mục tiêu cụ thể:
1. Đánh giá tác dụng hỗ trợ điều trị phục hồi chức năng vận động của
laser bán dẫn hồng ngoại với điện châm trên bệnh nhân nhồi máu
não sau giai đoạn cấp.
2. Theo dõi tác dụng không mong muốn của laser bán dẫn hồng ngoại.


Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. TỔNG QUAN VỀ NHỒI MÁU NÃO THEO Y HỌC HIỆN ĐẠI
1.1.1. Tình hình tai biến mạch máu não
1.1.1.1. Tình hình tai biến mạch máu não trên thế giới
Theo thống kê của tổ chức Y tế thế giới (WHO), mỗi năm có hơn 4,5
triệu người tử vong do TBMN. Riêng ở châu Á, hàng năm tử vong do TBMN
là 2,5 triệu người [13].
Năm 2006, tỷ lệ bệnh nhân bị TBMN tại Tây Ban Nha là 176/100000
người [14].
Năm 2008, tại Hoa Kỳ, có tổng cộng khoảng 5.800.000 trường hợp
TBMN, với 780.000 người TBMN mỗi năm [9]. Tổng số ca tử vong do
TBMN ở 48 quốc gia châu Âu ước tính khoảng 1.239.000 người, số ca tử

vong TBMN mỗi năm trong 27 nước thành viên Liên minh châu Âu là
508.000 ca [10].
Trong năm 2009, ước tính có khoảng 381.400 người Úc (1,8% tổng dân
số) bị TBMN [15] .
Theo các dữ liệu được công bố từ các nước EU, Iceland, Na Uy và
Thụy Sĩ, WHO ước tính số lượng các sự kiện TBMN ở những quốc gia trên
có khả năng tăng từ 1,1 triệu người mỗi năm trong năm 2000 lên hơn 1,5 triệu
mỗi năm vào năm 2025 [16].
1.1.1.2. Tình hình tai biến mạch máu não ở Việt Nam
Tại Việt Nam, theo thống kê tại khoa thần kinh bệnh viện Bạch Mai từ
năm 1991 đến năm 1993, có 631 trường hợp TBMN, tăng gấp 2,5 lần so với
thời kỳ từ năm 1986 đến năm 1989 [17].


Theo thống kê tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2004 thấy tỷ lệ mắc là
6060/1.000.000 dân, tăng hơn năm 1993 với tỷ lệ 4106/1.000.000 dân [3].
Đặng Quang Tâm (2004) tiến hành nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ
học TBMN tại thành phố Cần Thơ, kết quả cho thấy tỷ lệ hiện mắc tăng dần
hàng năm: từ 75,57 BN/100.000 dân năm 2002 lên 129,56 BN/100.000 dân
năm 2004 [18].
Nhồi máu não chiếm khoảng 70-81% các trường hợp TBMN, gặp ở
mọi lứa tuổi, thường gặp ở những người cao tuổi [17], [19], [20].
Tỷ lệ nhồi máu não gần đây có xu hướng gia tăng ở những người trẻ
1.1.2. Định nghĩa, cơ chế bệnh sinh của nhồi máu não
1.1.2.1. Định nghĩa tai biến mạch não
Định nghĩa của WHO năm 1989: “Tai biến mạch máu não là dấu hiệu
phát triển nhanh chóng trên lâm sàng của một rối loạn khu trú chức năng của
não, kéo dài trên 24 giờ và thường do nguyên nhân mạch máu” [17].
Tùy thuộc vào bản chất tổn thương, TBMN được chia thành 2 thể lớn:
Chảy máu não và nhồi máu não.

1.1.2.2. Khái niệm về nhồi máu não
 Định nghĩa:
Nhồi máu não là hậu quả của sự giảm đột ngột lưu lượng tuần hoàn não
do tắc một phần hoặc toàn bộ một động mạch não. Về mặt lâm sàng tai biến
thiếu máu não biểu hiện bằng sự xuất hiện đột ngột các triệu chứng thần kinh
khu trú, hay gặp nhất là liệt nửa người [17], [21].
 Phân loại nhồi máu não: Theo WHO năm 1989 [22], [23], [24], [25].
- Loại 1: Cơn thiếu máu não thoáng qua diễn ra dưới 24 giờ, không để
lại di chứng.
- Loại 2: Thiếu máu não cục bộ hồi phục, diễn tiến bệnh quá 24 giờ, để
lại di chứng nhẹ hoặc không có di chứng.


- Loại 3: Thiếu máu não cục bộ hình thành, là nhồi máu não nặng và để
lại nhiều di chứng.
- Loại 4: Nhồi máu não tiến triển, là thiếu sót thần kinh cục bộ, do thiếu
máu, tính chất nặng nề, kéo dài quá một vài giờ hoặc một vài giờ sau khởi bệnh
 Nguyên nhân của nhồi máu não
Nhồi máu não thường do 2 nhóm nguyên nhân chính: Huyết khối động
mạch và tắc mạch. Ngoài ra co thắt mạch máu cũng có thể là nguyên nhân
gây ra nhồi máu não ở người trẻ [17], [26], [27]
- Huyết khối mạch: Vữa xơ động mạch là nguyên nhân chính gây huyết
khối. Khi thành mạch bị vữa xơ, đặc biệt là lớp áo trong dày lên làm hẹp lòng
mạch, đồng thời thành mạch trở nên thô ráp làm cho tiểu cầu dễ bám vào. Cục
tắc tiểu cầu không bền, nếu có thêm hồng cầu và sợi tơ huyết bám vào, cấu
trúc sẽ bền chắc hơn và lớn dần lên. Khi cục tắc gây nghẽn trên 75% lòng
động mạch hoặc khi chúng bong ra và trôi theo dòng máu gây tắc mạch sẽ
xuất hiện các triệu chứng lâm sàng. Ngoài vữa xơ động mạch còn có một số
nguyên nhân khác như viêm động mạch, bóc tách động mạch, các bệnh máu
như đông máu rải rác, bệnh hồng cầu hình liềm, loạn phát triển xơ...[17], [28].

