Tải bản đầy đủ (.docx) (106 trang)

Đảng bộ huyện thanh thủy lãnh đạo xóa đói, giảm nghèo từ năm 1999 đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (846.37 KB, 106 trang )

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CNH - HĐH

:Công nghiệp hóa - hiện đại hóa

THHH

:Trách nhiệm hữu hạn

HĐND

: Hội đồng nhân dân

UBND

:Ủy ban nhân dân

XĐGN

: Xóa đói, giảm nghèo

WB

: Ngân hàng Thế giới

BCH

: Ban Chấp hành

1




ContentsM
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................................................3
CHƯƠNG 1: ĐẢNG BỘ HUYỆN THANH THỦY LÃNH ĐẠO QUÁ TRÌNH XÓA ĐÓI
GIẢM NGHÈO GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 1999 ĐẾN NĂM 2005................................................12
1.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự lãnh đạo xóa đói, giảm nghèo của Đảng bộ huyện Thanh
Thủy............................................................................................................................................12
1.1.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và tình hình đói nghèo của huyện Thanh
Thủy............................................................................................................................................12
1.1.2. Chủ trương xóa đói giảm nghèo của Trung ương Đảng, Đảng bộ tỉnh Phú Thọ...........19
1.2. Chủ trương và quá trình chỉ đạo thực hiện công tác xóa đói, giảm nghèo của Đảng bộ huyện
Thanh Thủy..................................................................................................................................29
1.2.1. Chủ trương xóa đói, giảm nghèo của Đảng bộ huyện Thanh Thủy................................29
1.2.2. Quá trình chỉ đạo thực hiện.............................................................................................34
Tiểu kết chương 1.......................................................................................................................48
CHƯƠNG 2: ĐẢNG BỘ HUYỆN THANH THỦY LÃNH ĐẠO XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO
TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2010 ......................................................................................................51
2.1. Những yêu cầu mới về xóa đói, giảm nghèo của huyện Thanh Thủy và chủ trương của
Trung ương Đảng và Đảng bộ tỉnh Phú Thọ về xóa đói, giảm nghèo......................................50
2.1.1. Những yêu cầu mới về xóa đói, giảm nghèo của huyện Thanh Thủy............................50
2.1.2. Chủ trương của Trung ương Đảng và của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ về xóa đói, giảm
nghèo...........................................................................................................................................53
2.2. Chủ trương và quá trình chỉ đạo thực hiện xóa đói, giảm nghèo của Đảng bộ huyện
Thanh Thủy................................................................................................................................61
2.2.1. Chủ trương xóa đói, giảm nghèo của Đảng bộ huyện Thanh Thủy................................61
2.2.2. Quá trình chỉ đạo thực hiện............................................................................................65
Tiểu kết chương 2.......................................................................................................................79
CHƯƠNG 3: NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM.........................................................................80

3.1.

Nhận xét............................................................................................................................80

3.1.1. Ưu điểm............................................................................................................................80
3.1.2. Hạn chế............................................................................................................................85
3.2.

Kinh nghiệm......................................................................................................................89

Tiểu kết chương 3.......................................................................................................................94
KẾT LUẬN....................................................................................................................................96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................99
2


PHỤ LỤC.....................................................................................................................................107

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thế giới ngày nay đang bước vào kỉ nguyên mới của sự phát triển dựa
trên cơ sở công nghệ thông tin và đi vào nền kinh tế tri thức. Tuy nhiên, tình
trạng nghèo khổ vẫn đang là thách thức lớn ở nhiều quốc gia. Xóa đói giảm
nghèo trở thành vấn đề xã hội mang tính toàn cầu. Đói nghèo là tình trạng một
bộ phận dân không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu của con người đã
được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế - xã hội và phong
tục, tập quán của địa phương. Đây là vấn đề xã hội liên quan đến con người
và sự phát triển của con người. Người nghèo thường không có hoặc khó có cơ
hội phát triển, khả năng tự bảo vệ trong các trường hợp rủi do về kinh tế và
rủi ro xã hội khác rất yếu kém, có ít vị thế trong xã hội. Bởi vậy, các quốc gia

và cộng đồng quốc tế đã cam kết phải tấn công vào đói nghèo, chính là giải
quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Cuộc chiến
XĐGN đã và đang diễn ra ở nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới với quy mô
lớn.
Việt Nam là một nước nông nghiệp với tỉ lệ dân số sống ở nông thôn cao,
trình độ dân trí canh tác còn hạn chế nên năng suất lao động còn thấp, thu
nhập thấp, tình trạng đói nghèo vẫn diễn ra nhiều. Nhận thức được điều đó
nên vấn đề đói nghèo được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm và coi đó là
nhiệm vụ xuyên suốt trong quá trình đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội và
xây dựng bảo vệ đất nước, nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội dân chủ, công bằng và văn minh. Hàng loạt chính sách XĐGN đã ban
hành và triển khai đồng bộ ở các địa phương với nhiều chương trình, dự án
cùng nhiều nguồn kinh phí, kể cả nguồn tài trợ của các tổ chức quốc tế đan
xen, lồng ghép để tập trung cho nhiệm vụ này đạt kết quả cao nhất. Cùng với
3


sự quyết tâm và nỗ lực của Đảng, sự quan tâm, hỗ trợ của các tổ chức quốc tế,
công tác XĐGN đã đạt được nhiều thành tựu, cải thiện đáng kể. Tuy nhiên,
kết quả XĐGN chưa thật sự bền vững, vẫn còn tồn tại khoảng cách lớn giữa
các vùng, miền. Đây là khó khăn, thách thức lớn đặt ra cho công tác XĐGN ở
nước ta.
Thanh Thủy là một huyện miền núi nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Phú
Thọ, được tái lập vào ngày 24 tháng 7 năm 1999, nền kinh tế xuất phát điểm
thấp, nghèo đói trở thành vấn đề nan giải, một thách thức vô cùng lớn đối với
Đảng bộ và nhân dân huyện Thanh Thủy. Ý thức được tầm quan trọng của
vấn đề XĐGN, quán triệt chủ trương của Đảng cùng với những chính sách cụ
thể của tỉnh Phú Thọ, Đảng bộ huyện Thanh Thủy đã sớm XĐGN là một
trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Trong hơn mười năm qua, dưới
sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Thanh Thủy, việc thực hiện chính sách

XĐGN đã được triển khai rộng rãi trên toàn bộ 15 xã trong huyện và đạt được
những thành tựu to lớn, nâng cao được lòng tin của nhân dân đối với Đảng.
Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng không thể tránh khỏi những tồn tại, hạn chế. Vì
vậy, việc nghiên cứu, đánh giá, tổng kết lại quá trình Đảng bộ huyện Thanh
Thủy lãnh đạo thực hiện chính sách XĐGN là một việc có ý nghĩa thiết thực,
nhằm rút ra những kinh nghiệm quý báu và từ đó đưa ra được những giải
pháp ngày càng hiệu quả hơn cho giai đoạn tiếp theo.
Với mong muốn tìm hiểu về vấn đề đói nghèo, về chủ trương, chính sách
XĐGN của Đảng và Nhà nước, cũng như hiểu rõ về quá trình lãnh đạo xóa
đói, giảm nghèo của Đảng bộ huyện Thanh Thủy từ khi huyện mới tái lập để
từ đó đưa ra những nhận xét và một số bài học kinh nghiệm có giá trị tham
khảo, sau một thời gian khảo sát thực tế tại địa phương, tôi quyết định chọn
đề tài “Đảng bộ huyện Thanh Thủy (Phú Thọ) lãnh đạo thực hiện xóa đói,
giảm nghèo từ năm 1999 đến năm 2010” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.

