Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ khi doanh nghiệp phá sản và thực tiễn thi hành tại hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.07 MB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN MINH QUÂN

PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP
CỦA CHỦ NỢ KHI DOANH NGHIỆP PHÁ SẢN
VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hướng ứng dụng)

HÀ NỘI – 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN MINH QUÂN

PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP
CỦA CHỦ NỢ KHI DOANH NGHIỆP PHÁ SẢN
VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI HÀ NỘI

Chuyên ngành :



Luật Kinh tế

Mã số

8380107

:

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hướng ứng dụng)
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN NGỌC DŨNG

HÀ NỘI – 2018


LỜI CẢM ƠN

Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn tới toàn thể các thầy, cô giáo trong
Khoa sau đại học, Trường Đại học Luật Hà Nội đã giúp đỡ và tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình học tập tại trường.
Xin chân thành cảm ơn đến tất cả các thầy, cô giáo đã giảng dạy,
truyền đạt những kiến thức thuộc các học phần trong chương trình đào tạo
sau Đại học.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc, đặc biệt nhất tới PGS.TS. Trần Ngọc
Dũng – Giảng viên trường Đại học Luật Hà Nội là người đã giúp đơn, hướng
dẫn tôi nghiên cứu, viết và hoàn thiện luận văn.
Cảm ơn gia đình, bạn bè đã luôn ở bên cạnh, giúp đỡ cũng như động
viên tôi trong suốt quá trình học tập cũng như quá trình viết luận văn này
Xin trân trọng cảm ơn !



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn
này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

TRẦN MINH QUÂN


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI NÓI ĐẦU ..................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài ....................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ............................................................................ 2
3. Mục đích, nghiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài ............................................ 4
4. Đối tượng, phạm vi của việc nghiên cứu đề tài............................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài ...................................................................... 5
6. Những điểm mới của luận văn ........................................................................ 5
7. Kết cầu của luận văn ....................................................................................... 5
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH
HỢP PHÁP CỦA CHỦ NỢ KHI DOANH NGHIỆP PHÁ SẢN ...................... 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm của chủ nợ trong thủ tục phá sản doanh nghiệp ...... 6
1.1.1. Khái niệm phá sản doanh nghiệp ............................................................... 6

1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của chủ nợ trong thủ tục phá sản doanh nghiệp ...... 11
1.2. Các quyền lợi ích hợp pháp của chủ nợ ....................................................... 14
1.2.1. Quyền, lợi ích hợp pháp của chủ nợ trong giai đoạn nộp đơn yêu cầu, mở
thủ tục phá sản ..................................................................................................... 14
1.2.2. Quyền, lợi ích hợp pháp của của chủ nợ khi tham gia hội nghị chủ nợ .... 16
1.2.3. Quyền, lợi ích hợp pháp của chủ nợ khi thanh lý tài sản thu hồi nợ ......... 17
1.3. Pháp luật của một số nước về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ
trong thủ tục phá sản doanh nghiệp ................................................................... 19
1.3.1. Pháp luật về phá sản ở Nhật Bản ............................................................... 19
1.3.2. Pháp luật về phá sản ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ........................... 21
1.3.3. Luật phá sản của Cộng hòa Pháp............................................................... 22
Kết luận Chương 1 .............................................................................................. 25


Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH
HỢP PHÁP CỦA CHỦ NỢ KHI DOANH NGHIỆP PHÁ SẢN NÓI CHUNG
VÀ TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI ......................................................................... 26
2.1. Các quy định về quyền của chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản,
cung cấp tài liệu, chứng cứ, áp dụng biện pháp khẩn cấp... trong thủ tục phá
sản doanh nghiệp, hợp tác xã .............................................................................. 26
2.2. Các quy định về quyền của chủ nợ được tham gia Hội nghị chủ nợ, ban
hành Nghị quyết hội nghị chủ nợ ........................................................................ 37
2.3. Các quy định về quyền của chủ nợ được thu hồi khoản nợ thông qua việc
thanh lý tài sản của doanh nghiệp phá sản ........................................................ 41
2.4. Thực trạng thi hành pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
chủ nợ khi doanh nghiệp phá sản trên địa bàn Hà Nội ..................................... 46
2.4.1. Nhận xét, đánh giá về thực trạng thi hành tại Tòa án nhân dân Thành phố
Hà Nội .................................................................................................................. 46
2.4.2. Nguyên nhân của việc Tòa án chậm giải quyết các vụ việc phá sản doanh
nghiệp ................................................................................................................... 47

Kết luận Chương 2 .............................................................................................. 53
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ
LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA CHỦ NỢ KHI DOANH NGHIỆP PHÁ SẢN ...... 54
3.1. Các nguyên tắc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của chủ nợ khi doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản ............................................. 54
3.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của chủ nợ khi doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản ............................................. 56
3.3. Các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của chủ nợ khi doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản .................................... 57
3.4. Các giải pháp nhằm thực thi có hiệu quả pháp luật về bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của chủ nợ khi doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản....................... 63
Kết luận Chương 3 .............................................................................................. 68
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Phá sản là hiện tượng không phải hiếm thấy, là hệ quả rõ ràng của quá trình
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp tham gia vào nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế có hai mặt: cạnh tranh có thể giúp cho các
doanh nghiệp tự phát triển bản thân, tăng năng lực cạnh tranh, từ đó thúc đẩy nền
kinh tế tăng trưởng. Các doanh nghiệp có khả năng phát triển nhờ cạnh tranh.
Nhưng khi các doanh nghiệp yếu kém, không đủ năng lực cạnh tranh được với các
doanh nghiệp khác, những doanh nghiệp đó sẽ phải chấm dứt hoạt động thông qua
việc giải thể hoặc thủ tục phá sản.
Từ năm 1945 đến 1975 tại miền Bắc Việt Nam và từ năm 1975 đến 1985 trên

cả nước tồn tại nền kinh tế quan liêu bao cấp, kế hoạch hóa tập trung, có chiến tranh
trong những thời gian dài, nên ở nước ta không có pháp luật về phá sản doanh
nghiệp. Từ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (1986), nước ta chủ trương
xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, theo định
hướng Xã hội Chủ nghĩa. Chúng ta cũng đã lường trước được hiện tượng phá sản
doanh nghiệp sẽ xuất hiện trong nền kinh tế thị trường này. Trong bối cảnh đó, pháp
luật về kinh tế của Việt Nam nói chung và pháp luật về phá sản doanh nghiệp nói
riêng cần phải được xây dựng và hoàn thiện để phù hợp và đáp ứng đòi hỏi của nền
kinh tế thị trường. Vì lý do đó, ngày 30/12/1993 Quốc hội khóa IX của Việt Nam đã
họp và thông qua Luật Phá sản Doanh nghiệp.
Trải qua 25 năm phát triển, Luật Phá sản đã nhiều lần được sửa đổi, bổ sung
(năm 2004 và năm 2014). Thực tế áp dụng đạo luật này đã bộc lộ nhiều bất cập
cũng như khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết thủ tục phá sản đối với
doanh nghiệp. Những khó khăn, bất cập đó có phần xuất phát từ việc chủ nợ (chủ
thể quan trọng trong thủ tục phá sản) không hiểu hết được, không phát huy, thực
hiện được vai trò, quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Khi chủ nợ hiểu và thực hiện
được các quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì ngoài việc tự bảo vệ và đảm bảo
được hưởng những lợi ích mà mình đáng được hưởng thì còn giúp cho việc giải
quyết thủ tục phá sản được tốt, thuận lợi hơn. Từ đó chúng ta có thể cơ cấu lại được
trật tự nền kinh tế, làm cho kinh tế ổn định và phát triển vượt trội hơn. Chính vì
những lý do nêu trên mà học viên đã chọn vấn đề “Pháp luật về bảo vệ quyền và lợi