- Tắc mạch: Do cục máu đông di chuyển từ một mạch máu ở xa não,
nguồn gốc do bệnh lý tim mạch như hẹp van hai lá, rung nhĩ, viêm nội tâm
mạc nhiễm khuẩn..., hoặc do các mảng vữa xơ ở các mạch máu bị vữa xơ
động mạch bong ra, theo dòng máu di chuyển lên não, gây tắc mạch. Các
nguyên nhân khác như tắc mạch não do mổ, do không khí... [17], [29]
- Co thắt mạch: là do sự mất cân bằng các chất giãn mạch của tế bào
nội mô và sự tăng tổng hợp của các chất gây co mạch trong động mạch não,
gây co thắt mạch não, làm cản trở lưu thông máu. Co thắt mạch có thể do dị
dạng mạch máu ở người trẻ tuổi, co thắt mạch não hồi phục không rõ nguyên
nhân, co thắt mạch sau đau nửa đầu, sau sang chấn, sau sản giật [17].


1.1.2.3. Các yếu tố nguy cơ của TBMN
Theo WHO, có hơn hai mươi yếu tố nguy cơ của nhồi máu não như:
Tuổi, giới, chủng tộc, các bệnh lý như tăng huyết áp, đái tháo đường, rối loạn
lipid máu, hút thuốc lá, uống rượu... Trong đó, ba yếu tố quan trọng nhất là
tăng huyết áp, bệnh tim mạch và vữa xơ động mạch [17], [30].
Tăng huyết áp và vữa xơ động mạch: có thể xuất hiện riêng lẻ hoặc kết
hợp với nhau, là nguy cơ hàng đầu của TBMN. Theo Bousser M, nhồi máu
não do vữa xơ động mạch chiếm 60-70%, trong đó tỷ lệ có kèm tăng huyết áp
là 40-50% [17], [31].
1.1.2.4. Chẩn đoán nhồi máu não
Bệnh khởi phát đột ngột, bệnh nhân có thể bị liệt nửa người, nói khó, liệt
các dây thần kinh sọ não, rối loạn thần kinh thực vật, rối loạn ý thức… [17], [32]
Các triệu chứng như: Nhức đầu, buồn nôn, nôn, các triệu chứng xuất
hiện nặng ngay từ đầu, rối loạn ý thức, rối loạn cơ tròn, huyết áp khi khởi phát
tăng cao, dấu hiệu màng não âm tính... Các triệu chứng này ít thấy ở bệnh
nhân nhồi máu não mà thường gặp ở bệnh nhân chảy máu não.
1.1.2.5. Xét nghiệm cận lâm sàng
* Chụp cắt lớp vi tính sọ não

- Ở giai đoạn sớm, bệnh nhân nhồi máu não có các biểu hiện rất kín đáo.
- Sau giai đoạn cấp tính, bệnh nhân nhồi máu não có các ổ giảm đậm dộ, ổ
này thường thấy rõ từ ngày thứ hai trở đi. Trường hợp điển hình: có ổ giảm đậm
độ thuần nhất, hình thang, hình tam giác đáy quay ra ngoài, hình tròn nhỏ, hình
bầu dục hoặc hình dấu phẩy phù hợp với vùng phân bố của động mạch não.
Trường hợp hội chứng ổ khuyết: có các ổ giảm đậm độ hình tròn hoặc hình bầu
dục trong chất trắng và hạch nền não, đường kính nhỏ hơn 1,5cm.


- Hình ảnh nhồi máu – chảy máu: Sự kết hợp một hình ảnh tăng tỷ
trọng tự nhiên ở trong một vùng giảm tỷ trọng.
* Hình ảnh CHT và chụp mạch CHT: Đây là phương pháp hiện đại
nhất, rõ ràng những vùng não tổn thương, có độ nhạy cao, không bị nhiễu ảnh
ở hố sau. Có thể dựng ảnh nhiều chiều, phương pháp chụp mạch cộng hưởng
từ không phải tiêm thuốc cản quang và mạch não. Nhưng có nhược điểm là:
khó phân định, dễ gây nhầm lẫn với một số tổn thương khác không do thiếu
máu não những cũng có thay đổi tương tự như u não, các tổn thương viêm
nhiễm. Hình ảnh: chủ yếu tang tín hiệu trong thì T2.
* Chụp động mạch não: Chụp động mạch số hóa xóa nền cho hình ảnh
động mạch não rõ nét, phát hiện được tắc, hẹp mạch máu, phình mạch, dị
dạng mạch, co thắt mạch não.
* Xạ hình tưới máu não bệnh lý trên máy chụp cắt lớp phát điện tử
dương (SPECT) và chụp cắt lớp phát photon đơn (PET): Cung cấp những
hình ảnh động học về quá trình tưới máu não, các tổn thương mạch máu não.
Giúp chẩn đoán sớm, chính xác các tổn thương mạch não, bổ sung thêm các
thông tin về hình ảnh giải phẫu và hình thái của chụp cắt lớp vi tính và cộng
hưởng từ. Ngoài ra còn giúp theo dõi sự thay đổi của các tổn thương do
TBMN theo thời gian và có thể phát hiện tốt hơn chụp CLVT và CHT các
thiếu máu cục bộ trong những giờ đầu sau khi mắc TBMN. Các kích thước
tổn thương trên chụp cắt lớp phát điện tử dương (SPECT) thông thường lớn

hơn so với chụp CLVT và chụp CHT.
* Siêu âm Doppler: Để phát hiện dấu hiệu tắc, hẹp hệ động mạch cảnh
trong và ngoài sọ.
* Xét nghiệm dịch não – tủy: Dịch não – tủy không có hồng cầu, bạch
cầu và các thành phần khác không biến đổi.
* Ghi điện não:


* Các xét nghiệm khác như xét nghiệm máu, xét nghiệm nước tiểu,
chụp X quang tim phổi, điện tim đồ và siêu âm tim mạch.
1.1.2.6. Điều trị phục hồi bệnh nhân sau giai đoạn cấp
 Nguyên tắc cấp cứu và điều trị
Điều trị theo nguyên tắc điều trị và cấp cứu TBMN nói chung nhằm
mục tiêu hồi phục chức năng thần kinh và giảm tỷ lệ tử vong. Có năm vấn đề
chính trong điều trị:
- Điều trị chung, cứu sống người bệnh trong giai đoạn cấp.
- Điều trị đặc hiệu, mục tiêu điều trị chủ yếu là tái lập lại tuần hoàn,
mặt khác dùng các thuốc bảo vệ thần kinh với mục đích dự phòng.
- Phòng và điều trị các biến chứng (chảy máu thứ phát, phù não...),
viêm phổi, loét do tỳ đè, tắc mạch phổi...
- Phòng bệnh cấp hai nhằm giảm tỷ lệ tai biến tái phát, kiểm soát tốt
tăng huyết áp, sử dụng thuốc chống đông.
- Phục hồi chức năng sớm.
 Phục hồi chức năng ở bệnh nhân TBMN
Phục hồi chức năng vận động cho bệnh nhân TBMN được quan tâm
nhiều vì chức năng vận động ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động sống và lao
động hàng ngày của người bệnh. Điều này cần phải được tiến hành ngay từ
giai đoạn sớm tại bệnh viện. Việc hướng dẫn người bệnh và gia đình để tập
luyện tại nhà là cần thiết để đạt hiệu quả tốt và lâu dài [33], [34], [35], [36].
* Nguyên tắc:

-Điều trị phục hồi sớm ngay khi tình trạng tổn thương não đã ổn định.
- Kế hoạch phục hồi phù hợp với từng bệnh nhân.
-Phục hồi vận động là quá trình từ đơn giản đến phức tạp, cần có sự
phối hợp giữa thầy thuốc với người bệnh, gia đình.
* Những bước cơ bản trong quá trình phục hồi chức năng [17], [37],
[38], [39].


- Lượng giá và xử trí những vấn đề chung
- Chăm sóc nâng cao thể trạng.
- Phòng chống các biến chứng khác như teo cơ, cứng khớp, chống loét
do tỳ đè, phòng thuyên tắc, kết hợp châm cứu, xoa bóp bấm huyệt, vật lý trị
liệu để bệnh nhân nhanh chóng hồi phục.
1.2. CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ NHỒI MÁU NÃO THEO Y HỌC CỔ TRUYỀN
Trong YHCT không có bệnh danh TBMN nói chung và NMN nói
riêng. Căn cứ vào triệu chứng lâm sàng và tính chất xuất hiện đột ngột như
trong giai đoạn cấp của YHHĐ thì YHCT xếp TBMN vào chứng Trúng
phong, giai đoạn sau cấp của YHHĐ với triệu chứng liệt nửa người nổi bật thì
YHCT xếp vào chứng Bán thân bất toại [40], [41], [42], [43], [44].
1.2.1. Quan niệm, nguyên nhân, cơ chế bệnh sinh
1.2.1.1. Quan niệm và nguyên nhân của chứng trúng phong
Trúng phong là chứng bệnh phát sinh cấp, đột ngột và rất nặng. Bệnh
nhân đột nhiên ngã ra bất tỉnh hoặc vẫn còn tình, bán thân bất toại hoặc tứ chi
không cử động được, miệng méo, mắt lệch, nói khó.
Trúng phong là chứng bệnh được đề cập tới từ hơn 2.000 năm nay
trong các y văn cổ như Nội kinh, Kim quỹ yếu lược và qua các thời kỳ lịch sử
được bổ sung và hoàn thiện dần.
Theo Nội kinh, tà khí xâm phạm vào nửa người làm dinh vệ bị hao tổn
bên chân mất khí, chỉ còn tà khí lưu lại gây nên thiên khô. Phong khí ẩn ở
khoảng bì phu, trong không thể thông, ngoài không thể tiết [43].

Trương Trọng Cảnh cho nguyên nhân là lạc mạch hư rỗng, tà hí xâm
phạm vào nửa người gây miệng méo, nửa người không cử động được [45].
Danh y Tuệ Tĩnh (thế kỷ XIV), đã nói: “Trúng phong là đầu mối các
bệnh, biến hóa lạ thường và phát bệnh khác biệt. Triệu chứng là thình lình ngã
ra, hôn mê bất tỉnh, miệng méo mắt lệch, sùi bọt mép, bán thân bất toại, nói


năng ú ớ, chân tay cứng đờ không co duỗi được. Các chứng trạng như thế là
đều trúng phong cả” [41], [42].
Bệnh danh trúng phong xuất hiện trong sách Nội kinh, ngoài ra còn có
tên gọi khác: Thiên phong, thiên khô, thiên thân bất dụng, phúc kích... Trong
“Kĩm quỹ yếu lược” của Trương Trọng Cảnh cũng nêu bệnh danh trúng
phong và được dùng liên tục đến nay [43], [45]. Ngày nay chủ yếu dùng bệnh
danh: Trúng phóng, bán thân bất toại và phân chia thành hai loại: Trúng
phong kinh lạc và trúng phong tạng phủ.
Nguyên nhân của chứng trúng phong:
 Ngoại phong: Phong tà xâm nhập vào kinh lạc gây trúng phong kinh

lạc, trúng phong đơn kinh lạc gây khẩu nhãn oa tà, trúng phong đa kinh lạc
gây nán thân bất toại.
 Nội phong: Do rối loạn chức năng của can gây nên, gọi là “Can

phong nội động”. Sách ‘Y Tông Kim Giám’ viết: “Trên trời là phong, dưới đất
là mộc, ở người là can... do đó, can khí và phong khí có liên hệ với nhau. Các
bệnh về phong khí, đều thuộc về can”.
Triệu chứng thường gặp là hoa mắt chóng mặt, tứ chi co giật hoặc tê bì,
run rẩy, co cứng, nặng thì có thể bất tỉnh, miệng méo, mắt xếch, bán thân bất
toại. Nội phong do trong cơ thể sinh ra, do âm dương mất cân bằng, chính khí
suy kém làm hao tổn chân âm, ảnh hưởng đến can thận, can là tạng thuộc
phong, nếu can huyết suy kém sẽ sinh nhiệt, nhiệt hóa hỏa, hỏa thịnh thì

phong động, che lấp các khiếu, rối loạn thần minh gây nên chứng trúng
phong. Nhẹ là trúng phong kinh lạc, nặng là trúng phong tạng phủ, chữa
không kịp thời sẽ để lại chứng bán thân bất toại.
Nội phong làm cho chức năng của tạng can bị rối loạn. Can chủ cân,
can khí cang thịnh gây ra co giật. Can dương vượng lên, gây ra nhức đầu,
chóng mặt, hoa mắt. Can huyết hư không nuôi dưỡng được cân cơ, sinh ra