4


1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo đã đạt được những
thành quả tích cực như kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện…
nhưng cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề xã hội nan giải, trong đó có đói,
nghèo. Vì thế XĐGN được Đảng xác định là một trong những nhiệm vụ trọng
tâm trong quá trình phát triển CNH - HĐH của đất nước. Mặt khác, XĐGN
cũng là mối quan tâm lớn của các nhà nghiên cứu và hoạt động thực tiễn ở
Việt Nam và thế giới, có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về XĐGN đã
được công bố. Dưới đây là một số bài viết, công trình nghiên cứu tiêu biểu về
XĐGN.
Những bài viết nói về xóa đói, giảm nghèo nói chung:
Bài viết “Những giải pháp xóa đói, giảm nghèo bền vững để phát triển

kinh tế hộ và kinh tế hợp tác ở các xã đặc biệt khó khăn” của tác giả Lê Văn
Nhẫn (Tạp chí Nông thôn mới, số 52, năm 2000) đã nêu khái quát kết quả
thực hiện chương trình 135 năm 1999 và đưa ra một số nhận xét về vấn đề
XĐGN nói chung và tình hình kinh tế hộ và kinh tế hợp tác ở một số xã đặc
biệt khó khăn nói riêng. Từ những nhận xét đó tác giả nhận định là “để phát
triển kinh tế hộ và kinh tế hợp tác ở những xã đặc biệt khó khăn phải có
những giải pháp xóa đói, giảm nghèo bền vững, bằng việc phát huy nội lực,
cùng với sự giúp đỡ của Nhà nước và cộng đồng thông qua các dự án và được
tổ chức thực hiện theo quy định của quy chế dân chủ cơ sở”. Tác giả cho rằng,
chiến lược giảm nghèo và chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở những xã
đặc biệt khó khăn trong giai đoạn mới phải có một hệ thống những giải pháp
bền vững thì kinh tế hộ và kinh tế hợp tác mới phát triển được.
PGS.TS. Nguyễn Sinh Cúc đã có bài viết “Thực trạng và giải pháp xóa
đói, giảm nghèo ở nông thôn hiện nay” (Tạp chí Cộng sản, số 654, năm
2002). Tác giả đã nêu những thành tựu mà nước ta đạt được trong quá trình
thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, qua đó chỉ ra những nguyên nhân của
những thành tựu đạt được và chỉ ra một số hạn chế trong công cuộc XĐGN.
Cuối cùng tác giả đưa ra sáu giải pháp để thực hiện chiến lược XĐGN ở nông
5


thôn trong những năm tới nhằm phát huy vai trò của Nhà nước, của các doanh
nghiệp, của các tổ chức đoàn thể, xã hội, nhất là Hội Nông dân và của chính
quyền địa phương, của bản thân các hộ nông dân, kể cả hộ giàu và hộ nghèo.
Bài “Nghiên cứu giảm nghèo ở nông thôn từ cách tiếp cận vi mô” (Tạp
chí Cộng sản, số 662, năm 2002) của tác giả Đào Công tiến đã nêu ra những
cơ hội mang lại từ công cuộc đổi mới, từ những nỗ lực khai thác có hiệu quả
những thuận lợi để XĐGN. Mặt khác, tác giả cũng đưa ra một số vấn đề đáng
chú ý về việc thực hiện chương trình nghiên cứu đói nghèo của Chương trình
hỗ trợ nâng cao năng lực nghiên cứu vì sự phát triển của nông thôn bền vững

(VNRP). Tác giả cho rằng “Vấn đề đặt ra của công cuộc xóa đói, giảm nghèo
ở nông thôn nước ta (cả mục tiêu và giải pháp) trong giai đoạn tiếp theo xét
trên góc độ tổng thể, thực chất là vấn đề tăng trưởng và xóa đói, giảm nghèo”.
Tác giả Ngô Anh Ngà có bài viết “Cuộc chiến chống đói nghèo ở Việt
Nam trong giai đoạn mới” (Tạp chí Nông thôn mới, số 160+161, năm 2005).
Trong đó, tác giả cho rằng đói nghèo không chỉ xuất hiện ở những nước chậm
phát triển mà ngay cả những nước phát triển và đang phát triển vẫn diễn ra.
Tác giả đã nêu khái quát tình hình XĐGN và rút ra những nhận xét, kết luận
về công cuộc XĐGN ở Việt Nam.
Bài “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về xóa đói, giảm nghèo theo
hướng bền vững” (Tạp chí Lý luận chính trị, số 3, năm 2007) của Nguyễn
Hữu Dũng cho rằng, XĐGN theo hướng bền vững là phải phát triển vốn nhân
lực của chính người nghèo, tạo môi trường và điều kiện cho người nghèo có
cơ hội thoát nghèo, vươn lên ấm no. Hơn nữa chính sách XĐGN theo hướng
bền vững còn phải gắn với phát triển và chăm lo, hướng vào phát triển con
người, xây dựng một xã hội mà con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, xã hội phải coi đầu tư cho XĐGN cũng là đầu tư cho sự phát triển.
Diệp Văn Sơn với bài “Chỉ có tăng trưởng kinh tế mới giúp dân tộc
nghèo phát triển bền vững” (Tạp chí Phát triển kinh tế, số 10, năm 2007)
phân tích các thành tựu về tăng trưởng kinh tế của đất nước đã làm cho công
tác XĐGN đạt hiệu quả cao; đồng thời chỉ ra những bất cập, hạn chế, của
6


công tác XĐGN. Trên cơ sở đó nêu những kinh nghiệm của thế giới và Việt
Nam về XĐGN, tác giả khẳng định, tăng trưởng kinh tế là cách thức giảm
nghèo bền vững, hiệu quả nhất.
Những bài viết, công trình nghiên cứu liên quan đến công tác XĐGN của
tỉnh Phú Thọ:
Bài viết “Những chuyển biến tích cực trong công tác xóa đói, giảm nghèo

và giải quyết việc làm cho nông dân tỉnh Phú Thọ” (Tạp chí Nông Thôn mới,
số 159, năm 2005) đã nêu vai trò của công tác XĐGN đối với việc phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh; đưa ra những thay đổi tích cực của việc thực hiện
công tác XĐGN. Đồng thời, nhấn mạnh thực hiện các biện pháp nhằm động
viên, khuyến khích nông dân sản xuất - kinh doanh, làm giàu chính đáng,
đóng góp tích cực vào việc phát triển kinh tế của tỉnh; tiến hành tốt khâu giải
quyết việc làm cho người nông dân.
Tác giả Nguyễn Doãn Khánh đã có bài viết “Mấy vấn đề về phát triển
kinh tế - xã hội của Phú Thọ 5 năm trở lại đây” (Tạp chí Nông thôn mới, số
159, năm 2005) đã nêu những kết quả đạt được và những hạn chế của quá
trình phát triển kinh tế - xã hội của Phú Thọ từ năm 2000 đến năm 2005, từ đó
đưa ra những bài học kinh nghiệm và khắc phục những hạn chế trong thời
gian tới. Tác giả cho rằng để khắc phục những hạn chế đó trong định hướng
phát triển kinh tế - xã hội 5 năm tới, Phú Thọ phải nêu cao quyết tâm đẩy
mạnh nhiệm vụ phát triển kinh tế, đặc biệt là XĐGN.
Luận văn “Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo thực hiện xóa đói, giảm nghèo
từ năm 1997 đến năm 2010” của tác giả Trần Cao Quý đã nêu khái quát
những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo thực
hiện công tác XĐGN, trình bày những chủ trương, chính sách của Đảng cũng
như những chủ trương và quá trình chỉ đạo thực hiện công tác XĐGN của
Đảng bộ tỉnh Phú Thọ từ năm 1997 đến năm 2010, trên cơ sở đó, chỉ ra những
ưu điểm, hạn chế và rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu về sự lãnh đạo
của Đảng bộ tỉnh với công tác XĐGN.

