Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Pháp luật về cho vay của ngân hàng thương mại và thực tiễn thi hành tại ngân hàng TMCP phát triển tp hồ chí minh (HDBank)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.83 MB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ NHÀN

PHÁP LUẬT VỀ CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI NGÂN HÀNG TMCP
PHÁT TRIỂN TP HỒ CHÍ MINH (HDBANK)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8380107

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Ánh Vân

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn
đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

NGUYỄN THỊ NHÀN



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Ngân hàng TMCP Phát triển TP Hồ Chí Minh

:

HDBank

NHNN

:

Ngân hàng Nhà nước

NHTM

:

Ngân hàng thương mại

TCTD

:

Tổ chức tín dụng

TMCP

:


Thương mại cổ phần


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Trang
Bảng số 01 - Số lượng các tổ chức tín dụng của Việt Nam

:

14

:

22

:

23

Hình số 03 - Các bước thực hiện xếp hạng tín dụng tại HDBank

:

34

Hình số 04 - Tuyến phòng thủ rủi ro tại HDBank

:

37


(đến 31/12/2016)
Hình số 01 - Tổng tài sản của các ngân hàng thương mại cổ
phần
Hình số 02 - Biểu đồ lợi nhuận của HDBank từ năm 2013
đến năm 2017


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
Chƣơng 1 KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI.......................................................................................................... 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm cho vay của Ngân hàng thương mại .................................... 7
1.1.1. Khái niệm ..........................................................................................7
1.1.2. Đặc điểm ............................................................................................9
1.2. Pháp luật cho vay của Ngân hàng thương mại...................................................... 11
1.2.1. Khái niệm ........................................................................................11
1.2.2. Đặc điểm ..........................................................................................12
1.2.3. Nội dung ..........................................................................................14
1.3. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động cho vay tại Ngân
hàng thương mại ........................................................................................................................ 17
1.4. Vài nét về sự hình thành và phát triển của pháp luật cho vay của ngân hàng
thương mại.................................................................................................................................. 18
Chƣơng 2 THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT CHO VAY CỦA NGÂN
HÀNG THƢƠNG MẠI TẠI HDBANK ................................................................ 21
2.1. Vài nét về HDBank.................................................................................................. 21
2.1.1. Lịch sử hình thành phát triển của HDBank .....................................21
2.1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của HDBank ................................22
2.2. Kết quả thực thi pháp luật cho vay của Ngân hàng thương mại tại HDBank.... 23
2.2.1. Đa dạng các chủ thể tham gia quan hệ vay vốn ..............................23

2.2.2. Xây dựng bộ mẫu biểu hợp đồng tín dụng ......................................26
2.2.3. Xây dựng quy trình thẩm định khách hàng vay vốn .......................32
2.2.4. Thành lập các bộ phận chuyên trách kiểm soát hoạt động cho vay 36
2.2.5. Tuân thủ quy định về giới hạn cấp tín dụng, các đối tượng hạn chế
cấp tín dụng ........................................................................................................40
2.3. Những khó khăn, vướng mắc trong thi hành pháp luật cho vay của Ngân hàng
thương mại tại HDBank ............................................................................................................ 45


2.3.1. Điều kiện vay vốn ............................................................................45
2.3.2. Đăng ký, công khai, cung cấp thông tin hợp đồng theo mẫu ..........47
2.3.3. Hệ thống xếp loại tín dụng nội bộ ...................................................49
2.3.4. Hệ thống cảnh báo sớm rủi ro của khoản vay ....................................52
2.3.5. Thẩm quyền quyết định cho vay .....................................................53
2.4. Một số nguyên nhân dẫn tới những khó khăn vướng mắc trong thực thi
pháp luật cho vay của ngân hàng thương mại tại HDBank ............................................. 55
2.4.1. Nguyên nhân chủ quan từ HDBank .................................................55
2.4.2. Do sự bất cập của chính pháp luật cho vay của ngân hàng thương mại 56
Chƣơng 3 GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
THI PHÁP LUẬT VỀ CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI ........ 62
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về cho vay của Ngân hàng thương mại 62
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về cho vay của Ngân hàng thương mại ..... 64
3.2.1. Hoàn thiện quy định pháp luật về điều kiện cho vay ......................64
3.2.2. Hoàn thiện quy định pháp luật về đăng ký, công khai, cung cấp
thông tin hợp đồng theo mẫu ..............................................................................65
3.2.3. Xây dựng và hoàn thiện quy định pháp luật liên quan đến hệ thống
cảnh báo rủi ro sớm ............................................................................................67
3.2.4. Hoàn thiện quy định về thẩm quyền quyết định cho vay ................68
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cho vay của ngân hàng thương
mại tại HDBank ......................................................................................................................... 70

3.3.1. Nâng cao nhận thức, ý thức tuân thủ pháp luật cho vay của cán bộ
quản lý, điều hành ngân hàng .............................................................................70
3.3.2. Tuyên truyền phổ biến nội dung pháp luật, nâng cao ý thức tuân thủ pháp
luật và đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ tham gia quy trình cho vay của ngân hàng. .71
3.3.3. Tăng cường các hoạt động giám sát, kiểm tra, kiểm soát nội bộ về
việc tuân thủ các quy định về cho vay ...............................................................72
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tính đến ngày 31/12/2017, ở Việt Nam có khoảng 04 Ngân hàng thương mại
(NHTM) Nhà nước, 31 Ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP), 09 Ngân hàng
100% vốn nước ngoài, 02 Ngân hàng liên doanh, 49 chi nhánh ngân hàng nước
ngoài1, chưa kể đến các tổ chức tín dụng (TCTD) phi ngân hàng, tổ chức tài chính
vi mô, quỹ tín dụng nhân dân, so với quy mô nền kinh tế thì số lượng TCTD này là
tương đối cao. Trong khi hoạt động của các TCTD lại có ảnh hưởng không nhỏ đến
tính ổn định, bền vững của nền kinh tế nếu quản lý không tốt nên tại Chỉ thị số
02/CT-NHNN ngày 10/01/2017 về tăng cường bảo đảm an toàn hệ thống các
TCTD, tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại hệ thống các TCTD và xử lý nợ xấu, Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã nhấn mạnh việc tiếp tục khuyến khích, tạo điều
kiện cho các TCTD sáp nhập, hợp nhất, mua lại. Các nhà đầu tư có đủ điều kiện được
khuyến khích tham gia cơ cấu lại TCTD nhằm xử lý những đơn vị yếu kém, tăng quy
mô và nâng cao năng lực cạnh tranh. Với số lượng lớn, các TCTD là NHTM luôn
được ưu tiên hưởng các chính sách, pháp luật ưu đãi tạo đà trở thành đầu tàu trong
lĩnh vực tài chính ngân hàng kéo theo sự phát triển của toàn hệ thống ngân hàng.
Trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt nền kinh tế thị trường mới nổi như Việt
Nam thì các cá nhân, tổ chức đều có nhu cầu vay vốn phục vụ đời sống hàng ngày,

phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh, bởi vậy, để đáp ứng yêu cầu về vốn của bên
đi vay, Nhà nước nhất thiết phải ban hành một hành lang pháp lý để điều chỉnh quan hệ
vay vốn, giúp người vay tiếp cận dễ dàng với nguồn vốn vay ngân hàng, đồng thời tạo
điều kiện để các ngân hàng tiến hành hoạt động cho vay của mình một cách hợp pháp.
Ở Việt Nam hiện nay, hành lang pháp lý đã được xây dựng tương đối đầy đủ
đảm bảo cho sự phát triển của hoạt động cho vay. Tuy nhiên, bên cạnh những thành
công đạt được thì pháp luật cho vay nói chung và pháp luật cho vay của NHTM nói

1

/>20%25&rightWidth=0%25&showFooter=false&showHeader=false&_adf.ctrlstate=qkrz1yjjg_505&_afrLoop
=2819825160361000#%40%3F_afrLoop%3D2819825160361000%26centerWidth%3D80%2525%26leftWi
dth%3D20%2525%26rightWidth%3D0%2525%26showFooter%3Dfalse%26showHeader%3Dfalse%26_adf.
ctrl-state%3D3b8evvuz6_4


2
riêng đang bộc lộ nhiều thiếu xót, kém hiệu quả, chưa thực sự là động lực tạo ra sự
tăng trưởng tín dụng.
Thực tiễn thi hành Luật các TCTD 2010 và các văn bản điều chỉnh về hoạt
động cho vay của các NHTM trong thời gian qua phát sinh nhiều vấn đề tồn tại,
vướng mắc cần phải được sửa đổi bổ sung và khắc phục cho phù hợp với nhiệm vụ
điều chỉnh tốt các quan hệ cho vay. Việc chưa hoàn thiện các quy định về điều kiện
cho vay, quy định về thẩm quyền, mô hình cụ thể trong phê duyệt cho vay, cơ chế
ủy quyền trong quyết định cho vay; các hạn chế của hợp đồng tín dụng theo mẫu; sự
thiếu vắng các quy định về hệ thống cảnh báo rủi ro sớm, đã trở thành rào cản để phát
triển hoạt động cho vay nói riêng và các hoạt động tín dụng nói chung tạo ra sự lúng
túng cho các bên trong quan hệ cho vay thậm chí cơ quan thanh tra, kiểm tra cũng gặp
khó khăn nhất định khi áp dụng pháp luật cho vay.
Luận văn nghiên cứu pháp luật về cho vay của NHTM thông qua thực tiễn cho

vay tại một NHTM cổ phần cụ thể – Ngân hàng TMCP Phát triển TP Hồ Chí Minh
(HDBank) để chỉ ra các ưu điểm, hạn chế của pháp luật khi áp dụng vào thực tiễn,
từ đó đưa ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật. Để đạt được mục đích đó, việc lựa chọn đề tài “Pháp luật về cho vay
của Ngân hàng thƣơng mại và thực tiễn thi hành tại Ngân hàng TMCP Phát
triển Tp Hồ Chí Minh (HDBank)” để nghiên cứu là việc làm cần thiết, có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nhìn một cách tổng quan thì pháp luật về cho vay của NHTM là chủ đề được
một số nhà khoa học nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, cụ thể:
i. Luận án Tiến sỹ Luật học (2003) của Ngô Quốc Kỳ về “Hoàn thiện pháp luật
điều chỉnh hoạt động của NHTM trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam” nghiên cứu thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động của NHTM ở
Việt Nam và phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động của
NHTM ở Việt Nam, trong đó hoạt động cho vay chỉ được nghiên cứu dưới góc độ một
hoạt động cấp tín dụng của NHTM, vậy nên, việc nghiên cứu chưa được cụ thể và sâu
sắc. Mặt khác, do luận án được hoàn thành vào năm 2003 khi Luật TCTD năm 1997
vẫn còn hiệu lực nên một số các quy định pháp luật về NHTM cũng như thực tiễn hoạt


3
động của các NHTM đã thay đổi, một số giải pháp hoàn thiện đã được khắc phục cùng
với sự ra đời của Luật các TCTD năm 2010.
ii. Luận văn Thạc sỹ Luật học (2016) của Hoàng Thị Hải Yến về “Pháp luật về
cho vay và các biện pháp bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của NHTM ở
Việt Nam”; đã cho thấy những nội dung cơ bản về pháp luật cho vay, các biện pháp
bảo đảm tiền vay được sử dụng trong hoạt động cho vay của NHTM tại Việt Nam
qua đó có những đánh giá khách quan về pháp luật cho vay của NHTM. Tuy nhiên,
luận văn chưa gắn kết việc nghiên cứu pháp luật cho vay với một NHTM cụ thể nên
chưa rút ra được các hạn chế, vướng mắc trong quá trình áp dụng các quy định của

pháp luật sát với thực tiễn áp dụng pháp luật cho vay.
iii. Luận án Tiến sỹ Luật học (2017) của Nguyễn Ngọc Lương về “Pháp luật
điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại ở Việt Nam” đi
nghiên cứu pháp luật điều chỉnh tất cả các hình thức cấp tín dụng bao gồm: cho vay,
bảo lãnh, bao thanh toán, thẻ tín dụng,… pháp luật cho vay chỉ là một trong số đó,
vậy nên, công trình chưa đưa ra một các nhìn cụ thể về pháp luật cho vay mà là cái
nhìn tổng quan bao trùm toàn bộ hoạt động cấp tín dụng của NHTM ở Việt Nam.
Mặt khác việc nghiên cứu pháp luật điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng của các
NHTM nói chung mà không đi sâu vào thực tiễn áp dụng tại một NHTM cụ thể sẽ
chưa chỉ ra hết được các bất cập của pháp luật và khó khăn vướng mắc khi áp dụng
pháp luật cho vay ra sao.
iv. Bài nghiên cứu: “Những quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động cho
vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa” của tác giả Nguyễn Thành Long đăng trên
Tạp chí Luật học, Số 12/2007, nghiên cứu các quy định của pháp luật cho vay
nhưng chỉ gói gọn trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Doanh nghiệp vừa và nhỏ là
những doanh nghiệp có quy mô nhỏ về vốn, lao động hay doanh thu. Trong nền
kinh tế thì số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng rất lớn, chính sách của
Nhà nước cũng là ưu tiên phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ vậy nên pháp luật
hiện hành cũng có các quy định riêng biệt về hoạt động cho vay đối với loại hình này.
v. Bài nghiên cứu: “Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng cho vay trong lĩnh vực
ngân hàng” của tác giả Lương Khải Ân, đăng trên Tạp chí Luật học, Số 8/2016 chỉ
nghiên cứu về hình thức pháp lý của hoạt động cho vay là hợp đồng tín dụng.