liệt, chân tay co quắp. Can phong nội động gây hoa mắt chóng mặt, tứ chi co
giật hoặc tê bì hoặc run rẩy, co cứng, nặng hơn có thể bất tỉnh, khẩu nhãn oa
tà, bán thân bất toại. Can phong thường kết hợp với đàm để gây bệnh, đàm
hỏa uất kết sinh phong hoặc can phong nội động đàm trọc cũng nhân đó mà
thượng nghịch làm cho xuất hiện triệu chứng ngất xỉu, khò khè.
Nội phong gây trúng phong thường do: Can thận âm hư, thủy không
nuôi dưỡng được mộc làm can dương thịnh, can phong kết hợp với đàm thành
phong đàm đưa lên trên gây tắc trở thanh khiếu. Nhiệt cực sinh phong do
nhiệt tà quá thịnh làm tổn thương dinh huyết, thiêu đốt can kinh. Âm hư và
huyết hư làm cân mạch không được nuôi dưỡng mà gây chứng âm hư phong
động và huyết sinh hư phong.
1.2.1.2. Cơ chế bệnh sinh
Nguồn gốc lý luận của bệnh trúng phong bắt đầu từ sách Nội kinh, Kim
quỹ yếu lược từ thời Đông Hán thế kỷ II – III sau Công nguyên, phát triển
vào thời Kim Nguyên và khá phổ biến vào thời Minh – Thanh.
Nội kinh, Kim quỹ coi nguyên nhân gây bệnh là “Nội hư trúng tà”.
Trong Linh Khu nói: Hư tà xâm nhập nửa người, khu trú ở dinh vệ, dinh vệ
yếu thì chân khí mất, còn mình tà khí ở lại trở thành khô cứng nửa người [].
Kim quỹ yếu lược nói: “Kinh mạch hư không phong tà thừa cơ xâm nhập gây
chứng trúng phong, tùy theo bệnh nặng nhẹ mà biểu hiện chứng hậu ở kinh
lạc hay tạng phủ” [43], [45].
1.2.2. Điều trị chứng trúng phong và phục hồi vận động sau giai đoạn cấp

1.2.2.1. Phân loại
Theo sách Kim quỹ yếu lược, các thể lâm sàng ở giai đoạn cấp tùy theo tà
khí xâm phạm ở phần nông là TPKL, ở phần sâu có hôn mê.


- Trúng phong kinh lạc: Mức độ nhẹ, liệt nửa người không có hôn mê.
Bỗng nhiên da thịt tê dại đi lại nặng nhọc, mắt miệng méo, tê liệt nửa người
rêu lưỡi trắng, mạch huyền tế hay phù sác.
- Trúng phong tạng phủ: Bệnh xuất hiện đột ngột, liệt nửa người có hôn
mê, có hai chứng:
Chứng bế: Bất tỉnh, răng cắn chặt, miệng mím chặt, hai bàn tay nắm
chặt, da mặt đỏ, tay chân ấm, không có rối loạn cơ tròn, mạch huyền lữu lực.
Chứng thoát: Bất tỉnh, mắt nhắm, miệng há, tay duỗi, chân tay lạnh, có
rối loạn cơ tròn, mạch trầm huyền vô lực.
Trúng phong được chia làm ba giai đoạn: Giai đoạn cấp tính, giai đoạn
phục hồi, giai đoạn di chứng.
1.2.2.2. Điều trị
 Giai đoạn cấp tính: Trong giai đoạn này về cơ bản có ba trạng thái:
Không có rối loạn ý thức, hôn mê nông và hôn mê sâu.
* Điều trị ở giai đoạn không có rối loạn ý thức, chỉ có liệt nửa người:
+ Triệu chứng: Thường xuất hiện ở trạng thái tĩnh (đang nghỉ, sau khi
làm việc mệt hoặc sáng ngủ dậy).
Do phong trúng kinh lạc làm khí huyết trong kinh lạc bị trở ngại gây nên.
+ Pháp điều trị: Khu phong dưỡng huyết thông lạc.
+ Phương dược: Bổ dương hoàn ngũ thang gia giảm (Hoàng kỳ, đào
nhân, địa long, xích thược, đương quy, hồng hoa, xuyên khung).
* Điều trị ở giai đoạn hôn mê nông: Y học cổ truyền gọi là chứng bế,
thường do phong nhiệt nhiễu thanh không, đàm thấp hoặc đàm nhiệt làm bế
tắc tâm khiếu, còn gọi là trúng phong tạng phủ.
+ Triệu chứng: Thường lúc tỉnh lúc mê, mặt đỏ, người nóng, hàm răng

cắn chặt, nằm không yên, thở thô, có nhiều đờm, đại tiểu tiện không thông,
mạch huyền sác.


+ Pháp điều trị: Cấp cứu, khai bế tỉnh thần.
+ Phương dược: An cung ngưu hoàng hoàn có thành phần chủ yếu do
11 vị thuốc tạo nên gồm: ngưu hoàng, bột sừng tê giác, xạ hương, trân châu,
chu sa, hùng hoàng, hoàng liên, hoàng cầm, chi tử, uất kim, băng phiến.
+ Châm cứu: Châm chích nặn máu Bách hội, Thập tuyên để thanh nhiệt,
hạ áp. Châm kích thích mạnh Nhân trung, Thập nhị tỉnh để tỉnh thần.
* Điều trị ở giai đoạn hôn mê sâu: Y học cổ truyền gọi là chứng thoát.
+ Triệu chứng: Hôn mê sâu, mắt mở, vã mồ hôi, chân tay lạnh, thở yếu,
mạch vi muốn tuyệt.
+ Pháp điều trị: Hồi dương cố thoát.
+ Phương dược: Sâm phụ thang gia vị.
Trong bài có nhân sâm đại bổ nguyên khí, phụ tử chế hồi dương cứu
nghịch. Hai vị phối hợp có tác dụng phấn chấn dương khí, ích khí, cố thoát.
Nếu ra mồ hôi không ngừng, gia hoàng kỳ, mẫu lệ, ngũ vị tử để liễm hãn
cố thoát.
Nếu sau khi điều trị dương khí được phục hồi thì sắc mặt hồng, chân
tay còn lạnh, phiền táo không yên, mạch nhược hoặc phù đại là biểu hiện của
chân âm bị hư tổn, hư dương đưa lên thì dùng bài Địa hoàng ẩm tử gia giảm
để bồi bổ chân âm, ôn thận dương. Trong bài dùng thục địa, mạch môn, thạch
hộc, ba kích, nhục dung, ngũ vị tử để bổ thận ích tinh, tư âm liễm dịch; phụ tử
chế, nhục quế ôn thận phù chính; viễn trí, xương bồ khai khiếu trừ đàm.
+ Châm cứu: Cứu cách muối Thần khuyết, hoặc cứu Quan nguyên, Khí
hải đến khi chân tay ấm, sờ thấy mạch đập.
 Phục hồi sau giai đoạn cấp
Giai đoạn cấp tính của trúng phong bệnh viện chuyển rất phức tạp, nếu
điều trị tích cực bệnh chuyển sang giai đoạn phục hồi, tuy nhiên còn để lại