7


Ngoài ra, còn có rất nhiều những bài viết, công trình nghiên cứu khác về
XĐGN. Nhưng đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu về sự lãnh đạo của
Đảng bộ huyện Thanh Thủy trong việc thực hiện công tác XĐGN. Chính vì

thế, tôi đã quyết định chọn đề tài “Đảng bộ huyện Thanh Thủy lãnh đạo thực
hiện xóa đói, giảm nghèo từ năm 1999 đến năm 2010” làm đề tài khóa luận
tốt nghiệp của mình. Những bài viết, công trình nghiên cứu nêu trên là những
tài liệu bổ ích, giúp cho tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Khóa luận nhằm làm rõ quá trình Đảng bộ huyện Thanh Thủy lãnh đạo và
thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về XĐGN, qua đó
rút ra những ưu điểm đã đạt được, đồng thời cũng chỉ ra những điều còn hạn
chế, đúc rút những kinh nghiệm phục vụ hiện tại.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tập hợp tư liệu và trình bày khái quát quá trình Đảng bộ huyện Thanh
Thủy lãnh đạo xóa đói, giảm nghèo từ năm 1999 đến năm 2010.
- Đưa ra những ưu điểm, hạn chế của Đảng bộ huyện Thanh Thủy trong
quá trình lãnh đạo xóa đói, giảm nghèo và rút ra những kinh nghiệm phục
vụ hiện tại.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu các chủ trương và quá trình chỉ chỉ đạo
thực hiện XĐGN của Đảng bộ huyện Thanh Thủy trong thời gian từ năm
1999 đến năm 2010.
Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: được giới hạn từ năm 1999 (năm huyện Thanh
Thủy được tái lập) đến năm 2010 (năm cuối cùng huyện Thanh Thủy thực hiện
theo chuẩn nghèo mới của Chính phủ).
Về không gian: Chủ yếu trên địa bàn huyện Thanh Thủy.
Về nội dung: Trên cơ sở nghiên cứu những chủ trương, chính sách
của Trung ương Đảng, Đảng bộ tỉnh Phú Thọ và Đảng bộ huyện Thanh
8



Thủy về công tác XĐGN, khóa luận tập chung nghiên cứu về quá trình
Đảng bộ huyện Thanh Thủy lãnh đạo thực hiện công tác XĐGN từ năm
1999 đến năm 2010.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
Nguồn tư liệu
Để thực hiện khóa luận, tác giả sử dụng nguồn tư liệu bao gồm:
- Các văn kiện, nghị quyết; các quyết định, chỉ thị của Đảng, Chính Phủ,
Đảng bộ Phú Thọ và Đảng bộ huyệnThanh Thủy về XĐGN.
- Các báo cáo của Huyện ủy, HĐND, UBND, các ban, ngành, hội .
- Các bài viết và công trình khoa học có liên quan đã công bố.
Nguồn tư liệu này chủ yếu được khai thác tại Phòng Lao động - Thương
binh và Xã hội huyện Thanh Thủy, Văn phòng Huyện ủy, Văn phòng
UBND huyện, Trung tâm thư viện Thượng Đình.
Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp lịch sử nhằm mô tả khách quan, có hệ thống quá trình lãnh
đạo XĐGN của Đảng bộ huyện Thanh Thủy.
- Phương pháp logic nằm làm rõ mối liên hệ giữa các mốc thời gian, nhận
xét những ưu điểm, hạn chế và đưa ra một số kinh nghiệm có giá trị tham
khảo.
- Ngoài ra còn một số phương pháp như phân tích, tổng hợp, thống kê, so
sánh, khảo sát thực tế.
6. Đóng góp của khóa luận
- Trên cơ sở phân tích đặc điểm tự nhiên, kinh tế , xã hội, văn hóa; khóa
luận làm rõ tính đặc thù, những tác động đến quá trình lãnh đạo XĐGN của
Đảng bộ huyện Thanh Thủy.

9



- Trình bày và luận giải một cách có hệ thống các chủ trương, chính sách
XĐGN của Đảng bộ huyện Thanh Thủy từ năm 1999 đến 2010.
- Đánh giá khách quan những ưu điểm, hạn chế, từ đó tổng kết kinh
nghiệm.
- Về mặt tư liệu, khóa luận góp phần xác minh, hệ thống hóa các tư liệu
về xóa đói, giảm nghèo từ năm 1999 đến năm 2010 được khai thác từ nhiều
nguồn khác nhau.
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, khóa luận
gồm có 3 chương:
Chương 1: Đảng bộ huyện Thanh Thủy lãnh đạo quá trình xóa đói, giảm
nghèo từ năm 1999 đến năm 2005.
Chương 2: Đảng bộ huyện Thanh Thủy lãnh đạo đẩy mạnh quá trình xóa
đói, giảm nghèo từ năm 2006 đến năm 2010.
Chương 3: Nhận xét và kinh nghiệm

CHƯƠNG 1
ĐẢNG BỘ HUYỆN THANH THỦY LÃNH ĐẠO QUÁ TRÌNH XÓA
ĐÓI GIẢM NGHÈO GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 1999 ĐẾN NĂM 2005
1.1.
Những yếu tố ảnh hưởng đến sự lãnh đạo xóa đói, giảm
nghèo của Đảng bộ huyện Thanh Thủy
1.1.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và thực trạng đói
nghèo của huyện Thanh Thủy
 Về đặc điểm tự nhiên
10


Thanh Thủy là huyện miền núi nằm ở phía Tây Nam của tỉnh Phú Thọ.
Huyện được tái lập trên cơ sở chia tách từ huyện Tam Thanh theo nghị định số

59/1999/NĐ-CP ngày 24/7/1999 của Chính phủ về chia tách, điều chỉnh địa
giới hành chính và chính thức đi vào hoạt động từ 1/9/1999. Huyện Thanh
Thủy có 12.382 ha diện tích tự nhiên và 75.588 nhân khẩu, gồm 15 đơn vị
hành chính (gồm 14 xã và 01 thị trấn nằm tại trung tâm huyện), trong đó có
11 xã miền núi, 2 xã thuộc vùng 135, có 21 khu đặc biệt khó khăn thuộc 9 xã
trong huyện. Trung tâm huyện đóng tại thị trấn Thanh Thủy.
Vị trí địa lý, địa hình: trải dài theo dọc tả ngạn sông Đà với chiều dài
khoảng 33km, Thanh Thủy có địa giới phía Bắc giáp huyện Tam Nông, phía
Tây và phía Nam giáp huyện Thanh Sơn, cách thủ đô Hà Nội 65km về phía
Tây, cách Việt Trì - trung tâm kinh tế, chính trị của tỉnh 50km. Nằm ở lưu vực
sông Đà, bao đời đã cần mẫn bồi đắp cho Thanh Thủy những dải phù sa màu
mỡ, ngày nay đã trở thành những cánh đồng ngô lúa tốt tươi. Phía Tây của
huyện tiếp giáp vùng rừng núi Thanh Sơn với những dãy đồi núi thoải dần từ
Tây sang Đông. Đồi núi Thanh Thủy nhìn chung là thấp, độ cao từ 20 đến
40m so với mặt nước biển, độ dốc trung bình từ 150 đến 200, số ít có độ dốc
trên 250 tập trung ở xã Yến Mao, Tu Vũ, Sơn Thủy, La Phù, Tân Phương, Đào
Xá…Đan xen giữa những quả đồi là cánh đồng chiêm trũng hoặc ao đầm, tiếp
theo đó là một dải đồng bằng hẹp chạy theo dọc sông Đà. Với vị trí địa lý và
địa hình như vậy, huyện Thanh thủy có những thuận lợi nhất định để phát
triển kinh tế - xã hội và giao lưu kinh tế với những địa phương lân cận. Tuy
nhiên, với địa hình phức tạp, việc phát triển hệ thống giao thông, vận tải
tương đối khó khăn, việc giao lưu ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản
xuất còn hạn chế do vậy hiểu quả sản xuất và kinh doanh không cao, đặc biệt
là ở các xã vùng núi, đặc biệt khó khăn. Đây là một tác nhân ảnh hưởng trực
tiếp dẫn tới tình trạng đói nghèo của đồng bào cư trú ở vùng miền núi như hai
xã Yến Mao và Phượng Mao.
Tài nguyên thiên nhiên
11