4
Như vậy, điểm qua một số công trình khoa học và bài nghiên cứu trên cho thấy,
các nghiên cứu này mới chỉ xem xét, đánh giá một trong các khía cạnh nào đó của
pháp luật về cho vay hoặc nghiên cứu một cách tổng quát các hoạt động, các loại hình
cấp tín dụng của NHTM ở Việt Nam hoặc đã nghiên cứu về pháp luật cho vay nhưng
chưa nghiên cứu thực tiễn thi hành tại một ngân hàng cụ thể nên cũng chưa đánh giá

hết được những ưu điểm, hạn chế của pháp luật hiện hành khi áp dụng thực tiễn để
đưa ra được những giải pháp mang tính ứng dụng cao.
Việc nghiên cứu pháp luật cho vay của ngân hàng thương mại và thực tiễn thi
hành tại HDBank sẽ đưa ra cái nhìn toàn cảnh về pháp luật cho vay, nắm được các
kết quả và khó khăn vướng mắc khi áp dụng pháp luật cho vay vào HDBank, từ đó
đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật cho vay và nâng cao công tác thực
thi pháp luật.
3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực thi
pháp luật về cho vay tại HDBank trên cơ sở đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật và
thực trạng pháp luật; chỉ ra các nguyên nhân dẫn đến khó khăn vướng mắc; từ đó đề
xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm tạo ra một một hành lang pháp lý
thông thoáng nhưng vẫn đảm bảo an toàn rủi ro tín dụng; đồng thời đưa ra một số
giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cho vay.
- Phạm vi nghiên cứu: Pháp luật về hoạt động cho vay của NHTM trong
khuôn khổ pháp luật Việt Nam và thực tiễn thực thi pháp luật này tại HDBank.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
- Mục tiêu tổng quát: Hoàn thiện pháp luật về cho vay của NHTM nhằm tạo
môi trường pháp lý ổn định và tiên tiến thúc đẩy hoạt động cho vay của NHTM phát
triển ổn định và bền vững.
- Mục tiêu cụ thể: Trên nền tảng phân tích một số vấn đề lý luận về pháp luật
cho vay của NHTM, luận văn sẽ đánh giá thực trạng pháp luật cho vay của NHTM
ở Việt Nam gắn với việc thực thi pháp luật về cho vay của HDBank nhằm tìm ra
các tồn tại của hệ thống pháp luật cũng như các vướng mắc trong việc thực thi pháp
luật về cho vay trên thực tế. Qua đó, luận văn đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện


5
pháp luật về cho vay của NHTM và nâng cao hiệu quả thực thi mảng pháp luật này
trong thực tiễn.

5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Với yêu cầu của đề tài, cơ sở và giả thuyết nghiên cứu đã được phân tích, luận
văn cần trả lời được những câu hỏi sau đây:
(i) Hoạt động cho vay của NHTM là gì? Pháp luật về cho vay của NHTM là gì?
Tại sao phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động cho vay của NHTM?
(ii) Thực tiễn thi hành pháp luật về cho vay của NHTM tại HDBank đã đạt được
những kết quả gì, đặc biệt là còn những tồn tại nào cần khắc phục, hoàn thiện?
(iii) Nguyên nhân chủ quan, khách quan nào dẫn đến sự những khó khăn vướng
mắc trong quá trình thực thi pháp luật về cho vay của NHTM tại HDBank?
(iv) Giải pháp nào nhằm hoàn thiện pháp luật về cho vay của NHTM?
(v) Giải pháp nào có thể sử dụng để nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật cho
vay của ngân hàng thương mại tại HDBank?
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài được tiến hành trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong suốt quá trình nghiên cứu và trình
bày đề tài học viên đã kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học, cụ thể:
Phương pháp phân tích; Phương pháp tổng hợp; Phương pháp diễn giải – quy nạp;
Phương pháp lịch sử;….
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa khoa học: Luận văn là công trình nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện
và hệ thống các vấn đề lý luận về pháp luật cho vay của NHTM.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn nghiên cứu thực tiễn thi hành pháp luật tại một
ngân hàng thương mại có tốc độ tăng trưởng cao hàng đầu Việt Nam là HDBank
nhằm so sánh, đối chiếu với thực trạng pháp luật và tìm ra các tồn tại, bất cập của
pháp luật cũng như thực thi pháp luật về cho vay của NHTM Việt Nam hiện nay.
Qua đó, đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về cho vay và nâng cao
hiệu quả thực thi pháp luật cho vay của NHTM tại Việt Nam trong thời gian tới.
8. Bố cục (các chƣơng) của luận văn



6
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 03
chương như sau:
- Chương 1. Khái quát về pháp luật cho vay của Ngân hàng thương mại
- Chương 2. Thực tiễn thi hành pháp luật cho vay của Ngân hàng thương mại
tại HDBank
- Chương 3. Giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về
cho vay của Ngân hàng thương mại


7
Chƣơng 1
KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1.1. Khái niệm, đặc điểm cho vay của Ngân hàng thƣơng mại
1.1.1. Khái niệm
NHTM là một trong những định chế tài chính quan trọng nhất của hệ thống
ngân hàng nói riêng và hệ thống tài chính quốc gia nói chung. NHTM đã hình thành
tồn tại và phát triển hàng trăm năm gắn liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá.
Sự phát triển hệ thống NHTM đã có tác động rất lớn và quan trọng đến quá trình
phát triển của nền kinh tế hàng hoá, ngược lại kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ
đến giai đoạn cao nhất là nền kinh tế thị trường thì NHTM cũng ngày càng được
hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không thể thiếu được. Thông qua
hoạt động tín dụng thì NHTM tạo lợi ích cho người gửi tiền, người vay tiền và cho
cả ngân hàng thông qua việc thu lợi nhuận từ chênh lệch lãi suất giữa lãi suất cho
vay và lãi suất tiền gửi. Tại Việt Nam, NHTM được quy định tại Luật các TCTD
năm 2010, theo đó NHTM được định nghĩa “là loại hình ngân hàng được thực hiện
tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của
Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận”. Các hoạt động của NHTM được quy định cụ thể
tại Điều 98 Luật TCTD gồm: Nhận tiền gửi; Phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu,
tín phiếu, trái phiếu để huy động vốn trong nước và nước ngoài; Cấp tín dụng; Mở tài