nhiều di chứng nặng nề như: Liệt nửa người, nói khó, miệng méo, mắt xếch.


Cần tích cực điều trị, nên phối hợp giữa điều trị bằng phương pháp dùng
thuốc và không dùng thuốc như châm cứu, xoa bóp bấm huyệt, tập luyện. Đây
là giai đoạn can thiệp điều trị tốt nhất để phục hồi các di chứng. Ngoài nguyên
tắc tuân theo biện chứng luận trị còn cần phải kết hợp với các phương pháp
hoạt huyết hóa ứ, thông kinh lạc, ích khí. Song song với việc khôi phục công
năng tạng phủ còn cần phải đề phòng bệnh tái phát.
* Điều trị chứng trúng phong sau giai đoạn cấp
Điều trị chứng trúng phong sau giai đoạn cấp bằng phương pháp dùng
thuốc kết hợp với không dùng thuốc nhằm phục hồi lại những di chứng của
bệnh nhân. Tùy thuộc vào thể bệnh mà sẽ có bài thuốc phù hợp [40], [41],
[43], [44].
 Liệt nửa người
+ Khí hư huyết ứ, kinh lạc trở trệ:
Triệu chứng: Khí hư không vận hành được huyết, huyết không vinh
dưỡng được, khí huyết ứ trệ, mạch lạc tắc trở làm cho các chi thể không vận
động được
Pháp điều trị: Ích khí hoạt huyết, thông kinh hoạt lạc.
Phương dược: Bổ dương hoàn ngũ thang gia giảm (Hoàng kỳ, đào
nhân, địa long, xích thược, đương quy, hồng hoa, xuyên khung).
+ Thận âm dương đều hư, thất ngôn:
Triệu chứng: Bán thân bất toại, thất ngôn, ù tai, lưng gối lạnh đau, chân
tay lạnh, chóng mặt, choáng váng, chất lưỡi nhợt, rêu trắng, mạch trầm trì.
Pháp điều trị: Tư thận âm, bổ thận dương, khai khiếu.
Phương dược: Địa hoàng ẩm tử (Tuyên minh luận) gia giảm: Can địa
hoàng, sơn thù, ba kích, nhục thung dung, nhục quế, phụ tử, thạch hộc, mạch
môn, ngũ vị tử, bạch linh, xương bồ, viễn trí.
+ Chính khí hư, phong tà trúng vào kinh lạc:



Triệu chứng: Bán thân bất toại, miệng méo mắt xếch, lưỡi cứng nói khó
hoặc không nói được, rêu lưỡi trắng mỏng, mạch phù hoãn.
Pháp điều trị: Bổ chính trừ phong, điều hòa khí huyết.
Phương dược: Tiểu tục mệnh thang (Thiên kim phương) gia giảm:
Phòng phong, phòng kỷ, hạnh nhân, cam thảo, nhân sâm, phụ tử, quế chi,
bạch thược, xuyên khung, hoàng cầm.
+ Âm hư dương xung, mạch lạc ứ trở:
Triệu chứng: Bán thân bất toại, chân tay co cứng, hoa mắt chóng mặt,
mặt đỏ, phiền táo không yên, nói khó, tê tay chân, chất lưỡi đỏ, rêu vàng,
mạch huyền hữu lực.
Pháp điều trị: Bình can tiềm dương, tức phong thông lạc [], [].
Phương dược: Thiên ma câu đằng ẩm (Tạp bệnh chứng trị tân nghĩa)
gia giảm: Thiên ma, câu đằng, thạch quyết minh, tang ký sinh, đỗ trọng, ích
mẫu, phục thần, dạ giao đằng, chi tử, hoàng cầm, ngưu tất [], [].
 Rối loạn ngôn ngữ:
+ Phong đàm trở trệ kinh lạc:
Triệu chứng: Lưỡi to bè, nói ngọng, nói khó, rêu lưỡi trắng mỏng, dính.
Mạch huyền tế.
Pháp điều trị: Tức phong thông lạc, trừ đàm tuyên khiếu.
Phương dược: Giải ngữ đan gia giảm (Thiên ma, toàn yết, nam tinh,
bạch phụ tử, viễn trí, xương bồ, mộc hương, thiên trúc hoàng, uất kim).
+ Thận tinh hư tổn:
Triệu chứng: Không nói được, hồi hộp, đánh trống ngực, đoản khí, lưng
gối mỏi yếu, mạch trầm tế nhược.
Pháp điều trị: Bổ thận tinh, khai âm lợi khiếu.