Tài nguyên đất: toàn huyện có diện tích tự nhiên là 12.382,47 ha, bằng
3,5% đất đai toàn tỉnh, trong đó đất nông nghiệp có 5.065,66 ha; đất lâm
nghiệp có 1.987,84 ha; đất chuyên dùng có 1.189; đất ở có 355,01 ha; còn lại
là đất chưa sử dụng [2, tr.20].
Đất đai huyện Thanh Thủy được chia làm 2 vùng rõ rệt: vùng đồng bằng
và vùng đồi núi. Chất đất của vùng đồi núi là đá sa thạch, diệp thạch chứa mica, tầng canh tác trung bình từ 40 - 60 cm, thích hợp với sự sinh trưởng và
phát triển của cây chè. Ở khu vực tiếp giáp với huyện Thanh Sơn, có những
quả đồi với chất sa thạch hoặc đá quắc xít, thích hợp với sự sinh trưởng và
phát triển của cây sơn. Đất phù sa bồi và dốc tụ thích hợp với việc gieo trồng
cây lương thực, cây lúa, cây màu ngắn ngày. Có thể nói, tài nguyên đất ở
huyện Thanh Thủy rất phù hợp với việc canh tác cây nông nghiệp, cây công
nghiệp và một số loại cây ăn quả, cung cấp nguyên liệu cho một số ngành
công nghiệp thực phẩm và công nghiệp chế biến gỗ.
Tài nguyên nước: ngoài lợi thế về đất đai, huyện Thanh Thủy còn được
thiên nhiên ưu đãi hệ thống sông ngòi, ao, hồ, đầm, phá khá phong phú. Sông
Đà chạy qua 11 xã của huyện Thanh Thủy và đoạn chảy qua huyện dài gần 33
km trên tổng số 41,5 km chạy qua địa bàn tỉnh Phú Thọ, sông Đà có lưu
lượng chảy lớn, lúc cao nhất tới 16.200m3/giây, trung bình tới 1.760m3/giây,
gấp 2 lần sông Thao và gấp 1,5 lần sông Lô làm ảnh hưởng rất lớn đến lưu
lượng sông Hồng [2, tr.22]. Ngoài ra, ở các địa phương khác trong huyện có
nhiều đầm, ao, hồ, trong đó có đầm lớn như: đầm Đào Xá, đầm Thủy Trạm
(Xã Sơn Thủy). Với điều kiện sông ngòi như vậy, không chỉ cung cấp lượng
nước sinh hoạt, phát triển giao thông đường thủy, kinh tế thủy sản và đáp ứng
cho công tác thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp. Dù vậy, nhưng vào mùa
lũ hàng năm, nếu không có biện pháp trị thủy phù hợp thì sẽ gây ngập úng,
thiệt hại cho sản xuất.
 Đặc điểm kinh tế - xã hội

12



Về kinh tế: Thanh Thủy là một huyện nông thôn miền núi mới được tái
lập, chia tách từ huyện Tam Thanh (Phú Thọ), chính thức đi vào hoạt động từ
ngày 1/9/1999. Sau khi tái lập, huyện có những thuận lợi rất cơ bản: điều kiện
tự nhiên thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, vị trí địa lý, các di tích lịch sử
văn hóa, cùng với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, có nhiều điều
kiện cho phát triển du lịch, dịch vụ thương mại. Hơn nữa, huyện lại tiếp giáp
với các khu kinh tế, dịch vụ, du lịch của các tỉnh và Thủ đô Hà Nội, tạo điều
kiện giao lưu về kinh tế, văn hóa. Tuy nhiên, là huyện mới tái lập nên cơ sở hạ
tầng chưa được đầu tư đồng bộ, đặc biệt là cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất
nông nghiệp, lại nằm trong vùng phân lũ của quốc gia, địa hình phức tạp. Là
huyện thuần nông nhưng bình quân diện tích canh tác thấp, công nghiệp và
tiểu thủ công nghiệp còn nhỏ lẻ, tiềm năng kinh tế chưa được phát huy, cơ cấu
kinh tế có thay đổi nhưng chậm và chưa đồng đều, đời sống nhân dân còn gặp
nhiều khó khăn.
Nông nghiệp - lâm nghiệp - thủy sản: đây là ngành kinh tế trọng yếu của
huyện, kinh tế hộ gia đình, kinh tế đồi rừng, kinh tế trang trại được khuyến
khích phát triển. diện tích đất lúa lai, lúa chất lượng cao có xu hướng tăng.
Chăn nuôi gia súc, gia cầm từng bước trở thành ngành sản xuất chính theo
hướng sản xuất hàng hóa, đã xuất hiện một số trang trại chăn nuôi theo
phương thức công nghiệp và bán công nghiệp. Nuôi trồng thủy sản đã có
những bước phát triển khá, nhiều hộ nông dân đã mạnh dạn đầu tư nguồn vốn
lớn, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Công tác phát triển và bảo vệ rừng được
triển khai tích cực, duy trì ổn định. Tuy nhiên, cơ cấu kinh tế nông nghiệp –
lâm nghiệp - thủy sản có thay đổi nhưng chậm, dự án kiên cố hóa kênh
mương còn nhiều hạn chế, công tác phòng chống lụt bão ở một số cơ sở chưa
được quan tâm thường xuyên. Ứng dụng khoa học kĩ thuật và sản xuất chưa
đồng đều đặc biệt là với haixã đặc biệt khó khăn như Phượng Mao và Yến