2

ích hợp pháp của chủ nợ khi doanh nghiệp phá sản - Thực trạng thi hành tại Hà
Nội” làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học Luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã là một thủ tục đòi nợ và thanh toán
tập thể đặc biệt. Hậu quả pháp lý của nó là việc doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào

tình trạng mất khả năng thanh toán những khoản nợ đến hạn có thể bị Tòa án tuyên
bố phá sản, trả nợ cho chủ nợ và rút khỏi thị trường một cách có trật tự hoặc doanh
nghiệp, hợp tác xã cũng có thể được phục hồi kinh doanh để tiếp tục kinh doanh ra
lãi và trả nợ cho chủ nợ. Đây là một thủ tục quan trọng, nó ảnh hưởng tới không chỉ
chủ nợ, doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ mà còn ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh
tế, khi một thành phần của nền kinh tế có thể bị loại bỏ, rút khỏi thị trường. Có thể
thấy từ khi pháp luật về phá sản được ra đời đến nay có rất nhiều công trình nghiên
cứu khoa học về thủ tục phá sản nói chung và về chủ nợ trong thủ tục phá sản nói
riêng. Trong số các công trình nghiên cứu trong nước về vấn đề phá sản, đáng chú ý
nhất là các công trình sau:
- “Pháp luật phá sản Việt Nam”, sách của PGS.TS. Dương Đăng Huệ, Nhà
xuất bản Tư pháp, Hà Nội, năm 2005. Cuốn sách này đã nêu được những vấn đề lý
luận chung của pháp luật về phá sản. Đây chính là nền tảng giúp cho những nhà làm
luật, những nhà nghiên cứu có thể tham khảo trong suốt quá trình làm luật và
nghiên cứu. Tác giả đã chỉ ra được những giai đoạn phát triển, những quy định pháp
luật về phá sản của Việt Nam (từ Luật Phá sản Doanh nghiệp (1993) cho đến Luật
Phá sản (2004), từ đó có sự so sánh, rút ra được những thành công hay nhược điểm
của Luật Phá sản (2004) so với Luật Phá sản Doanh nghiệp (1993). Cuối cùng, tác
giả đã nêu ra những định hướng cơ bản trong sự phát triển của pháp luật về phá sản
ở Việt Nam.
- “Thực trạng pháp luật về phá sản doanh nghiệp và các giải pháp nhằm
thực thi có hiệu quả pháp luật về phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam”, luận văn thạc
sĩ Luật học của Long Vũ Quỳnh Phương, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2017.
Thông qua việc nghiên cứu lý luận về pháp luật phá sản và thực tiễn thi hành, luận
văn thạc sĩ của Long Vũ Quỳnh Phương đã chỉ ra được những bất cập, khó khăn
trong quá trình ba năm thực hiện Luật Phá sản (2014). Những bất cập, khó khăn đã
được tác giả Long Vũ Quỳnh Phương chỉ ra ở tất cả các giai đoạn của thủ tục phá
sản.



3

- “Luật Phá sản năm 2014 – Bước phát triển của pháp luật phá sản Việt
Nam”, luận văn thạc sĩ Luật học của Quách Thị Thu Hương,Trường Đại học Luật
Hà Nội, năm 2015. Tác giả Quách Thị Thu Hương đã đặt Luật Phá sản (2014) trong
mối quan hệ so sánh với Luật Phá sản Doanh nghiệp (1993) và Luật Phá sản (2004)
để có thể thấy được sự phát triển, tiến bộ trong tư duy lập pháp của các nhà làm
luật. Từ đó tác giả đưa ra những nhận xét về những điểm thành công cũng như
những điểm mà Luật Phá sản (2014) vẫn chưa làm được.
- “Một số vướng mắc khi áp dụng Luật Phá sản (2014) và đề xuất, kiến
nghị”, bài viết của Phạm Nga, Tạp chí Tòa án Nhân dân điện tử, Tòa án Nhân dân
Tối cao, đăng ngày 13/6/2018. Ở bài viết này, tác giả Phạm Nga chỉ đề cập đến
vướng mắc khi Quản tài viên từ chối không tham gia thủ tục phá sản và quy định về
việc mở tài khoản ngân hàng của Tòa án. Hai vấn đề này không thể phản ánh đầy đủ
những vướng mắc mà thực tiễn áp dụng Luật Phá sản (2014) gặp phải
- “Chủ nợ có bảo đảm trong thủ tục phá sản theo Luật Phá sản (2014)” bài
viết của tác giả Bùi Đức Giang, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1/2015. Bài viết
đã nêu ra được những quy định về việc xác lập và xử lý các biện pháp bảo đảm
trong thủ tục phá sản như: Cấm xác lập giao dịch bảo đảm đối với khoản nợ có từ
trước; xử lý tài sản bảo đảm; thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong thủ tục phá sản. Tuy
nhiên, bài viết chỉ dừng lại ở khía cạnh nghiên cứu quyền của chủ nợ có bảo đảm
với các biện pháp bảo đảm chứ không khái quát quyền của chủ nợ có bảo đảm trong
tất cả giai đoạn của thủ tục phá sản.
Xét về góc độ nghiên cứu chuyên đề về chủ nợ có thể kể đến một vài công
trình nghiên cứu như: “Vai trò của chủ nợ trong quá tình giải quyết phá sản doanh
nghiệp”, luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thái Trường, Trường Đại học Luật Hà Nội,
năm 2014; “Điều hòa lợi ích của chủ nợ và con nợ thông qua thủ tục phá sản”, bài
viết của Trần Anh Tú trên website của Trường Đại học Kiểm sát; “Quyền và nghĩa
vụ của chủ nợ và con nợ theo thủ tục phá sản”, khóa luận tốt nghiệp của Trịnh Thị
Thúy Hằng, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2008... Nhưng những công trình

nghiên cứu này được viết theo Luật Phá sản (2004); đến nay, đạo luật này đã hiết
hiệu lực thi hành. Còn theo Luật Phá sản (2014), số lượng công trình nghiên cứu
chuyên sâu về vấn đề “Pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ
trong thủ tục phá sản” là rất ít; nếu có thì bài viết cũng chỉ nghiên cứu về một khía
cạnh của quyền, lợi ích hợp pháp của chủ nợ hoặc về một loại chủ nợ, ví dụ như bài


4

viết “Chủ nợ có bảo đảm trong thủ tục phá sản theo Luật Phá sản (2014)” của tác
giả Bùi Đức Giang, được đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1/2015.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Khi lựa chọn đề tài để nghiên cứu, tác giả mong muốn đạt được cái nhìn tổng
quát về pháp luật bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ nợ khi doanh nghiệp, hợp
tác xã bị phá sản. Tác giả sẽ đi sâu phân tích về từng quyền và lợi ích đó cũng như
chỉ ra những nhược điểm, bất cập của các quy định pháp luật, thực trạng thi hành
pháp luật về bảo vệ quyền, lợi ích của chủ nợ khi tham gia giải quyết thủ tục phá
sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Từ trên cơ sở đó, tác giả đưa ra những kiến nghị về
phương hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện và áp dụng có hiệu quả hơn quy định
pháp luật về bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ nợ khi doanh nghiệp, hợp tác
xã phá sản.
Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đề ra và thực hiện những nhiệm
vụ như sau:
- Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về phá sản nói chung và những vấn
đề lý luận về chủ nợ trong thủ tục giải quyết phá sản.
- Nêu và phân tích những quy định của pháp luật về bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của chủ nợ khi giải quyết phá sản.
- Phân tích, đánh giá, chỉ ra những bất cập của những quy định pháp luật về
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ nợ khi giải quyết phá sản cũng như thực
trạng thi hành các quy định này.