Phương dược: Địa hoàng ẩm tử gia giảm (Dinh địa, ba kích, sơn thù,

bạc hà, thạch hộc, nhục dung, ngũ vị tử, sinh khương, hạnh nhân, cát cánh,
bạch linh, mạch môn, xương bồ, viễn trí, đại táo).
+ Miệng méo, mắt lệch:
Triệu chứng: Miệng méo mắt lệch, kèm theo chi thể tê bì, hoặc nói khó,
nhức đầu chóng mắt.
Pháp điều trị: Khu phong hóa đàm, tức phong thông lạc.
Phương dược: Khiên chính tán (Bạch phụ tử, cương tàm, toàn yết).
* Điều trị chứng trúng phong sau giai đoạn cấp bằng phương pháp
không dùng thuốc:
- Điều trị chứng trúng phong sau giai đoạn cấp bằng châm cứu
+ Thể châm:
Xây dựng phác đồ huyệt theo biện chứng luận trị:
Phong đàm huyết ứm bế trở kinh lạc: Phong trì, Thái dương, Thiên đột, Kiên
ngung, Khúc trì, Ngoại quan, Hợp cốc, Dương lăng tuyền, Túc tam lý, Thái xung.
Phong đàm thượng nhiễu, đàm nhiệt phủ thực: Chi câu, Đại hoành,
Phong long, Trung phủ, Xích trạch, Kiên ngung, Hợp cốc, Âm lăng tuyền,
Túc tam lý, Thái xung.
Can thậm âm hư, phong dương thượng nhiễu: Thái dương, Phong trì, Thái
xung, Thái khê, Tam âm giao, Khúc trì, Ngoại quan, Dương lăng tuyền, Túc tam lý.
Khí hư huyết ứ, lạc mạch trở trệ: Trung quản, Túc tam lý, Khí hải, Đại
chùy, Kiên ngung, Ngoại quan, Hoàn khiêu, Dương lăng tuyền, Túc tam lý,
Tam âm giao.
Can dương thượng nhiễu, mạch lạc ứ trở: Can du, Thận du, Phong trì,
Kiên ngung, Khúc trì, Ngoại quan, Hợp cốc, Dương lăng tuyền, Túc tam lý.
Có liệt mặt thêm huyệt: Giáp xa, Địa thương.
Chọn huyệt ở kinh dương là chính:


Huyệt chính: Kiên ngung, Khúc trì, Thủ tam lý, Ngoại quan, Dương trì,
Hợp cốc, Hoàn khiêu, Phong thị, Túc tam lý, Dương lăng tuyền, Giải khê.

Thủ pháp bổ, hoặc bình bổ bình tả.
Huyệt phối hợp: Âm huyết hư tổn: Châm bổ huyết hải, Tam âm giao,
Thái khê. Đàm che lấp tâm khiếu: châm tả Bách hội, Nhân trung. Liệt mặt:
Chọn các huyệt: Hạ quan, Địa thương, Giáp xa. Đàm trọc trở trệ: Châm
Liêm tuyền. Nói khó: Châm Á môn, Liêm tuyền, Thiên đột, thủ pháp bình
bổ bình tả. Bệnh lâu ngày dẫn tới thận hư, khí huyết bất túc: Châm bổ Can
du, Thận du, Quan nguyên.
Mỗi lần châm bốn đến năm huyệt chính, một đến hai huyệt phối hợp.
Trong thời kỳ hồi phục, đàm ứ rõ, chính khí dần hư suy, châm cứu
nhằm tăng dinh dưỡng tứ chi, bổ dương minh, hóa đàm trừ thấp, sơ thông
kinh mạch, hành khí hoạt huyết với nguyên tắc huyết hành thì phong tất diệt,
khôi phục chức năng vận động.
+ Mãng châm: Mãng châm phát triển từ lý luận của “Cửu châm” mà
người xưa đã ghi trong sách Linh khu (770 – 221 trước Công nguyên). Châm
tức là điều khí, khí huyết lưu thông thì không có bệnh.
Kỹ thuật châm: Dùng kim dài và to với kỹ thuật châm Thông kinh –
Liên kinh – Thấu kinh để điều hòa khí huyết nhanh và mạnh hơn [], [].
Mãng châm trong điều trị phục hồi sau trúng phong
Bệnh do phong gây ra thường tác động vào ác kinh dương và các kinh
mạch âm dương đa khí đa huyết. trong điều trị các huyệt ở các kinh thủ túc
dương minh, kết hợp với các huyệt ở kinh đởm, tỳ và bàng quang… để khu
phong, trừ thấp, bình can, kiện tỳ, thông kinh hoạt lạc, khai khiếu, điều hòa


khí huyết. Mỗi lần châm chọn dùng thay đổi các huyệt dưới đây, lưu kim từ
20 – 40 phút, dùng thủ pháp bổ hay tả tùy theo bệnh lý.
Công thức huyệt: Trật biên – Hoàn khiêu, Túc tam lý – Phong long,
Tam âm giao – Âm lăng tuyền, Huyết hải – Âm liêm, Thái xung – Giải khê,
Tam âm giao – Trung đô, Kiên ngung – Tý nhu, Khúc trì – Kiên ngung, Hợp
cốc – Lao cung, Ngoại quan – Tam dương lạc, Kiên chinh – Cực tuyền, Thừa

khấp – Địa thương, Quyền liêu – Nghinh hương, Toản trúc – Tình minh… [].
+ Thủy châm: Thường tiêm vào huyệt các loại thuốc vitamin nhóm B:
B1, B6, B12.
+ Đầu châm: Đây là phương pháp đặc thù chọn huyệt vị trên đầu.
Phương pháp này dựa trên cơ sở công năng của vỏ não, lớp trên da đầu có những
vùng liên hệ mật thiết với chức năng các trung khu của vỏ não, do đó khi kích
thích sẽ truyền tín hiệu tới vỏ não để đạt hiệu quả chữa bệnh. Nguyên tắc là chọn
vùng vận động trên da đầu tương ứng với khu vực tổn ở thương não.
+ Nhĩ châm: Dùng các huyệt thần môn, tâm, thận, não, chẩm.
+ Cứu: Khi bệnh nhân có biểu hiện của chứng hàn.
- Điều trị chứng trúng phong sau giai đoạn cấp bằng xoa bóp bấm huyệt:
+ Kỹ thuật: Thủ thuật phải nhẹ nhàng, song có tác dụng thấm sâu vào
da thịt, làm được lâu và có sức. Tác dụng bổ tả của thủ thuật: thường làm nhẹ,
chậm rãi, thuận đường kinh, có tác dụng bổ, làm nặng, nhanh, ngược đường
kinh có tác dụng tả.
+ Áp dụng xoa bóp bấm huyệt trong điều trị di chứng trúng phong
Một số thủ thuật thường dùng: Xát, xoa, day, ấn, miết, hợp, véo, bấm,
đám, điểm, lăn, phát, vờn, rung, vê, vận động.