khoản thanh toán cho khách hàng; Cung ứng các phương tiện thanh toán; Cung ứng
các dịch vụ thanh toán, trong đó, cho vay là một trong các hình thức cấp tín dụng
quan trọng, thường xuyên và mang lại lợi nhuận khổng lồ cho Ngân hàng.
Cho vay là hoạt động truyền thống của NHTM và thường chiếm tỷ lệ cao nhất
trong tỷ trọng tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất và cũng là hoạt động mang
lại rủi ro cao nhất. Đây là hình thức cấp tín dụng mà theo đó NHTM giao cho khách
hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo
thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả gốc cả gốc và lãi.
Cho vay là một hiện tượng kinh tế khách quan, xuất hiện khi trong xã hội có
tình trạng tạm thời thừa vốn ở một số chủ thể nhưng lại tạm thời thiếu vốn ở một số
chủ thể khác, quan hệ cho vay sẽ đẩy dòng vốn từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn


8
và khắc phục tình trạng mất cân bằng về vốn trong xã hội. Khái niệm cho vay, theo
nghĩa chung nhất được hiểu là việc một người thỏa thuận để cho người khác được
quyền sử dụng tài sản (vật cùng loại, chủ yếu là tiền) của mình trong một thời gian
nhất định với điều kiện có hoàn trả, dựa trên cơ sở sự tin tưởng hay tín nhiệm của
mình đối với người đó.
Cho vay với tư cách là một loại hình tín dụng vì vậy cũng có những đặc điểm
chung với đặc điểm của tín dụng. Việc nghiên cứu khái niệm cho vay trước hết
được xem xét thông qua việc tìm hiểu khái niệm về tín dụng.
Theo các nhà nghiên cứu luật pháp của trường Đại học tổng hợp Oxford: “Tín
dụng là sự thỏa thuận của việc trả một khoản nợ. Theo Luật Tín dụng 1974, tín
dụng cũng bao gồm bất kỳ khoản vay bằng tiền mặt nào khác”2. Dưới góc độ luật
pháp tín dụng nhấn mạnh đến nghĩa vụ trả nợ của bên vay với bên cho vay.
Như vậy, tín dụng theo định nghĩa trên không chỉ ra cụ thể ai là người có vốn,
ai là người cần vốn mà chỉ nêu lên bản chất của quan hệ vay mượn là quan hệ có
hoàn trả gốc và lãi.
Luật các TCTD 2010 quy định“Cấp tín dụng là việc thỏa thuận để tổ chức, cá

nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép sử dụng một khoản tiền theo
nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao
thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác”. Với quy định
này của Luật các TCTD thì bản chất của quan hệ tín dụng vẫn không thay đổi là một
quan hệ dựa trên nguyên tắc hoàn trả (bao gồm cả gốc và lãi).
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, do vậy, bản chất của cho vay cũng dựa
trên nguyên tắc hoàn trả. Bên cho vay sẽ để bên đi vay sử dụng một khoản tiền của
mình trong một khoảng thời gian sau đó bên đi vay phải hoàn trả lại khoản tiền vay
cùng với khoản lãi theo thỏa thuận.
Ở thế kỷ XVII- XVIII, Montesquieu trong Cuốn “Tinh thần pháp luật” của
ông xuất bản năm 1748 đã ghi nhận rằng hoạt động cho vay và thế chấp được nhà

2

Nguyễn Ngọc Lương (2017), Pháp luật điều chỉnh hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng thương mại ở
Việt Nam, Luân án Tiến sỹ Luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr.33, trích trong tài liệu : “Oxford New
York, Dictionary of Law, The World’s most trusted reference books, Fifth Edition, Edited by Elizabeth
A.Martin, Oxford University Press, 2002, page 127.


9
độc tài César cho phép người vay được trả nợ cho chủ nợ bằng những ô đất tính
theo giá trị trước ngày nội chiến3. Theo đó, Montesquieu đã đề cập đến việc cho vay
và trả nợ như lẽ tất nhiên trong quan hệ thương mại.
Các nhà kinh tế học mác-xít quan niệm: “Đem tiền cho vay với tư cách là một
việc có đặc điểm là sẽ quay trở về điểm xuất phát của nó mà vẫn giữ nguyên vẹn giá
trị của nó đồng thời lại lớn lên thêm trong quá trình hoạt động”4. Như vậy, các nhà
kinh tế mác-xít đã chỉ ra được nguyên tắc hoàn trả và mục đích thu lợi nhuận trong
quan hệ cho vay.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, cho vay được định nghĩa ở cả Luật các

TCTD 2010 (tại khoản 16, Điều 4 ) và Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30
tháng 12 năm 2016 quy định về hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài đối với khách hàng (tại khoản 1 Điều 2) “Cho vay là hình
thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một
khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo
thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”6.
Theo định nghĩa của Luật các TCTD thì cho vay được hiểu là một hình thức
cấp tín dụng, trong cho vay, TCTD giao một khoản tiền hoặc cam kết giao một
khoản tiền nhất định trong một thời gian nhất định cho bên đi vay, để dùng vào một
mục đích nhất định, bên đi vay phải hoàn trả lại cả gốc và lãi khi đến hạn, khoản
tiền vay được chuyển giao trực tiếp cho bên vay.
1.1.2. Đặc điểm
Hoạt động cho vay của NHTM có vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển
bền vững nền kinh tế và hội nhập nền kinh tế thế giới, không chỉ mang lại lợi nhuận
cao cho chính NHTM mà còn là nguồn cấp vốn cho cá nhân, doanh nghiệp, công cụ
hỗ trợ thực hiện các chính sách kinh tế của Nhà nước.
Hoạt động cho vay của NHTM khác so với hoạt động cho vay của các đối tượng
cho vay khác, do vậy, hoạt động cho vay của NHTM có các đặc điểm đặc trưng sau:

3

Montesquieu. Tinh thần pháp luật, Nhà xuất bản giáo dục, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn –
Khoa Luật, 1996, tr.64
4
Phan Thị Cúc (2008), Nghiệp vụ ngân hàng thương mại, Nxb Thống kê, TP Hồ Chí Minh, tr.52
6
Khoản 1 Điều 2 Thông tư số 39/2016/TT-NHNN