4. Đối tượng, phạm vi của việc nghiên cứu đề tài
Về đối tượng nghiên cứu, tác giả tập trung nghiên cứu các quy định của Luật
Phá sản (2014) trong mối quan hệ so sánh với Luật Phá sản (2004) cũng như chỉ ra
những ưu điểm, thành công cũng như những nhược điểm, bất cập trong các quy
định về bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ nợ trong Luật phá sản (2014).
Về phạm vi nghiên cứu, tác giả đi sâu nghiên cứu, phân tích các quy định của
Luật Phá sản (2014) và một số quy định pháp luật có liên quan về bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của chủ nợ khi tham gia giải quyết thủ tục phá sản. Còn về thực trạng
thi hành pháp luật, tác giả luận văn chỉ đề cập tới thực trạng thi hành pháp luật về
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ nợ tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội từ
thời điểm Luật Phá sản có hiệu lực từ ngày 1/1/2015 đến ngày 31/3/2018.


5

5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trong quá trình nghiên cứu đề tài đã chọn, tác giả luận văn sử dụng phương
pháp luận biện chứng duy vật, đồng thời sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên
cứu cụ thể thích hợp như: phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê,…
Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu cụ thể nêu trên bảo đảm được độ
tin cậy của các kết quả nghiên cứu của luận văn.
6. Những điểm mới của luận văn
Thủ tục phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã hiện nay được quy định trong Luật
Phá sản (2014). Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên phân tích,
đánh giá một cách cụ thể có hệ thống về pháp luật bảo vệ quyền, lợi ích của chủ nợ
khi doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản. Luận văn đạt được những điểm mới như sau:
- Hệ thống hóa những quy định của Luật Phá sản (2014) về bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của chủ nợ khi giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.
- Phân tích, đánh giá, chỉ ra bất cập của những quy định trong Luật Phá sản
(2014) về bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ nợ.

- Kiến nghị phương hướng, giải pháp để hoàn thiện Luật Phá sản (2014) về
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ nợ khi doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản.
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích và kế thừa kết quả của những công trình
nghiên cứu đã được công bố, tác giả luận văn mong rằng sẽ giúp cho người đọc có
được một cái nhìn toàn diện về vấn đề tác giả nghiên cứu trong luận văn này và góp
phần vào việc hoàn thiện Luật Phá sản (2014).
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận, Danh mục Tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba
chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
chủ nợ khi doanh nghiệp phá sản.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ
nợ khi doanh nghiệp phá sản nói chung và tại Thành phố Hà Nội.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thi hành pháp luật về bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ nợ khi doanh
nghiệp phá sản.


6

Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ
LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA CHỦ NỢ KHI DOANH NGHIỆP PHÁ SẢN
1.1. Khái niệm, đặc điểm của chủ nợ trong thủ tục phá sản doanh
nghiệp.
1.1.1. Khái niệm phá sản doanh nghiệp
Phá sản là một hiện tượng không hiếm của nền kinh tế thị trường, là một cơ
chế đào thải tự nhiên trong nền kinh tế. Nó giúp cho nền kinh tế loại bỏ những
doanh nghiệp yếu kém, giúp cho tăng tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong
thị trường từ đó có thể kích thích sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
Dưới góc độ ngôn ngữ, thuật ngữ phá sản được diễn đạt bằng từ

“bankruptcy” hoặc “banqueroute” mà nhiều người cho rằng từ này bắt nguồn từ chữ
“Banca Rotta” trong tiếng La Mã cổ, trong đó “banca” có nghĩa là chiếc ghế dài,
còn “rotta” có nghĩa là bị gãy. “Banca rotta” có nghĩa là “băng ghế bị gãy”. Cũng có
ý kiến cho rằng, từ “phá sản” bắt nguồn từ chữ “ruin” trong tiếng La tinh, có nghĩa
là sự “khánh tận”1. Còn theo Từ điển Tiếng Việt thì “phá sản” được hiểu là “lâm
vào tình trạng tài sản không còn gì, thường do kinh doanh thua lỗ hoặc thất bại”;
phá sản còn đồng nghĩa với từ vỡ nợ có nghĩa là mất khả năng thanh toán những
khoản nợ, thất bại hoàn toàn.2
Dưới góc độ kinh tế, khái niệm phá sản chỉ sự mất cân đối giữa thu và chi
của chủ thể kinh doanh; mà biểu hiện trực tiếp của sự mất cân đối ấy là tình trạng
mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Có thể hiểu rằng chủ thể kinh doanh
đó đã làm ăn thua lỗ, tạo ra những khoản nợ mà không thể chi trả được. Hay nói
cách khác, chủ thể kinh doanh đó đã lâm vào tình trạng tài chính tuyệt vọng chứ
không phải tình trạng thua lỗ nhất thời, không thể giải quyết dứt điểm để có thể tiếp
tục đứng vững trên thương trường.
Dưới góc độ pháp lý, Từ điển Luật học (Nhà xuất bản Tư pháp, năm 2006)
định nghĩa phá sản là tình trạng một chủ thể (cá nhân, pháp nhân) mất khả năng
thanh toán nợ đến hạn hay theo cách nói thông thường phá sản là tình trạng một
chủ thể bị vỡ nợ không còn bất kì một tài sản nào để trả các khoản nợ đến hạn và bị
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (thường là Tòa án) tuyên bố phá sản và phân
1

Nguyễn Tấn Hơn (1995), Phá sản doanh nghiệp – một số vấn đề thực tiễn, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
tr 9
2
Từ điển Tiếng Việt – Viện ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng (2003)