Mục đích: Tăng cường dinh dưỡng, chống teo cơ, cứng khớp, giúp
nhanh chóng phục hồi chức năng vận động lửa người bên liệt.
- Điều trị chứng trúng phong sau giai đoạn cấp bằng phương pháp
luyện tập khí công: Áp dụng cho những bệnh nhân liệt đã phục hồi hoặc hồi
phục một phần, đã tự đi lại được.
- Điều trị chứng trúng phong sau giai đoạn cấp bằng các phương pháp
tập luyện phục hồi chức năng: Sau khi bệnh nhân bị trúng phong đã điều trị
qua giai đoạn cấp, bệnh tương đối ổn định, thường sau một đến bảy tuần có
thể luyện tập được. Luyện tập từ nhẹ rồi tăng dần theo tình trạng từng bệnh
nhân và cần kiên trì luyện tập thường xuyên,đều đặn.

Trong điều trị trúng phong cần chú ý:
Giai đoạn cấp tính cần kết hợp YHCT và YHHĐ điều trị sớm, hạn chế
những biến chứng nguy hiểm.
Giai đoạn hồi phục: Để phục hồi chức năng tốt nhất cho người bệnh từ
vận động đến ngôn ngữ cần kết hợp nhiều phương pháp điều trị, để người
bệnh hòa nhập lại với cuộc sống gia đình và xã hội ở mức cao nhất có thể và
đồng thời luôn phòng bệnh tái phát.
1.3. TỔNG QUAN VỀ LASER
1.3.1. Sơ lược về laser
1.3.1.1. Khái niệm về laser.
Laser là tên viết tắt của cụm từ Light Amplification by Stimulated Emission
of Radiation trong tiếng Anh, có nghĩa là “khuếch đại ánh sáng bằng phát xạ
kích thích”. Nhà vật lý thiên tài Albert Einstein, người đã phát minh hiện tượng
cưỡng bức (Stimulate Emission of Radiation) vào năm 1917. Phát minh ra
nguyên lý cơ bản của máy laser dựa trên cơ sở khuyếch đại ánh sáng bởi phát


xạ cưỡng bức thuộc về nhà vật lý người Mỹ Townes và 2 nhà vật lý Liên Xô là
Prochorov và Basov, cùng đồng thời trong năm 1954 công bố các công trình
phát hiện nguyên lý laser. Thiết bị được công bố đầu tiên vào năm 1958. Cho
đến nay có nhiều loại laser đã ra đời và được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh
vực của cuộc sống, đặc biệt trong lĩnh vực y sinh học.
Tính chất đặc trưng của chùm sáng laser
Độ định hướng cao
Tính đơn sắc rất cao
Tính kết hợp của các photon trong chùm tia laser
Tính chất từ phát liên tục đến phát xung cực ngắn
1.3.1.2. Phân loại laser
Có nhiều cách để phân loại laser, nhưng trên thực tế người ta dựa vào
chất liệu tạo nguồn laser và công suất phát xạ của chùm laser để phân loại.

* Phân loại dựa vào chất liệu tạo nguồn laser
- Laser chất rắn: Cho đến nay, người ta đã tìm ra khoảng 200 chất rắn
có thể dùng làm môi trường hoạt chất laser. Một số loại laser chất rắn thông
dụng là:YAG-Neodym, hồng ngọc (Rubi), bán dẫn (loại thông dụng nhất là
diot Galium Arsen, Galium Aluminum Arsen).
- Laser chất khí: Chất liệu tạo nguồn laser là các khí. Một số chất khí
thông dụng để tạo nguồn laser là: He-Ne (hoạt chất là khí Heli và Neon),
Argon (hoạt chất là khí argon), CO2 (hoạt chất là khí carbondioxide).
- Laser chất lỏng: Môi trường hoạt chất là chất lỏng, thông dụng nhất là
laser màu.
* Phân loại dựa theo công suất phát xạ
- Laser công suất cao (high power laser): còn gọi là laser cứng sử dụng
hiệu ứng nhiệt để làm quang đông (coagulation) hoặc bốc bay (vaporization)


tổ chức. Các laser này thường được ứng dụng trong lĩnh vực ngoại khoa
(surgical laser), như các laser CO2, laser Nd – YAG, laser rubi, laser argon…
- Laser công suất thấp (low power laser): còn gọi là laser mềm (soft
laser), laser không nhiệt (non thermal laser) được sử dụng rộng rãi trong lĩnh
vực vật lý trị liệu, với công suất phát từ vài miliwatt tới vài chục miliwatt và
chỉ gây tăng nhiệt độ trong tổ chức không quá 0,1 – 0,5 0C. Tương tác của
nhóm laser đối với cơ thể sống dựa trên cơ sở của sự kích thích sinh học
(biostimulation), dẫn tới điều chỉnh lại các rối loạn hoạt động của tổ chức bị
tổn thương, tăng cường sức đề kháng và tái tạo mô. Điển hình cho nhóm này
là các laser He – Ne, laser bán dẫn hồng ngoại GaAs, GaAlAs, laser He – Cd,
laser nitơ…
1.3.1.3. Tương tác laser với tổ chức sống
Hiệu ứng kích thích sinh học: Khi chiếu laser vào, trong tổ chức sống
xảy ra hàng loạt các thay đổi sinh học, làm tăng sinh tế bào, cải thiện tình
trạng vi tuần hoàn, giảm việc tạo các gốc oxy hóa. Qua đó có tác dụng chống

viêm, giảm phù nề, kích thích quá trình liền vết thương. Hiệu ứng tác động
này gọi là hiệu ứng kích thích sinh học, hiệu ứng này xảy ra ở các loại laser
có năng lượng thấp. với các loại laser như, laser He-Ne, laser bán dẫn trong
châm cứu, laser Nitơ.
- Tác dụng ở mức tế bào: tăng cường quá trình trao đổi chất tế bào: tăng
chuỗi hô hấp của ty thể, tăng cường tổng hợp ATP và chuyển hóa glucose.
- Chống viêm: ức chế viêm thông qua việc tăng lưu lượng vi tuần hoàn
động mạch, ức chế vi khuẩn phát triển.
- Giảm phù nề: tác dụng giảm phù nề là do các cơ chế chống viêm mô tả
ở trên. Mặt khác laser có tác dụng cải thiện vi tuần hoàn và mao mạch bạch
huyết, kích hoạt hệ thống bài tiết nước.