10

Thứ nhất, trong hoạt động cho vay luôn xuất hiện hai bên chủ thể tham gia, đó là:
chủ thể đi vay và chủ thể cho vay, nhưng không phải chủ thể nào cũng có thể tham gia
vào quan hệ vay vốn, các điều kiện về chủ thể tham gia quan hệ vay vốn được luật
định. Trong quan hệ cho vay của NHTM thì chủ thể cho vay chính là các NHTM được
phép cấp tín dụng theo quy định của pháp luật và chủ thể đi vay là cá nhân, pháp nhân
có nhu cầu về vốn, đáp ứng đủ điều kiện vay vốn theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, hình thức pháp lý của quan hệ cho vay là hợp đồng tín dụng. Về lý
thuyết, hợp đồng tín dụng trong quan hệ cho vay cũng được hai bên chủ thể tự do
thỏa thuận, tuy nhiên, để bảo đảm tính an toàn của hệ thống TCTD thì sự thỏa thuận
này đang phải dựa trên các điều khoản bắt buộc phải có của một hợp đồng tín dụng,
tức là ngoài các điều khoản luật định, các bên có thể tự do thỏa thuận các nội dung
khác không trái luật. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 23 Thông tư số 39/2016/TTNHNN ngày 30 tháng 12 năm 2016 thì các điều khoản bắt buộc phải có trong hợp
đồng tín dụng bao gồm: Thông tin các bên; Số tiền cho vay; Mục đích sử dụng vốn;
Đồng tiền cho vay, đồng tiền trả nợ; Phương thức cho vay; Thời hạn cho vay; Lãi
suất cho vay; Giải ngân vốn cho vay; Việc trả nợ gốc, lãi tiền vay và thứ tự thu hồi
nợ gốc, lãi tiền vay; trả nợ trước hạn; Cơ cấu lại thời hạn trả nợ; Trách nhiệm của
khách hàng; Các trường hợp chấm dứt cho vay; thu nợ trước hạn; chuyển nợ quá
hạn; Xử lý nợ vay, phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại, quyền và trách nhiệm của
các bên; Hiệu lực của hợp đồng tín dụng. Sở dĩ, Thông tư số 39/2016/TT-NHNN
ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định các điều khoản bắt buộc phải có trong hợp đồng
tín dụng (thỏa thuận cho vay) vì quan hệ cho vay là quan hệ phức tạp luôn tiềm ẩn rủi
ro nên việc thỏa thuận giữa các bên về các nội dung tối thiểu theo luật định sẽ là cơ sở
để các bên bảo vệ quyền lợi của mình và cũng là cơ sở để cơ quan giải quyết tranh
chấp thực thi pháp luật. Ngoài các điều khoản bắt buộc thì tại khoản 2 Điều 23 của
Thông tư số 39/2016/TT-NHNN ngày 30 tháng 12 năm 2016 cũng quy định về các
điều khoản tùy nghi trong hợp đồng tín dụng như sau “các bên có thể thỏa thuận các
nội dung khác phù hợp với quy định tại Thông tư này và quy định của pháp luật có
liên quan”. Bản chất của quan hệ dân sự là tự do thỏa thuận mà quan hệ cho vay cũng
là một quan hệ dân sự nên các bên tham gia vào quan hệ cho vay cũng được tự do
thỏa thuận các nội dung không trái luật. Các nội dung bắt buộc phải có trong hợp



11
đồng tín dụng theo quy định của pháp luật thì khi thỏa thuận hợp đồng tín dụng các
bên bắt buộc phải thỏa thuận các nội dung đó, còn các nội dung, điều khoản các bên
được phép tùy nghi thì các bên nếu thỏa thuận được thì đưa vào hợp đồng tín dụng,
không có cũng không ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng.
Thứ ba, mục đích của hoạt động cho vay của NHTM là tạo ra lợi nhuận, đây
chính là điểm đặc trưng để phân biệt hoạt động cho vay của NHTM với hoạt động
cho vay của NHNN. Trong hoạt động cho vay của NHNN cho khách hàng là các
TCTD, NHNN hướng đến mục tiêu là cung ứng vốn cho các TCTD nhằm thực hiện
chính sách tiền tệ quốc gia, còn đối với hoạt động cấp tín dụng của NHNN cho
chính phủ là nhằm thực hiện chính sách tài khóa, giúp chính phủ bù đắp tiền thiếu
hụt ngân sách tạm thời.
Thứ tư, nguồn vốn thực hiện hoạt động cho vay, bên cạnh vốn điều lệ, NHTM
chủ yếu dựa vào nguồn vốn huy động từ các tổ chức, cá nhân trong xã hội thông
qua các hình thức nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá hay vay vốn từ các TCTD
khác và NHNN.
Đi sâu phân tích các đặc điểm của hoạt động cho vay là cơ sở để các nhà làm
luật xây dựng các quy định điều tiết hoạt động cho vay của các NHTM nói riêng và
TCTD nói chung nhằm giảm thiểu rủi ro và quản lý tốt hơn, góp phần thúc đẩy sự
phát triển của nền kinh tế vĩ mô.
1.2. Pháp luật cho vay của Ngân hàng thƣơng mại
1.2.1. Khái niệm
Vai trò tích cực của pháp luật trong việc điều chỉnh các mối quan hệ xã hội
phát sinh trong đời sống hàng ngày là điều không thể phủ nhận, cùng với sự đa
dạng, phức tạp của các mối quan hệ xã hội thì tất yếu pháp luật cũng ngày càng phải
hoàn thiện, đổi mới để đáp ứng các yêu cầu mới. Nhà nước muốn quản lý đời sống
kinh tế - chính trị - xã hội hiệu quả thì cần phải chú trọng đầu tư và phát huy vai trò
của công cụ pháp luật. Với vai trò quan trọng trong nền kinh tế thì hoạt động cho

vay của các NHTM đang được nhà làm luật đặc biệt chú ý để đảm bảo NHTM thực
hiện tốt vai trò lưu thông nguồn vốn và cung cấp nguồn vốn cho các cá nhân, tổ
chức có nhu cầu vốn để tiêu dùng, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh,…