13



Mao. Nông dân chủ yếu vẫn giữ thói quen, tập tục canh tác cũ, lạc hậu, điều
này ảnh hưởng rất lớn tới năng xuất không cao.
Công nghiệp - xây dựng: đây là ngành đem lại hiệu quả kinh tế cao và
phát triển tương đối đồng bộ. Tại xã Sơn Thủy có cơ sở khai thác than quặng
Pecmatit thuộc công ty Pirit (thành lập tháng 10 năm 1999), cơ sở này có
nhiệm vụ khai thác và chế biến khoáng sản phục vụ cho cho sản xuất - xây
dựng và các ngành gốm sứ trong và ngoài tỉnh. Công ty Khai thác và chế biến
khoáng sản Phú Thọ thuộc địa bàn xã Tân Phương tiếp tục duy trì hoạt động
và đạt doanh thu khá. Năm 2001, huyện Thanh Thủy đã cho khởi công xây
dựng Nhà máy gạch Tuy-nen ở xã Tân Phương để sản xuất và cung cấp gạch
cho nhu cầu xây dựng của nhân dân trong huyện. Các ngành tiểu thủ công
nghiệp tăng lên đáng kể, phát triển các cơ sở chế biến gỗ, chế biến nông - lâm
- sản, các cơ sản sản xuất cơ khí vừa và nhỏ…Mặc dù đạt được nhiều kết quả
đáng khích lệ, nhưng các nhà máy, cơ sở sản xuất này thành lập đã lâu nên
máy móc và công nghệ còn lạc hậu. Công tác quản lý chưa thật sự khoa học
nên năng xuất đem lại không cao.
Dịch vụ: trong những năm gần đây hoạt động dịch vụ phát triển khá đa
dạng, đặc biệt là dịch vụ du lịch. Với ưu thế là có nguồn nước nóng dưới lòng
đất ở hai xã là La Phù và Bảo Yên nên dịch vụ du lịch ở huyện Thanh Thủy
khá phát triển. Đã có nhiều nhà đầu tư xây dựng lên những khu du lịch, khu
nghỉ dưỡng thu hút nhiều khách du lịch ở khắp nơi về thăm quan, nghỉ dưỡng.
Trong đó tiêu biểu như: khu du lịch Đảo Ngọc Xanh thuộc Công ty cổ phần
Ao Vua, khu du lịch Sông Thao thuộc Công ty TNHH Sông Thao - Thành phố
Hà Nội. Dịch vụ vận tải đường sông, đường bộ phát triển...Dịch vụ Bưu chính
- viễn thông được mở rộng hơn, chất lượng dịch vụ được cải thiện. Nhưng
bên cạnh đó hoạt động dịch vụ vẫn còn nhiều mặt hạn chế như: Chất lượng du
lịch chưa cao, du lịch phát triển kèm theo một số những tệ tạn xã hội. Hệ
thống đường giao thông đã được nâng cấp nhưng còn thiếu đồng bộ, từ đó ảnh

hưởng không nhỏ đến nhu cầu và đời sống của nhân dân.
14


Nhìn chung, cơ cấu kinh tế của huyện Thanh Thủy có bước phát triển
nhưng chưa đồng đều giữa các xã, thị trấn trong huyện, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế còn chậm, kết cấu hạ tầng chưa phát triển kịp so với yêu cầu. Đây
chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đói nghèo vẫn diễn
diễn ra, đặc biệt là ở hai xã miền núi, đặc biệt khó khăn. Đó là một khó khăn
lớn đối với Đảng bộ và chính quyền, nhân dân huyện Thanh Thủy và điều này
ảnh hưởng không nhỏ đến việc lãnh đạo công tác XĐGN trên địa bàn huyện.
Về xã hội
Dân số: tổng số dân của huyện Thanh Thủy là 75.588 người trong đó nữ
có 38.234 người; mất độ dân số 625 người/km 2, trong đó người Kinh có
70.779 người, người Mường có 3.332 người và một số dân tộc thiểu số khác.
Hiện Thanh Thủy có 14 xã và 1 thị trấn với 150 khu dân cư, trong đó có 11 xã
miền núi, 2 xã thuộc khu vực 3 là Yến Mao, Phượng Mao [2, tr.13].
Lao động: huyện Thanh Thủy có số người trong độ tuổi lao động là
37.988, chiếm tỷ lệ khá lớn, được phân bổ chủ yếu ở lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp với 33.046 lao động chiếm 86,99% [53, tr.3]. Từ việc phân bổ lao
động như trên cho thấy rằng đại bộ phận lao động tập chung ở nông nghiệp,
các cơ sở dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp phân tán nhỏ lẻ và không đồng đều.
Như vậy, với tiềm năng lao động dồi dào có thể đáp ứng được nhu cầu về
nguồn nhân lực của công cuộc CNH - HĐH, nhưng kéo theo đó là những khó
khăn, số người trong độ tuổi lao động nhiều, song phần lớn chưa qua đào tạo,
điều này sẽ tạo sức ép lớn đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, nhất là vấn đề
giải quyết việc làm cho người lao động. Là một huyện miền núi, thuần nông,
tiềm lực kinh tế còn hạn chế, lại phải cân đối cho một lượng dân cư lớn sẽ rất
khó khăn cho việc huy động nguồn lực hỗ trợ trực tiếp cho các mục tiêu
XĐGN.

Văn hóa - giáo dục - y tế: hoạt động văn hóa, thông tin, thể dục thể thao
phát triển khá, nội dung các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp được duy trì,
bảo tồn và phát huy. Phong trào văn hóa văn nghệ được phát triển, nhiều loại
hình câu lạc bộ, đội văn nghệ được thành lập và hoạt động khá sôi nổi. Các
15


hoạt động tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước đến người dân được đẩy mạnh. Hệ thống truyền thanh từ huyện
đến cơ sở ngày càng hoàn thiện phục vụ tốt các nhiệm vụ chính trị của địa
phương. Toàn huyện có hai tôn giáo chính là đạo Phật và đạo Thiên chúa hoạt
động đoàn kết và hỗ trợ lẫn nhau. Nhưng vẫn còn đó một số tệ nạn xã hội nổi
cộm như mại dâm, ảnh hưởng đến đời sống văn hóa lành mạnh của nhân dân.
Công tác giáo dục, đào tạo: có bước phát triển, quy mô các ngành học,
cấp học ổn định, cơ sở dạy nghề được tăng thêm, số học sinh huy động đến
trường hàng năm đạt và vượt kế hoạch; 100% số trường học, lớp học, nhà
công vụ được xây nhà cấp 4 trở lên. Chất lượng giáo dục đại trà có nhiều
chuyển biến tích cực, chất lượng giáo dục mũi nhọn được nâng lên, duy trì,
giữ vững phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Chất lượng đội ngũ giáo viên
được cải thiện rõ rệt. Nhưng bên cạnh đó vẫn còn một số nhược điểm ở
phương pháp giảng dạy, thiết bị giảng dạy chưa được hiện đại nên phần nào
ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học.
Hệ thống y tế: từ huyện đến cơ sở tiếp tục được củng cố, chương trình y
tế quốc gia, phòng chống các bệnh xã hội, dịch bệnh nguy hiểm, vệ sinh an
toàn thực phẩm được thực hiện đầy đủ và hiệu quả. Đội ngũ cán bộ y tế được
bổ sung kịp thời đáp ứng nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân trong huyện.
Cơ sở, vật chất được đầu tư, chất lượng y tế đã được cải thiện, nâng cao.
Bệnh viện đa khoa của huyện đã được xây mới và đưa vào sử dụng. Với điều
kiện như vậy, đây là một thuận lợi cho công tác XĐGN, giúp người dân tránh
được những rủi do do bệnh tật gây nên và có đủ sức khỏe để tiến hành lao

động sản xuất, nâng cao đời sống.
 Thực trạng đói nghèo của huyện Thanh Thủy
Cùng với quá trình đổi mới và phát triển của đất nước và của tỉnh Phú
Thọ. Huyện Thanh Thủy cũng có những thay đổi tích cực. Tuy nhiên, Thanh
Thủy vẫn là một huyện nghèo, có xuất phát điểm thấp. Tính đến tháng
12/1999, toàn huyện có 3822 hộ đói, nghèo, chiếm 23% trong đó số hộ đói là
1560 chiếm 9,6% cao hơn mức bình quân của tỉnh là 3,82%; số hộ nghèo là
16