7


chia tài sản còn lại của con nợ cho các chủ nợ theo thủ tục pháp luật quy
định3. Theo quan điểm này, khái niệm phá sản doanh nghiệp được xác định bằng
hai tiêu chí đó là: việc doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ đến hạn và bị Cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền (Tòa án) tuyên bố phá sản.
Trong Luật Phá sản Doanh nghiệp (1993) và Luật Phá sản (2004) đều không
đưa ra khái niệm phá sản mà sử dụng khái niệm doanh nghiệp, hợp tác xã lâm
vào“tình trạng phá sản”. Luật Phá sản (2014) đã khắc phục thiếu sót này bằng việc
xác định tình trạng “mất khả năng thanh toán” của doanh nghiệp, hợp tác xã dựa
trên tiêu chí: Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp,
hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng
kể từ ngày đến hạn thanh toán. Mặt khác, Luật Phá sản (2014) đã lần đầu tiên đưa ra
khái niện về phá sản: “Phá sản là tình trạng của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả
năng thanh toán và bị Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản”. Như vậy,
khái niệm phá sản tại Luật Phá sản (2014) đã được tiếp cận dưới hai góc độ: Dưới
góc độ kinh tế: Doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán là doanh nghiệp,
hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ trong thời hạn ba
tháng, kể từ ngày đến hạn thanh toán; còn dưới góc độ pháp lý: Khái niệm này đã
tiếp cận phá sản dưới góc độ là một trình tự, thủ tục tố tụng, là toàn bộ các bước,
các giai đoạn của việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản đối với chủ thể mắc nợ.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu khái niệm phá sản như sau:
- Phá sản là khái niệm dùng để chỉ doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình
trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn. Tuy nhiên, doanh nghiệp, hợp tác xã lâm
vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn chưa hẳn đã bị phá sản. Doanh
nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn chỉ được
coi là phá sản khi Tòa án có thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản tuyên bố phá sản.
- Phá sản là thủ tục pháp lý được tiến hành bởi cơ quan có thẩm quyền đó là
Tòa án. Trình tự, thủ tục phá sản được quy định tại Luật Phá sản (2014) và các văn
bản pháp luật liên quan. Thủ tục phá sản chỉ được tiến hành khi có đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản của chủ thể có quyền và khi doanh nghiệp, hợp tác xã thực sự lâm
vào tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Hậu quả pháp lý của

thủ tục này là doanh nghiệp, hợp tác xã có thể bị tuyên bố phá sản chấm dứt hoạt

3

Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Tư pháp, tr. 597-599.


8

động, các khoản nợ sẽ được thanh toán theo trật tự luật định hoặc doanh nghiệp,
hợp tác xã sẽ được phục hồi sản xuất, kinh doanh.
Phá sản doanh nghiệp có các đặc điểm sau:
a) Phá sản là thủ tục thanh toán nợ đặc biệt do Tòa án thụ lý giải quyết.
Không như những vụ kiện đòi nợ tài sản trong lĩnh vực dân sự hay kinh tế, phá sản
là một hiện tượng kinh tế - xã hội phức tạp, kéo theo nhiều hệ quả ảnh hưởng đến
lợi ích của các chủ nợ, bản thân doanh nghiệp mắc nợ cũng như lợi ích người lao
động và toàn bộ xã hội nói chung. Việc giải quyết thủ tục phá sản thuộc thẩm quyền
của Tòa án. Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, việc đòi nợ của các chủ nợ
mang tính tập thể được biểu hiện như: tất cả các chủ nợ tiến hành đòi nợ phải theo
nguyên tắc chung, theo quyết định của Tòa án; các chủ nợ phải gửi giấy đòi nợ để
có tên trong danh sách chủ nợ bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của mình; hậu quả
pháp lý với doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ do ý chí của tập thể chủ nợ quyết định
theo nguyên tắc biểu quyết chứ không phụ thuộc vào ý chí riêng lẻ của bất kì chủ nợ
nào;
b) Thanh toán theo danh sách chủ nợ và thứ tự luật định: cũng giống như
việc đòi nợ, thanh toán nợ cũng mang tính tập thể, vì thanh toán nợ phải theo danh
sách chủ nợ và theo thứ tự do Luật Phá sản (2014) quy định. Việc thanh toán nợ
trong quá trình giải quyết phá sản là thanh toán chung chứ không tiến hành riêng lẻ
cho bất kì chủ nợ nào. Việc thanh toán nợ này sẽ được thực hiện thông qua một chủ
thể khác đó là Quản tài viên hoặc doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản. Sau khi có

Tuyên bố phá sản của Tòa án thì Quản tài viên hay doanh nghiệp quản lý, thanh lý
tài sản sẽ tiến hành thanh lý tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ và thanh
toán nợ cho các chủ nợ theo danh sách chủ nợ đã lập và theo thứ tự luật quy định;
c) Thanh toán dựa trên cơ sở giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp.
Khi thực hiện việc thanh toán nợ cho các chủ nợ, Quản tài viên, doanh
nghiệp quản lý, thanh lý tài sản sẽ thực hiện thủ tục thanh lý tài sản hiện đang còn
của doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản. Việc thanh lý tài sản sẽ được tiến
hành thông qua việc định giá tài sản còn lại của doanh nghiệp và bán những tài sản
đó để thanh toán nợ.
d) Chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp: Phá sản là một thủ tục đòi nợ đặc
biệt, theo đó các chủ nợ và người có quyền, nghĩa vụ liên quan tiến hành thủ tục tố
tụng tư pháp để yêu cầu Tòa án can thiệp nhằm thu hồi các khoản nợ của mình.
Trong thủ tục phá sản thì doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ có thể bị Tòa án tuyên


9

bố phá sản hoặc có thể phục hồi các hoạt động kinh doanh thành công. Nhưng nhìn
chung, hậu quả pháp lý của phá sản là các doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ đều
chấm dứt tồn tại, toàn bộ tài sản của doanh nghiệp đó bị thanh lý để trả nợ cho các
chủ nợ. Trong trường hợp này, thủ tục phá sản là cách giải quyết giúp cho doanh
nghiệp, hợp tác xã mắc nợ vừa đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của mình, vừa giúp
cho doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ rút khỏi thị trường một cách có trật tự;
e) Chế tài được áp dụng đối với người quản lý, điều hành doanh nghiệp, hợp
tác xã.
Việc khiến cho doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhà nước làm ăn thua lỗ là
có một phần lỗi lớn của người quản lý điều hành. Vì vậy, khi doanh nghiệp có vốn
đầu tư của Nhà nước bị phá sản thì người quản lý điều hành cũng cần phải chịu một
chế tài xử lý để người đó phải chịu trách nhiệm về lỗi của mình trong công tác quản
lý, điều hành cũng như ngăn không cho người đó tiếp tục có cơ hội làm cho những

doanh nghiệp có vốn đầu tư của Nhà nước bị phá sản. Còn đối với những doanh
nghiệp, hợp tác xã không phải do Nhà nước đầu tư thì tùy từng hành vi vi phạm, tùy
mức độ vi phạm trong quá trình giải quyết thủ tục phá sản mà người quản lý, điều
hành doanh nghiệp, hợp tác xã đó sẽ phải chịu chế tài xử lý tương ứng.
Dựa vào những tiêu chí khác nhau mà phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã
được chia ra những loại như sau:
a) Căn cứ vào nguyên nhân gây ra phá sản: có phá sản trung thực và phá sản
gian trá. Phá sản trung thực là hiện tượng phá sản do những nguyên nhân khách
quan hay những rủi ro trong kinh doanh gây ra. Phá sản gian trá là hiện tượng phá
sản do con nợ có những thủ đoạn gian trá, có sắp đặt trước nhằm chiếm đoạt tài sản
của người khác hoặc nhằm mục đích trốn nợ, xóa nợ.
b) Căn cứ vào cơ sở phát sinh quan hệ pháp lý: có phá sản tự nguyện và phá
sản bắt buộc. Phá sản tự nguyện là phá sản do chính con nợ yêu cầu khi thấy mình
lâm vào tình trạng phá sản. Phá sản bắt buộc là phá sản được thực hiện theo yêu cầu
của chủ nợ4.
Các trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản:
Theo quy định tại Luật phá sản 2014, doanh nghiệp, hợp tác xã có thể bị Tòa
án tuyên bố phá sản theo rất nhiều trường hợp nhưng có thể nói tóm lại thành hai
nhóm như sau:
4