12
Pháp luật cho vay của NHTM có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh các
quan hệ cho vay phát sinh trong lĩnh vực ngân hàng, việc nghiên cứu thực tiễn hoạt
động cho vay để xây dựng các quy phạm pháp luật cho vay sẽ giúp các NHTM dễ
dàng trong việc áp dụng các quy định của pháp luật vào hoạt động cho vay, bảo
đảm tính an toàn rủi ro của toàn bộ hệ thống ngân hàng trong khi tăng trưởng tín
dụng vẫn ở mức cao và ổn định; đồng thời tạo điều kiện để các chủ thể vay có thể
tiếp cận dễ dàng hơn với nguồn vốn vay của NHTM.
Dựa trên khái niệm cho vay được làm sáng tỏ trong mục 1.1.1 nêu trên, có thể
đưa ra khái niệm pháp luật cho vay như sau: Pháp luật cho vay của Ngân hàng
thương mại là tổng thể các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình thực hiện chức
năng quản lý nhà nước đối với hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại và
những quan hệ hình thành trong quá trình các ngân hàng thương mại thực hiện hoạt
động cho vay đối với khách hàng.
Theo khái niệm trên thì pháp luật cho vay của NHTM vừa là công cụ để Nhà
nước thực hiện chức năng quản lý với hoạt động cho vay của các NHTM vừa là
công cụ để Nhà nước bảo vệ quyền lợi của các chủ thể tham gia vào quan hệ cho
vay, với mục đích tối thượng là tạo ra đà cho tín dụng tăng trưởng, kéo theo sự phát
triển của nền kinh tế.
1.2.2. Đặc điểm
Pháp luật về cho vay của NHTM có một số đặc điểm như sau:
Một là, pháp luật cho vay của NHTM bao gồm các quy phạm pháp luật điều
chỉnh quan hệ cho vay giữa bên cho vay là NHTM và bên đi vay là cá nhân, pháp
nhân thỏa mãn các điều kiện vay vốn luật định. Không phải bất kỳ cá nhân, tổ chức

nào cũng có thể tham gia vào quan hệ cho vay, bởi tính nhạy cảm của quan hệ này,
pháp luật đã quy định rất rõ về điều kiện chủ thể với cả bên cấp tín dụng và bên
được cấp tín dụng. Trong quan hệ cho vay của NHTM, thì bên cấp tín dụng
(NHTM) là một đối tượng đặc thù chịu sự điều chỉnh của Luật các TCTD và các
văn bản hướng dẫn thi hành, còn bên được cấp tín dụng là cá nhân, pháp nhân thỏa
mãn các quy định của pháp luật dân sự về năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành


13
vi dân sự và các điều kiện khác về độ tuổi, mục đích sử dụng vốn, phương án sử
dụng vốn, khả năng tài chính để trả nợ.
Hai là, pháp luật cho vay của NHTM bảo vệ lợi ích của cả hai bên tham gia
vào quan hệ vay vốn, bên cho vay tuân thủ các quy định của pháp luật cho vay sẽ
đạt được mục đích cho vay là lợi nhuận đồng thời giảm thiểu rủi ro trong cho vay;
bên đi vay tuân thủ quy định cho vay được pháp luật bảo vệ quyền lợi với tư cách
người tiêu dùng. Thông qua việc bảo vệ quyền lợi của các bên trong quan hệ cho
vay, Nhà nước sẽ thực hiện được chức năng quản lý hoạt động cho vay bằng pháp
luật.
Ba là, pháp luật cho vay của NHTM quy định hình thức pháp lý của hoạt
động cho vay là hợp đồng tín dụng, bên vay và bên cho vay trong quan hệ cho vay
sẽ thực hiện ký kết hợp đồng tín dụng trên cơ sở đồng thuận của hai bên về các nội
dung được thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
Bốn là, pháp luật cho vay của NHTM thường quy định các nội dung chủ yếu
sau:
- Nguyên tắc cho vay, vay vốn
- Điều kiện, phương thức vay vốn
- Trình tự, thủ tục vay vốn
- Nội dung thỏa thuận trong vay vốn
Hoạt động cho vay là một hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro nên các nhà làm
luật khi xây dựng pháp luật cho vay đặc biệt là pháp luật cho vay của các NHTM

đều phải cân nhắc thận trọng. Do NHTM chiếm số lượng lớn trong hệ thống
TCTD nên bất kể sự thay đổi nào của pháp luật cũng sẽ ảnh hưởng đến hoạt động
của các NHTM nói riêng và các tổ chức tín dụng nói chung.
Pháp luật cho vay càng hoàn thiện thì càng phát huy được vai trò của hoạt động
cho vay của NHTM đối với nền kinh tế. Mọi hoạt động ngân hàng đều được tiến
hành trên cơ sở pháp luật và hoạt động cho vay cũng không nằm ngoài sự điều
chỉnh của pháp luật. Hoạt động cho vay giúp luân chuyển dòng tiền trong xã hội,
pháp luật cho vay tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc để dòng tiền đó được luân
chuyển một cách phù hợp với các chính sách vi mô, vĩ mô và tình trạng của nền
kinh tế.


14
Bảng số 01 – Số lƣợng các tổ chức tín dụng của Việt Nam (đến 31/12/2016)7

1.2.3. Nội dung
Pháp luật cho vay của NHTM bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ phát sinh trong hoạt động cho vay của NHTM, các quy phạm chủ yếu như sau:
Một là, các quy phạm về trình tự, thủ tục cho vay bao gồm các quy định về
điều kiện vay vốn, quy định về thẩm định và quyết định cho vay.
NHTM chỉ được quyết định cho vay khi khách hàng có đủ các điều kiện theo
luật định bao gồm: điều kiện về độ tuổi, về năng lực hành vi, về năng lực pháp luật
dân sự; mục đích sử dụng vốn hợp pháp; phương án sử dụng vốn khả thi; có khả
năng tài chính để trả nợ (Điều 7, Thông tư 39/2016/TT-NHNN). Khách hàng là
pháp nhân có năng lực pháp luật dân sự theo quy định của pháp luật được NHTM
xem xét, quyết định cho vay. Năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân phát sinh từ
thời điểm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập hoặc cho phép thành
lập; nếu pháp nhân phải đăng ký hoạt động thì năng lực pháp luật dân sự của pháp
nhân phát sinh từ thời điểm ghi vào sổ đăng ký và chỉ chấm dứt kể từ thời điểm
7