- Giảm đau: Laser công suất thấp đã được công nhận hiệu quả trong
điều trị đau, giảm các tác nhân gây đau, điều trị chấn thương tâm lý, thần
kinh cũng như đau chi, thông qua việc tăng sản xuất và chuyển vận
encephalines, góp phần ức chế hệ thống dẫn truyền thần kinh ngoại vi, làm
tăng ngưỡng đau.
1.3.1.4. Ứng dụng của laser trong Y học
Laser công suất thấp được ứng dụng tương đối rộng rãi trong điều trị
một số bệnh của các chuyên khoa khác nhau như da liễu, chỉnh hình, phẫu
thuật… với các mục đích:
- Chống viêm: các viêm cấp, bán cấp hay mạn tính, viêm của phần
mềm, xương, khớp, các hốc – xoang trên cơ thể
- Giảm đau: đau chấn thương, đau do thần kinh, xương khớp…
- Kích thích tái tạo tổ chức, làm nhanh lành vết thương, vết loét...
- Điều hoà tuần hoàn, hoạt hoá hệ thần kinh trung ương
- Châm cứu trên các huyệt: kích thích các huyệt đạo đem lại sự thăng
bằng âm dương.
1.3.1.5. Chống chỉ định

Sử dụng laser công suất thấp trong điều trị tương đối an toàn, phạm vi
sử dụng tương đối rộng rãi. Tuy nhiên, không nên chỉ định laser trị liệu trong
những trường hợp sau:
- Những thay đổi bất thường của da không rõ nguyên nhân.
- Tiền ung thư, u ác tính.
- Tăng nhạy cảm với ánh sáng.
- Da bị tổn thương bởi ánh sáng hay bức xạ cực tím trong xạ trị.
- Bệnh nhân sau khi điều trị với các thuốc ức chế miễn dịch, corticoid liều cao
kéo dài, điều trị với các thuốc có chứa thạch tín (đối với laser GaAlArs)
- Bệnh nhân bị động kinh.


- Bệnh nhân suy tim mất bù, loạn nhịp, suy mạch vành.
- Bệnh nhân sốt nhiễm khuẩn.
- Bệnh nhân cường giáp.
- Đau bụng kinh.
- Khối máu tụ lớn.
- Viêm rộng các tổ chức dưới da.
- Phụ nữ mang thai.
- Không chiếu tia laser vào vùng thóp, các đầu xương dài của trẻ em và vị
thành niên; cạnh các tuyến nội tiết (tuyến giáp,tinh hoàn...).
1.3.2. Khái niệm về laser châm
Đối với nền Y học cổ truyền, bước đầu laser châm đã mang lại nhiều
hiệu quả, được sử dụng để giảm đau trong các bệnh đau mạn tính, đau thần
kinh, phục hồi liệt vận động ở bệnh nhân TBMN…
Glazov G và cộng sự đã nghiên cứu về tác dụng của laser năng lượng
thấp (năng lượng 0-4 J/cm2) trong việc điều trị đau lưng mạn tính và cho kết
quả khả quan [46].
Tại Trung Quốc, Wang L, Wu F (2013) đã nghiên cứu về tác dụng của
laser châm trên 52 bệnh nhân bị thoái hóa khớp gối, chia làm 2 nhóm, với liệu

trình là 20 phút 1 lần châm, 3 lần 1 tuần trong 3 tuần hoặc 2 lần 1 tuần trong 4
tuần. Sau nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt giữa 2 nhóm về hiệu quả
giảm đau và không thấy bất kỳ một tác dụng phụ nào [47].
Tiến hành nhĩ châm bằng laser để giảm đau cũng đã được các nhà khoa
học nghiên cứu và cho hiệu quả tốt [48].
Sutalangka C , Wattanathorn J (2013) đã ngiên cứu về tác dụng cải thiện
suy giảm trí nhớ trên chuột bị bệnh Alzheimer, bằng phương pháp áp dụng


laser châm tại huyệt thần môn. Ông đưa ra kết luận laser châm có cải thiện trí
nhớ trên thực nghiệm [49].
Đối với bệnh nhân bị TBMN, cũng đã có nhiều nghiên cứu đánh giá tác
dụng của laser châm và thấy có tác dụng [50], [51], [52].


Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. CHẤT LIỆU DÙNG TRONG NGHIÊN CỨU
2.1.1. Thiết bị laser bán dẫn hồng ngoại châm cứu ACULASER PLUS+
Thiết bị laser bán dẫn hồng ngoại châm cứu ACCULASER Plus Model
M302A do Viện Vật lý Y Sinh học chế tạo dựa trên công nghệ laser bán dẫn
và sử dụng hệ thống điều khiển chức năng kỹ thuật số (Digital Control), với
dải tần số được điều chỉnh liên tục từ A đến H (3 đến 128Hz).
Thiết bị có bước sóng laser 760nm(hồng ngoại-Infrared) có độ xuyên
sâu cao nên thích hợp cho các huyệt nằm sâu trong cơ thể, hay cho các bệnh
nhân có thể trạng, trọng lượng nặng.
2.1.2. Các phương tiện khác:
Máy điện châm, kim châm cứu, bông, cồn 70 0, banh
2.2. ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
- Địa điểm nghiên cứu: Khoa YHCT Bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội.

- Thời gian nghiên cứu:
2.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
2.3.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân
* Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân theo Y học hiện đại
- Là những bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên không phân biệt giới, nghề
nghiệp. Được chẩn đoán là NMN sau giai đoạn cấp được điều trị nội trú tại
Khoa YHCT – Bệnh viện Bạch Mai.
- Lâm sàng:
+ Bệnh nhân có di chứng liệt nửa người ở các mức độ khác nhau.
+ Tỉnh táo, nghe và hiểu được lời nói.
+ Không có các biến chứng loét, bội nhiễm.


×