Nguyễn Viết Tý (chủ biên), Giáo trình Luật thương mại tập 1 – Trường Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản
Tư pháp, năm 2018


10

- Nhóm 1: Doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản theo thủ tục rút gọn
bao gồm những trường hợp được quy định tại Khoản 1 Điều 105 Luật phá sản 2014:
+ Người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo quy định tại Khoản 3,

Khoản 4 Điều 5 Luật phá sản 2014 (con nợ tự nguyện nộp đơn yêu cầu) mà doanh
nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán không còn tiền, tài sản khác để nộp lệ
phí phá sản, tạm ứng chi phí phá sản.
+ Sau khi thụ lý Tòa án có thẩm quyền đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản mà
doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán không còn tài sản để thanh toán
chi phí phá sản.
- Nhóm 2: Doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản theo thủ tục thông
thường bao gồm những trường hợp được quy định tại Điều 106, Điều 107 Luật phá
sản 2014:
+ Hội nghị chủ nợ được triệu tập lần 2 (sau khi hoãn lần 1) mà vẫn không
đáp ứng đủ điều kiện hợp lệ của Hội nghị chủ nợ thì doanh nghiệp, hợp tác xã mất
khả năng thanh toán bị tuyên bố phá sản (Điều 80 Khoản 3 Luật phá sản 2014)
+ Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ không thông qua được thì doanh nghiệp,
hợp tác xã mất khả năng thanh toán bị Tòa án tuyên bố phá sản (Điều 83 Khoản 4
Luật phá sản 2014)
+ Hội nghị chủ nợ về thông qua phương án phục hồi hoạt động kinh doanh
không tổ chức lại được hoặc không thông qua được Nghị quyết Hội nghị chủ nợ thì
doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán bị Tòa án tuyên bố phá sản (Điều
91 Khoản 7 Luật phá sản 2014).
+ Nghị quyết Hội nghị chủ nợ đề nghị tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã
mất khả năng thanh toán phá sản (Điều 83 khoản 1 điểm c Luật phá sản 2014)
+ Doanh nghiệp, hợp tác xã không xây dựng được phương án phục hồi hoạt
động kinh doanh trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày kể từ ngày thông qua Nghị
quyết Hội nghị chủ nơ có áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh thì doanh
nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản.
+ Hội nghị chủ nợ không thông qua được phương án phục hồi hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã thì doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố
phá sản.
+ Doanh nghiệp, hợp tác xã không thực hiện được phương án phục hồi hoạt
động kinh doanh thì bị tuyên bố phá sản.



11

Quyền của chủ nợ khi tham gia thủ tục phá sản trong trường hợp doanh
nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản theo thủ tục rút gọn hay theo thủ tục thông
thường nêu trên đều được quy định trong Luật phá sản 2014. Tuy nhiên chỉ có sự
khác biệt đó là, trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản theo thủ tục rút gọn thì
quyền của chủ nợ chỉ dừng lại ở quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản. Bởi vì
sau khi chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, nếu Tòa án xét thấy doanh
nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán thuộc trường hợp áp dụng thủ tục rút
gọn thì Tòa án sẽ thông báo cho những người tham gia thủ tục phá sản biết cũng
như tiến hành thủ tục rút gọn và tuyên bố phá sản. Quyền, lợi ích hợp pháp của chủ
nợ về việc đòi lại khoản nợ của mình trong trường hợp áp dụng thủ tục rút gọn sẽ
không được đáp ứng vì doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản không còn tiền, tài sản để
thanh toán. Việc áp dụng thủ tục phá sản rút gọn chỉ có ý nghĩa xóa nợ đối với con
nợ và chủ nợ, giúp cho nền kinh tế loại bỏ được những chủ thể kinh doanh yếu kém.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm của chủ nợ trong thủ tục phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã.
Thủ tục phá sản là thủ tục tố tụng tư pháp đặc biệt, trong đó có những chủ
thể tham gia vào thủ tục tố tụng này với những quyền, nghĩa vụ, vai trò và địa vị
pháp lý riêng biệt. Những chủ thể này bao gồm: Chủ nợ; Con nợ (doanh nghiệp,
hợp tác xã mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn); Quản tài viên và Doanh
nghiệp quản lý, thanh lý tài sản; Cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện thủ tục
phá sản (Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan thi hành án dân sự)
1.1.2.1. Khái niệm chủ nợ
Luật Phá sản được ban hành với mục đích bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của cả chủ nợ và doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ thông qua thủ tục tố tụng phá sản
được giải quyết tại Tòa án có thẩm quyền. Trong đó, những chế định để bảo vệ
quyền và lợi ích của chủ nợ được đặt lên hàng đầu, vì chủ nợ chính là chủ thể bị ảnh

hưởng bất lợi nhiều nhất khi doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản.
“Chủ nợ là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu doanh nghiệp, hợp
tác xã thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ, bao gồm chủ nợ không có bảo đảm,
chủ nợ có bảo đảm một phần và chủ nợ có bảo đảm” (Điều 4 Khoản 3 Luật phá sản
2014).


12

1.1.2.2. Phân loại chủ nợ
Về nguyên tắc thì mọi chủ thể đều bình đẳng trước pháp luật. Kể cả trong thủ
tục phá sản thì mọi chủ nợ đều bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ. Tuy
nhiên, quyền, lợi ích cũng như nghĩa vụ phải bảo đảm khi thực hiện thủ tục phá sản
đối với mỗi loại chủ nợ lại khác nhau. Vì vậy, cần phải phân loại chủ nợ để có thể
xác định được đúng, đầy đủ những quyền và lợi ích mà chủ nợ đáng được hưởng
theo những “hành lang” pháp lý bảo vệ tốt nhất.
Chủ nợ được phân loại dựa trên những tiêu chí sau:
a) Căn cứ vào chủ thể cho vay: có chủ nợ là tổ chức, chủ nợ là người lao
động trong doanh nghiệp mắc nợ, chủ nợ là Nhà nước, chủ nợ là cá nhân khác5.
Chủ nợ là tổ chức: đầu tiên có thể kể đến các tổ chức tín dụng. Trong quá
trình hoạt động, sản xuất, kinh doanh thì nhu cầu cần vốn để duy trì, mở rộng quy
mô cũng như hoạt động sản xuất, kinh doanh ở tất cả các doanh nghiệp tham gia
nền kinh tế đều có. Vì vậy, khi có nhu cầu thì nơi doanh nghiệp tìm đến đầu tiên là
các tổ chức tín dụng. Việc các doanh nghiệp vay tiền từ các tổ chức tín dụng thông
qua các hợp đồng tín dụng là điều rất phổ biến trong nền kinh tế. Do đó, các tổ chức
tín dụng sẽ là chủ nợ khi doanh nghiệp, hợp tác xã có những khoản vay từ tổ chức
tín dụng lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn có thể dẫn đến phá
sản.
Chủ nợ tiếp theo là các doanh nghiệp khác. Thông qua mối quan hệ vay nợ
hay thông qua quá trình thực hiện những hợp đồng, giao dịch thương mại giữa