Ngân hàng Nhà nước (2017), Báo cáo thường niên 2016, tr. 18


15
chấm dứt pháp nhân (Khoản 2 và Khoản 3 Điều 86 Bộ Luật Dân sự 2015). Đối với
khách hàng cá nhân, NHTM xem xét, quyết định cho vay khi cá nhân từ đủ 18 tuổi
trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật hoặc từ đủ 15
tuổi đến chưa đủ 18 tuổi không bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự theo
quy định của pháp luật. Quy định về độ tuổi của khách hàng cá nhân này là phù hợp
với quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, bởi lẽ, Bộ Luật Dân sự quy định “Người
từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch
dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và
giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp
luật đồng ý” (khoản 4 Điều 21). Khách hàng cá nhân chưa có năng lực hành vi dân
sự đầy đủ ở trong độ tuổi từ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi không bị mất năng lực hoặc
hạn chế năng lực hành vi dân sự hoàn toàn có thể tiếp cận nguồn vốn vay của ngân
hàng nếu ngân hàng đồng ý cho vay. Ngoài các quy định về chủ thể cho vay kể trên,
thì điều kiện vay vốn còn được cấu thành bởi các điều kiện về mục đích sử dụng
vốn; phương án sử dụng vốn; khả năng tài chính để trả nợ, để quá trình xem xét các
điều kiện này được nhanh chóng, thuận tiện và đúng quy định của pháp luật các
NHTM chủ động xây dựng cho mình các quy định nội bộ để định lượng cụ thể các
điều kiện trên.
NHTM quyết định cho vay sau khi thẩm định khả năng đáp ứng các điều kiện
vay vốn kể trên của khách hàng, tuy nhiên, việc xét duyệt cho vay phải tuân theo
nguyên tắc phân định trách nhiệm giữa khâu thẩm định và quyết định cho vay. Việc
phân định trách nhiệm giữa khâu thẩm định và quyết định cho vay là nguyên tắc
nhằm đảm bảo tính độc lập giữa người thẩm định và người quyết định cho vay, tính
độc lập này giúp khoản vay được xem xét kỹ càng về tính xác thực, hợp lý, hợp pháp.
Hai là, các quy phạm về hợp đồng tín dụng bao gồm quy định hình thức của

hợp đồng tín dụng; quy định về nội dung hợp đồng tín dụng (loại cho vay; đồng tiền
cho vay, trả nợ; mức cho vay; thời hạn cho vay; lãi suất cho vay; phí liên quan đến
hoạt động cho vay; bảo đảm tiền vay; cung cấp thông tin; trả nợ gốc và lãi tiền vay;
cơ cấu lại thời gian trả nợ; nợ quá hạn; chấm dứt cho vay, xử lý nợ, miễn, giảm lãi
tiền vay, phí; kiểm tra sử dụng tiền vay; phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại,…).


16
Thông tư số 39/2016/TT-NHNN tại Điều 23 quy định về hình thức của hợp
đồng tín dụng là phải được lập thành văn bản. Về nội dung: các bên trong hợp đồng
tín dụng bắt buộc phải thỏa thuận các nội dung được quy định tại khoản 1 Điều 23
của Thông tư số 39/2016/TT-NHNN. Ngoài ra, các bên còn có thể thỏa thuận các nội
dung khác phù hợp với quy định của pháp luật cho vay. Quy định về hình thức và nội
dung của hợp đồng tín dụng là bắt buộc nhưng phù hợp với tầm quan trọng và thực
trạng hoạt động cho vay ở Việt Nam hiện nay nhằm bảo vệ các bên trong quan hệ cho
vay nhưng vẫn tôn trọng sự thỏa thuận của các bên trong quan hệ này.
Ba là, các quy phạm về hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay bao gồm các
quy định về duy trì tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay; quy định về hạn
chế cho vay, cấm cho vay; quy định về thiết lập hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội
bộ; các quy định về hệ thống thông tin tín dụng,…Các quy phạm về hạn chế rủi ro
trong hoạt động cho vay chủ yếu là các quy phạm bắt buộc như nhóm quy định về
các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn, quy định về đối tượng hạn chế cho vay, cấm
cho vay, các NHTM vi phạm sẽ bị áp dụng các chế tài theo quy định của pháp luật.
Thông tư số 36/2014/TT-NHNN quy định về các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an
toàn trong hoạt động mà các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải thường
xuyên duy trì, bao gồm: (i)Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, trừ tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu
áp dụng đối với ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài theo quy định riêng của
Ngân hàng Nhà nước; (ii) Hạn chế, giới hạn cấp tín dụng; (iii) Tỷ lệ khả năng chi trả;
(iv) Tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung hạn và dài
hạn; (v) Tỷ lệ mua, đầu tư trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh;

(vi) Giới hạn góp vốn, mua cổ phần; (vii) Tỷ lệ dư nợ cho vay so với tổng tiền gửi.
Luật các TCTD 2010 tại Điều 126 chỉ rõ các đối tượng không được cấp tín
dụng gồm: (i) Thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng thành viên, thành
viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó giám
đốc) và các chức danh tương đương của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài,
pháp nhân là cổ đông có người đại diện phần vốn góp là thành viên Hội đồng quản
trị, thành viên Ban kiểm soát của TCTD là công ty cổ phần, pháp nhân là thành viên
góp vốn, chủ sở hữu của TCTD là công ty trách nhiệm hữu hạn; (ii) Cha, mẹ, vợ,
chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng thành viên, thành


17
viên Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó giám
đốc) và các chức danh tương đương.
Quy định về các đối tượng hạn chế cấp tín dụng theo quy định tại Điều 127
Luật các TCTD 2010 gồm: (i) Tổ chức kiểm toán, kiểm toán viên đang kiểm toán
tại TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; thanh tra viên đang thanh tra tại TCTD,
chi nhánh ngân hàng nước ngoài; (ii) Kế toán trưởng của TCTD, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài; (iii) Cổ đông lớn, cổ đông sáng lập; (iv) Doanh nghiệp có một
trong những đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 126 của Luật này sở hữu trên 10%
vốn điều lệ của doanh nghiệp đó; (v) Người thẩm định, xét duyệt cấp tín dụng; (vi)
Các công ty con, công ty liên kết của TCTD hoặc doanh nghiệp mà TCTD nắm
quyền kiểm soát.
Hệ thống kiểm tra, kiểm toán giám sát nội bộ được xây dựng nhằm hạn chế rủi
ro trong hoạt động cho vay. Pháp luật đưa ra các nội dung, yêu cầu các NHTM phải
tự xây dựng cho mình các bộ phận kiểm tra, kiểm soát nội bộ, tuân thủ các báo cáo
đánh giá, chịu sự kiểm tra, kiểm soát của cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng, phải
thực hiện chuẩn hóa các quy trình tín dụng,…
Việc xác định các nội dung này trong cấu trúc pháp luật về cho vay sẽ tạo
tiền đề lý luận cho việc đánh giá thực trạng pháp luật về cho vay sẽ được phân tích

ở chương 2.
1.3. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động cho vay
tại Ngân hàng thƣơng mại
Trong nền kinh tế thị trường nhu cầu về vốn của các tổ chức, cá nhân không
hề nhỏ nhằm giải quyết các nhu cầu trong cuộc sống cá nhân cũng như quá trình sản
xuất kinh doanh, khi đó NHTM là kênh cung cấp nguồn vốn nhanh chóng và hiệu
quả dưới hình thức cho vay. Hoạt động cho vay không chỉ mang lại lợi nhuận cho
các NHTM mà đối với các cá nhân, tổ chức đi vay vốn việc sử dụng nguồn vốn vay
của NHTM đáp ứng yêu cầu trước mắt là sự thiếu hụt vốn, tạo ra cơ hội để cá nhân,
tổ chức đi vay có thể sử dụng vốn vay để phục vụ nhu cầu đời sống, mở rộng hoạt
động sản xuất kinh doanh sinh lợi nhuận, thông qua đó gián tiếp thúc đẩy sự gia
tăng chất lượng cuộc sống, sự tăng trưởng của nền kinh tế đất nước.