2242 chiếm 13,7% cao hơn mức bình quân của tỉnh là 1,32%. Trong 15 xã có
3 xã có tỷ lệ hộ đói, nghèo dưới 15% (11-14%) là Xuân Lộc, Đào Xá, Trung
Thịnh. Có 4 xã có tỷ lệ đói nghèo dưới 20% (18-19%) là Trung Nghĩa, Đồng
Luận, Bảo Yên, Tân Phương. Có 4 xã có tỷ lệ đói nghèo từ 21% đến 30% là
Hoàng Xá, Đoan Hạ, Thạch Đồng, La Phù; các xã có tỷ lệ đói nghèo từ 31%
đến 43% là Phượng Mao, Yến Mao, Sơn Thủy, Tu Vũ. Toàn huyện có 4 xã
chưa có lưới điện quốc gia, 4 xã chưa có chợ nông thôn, có 14 xã chưa được
sử dụng nguồn nước sạch, chủ yếu là nước giếng, có 4 xã chưa có đài truyền
thanh [59, tr.2].
Năm 2001 (năm đầu tiên triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc
gia về XĐGN giai đoạn 2001 - 2005), tỷ lệ đói nghèo của toàn huyện là 2.639
chiếm 15,5%, trong đó có 2 xã nghèo, thuộc xã 135 là: Yến Mao, Phượng
Mao (đây là 2 xã tập trung nhiều đồng bào dân tộc thiểu số) [54, tr.1]. Các hộ
đói nghèo của huyện tập trung ở xã Yến Mao, Phượng Mao. Đây là các xã có
địa hình hiểm trở, đi lại khó khăn (chủ yếu là đường đất), thiếu điện và nước
sinh hoạt. Điều này dẫn đến tình trạng, các hộ dân trong 2 xã này khó có thể
tiếp cận được với những tiến bộ của xã hội cũng như những chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước.
Tình hình trên là khó khăn, thách thức lớn đối với Đảng bộ huyện Thanh
Thủy, đặt ra yêu cầu đối với Đảng bộ là phải có những biện pháp mới đối với

công tác XĐGN giảm nghèo trên địa bàn huyện.
Tình trạng đói nghèo của huyện Thanh Thủy như trên là xuất phát từ một
số nguyên nhân sau:
Một là, do địa hình miền núi của huyện Thanh Thủy, giao thông đi lại gặp
nhiều khó khăn. Người dân lấy sản xuất nông nghiệp làm nền kinh tế chính,
sản xuất, thâm canh còn nhiều lạc hậu. Cơ sở hạ tầng yếu kém, trình độ dân trí
thấp, nhất là ở 2 xã thuộc diện 135.
Hai là, đội ngũ làm công tác XĐGN vừa thiếu vừa yếu. Huyện mới được
tái lập bộ máy tổ chức cán bộ còn thiếu, chưa có kinh nghiệm lãnh đạo. Hơn
nữa công tác đào tạo cán bộ làm XĐGN còn hạn chế về nhiều mặt, mang tính
17


chất kiêm nhiệm là chủ yếu. Huyện chưa xây dựng được mô hình vừa làm
vừa rút kinh nghiệm; cơ chế quản lý vốn tín dụng và đầu tư xây dựng kết cấu
hạ tầng cho người nghèo chưa được quan tâm và thực hiện đồng bộ.
Thứ ba, bản thân người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo chưa ý thức tự vươn
lên. Mặt khác, do thiếu vốn sản xuất, thiếu đất canh tác, thiếu việc làm và
thiếu lao động. Đối với những hộ đói, chủ yếu là người gia neo đơn, không
nơi nương tựa hoặc gia đình đông con nhưng không có đất sản xuất, không có
việc làm, gia đình gặp tai nạn, rủi do, bệnh tật…
Trước tình hình trên, đòi hỏi Đảng bộ và nhân dân huyện Thanh Thủy
phải có những chủ trương, giải pháp nhằm XĐGN. Đưa huyện Thanh Thủy ra
khỏi danh sách những huyện nghèo của tỉnh Phú Thọ. Qua đó, tạo điều kiện
để phát triển kinh tế, ổn định xã hội.

1.1.1.

Chủ trương xóa đói giảm nghèo của Trung ương Đảng, Đảng


bộ tỉnh Phú Thọ
 Chủ trương xóa đói, giảm nghèo của Trung ương Đảng
Những quan điểm, chủ trương về XĐGN được thông qua tại các Đại hội
VI, VII là cơ sở, tiền đề để Đảng tiếp tục bổ sung, hoàn thiện những điểm mới
khi đất nước bước vào thời kỳ “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Theo đó, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (06/1996) coi
XĐGN là một thành phần quan trọng của chính sách xã hội, liên quan trực
tiếp đến sự phát triển của con người và xã hội Việt Nam. Vì vậy, Đảng chủ
trương “khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói, giảm
nghèo. Thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các
vùng, các dân tộc, các tầng lớp dân cư” [26, tr.496].
Quán triệt chủ trương của Đại hội VIII, Bộ Chính trị, Chính phủ, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng ban hành một số quyết định, nghị quyết, chỉ thị
về XĐGN:

18


Ngày 29/11/1997, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 23-CT/TW về lãnh
đạo, thực hiện công tác xóa đói, giảm nghèo. Trong đó Bộ Chính trị chỉ đạo
giải quyết một số vấn đề thuộc về chính sách xã hội, từng bước thực hiện
miễn giảm học phí và cấp học bổng cho con em các hộ nghèo, miễn giảm phí
khám chữa bệnh cho người nghèo. Nhà nước hỗ trợ kinh phí để xây dựng các
công tình công cộng như: điện, nước, trường học, trạm xá, đường giao thông,
chợ…cho các xã nghèo. Tháng 12/1997, Hội nghị lần thứ tư BCH Trung ương
Đảng (khóa VIII) tập trung thảo luận các nhiệm vụ kinh tế và một số vấn đề
xã hội. Hội nghị đề ra nhiều giải pháp lớn, trong đó giải pháp thứ 5 xác định:
“tích cực giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo” theo hướng “tăng cường
trợ giúp vốn, kiến thức làm ăn cho các hộ nghèo, nhất là nông thôn, miền núi,
hải đảo…hỗ trợ cho các vùng nghèo đặc biệt là 1300 xã nghèo, chủ yếu là đầu

tư xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu và đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực [24,
tr.6].
Ngày 23/07/1998, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số
133/1998/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chương tình mục tiêu quốc gia xóa đói,
giảm nghèo giai đoạn 1998 - 2000. Chương trình này được gọi tắt là Chương
trình 133 và được thực hiện trên phạm vi cả nước, đây là một chương tình
tổng hợp có tính chất liên ngành, nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước, với mục tiêu là: giảm tỉ lệ hộ đói, nghèo trong tổng số các
hộ của cả nước xuống còn 10% vào năm 2000. Trong những năm đầu tập
chung ưu tiên vào các xã nghèo, đặc biệt khó khăn vùng cao, biên giới, hải
đảo, vùng sâu, vùng xa. Chương trình này bao gồm cả công tác định canh,
định cư và hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn, nhằm tạo ra các điều
kiện thuận lợi, phù hợp để hỗ trợ người nghèo phát triển sản xuất, tăng thu
nhập, xóa đói, giảm nghèo [11, tr.1].
Trong năm 1998, Chính phủ còn ban hành Quyết định 135/1998-QĐ/TTg
ngày 31/07/1998 của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình phát triển kinh tế
19


- xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa. Mục tiêu là
nâng cao nhanh chóng đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc ở
các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa; tạo điều kiện để đưa
các vùng này thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển, hòa
nhập vào sự phát triển chung của cả nước; góp phần đảm bảo trật tự an toàn
xã hội, an ninh quốc phòng. Với mục tiêu: “Từ năm 1998 đến năm 2000 về cơ
bản không còn hộ đói kinh niên, mỗi năm giảm được 4% - 5% hộ nghèo.
Bước đầu cung cấp cho đồng bảo nước sinh hoạt, thu hút phần lớn trẻ em
trong độ tuổi đến trường; kiểm soát được một số loại dịch bệnh hiểm nghèo;
có đường giao thông dân sinh đến các trung tâm cụm xã; phần lớn đồng bảo
được hưởng thụ văn hóa, thông tin. Từ năm 2000 đến năm 2005: Giảm tỷ lệ

hộ nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn xuống còn 25% vào năm 2005. Bảo đảm
cung cấp cho đồng bào có đủ nước sinh hoạt; thu hút trên 70% trẻ em trong
độ tuổi đến trường; đại bộ phận đồng bào được bồi dưỡng, tiếp thu kinh
nghiệp sản xuất, kiến thức khoa học, văn hóa, xã hội, chủ động vận dụng vào
sản xuất và đời sống; kiểm soát được phần lớn các dịch bệnh xã hội hiểm
nghèo; có đường giao thông cho xe cơ giới và đường dân sinh kinh tế đến các
trung tâm cụm xã; thúc đẩy phát triển thị trường nông thôn” [12, tr.2].
Từ năm 1998 đến năm 2005 gọi là Chương trình 135 giai đoạn 1. Trong
tổng số 1.715 xã thuộc diện khó khăn, Trung ương lựa chọn khoảng 1000 xã
thuộc các huyện đặc biệt khó khăn để tập chung đầu tư có trọng điểm. Những
xã còn lại được ưu tiên đầu tư thông qua các chương tình mục tiêu quốc gia
và các dự án, chương trình phát triển khác. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX đề cập đến vẫn đề XĐGN từ năm 2001 đến năm 2005 đã khẳng định phải
“Xóa hộ đói, giảm nhanh hộ nghèo. Giải quyết việc làm cả ở thành thị và
nông thôn (thất nghiệp thành thị dưới 5%), quỹ thời gian lao động được sử
dụng ở nông thôn, nâng tỉ lệ người lao động được đào tạo nghề lên khoảng
40% [27,tr.160]. Đại hội đã đề ra mục tiêu cụ thể: “Tạo việc làm, giải quyết
20


thêm nhiều việc làm cho khoảng 7,5 triệu lao động, bình quân 1,5 triệu lao
động/năm; nâng tỷ lệ chưa qua đào tạo lên 30% vào năm 2005. Cơ bản xóa
nạn đói, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 10% vào năm 2005” [27, tr.265]. Để
thực hiện mục tiêu này, bằng nguồn lực của cả Nhà nước và của toàn xã hội,
tiến hành tăng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, cho vay vốn, trợ giúp đào tạo
nghề, cung cấp thông tin, chuyển giao công nghệ, giúp đỡ tiêu thụ sản
phẩm...đối với vùng nghèo, xã nghèo. Chủ động di dời một bộ phận nhân dân
không có đất canh tác và điều kiện sản xuất đến lập nghiệp ở những vùng còn
tiểm năng. Đảng và Nhà nước tạo môi trường thuận lợi, khuyến khích mọi
người dân vươn lên làm giàu chính đáng và giúp đỡ người nghèo. Thực hiện

trợ cấp xã hội đối với những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn không thể
tự lao động, không có người bảo trợ nuôi dưỡng.
Bên cạnh đó, cần giải quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội bức xúc
như: tạo việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở cả thành thị và thiếu việc làm ở
nông thôn; cải cách cơ bản chế độ tiền lương; cơ bản xóa đói, giảm nhanh hộ
nghèo; chăm sóc tốt cho người có công; an sinh xã hội; chống tệ nạn xã hội.
Bước sang thế kỷ XXI, dưới tác động của tình hình thế giới và trong
nước, đặt Việt Nam trước những cơ hội và thách thức lớn. Công cuộc XĐGN
trên phạm vi cả nước đạt kết quả nổi bật, được dư luận thế giới đánh giá cao.
Tuy nhiên, đói nghèo vẫn là vấn đề bức xúc đặt ra cho toàn Đảng, toàn dân.
Vì vậy, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4/2001) tiếp tục xác
định “xóa đói, giảm nghèo là yếu tố cơ bản để đảm bảo công bằng xã hội và
tăng trưởng kinh tế bền vững, ngược lại, chỉ có tăng trưởng kinh tế cao, bền
vững mới có sức mạnh vật chất để hỗ trợ và tạo cơ hội cho người nghèo vươn
lên thoát khỏi đói nghèo”. Bên cạnh đó, Đại hội cũng chủ trương “phải thông
qua những biện pháp cụ thể, sát với tình hình địa phương, sớm đạt mục tiêu
không còn hội đói, giảm nhanh hộ nghèo” [26, tr.652].
Thực hiện chủ trương của Đại hội IX, Ngày 27 tháng 09 năm 2001, Thủ
tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 143/2001/QĐ/2001-TTg về việc phê
duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói, giảm nghèo và việc làm giai
21


đoạn 2001 - 2005 với mục tiêu, điều kiện thuận lợi, phù hợp để hỗ trợ người
nghèo, hộ nghèo, xã nghèo phát triển sản xuất, tăng thu nhập, tiếp cận các
dịch vụ xã hội, XĐGN; giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị và nâng
cao tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn, chuyển dịch cơ cấu
lao động phù hợp với cơ cấu kinh tế, bảo đảm việc làm cho người có nhu cầu
làm việc, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Mục tiêu cụ thể là:
“Giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống dưới 10%, bình quân mỗi năm giảm 1,5% - 2%

(khoảng 28 vạn đến 30 vạn hộ/năm); không thể tái đói kinh niên. Các xã
nghèo có đủ cơ sở hạ tầng thiết yếu (thủy lợi, trường học, trạm y tế, đường
dân sinh, điện, nước sinh hoạt, chợ). Mỗi năm tạo việc làm cho 1,4 - 1,5 triệu
lao động. Giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị xuống dưới 6% và nâng
tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn lên 80% vào năm 2005”
[13,tr.2].
Để hoàn thành được những mục tiêu nêu trên, đòi hỏi phải có một chính
sách tín dụng và đầu tư để xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là ở vùng sâu,
vùng xã, vùng đặc biệt khó khăn. Đảm bảo xây dựng được sáu công trình thiết
yếu là điện, đường, trường, trạm, nước sạch, chợ. Phải có một chính sách đất
đai phù hợp, giao cho các hộ nông dân nghèo chưa có đất hoặc chưa giao đủ
mức cũng như đảm bảo cho các hộ nghèo có nhu cầu và khả năng có đất sản
xuất. Khi họ đã có đất thì tạo điều kiện cho họ mở rộng ngành nghề, hỗ trợ
công cụ, tư liệu sản xuất. Về việc giúp cho người nghèo được vay vốn ưu đãi,
dưới sự chỉ đạo của Đảng, ngày 04 tháng 10 năm 2002 Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 78/2002/NĐ-CP về tín dụng đối với người nghèo và các
đối tượng chính sách khác. Trong Nghị định này có chỉ ra rằng: Các nguồn
lực tài chính do Nhà nước huy động để cho người nghèo và các đối tượng
chính sách vay ưu đãi phục vụ sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm, cải thiện
đời sống, góp phần thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN, ổn định
xã hội. Cùng với đó là việc chỉ ra những các đối tượng cụ thể được vay vốn
và quy định về nguồn vốn được cho vay [15, tr. 1].
22


Để hỗ trợ xã nghèo, người nghèo, tạo điều kiện hơn nữa cho họ phát triển
sản xuất, XĐGN, ngày 20/07/2004 Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết
định số 134/2004/QĐ-TTg về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở,
nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số người nghèo, đời
sống khó khăn. Cùng với việc thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội, Nhà

nước trực tiếp hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo có điều kiện phát triển
sản xuất, cải thiện đời sống, sớm thoát nghèo.
Có thể thấy rằng, Đảng và nước ta rất chú trọng công tác XĐGN, coi đó
là một mục tiêu quốc gia quan trọng cần được thực hiện. Từ năm 1999 đến
2005 Đảng và Nhà nước đã ban hành, chỉ đạo thực hiện nhiều chính sách
năng động, phù hợp với mục tiêu kiên trì XĐGN, ổn định xã hội. Những chủ
trương, chính sách này đã được đưa xuống các tỉnh, thành trên cả nước để áp
dụng sao cho phù hợp với tình hình thực tế của từng vùng, địa phương.

 Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ về việc thực hiện công tác xóa
đói giảm nghèo
Phú Thọ là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc bộ, được tái lập ngày 1/1/1997.
Trong những năm qua, Đảng bộ tỉnh Phú Thọ đã cụ thể hóa đường lối đổi mới
của Đảng phù hợp với điều kiện thực tế của tỉnh. Xác định được những bất
lợi, khó khăn của đói nghèo, Đảng bộ tỉnh đã kịp thời đưa ra những chủ
trương, chính sách nhằm thực hiện tốt công tác XĐGN trên địa bàn tỉnh. Đảng
bộ tỉnh Phú Thọ chỉ rõ “XĐGN gắn liền với chiến lược kinh tế - xã hội trên
từng địa bàn dân cư. Thực hiện XĐGN phải gắn liền với công bằng xã hội,
lấy chương trình XĐGN làm trung tâm gắn liền với các chương trình kinh tế xã hội khác, tập trung phát triển kinh tế - xã hội đối với các xã nghèo, vùng
sâu, vùng xa, vùng dồng bào dân tộc, vùng căn cứ cách mạng cũ. XĐGN
được thực hiện theo phương châm xã hội hóa, coi XĐGN là trách nhiệm,
nghĩa vụ của toàn Đảng, toàn dân của các cấp, các ngành, các đoàn thể, của
23


mỗi gia đình và toàn xã hội, người nghèo, vùng nghèo phát huy nội lực, vươn
lên là chính cũng với sự hỗ trợ của Nhà nước và cộng đồng”. Với phương
hướng đó, ngày 17 tháng 12 năm 1998, UBND tỉnh Phú Thọ đã ra Quyết định
số 2856/QĐ/Ctr-UB về Chương trình giảm nghèo tỉnh Phú Thọ những từ năm
1998 đến năm 2000. Chương trình đã đưa ra mục tiêu là: Xóa cơ bản hộ đói

kinh niên, giảm tỷ lệ hộ đói nghèo xuống dưới 13% vào năm 2000. Tập trung
phát triển kinh tế xã hội các xã đặc biệt khó khăn, các xã thuộc khu vực 3, xã
nghèo ( có tỷ lệ đói nghèo trên 40%), xóa 12/45 xã nghèo trong năm 2000. Để
thực hiện được các mục tiêu của Chương trình XĐGN, Tỉnh ủy đã chỉ đạo
UBND tỉnh đưa ra một số giải pháp cụ thể như: Nhóm giải pháp về cơ chế,
chính sách; nhóm giải pháp về tổ chức cán bộ; nhóm giải pháp liên quan đến
thực hiện các dự án của chương trình XĐGN. Ba nhóm giải pháp này phải
được thực hiện đồng bộ để có được kết quả cao nhất [45, tr.5].
Ngày 15/10/1999, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ra Nghị quyết số 17-NQ/TU
Về chương trình phát triển kinh tế, xã hội 31 xã đặc biệt khó khăn, giai đoạn
1999 - 2005. Tư tưởng chỉ đạo của Tỉnh ủy nêu trong Nghị quyết là: Phát triển
kinh tế - xã hội, trước hết phải phát huy nội lực của từng hộ gia đình, của
cộng đồng, đồng thời có sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước để khai thác có hiệu
quả các tiềm năng lao động, đất đai, tài nguyên và các điều kiện kinh tế, xã
hội, tạo ra bước chuyển biến mới về sản xuất, nâng cao đời sống vật chất, văn
hóa tinh thần của đồng bào các dân tộc. Chương trình 135 về phát triển kinh
tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn phải được thể hiện trong kế hoạch hàng
năm, của các ngành, các huyện, các xã và phải có giải pháp toàn diện. Trước
hết tập trung ưu tiên phát triển nông, lâm nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng
nông thôn, thúc đẩy phát triển giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội. Khuyến khích
các doanh nghiệp, các đơn vị kinh tế, lực lượng vũ trang, các tổ chức chính trị
- xã hội - nghề nghiệp, các tầng lớp nhân dân, cộng đồng dân cư ở trong nước
và nước ngoài….tích cực đóng góp, ủng hộ kinh phí, vật tư nguyên liệu hoặc
24


hỗ trợ đầu tư các xã đặc biệt khó khăn. Nghị quyết này đã xác định rõ giải
pháp cụ thể về XĐGN ở 31 xã thuộc diện đặc biệt khó khăn, dựa vào nguồn
lực hỗ trợ của Nhà nước và khơi dậy nguồn vốn văn hóa, vốn xã hội của cư
dân tại chỗ. Chính sách XĐGN được thực hiện lồng ghép với chính sách dân

tộc trong điều kiện một tỉnh trung du [41, tr.2].
Căn cứ vào tình hình đói nghèo của tỉnh, năm 2001 tổng số hộ nghèo toàn
tỉnh là 56.871 hộ, chiếm tỷ lệ 19,6%, tập chung nhiều ở các huyện miền núi
như Thanh Sơn, Yên Lập, Tam Nông, Thanh Thủy, Cẩm Khê. Toàn tỉnh có 50
xã đặc biệt khó khăn - an toàn khu, có 46 xã nghèo ngoài Chương trình 135
có tỉ lệ hộ nghèo từ 25% trở lên, trong đó có 11 xã có tỷ lệ hộ nghèo lên đến
40%. Từ đó đòi hỏi sự phải có những chính sách, giải pháp phù hợp để [38,
tr.1]. Đại hội Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ XV (từ ngày 16 đến ngày 18
tháng 12 năm 2000) đã đề ra phương hướng nhiệm kỳ 2001 – 2005 là: Phát
huy nội lực, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội với nhịp độ cao và
bền vững, chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng
CNH - HĐH; nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm và hiệu quả của phát
triển kinh tế. Tạo chuyển biến mạnh về phát huy nhân tố con người, giáo dục đạo tạo, khoa học và công nghệ, chăm sóc sức khỏe cộng đồng; giải quyết các
vấn đề bức xúc về việc làm, xóa vững chắc hộ đói và giảm nhanh hộ nghèo,
ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn xã hội; ổn định cải thiện đời sống nhân dân.
Để thực hiện được mục tiêu đề ra, Đại hội đã xác định một hệ thống các giải
pháp như: phát triển nông, lâm nghiệp toàn diện theo hướng sản xuất hàng
hóa, đảm bảo an toàn lương thực, chú trọng đầu tư phát triển các chương trình
trọng điểm; tạo sự chuyển biến về cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn,
nâng cao hiệu quả và tạo hệ sinh thái bền vững. Đẩy mạnh phát triển và nâng
cao chất lượng hoạt động các ngành công nghiệp, dịch vụ.
Từ phương hướng của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ về phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh nói chung và XĐGN nói riêng, UBND tỉnh Phú Thọ ra Quyết
25


×