những doanh nghiệp với nhau (ví dụ như việc thực hiện hợp đồng, giao dịch thương
mại sai, vi phạm thỏa thuận mà bị phạt hợp đồng) mà giữa những doanh nghiệp với
nhau có thể phát sinh mối quan hệ chủ nợ - doanh nghiệp mắc nợ.
Trong doanh nghiệp, hợp tác xã có sử dụng lao động thường tồn tại mối quan
hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động thông qua hợp đồng lao động.
Người lao động khi thực hiện đúng công việc của mình theo đúng cam kết tại hợp
đồng lao động đã kí kết thì người sử dụng lao động – doanh nghiệp có nghĩa vụ đảm
bảo cho người lao động được hưởng đầy đủ lương, bảo hiểm xã hội cũng như những
quyền, lợi ích vật chất khác. Tuy nhiên, khi doanh nghiệp, hợp tác xã sản xuất, kinh
doanh thua lỗ, lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản lương, lợi ích
5

Nguyễn Thái Tường (2014), Luận văn thạc sĩ “Vai trò của chủ nợ trong quá tình giải quyết phá sản doanh
nghiệp”,Trường Đại học Luật Hà Nội, tr 14-16


13

vật chất khác, thì việc doanh nghiệp nợ lương, không đáp ứng được đủ những
quyền, lợi ích vật chất cho người lao động có thể diễn ra. Khi doanh nghiệp, hợp tác
xã phá sản thì người lao động là chủ nợ bị ảnh hưởng trực tiếp, nặng nề nhất vì họ
sẽ thất nghiệp, không có nguồn thu nhập nuôi sống bản thân và gia đình.
Người lao động của doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản chính là chủ nợ của
những khoản lương, bảo hiểm xã hội, những khoản nợ khác gắn liền với những
quyền và lợi ích vật chất mà người lao động được hưởng theo thỏa thuận trong hợp
đồng lao động.
Một doanh nghiệp, hợp tác xã khi được thành lập, tiến hành hoạt động, sản
xuất, kinh doanh sẽ phải có nghĩa vụ kê khai, nộp thuế cho Nhà nước. Đây là nghĩa
vụ bắt buộc. Tuy nhiên, trong quá trình doanh nghiệp, hợp tác xã hoạt động, có thể
do rủi ro khách quan hay việc kinh doanh thua lỗ, kém hiệu quả mà doanh nghiệp,

hợp tác xã không thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước, dẫn đến tình trạng nợ
thuế. Do đó, khi doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng mất khả năng tài chính
để đóng các khoản thuế, thì Nhà nước sẽ trở thành chủ nợ của những khoản nợ thuế
của doanh nghiệp. Ngoài ra còn có những khoản nợ khác như nợ tiền điện, tiền
nước, tiền môi trường… mà Nhà nước cũng là chủ nợ.
Ngoài ra, thông qua nhiều mối quan hệ mà việc một cá nhân cho doanh
nghiệp, hợp tác xã vay tiền để phục vụ việc duy trì hoạt động, sản xuất, kinh doanh
hoàn toàn có thể xảy ra. Khi doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng mất khả
năng thanh toán các khoản nợ đến hạn thì những cá nhân cho doanh nghiệp, hợp tác
xã vay tiền cũng sẽ trở thành chủ nợ.
b) Căn cứ vào mối tương quan giữa khoản nợ và giá trị tài sản bảo đảm, có
chủ nợ không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần, chủ nợ có bảo đảm. Việc
phân chia chủ nợ được dựa trên mối tương quan giữa khoản nợ và giá trị tài sản bảo
đảm mà doanh nghiệp, hợp tác xã cầm cố, thế chấp cho chủ nợ bao gồm: chủ nợ
không có bảo đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần, chủ nợ có bảo đảm.
Chủ nợ không có bảo đảm là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu
doanh nghiệp, hợp tác xã phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ không được
bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba. Khi
doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn thì
chủ nợ không có bảo đảm sẽ là loại chủ nợ chịu ảnh hưởng nặng nề nhất; bởi khoản
cho vay của họ không được doanh nghiệp phá sản bảo đảm hay thế chấp bằng tài
sản gì. Khi doanh nghiệp, hợp tác xã bị tuyên bố phá sản, có thể họ còn bị mất trắng


14

khoản cho vay khi doanh nghiệp không đủ khả năng để trả nợ, vì thứ tự thanh toán
khoản nợ không có bảo đảm ở cuối cùng.
Chủ nợ có bảo đảm là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu doanh
nghiệp, hợp tác xã phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ được bảo đảm bằng

tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba. Trong ba loại chủ nợ
thì đây là loại chủ nợ có nhiều quyền, lợi ích nhất cũng như “an tâm” nhất khi
doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ
đến hạn. Việc chủ nợ có bảo đảm có được nhiều quyền, lợi ích cũng như “an tâm”
nhất xuất phát từ việc khoản cho vay của chủ nợ được doanh nghiệp, hợp tác xã
mắc nợ bảo đảm bằng tài sản cầm cố, thế chấp của doanh nghiệp. Giá trị của tài sản
được doanh nghiệp, hợp tác xã cầm cố, thế chấp thường lớn hơn khoản vay.
Chủ nợ có bảo đảm một phần là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu
doanh nghiệp, hợp tác xã phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ được bảo
đảm bằng tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc của người thứ ba mà giá trị tài
sản bảo đảm thấp hơn khoản nợ đó.
Bản chất của chủ nợ loại này là chủ nợ có bảo đảm, tuy nhiên chủ nợ có bảo
đảm một phần lại có quyền, lợi ích cũng như sự “an tâm” ít hơn so với chủ nợ có
bảo đảm; bởi vì tài sản doanh nghiệp mắc nợ dùng để cầm cố, thế chấp cho khoản
vay thường có giá trị nhỏ hơn khoản cho vay của chủ nợ.
1.2. Các quyền, lợi ích hợp pháp của chủ nợ
Tùy từng trường hợp cụ thể hay tùy từng giai đoạn của thủ tục phá sản doanh
nghiệp, hợp tác xã mà chủ nợ có những quyền lợi khác nhau.
1.2.1. Quyền, lợi ích hợp pháp của chủ nợ trong giai đoạn nộp đơn yêu cầu,
mở thủ tục phá sản.
- Quyền, lợi ích hợp pháp đầu tiên của chủ nợ, người lao động là có quyền
nộp đơn yêu cầu Tòa án mở thủ tục phá sản được quy định tại Điều 5, khoản 1, 2
Luật Phá sản (2014). Thủ tục phá sản chỉ được tiến hành từ khi có đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản và Luật Phá sản (2014) đã ưu tiên dành cho chủ nợ không có bảo
đảm, chủ nợ có bảo đảm một phần và người lao động quyền nộp đơn yêu cầu. Các
nhà làm luật đưa quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản của chủ nợ, người lao
động lên đầu tiên là bởi chủ nợ, người lao động sẽ là những chủ thể chịu ảnh hưởng
nặng nề và trực tiếp nhất khi doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng mất khả
năng thanh toán nợ đến hạn.