18
Với vai trò quan trọng của hoạt động cho vay đối với các NHTM nói riêng và
với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước nói chung, thì sự cần thiết phải xây
dựng một hệ thống pháp luật để điều chỉnh hoạt động cho vay tại NHTM là điều
đương nhiên, việc làm này sẽ góp phần tạo ra một hành lang pháp lý để các bên
trong quan hệ cho vay dễ dàng tiếp cận và tìm kiếm lợi ích.
Hoạt động cho vay được coi là hoạt động quan trọng của NHTM góp phần tạo ra
nguồn lợi duy trì hoạt động của NHTM nhưng lại luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro lớn, tính rủi
ro này bắt nguồn từ đặc thù của đối tượng nghiệp vụ cho vay là tiền tệ - một loại hàng
hóa có tính nhạy cảm và rủi ro cao. Việc thu hồi vốn của NHTM thường phải phụ
thuộc vào khả năng kinh doanh và thiện chí trả nợ của khách hàng.
Trong nền kinh tế thị trường, các hiện tượng như phá sản, mất khả năng thanh
khoản là hệ quả tất yếu của các quy luật cạnh tranh, điều này làm tăng nguy cơ rủi
ro cho hoạt động cho vay, tính rủi ro và phản ứng dây chuyền từ hoạt động cho vay
của NHTM sẽ ảnh hưởng xấu cho toàn hệ thống ngân hàng sau đó lan rộng sang cả
nền kinh tế. Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng sự khủng hoảng của nền kinh tế của

một nước hay một khu vực trên thế giới đều bắt nguồn từ sự sụp đổ của hệ thống tài
hính ngân hàng của nước đó.
Vậy nên, pháp luật cho vay sẽ là công cụ để hạn chế rủi ro, bảo đảm an toàn,
lành mạnh cho hoạt động cho vay của NHTM nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên
khi tham gia vào hoạt động cho vay đồng thời bảo đảm thị trường tiền tệ vận hành
an toàn, lành mạnh và hiệu quả.
Từ những lý do trên đây, việc cần thiết phải tạo ra một hành lang pháp lý để
kiểm soát, đảm bảo an toàn hoạt động cho vay nói riêng và hoạt động của các
TCTD nói chung, đồng thời pháp luật cho vay với các chế tài xử lý vi phạm sẽ rằng
buộc trách nhiệm pháp lý đối với các chủ thể tham gia vào quan hệ cho vay, tạo ra
cho NHTM những lá chắn để tránh khỏi những hậu quả nặng nề cho nền kinh tế,
bảo đảm thị trường tiền tệ vận hành an toàn, lành mạnh và hiệu quả.
1.4. Vài nét về sự hình thành và phát triển của pháp luật cho vay của
ngân hàng thƣơng mại
Cho vay là hoạt động kinh doanh chính trong lĩnh vực ngân hàng, đóng vai trò
quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội và là nguồn cung ứng vốn chủ yếu cho


19
nền kinh tế bên cạnh lĩnh vực đầu tư, chứng khoán,….Xét về phương diện lịch sử,
quan hệ cho vay chịu sự chi phối bởi quy luật của nền kinh tế. Giai đoạn trước năm
1975, ở miền Bắc, tín dụng được đánh giá là hình thức vận động có kế hoạch của
vốn tiền tệ nhằm phục vụ sản xuất mở rộng theo quy luật kinh tế dưới chế độ xã hội
chủ nghĩa,8 trách nhiệm pháp lý của NHNN bao trùm cả hệ thống tín dụng. Ngân
hàng một cấp được duy trì trong một thời gian dài, mọi nghĩa vụ đối với khách hàng
được xác định cho NHNN, quyền được quyết định vay vốn, các nguyên tắc tự do
kinh doanh, quyền được tiếp cận tín dụng đều bị hạn chế trong cơ chế quản lý kinh
tế theo kiểu mệnh lệnh, hành chính. Điều này hoàn toàn đi ngược với bản chất của
giao dịch cho vay. Hiện nay, các NHTM được quyền tự quyết định việc cho vay
trên cơ sở tuân thủ các quy định của pháp luật.

Luật TCTD năm 1997 ra đời có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 10 năm
1998 đã chấm dứt hiệu lực của Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty
tài chính ngày 23 tháng 5 năm 1990 nhưng các quy định về hoạt động cho vay vẫn
chưa được cụ thể hóa, phải khi Quy chế cho vay ban hành kèm theo Quyết định số
1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam về việc ban hành Quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng
thì các quy định về cho vay mới được cụ thể hóa và là chế định đầy đủ nhất điều
chỉnh giao dịch cho vay trong lĩnh vực ngân hàng. Qua 4 lần sửa đổi, bổ sung (gồm
Quyết định số 28/2002/QĐ-NHNN ngày 11 tháng 1 năm 2002; Quyết định
127/2005/QĐ-NHNN ngày 03 tháng 2 năm 2005; Quyết định 783/2005/QĐ-NHNN
ngày 31 tháng 5 năm 2005; Thông tư số 33/2011/TT-NHNN ngày 08 tháng 10 năm
2011), sau đó được hợp nhất tại Văn bản số 20/VBHN-NHNN ngày 22 tháng 05
năm 2014, quy chế này đã phần nào đáp ứng được yêu cầu cụ thể hóa Luật TCTD
năm 1997, tạo ra sự thuận lợi cho các NHTM trong quá trình áp dụng pháp luật vào
hoạt động cho vay. Nhưng quá trình áp dụng quy chế cho vay này bộc lộ không ít
những thiếu xót mà trong các lần sửa đổi bổ sung Quy chế chưa khắc phục được,
đồng thời với đó là sự ra đời của hàng loạt các văn bản pháp luật mới như: Bộ Luật
8

Lương Khải Ân (2016), “Hoàn thiện pháp luật về hợp đồng cho vay trong lĩnh vực ngân hàng”, Tạp chí
Luật học, (8), tr.3-7, trích trong tài liệu; “Trường Đại học kinh tế kế hoạch, Tài chính và tín dụng, 1974,
tr.288.


×