15

- Chủ nợ có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản có quyền kê khai
những khoản nợ đến hạn cần đòi. Chủ nợ là người lao động có quyền kê khai tổng
số tiền lương và các khoản nợ khác đến hạn mà doanh nghiệp, hợp tác xã không trả
cho người lao động. Những khoản kê khai đó đều phải có tài liệu chứng minh.
Trong đơn yêu cầu Tòa án mở thủ tục phá sản, chủ nợ và người lao động còn có
quyền đề xuất việc Tòa án chỉ định Quản tài viên hoặc doanh nghiệp quản lý, thanh
lý tài sản. Để bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của mình cũng như chứng
minh được yêu cầu mở thủ tục phá sản của mình là chính đáng thì không ai khác có
thể nắm và hiểu rõ các khoản nợ hơn chủ nợ. Do đó, các nhà làm luật đã dành cho
chủ nợ quyền tự kê khai và chứng minh khoản nợ.
- Chủ nợ có những quyền mà Luật Phá sản quy định cho những chủ thể có
quyền nộp đơn yêu cầu Tòa án mở thủ tục phá sản, tham gia vào thủ tục phá sản đều
có.
- Sau khi các chủ nợ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, Tòa án nhân dân
nhận được đơn sẽ phải phân công Thẩm phán giải quyết đơn. Thẩm phán được phân
công giải quyết sẽ phải xem xét đơn yêu cầu. Có bốn trường hợp có thể xảy ra:
a) Đối với đơn đủ điều kiện, hợp lệ thì Thẩm phán sẽ thông báo cho chủ thể
nộp đơn để nộp tiền tạm ứng phí.
b) Đối với đơn chưa đủ điều kiện, chưa hợp lệ thì Thẩm phán sẽ thông báo
để chủ thể nộp đơn sửa đổi, bổ sung đơn.
c) Đối với đơn không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì sẽ chuyển
đơn đến Tòa án có thẩm quyền giải quyết.
d) Trả lại đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản (nếu thuộc một trong những
trường hợp quy định tại Điều 35 Khoản 1 Luật phá sản 2014)
Trong vòng ba ngày kể từ khi nhận được quyết định chuyển đơn hay quyết
định trả lại đơn, chủ nợ là chủ thể nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản có quyền
nộp đơn đề nghị Chánh án Tòa án nhân dân cấp trên trực tiếp xem xét lại việc

chuyển đơn. Người yêu cầu mở thủ tục phá sản có quyền đề nghị xem xét lại với
Chánh án Tòa án nhân dân đã ra quyết định trả lại đơn yêu cầu.
- Khi chủ thể nộp đơn thỏa mãn đầy đủ các điều kiện thì Tòa án sẽ thụ lý đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản. Sau đó, Tòa án sẽ ra Quyết định mở hoặc không mở thủ
tục phá sản. Lúc này, chủ nợ còn có quyền đề nghị xem xét lại quyết định khi thấy
không hợp lý, không đúng pháp luật cũng như quyền, lợi ích của mình bị xâm
phạm.


16

- Nếu Tòa án ra Quyết định mở thủ tục phá sản thì Thẩm phán được phân
công giải quyết vụ việc cần phải chỉ định Quản tài viên hoặc doanh nghiệp quản lý,
thanh lý tài sản. Khi nhận thấy Quản tài viên hoặc doanh nghiệp quản lý, thanh lý
tài sản thuộc một trong những trường hợp được quy định tại Điều 46, khoản 1, thì
Thẩm phán sẽ phải ra Quyết định thay đổi Quản tài viên hoặc doanh nghiệp quản lý,
thanh lý tài sản. Chủ nợ lúc này có quyền làm đơn đề nghị Chánh án Tòa án nhân
dân có thẩm quyền xem xét lại quyết định thay đổi Quản tài viên, doanh nghiệp
quản lý, thanh lý tài sản.
Đối với những quyền đề nghị, yêu cầu xem xét lại các Quyết định của Tòa án
như đã nêu ở trên, các nhà làm luật muốn dành cho chủ nợ tự bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mình thông qua việc theo dõi giám sát các hoạt động, các Quyết định
của Tòa án. Nếu chủ nợ nhận thấy những Quyết định của Tòa án trong quá trình giải
quyết có biểu hiện sai phạm hoặc sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của mình thì chủ nợ
sẽ sử dụng quyền đề nghị, yêu cầu xem xét lại các Quyết định đó.
- Sau khi Tòa án nhận đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản hợp lệ thì chủ nợ còn
có quyền đề nghị bằng văn bản gửi Tòa án nhân dân để các bên thương lượng việc
rút đơn.
Quan hệ vay nợ tài sản giữa chủ nợ và doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ là
quan hệ tự do thỏa thuận. Vì vậy, Luật Phá sản (2014) đã có điểm tiến bộ hơn so với

Luật Phá sản (2004) là quy định thêm quyền thương lượng giữa hai bên. Đó chính
là sự tôn trọng tự do thỏa thuận giữa chủ nợ và doanh nghiệp, hợp tác xã mắc nợ,
mặc dù chủ nợ đã nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản.
- Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày Tòa án nhân dân thụ lý đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản, nếu xét thấy việc thực hiện hợp đồng đang có hiệu lực
và đang được thực hiện hoặc chưa được thực hiện sẽ có khả năng gây bất lợi cho
doanh nghiệp, hợp tác xã, thì chủ nợ có quyền yêu cầu Tòa án nhân dân ra quyết
định tạm đình chỉ thực hiện hợp đồng.
- Quyền yêu cầu Tòa án nhân dân có thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản ra
quyết định áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo toàn tài
sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán
- Quyền gửi giấy giấy đòi nợ và quyền khiếu nại về Danh sách chủ nợ.
1.2.2. Quyền, lợi ích hợp pháp của của chủ nợ khi tham gia hội nghị chủ nợ.
Khi tham gia Hội nghị chủ nợ, chủ nợ có quyền thực hiện những hoạt động
như:


17

- Biểu quyết thông qua việc cử Thư ký Hội nghị chủ nợ theo đề xuất của
Quản tài viên hay doanh nghiệp quản lý, thanh lý tài sản để ghi biên bản Hội nghị
chủ nợ.
- Chủ nợ hoặc người đại diện hợp pháp của chủ nợ trình bày về những vấn đề
cụ thể yêu cầu giải quyết, lý do, mục đích và căn cứ của việc yêu cầu giải quyết phá
sản.
- Thảo luận về các nội dung do Quản tài viên hoặc doanh nghiệp quản lý,
thanh lý tài sản đã thông báo và ý kiến của những người tham gia Hội nghị chủ nợ
- Quyền đề nghị Thẩm phán ra quyết định thay người đại diện hợp pháp của
doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán
- Quyền thành lập Ban đại diện chủ nợ

- Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ được thông qua khi có quá nửa tổng số chủ
nợ không có bảo đảm có mặt và đại diện cho 65% tổng số nợ không có bảo đảm trở
lên biểu quyết tán thành. Nghị quyết của Hội nghị chủ nợ có hiệu lực ràng buộc đối
với tất cả các chủ nợ. Như vậy, quyền biểu quyết tại Hội nghị chủ nợ chỉ được
giành cho chủ nợ không có bảo đảm – loại chủ nợ sẽ khó có thể thu hồi nợ được
một cách đầy đủ, do việc thanh toán nợ sẽ chỉ dựa trên phần tài sản còn lại của
doanh nghiệp cũng như phân chia theo thứ tự.
Hội nghị chủ nợ được thành lập là một phần không thể thiếu đối với việc giải
quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Hội nghị chủ nợ là nơi mà các chủ
nợ thể hiện tiếng nói cũng như vai trò của mình trong quá trình giải quyết phá sản
(quyền trình bày, thảo luận những vấn đề cần phải giải quyết) và là nơi để chủ nợ tự
quyết định về hậu quả pháp lý của thủ tục phá sản bởi vì Nghị quyết của Hội nghị
chủ nợ là căn cứ quan trọng trong việc Tòa án ra Quyết định giải quyết phá sản.
1.2.3. Quyền, lợi ích hợp pháp của chủ nợ khi thanh lý tài sản thu hồi nợ
- Nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán
các khoản nợ đến hạn có thể được xác định trước khi mở thủ tục phá sản hoặc xác
định sau khi mở thủ tục phá sản. Thời điểm xác định nghĩa vụ tài sản của doanh
nghiệp, hợp tác xã trước khi mở thủ tục phá sản là khi Tòa án ra quyết định mở thủ
tục phá sản. Thời điểm xác định nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã sau
khi mở thủ tục phá sản là khi Tòa án tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản.
- Quyền, lợi ích hợp pháp của chủ nợ có bảo đảm có thể được thực hiện ngay
sau khi mở thủ tục phá sản thông qua đề xuất của Quản tài viên, doanh nghiệp quản
lý, thanh lý tài sản với Thẩm phán thụ lý giải quyết.


18

- Còn sau khi Tòa án tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã phá sản thì việc thu
hồi nợ, phân chia tài sản của doanh nghiệp theo thứ tự luật định. Luật Phá sản
(2014) quy định thứ tự phân chia tài sản của doanh nghiệp như sau:

+ Chi phí phá sản;
+ Khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với
người lao động, quyền lợi khác theo hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập
thể đã ký kết;
+ Khoản nợ phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản nhằm mục đích phục hồi
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã;
+ Nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước; khoản nợ không có bảo đảm phải trả
cho chủ nợ trong danh sách chủ nợ; khoản nợ có bảo đảm chưa được thanh toán do
giá trị tài sản bảo đảm không đủ thanh toán nợ
Chi phí phá sản bao gồm: chi phí trả cho Quản tài viên, doanh nghiệp quản
lý, thanh lý tài sản; chi phí trả cho kiểm toán; chi phí đăng báo và các chi phí khác
theo quy định của pháp luật. Chi phí phá sản là khoản tiền để tiến hành thủ tục phá
sản. Chi phí phá sản được thanh toán từ giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã
mất khả năng thanh toán. Do đó, để đảm bảo thủ tục phá sản được tiến hành một
cách hanh thông không bị gián đoạn bởi vấn đề chi phí, thì sau khi Tòa án thụ lý
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, chủ thể nộp đơn sẽ phải nộp tạm ứng chi phí phá
sản. Khi phân chia tài sản còn lại của doanh nghiệp thì chi phí phá sản sẽ được
thanh toán ngay đầu tiên để đảm bảo chi phí phá sản sẽ được thanh toán đầy đủ
nhất.
Người lao động là đối tượng bị ảnh hưởng rất lớn từ việc doanh nghiệp, hợp
tác xã bị phá sản (người lao động không nhận được lương để duy trì cuộc sống, mất
việc làm, không có thu nhập…), vì vậy việc xử lý các khoản nợ đối với người lao
động cũng được ưu tiên và xếp ngay sau việc thanh toán chi phí phá sản. Điều này
thể hiện tinh thần của Luật phá sản (2014) là bảo vệ tối đa quyền, lợi ích hợp pháp
cho chủ thể yếu thế là người lao động.
Tiếp theo là khoản nợ phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản nhằm phục hồi
kinh doanh sẽ được thanh toán. Việc ưu tiên phân chia tài sản cho các chủ nợ mới
của khoản nợ mới phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản nhằm tạo tâm lý yên tâm
cho các chủ nợ mới đầu tư, kí kết với doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh



19

toán nợ đến hạn nhằm phục hồi kinh doanh. Bởi nếu không có sự đảm bảo việc ưu
tiên thanh toán thì sẽ không có chủ nợ nảo dám đầu tư, giao kết hợp động với một
doanh nghiệp, hợp tác xã đã có quyết định mở thủ tục phá sản. Khi đó, việc phục
hồi kinh doanh sẽ gặp nhiều khó khăn.
Cuối cùng là thanh toán các nghĩa vụ đối với Nhà nước (như là các khoản nợ
thuế chưa đóng, những khoản nợ tiền điện, nước trong quá trình sản xuất, kinh
doanh…), khoản nợ không có bảo đảm và khoản nợ có bảo đảm còn lại chưa được
thanh toán do giá trị của tài sản bảo đảm không đủ.6
1.3. Pháp luật của một số nước về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
chủ nợ trong thủ tục phá sản doanh nghiệp.
Trong điều kiện nền kinh tế toàn cầu hóa ngày nay, nhu cầu xây dựng và
hoàn thiện khung pháp luật về kinh tế nói chung và pháp luật về phá sản nói riêng
luôn được các quốc gia quan tâm, chú ý. Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước ta
cũng hết sức quan tâm đến việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, trong đó
có pháp luật liên quan đến phá sản. Để có thể hoàn thiện pháp luật về phá sản của
Việt Nam, những nhà lập pháp của nước ta cần phải tìm hiểu, tham khảo hệ thống
pháp luật về phá sản của các nước khác trên thế giới. Pháp luật phá sản của Việt
Nam cũng giống như các quốc gia khác đều có mục đích chính là bảo về quyền, lợi
ích hợp pháp của các chủ nợ chịu ảnh hưởng trực tiếp và nặng nề nhất khi doanh
nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản.
1.3.1. Pháp luật về phá sản ở Nhật Bản7
Luật Phá sản hiện nay của Nhật Bản có nguồn gốc từ một số luật như Luật
Thương mại số 48 năm 1899, Luật Phá sản số 48 năm 1900, Luật Tái tổ chức doanh
nghiệp số 172 năm 1952, và gần đây nhất là Luật về thỏa hiệp và Bộ luật Phục hồi
dân sự năm 2000. Sau nhiều lần sửa đổi, năm hệ thống pháp luật này được pháp luật
Nhật Bản quy định chung thành hai thủ tục là thủ tục thanh lý tài sản và thủ tục
phục hồi. Luật phá sản của Nhật Bản quy định: Khi khoản nợ của công ty vượt quá

tài sản của nó, thì được phép nói rằng công ty đó không có khả năng thanh toán nợ.
- Thủ tục thanh lý tài sản bao gồm phá sản, hasan (được điều chỉnh bởi Luật
Phá sản, giải quyết trường hợp thanh lý đặc biệt), tokubetsu-seisan (thỏa hiệp - được
6

Hà Thị Khánh Huyền (2015), Luận văn thạc sĩ “Xử lý tài sản của doanh nghiệp mất khả năng thanh toán nợ
đến hạn theo Luật phá sản 2014” Đại học Luật Hà Nội tr 49-51
7
/>

×