Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án và thực tiễn tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (14.6 MB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

MAI THỊ QUYÊN

CÁC BIỆN PHÁP THU THẬP CHỨNG CỨ CỦA TÒA ÁN
VÀ THỰC TIỄN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ THÁI BÌNH

Chuyên ngành
Mã số

: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
: 8380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hướng ứng dụng)

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Văn Trung

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích
dẫn theo đúng quy định.


Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.
Tác giả luận văn

Mai Thị Quyên


DANH MỤC BẢNG, BIỂU
1. Bảng 2.1: Tình hình thụ lý các loại án tại các Tòa án nhân dân các cấp thuộc
tỉnh Thái Bình trong 03 năm từ năm 2015 đến năm 2017.
2. Bảng 2.2: Số lượt tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ tại Tòa án nhân
dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình (số liệu từ năm 2015 đến năm 2017).
3. Hình 2.1: Biểu đồ thể hiện số vụ việc dân sự phải tiến hành thu thập tài liệu
chứng cứ tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình (số liệu từ
năm 2015 đến năm 2017).
4. Hình 2.2: Biểu đồ thể hiện số vụ việc dân sự đã áp dụng từ hai biện pháp thu
thập chứng cứ trở lên tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình
(số liệu từ năm 2015 đến năm 2017).
5. Hình 2.3: Cơ cấu nguyên nhân dẫn đến tạm đình chỉ giải quyết vụ án tại Tòa
án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình (số liệu từ năm 2015 đến
năm 2017).
6. Hình 2.4: Biểu đồ tình hình áp dụng biện pháp ủy thác thu thập chứng cứ của
Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình trong thu thập tài liệu, chứng cứ (số liệu
từ năm 2015 đến năm 2017).


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU

1


1. Lý do chọn đề tài

1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

2

3. Mục đích, đối tƣợng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu

3

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

3

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

4

6. Bố cục của luận văn

4

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC BIỆN PHÁP THU THẬP
CHỨNG CỨ CỦA TÒA ÁN THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG
DÂN SỰ NĂM 2015

5


1.1. Khái niệm chứng cứ và các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố
tụng dân sự

5

1.2. Quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về các biện pháp thu thập
chứng cứ của Tòa án

9

1.2.1.

Các trường hợp Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự

9

1.2.2.

Các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự

13

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1

37

Chƣơng 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ
TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015 VỀ CÁC BIỆN PHÁP THU THẬP CHỨNG CỨ
CỦA TÒA ÁN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH
THÁI BÌNH VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN


38

2.1. Thực tiễn thực hiện quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về các
biện pháp thu thập chứng cứ tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái
Bình

38

2.2. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
về các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án

64

KẾT LUẬN CHƢƠNG II

73

PHẦN KẾT LUẬN

75


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thu thập chứng cứ là một trong những hoạt động có tính quyết định đến kết
quả giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án nhân dân, nhất là khi Việt Nam chuyển từ
mô hình tố tụng xét hỏi sang kết hợp giữa xét hỏi với tranh tụng. Bộ luật Tố tụng

dân sự năm 2015 đã có những thay đổi quan trọng so với Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2004, sửa đổi bổ sung năm 2011 khi quy định về hoạt động thu thập chứng cứ
nói chung và các biện pháp thu thập chứng cứ nói riêng. Bên cạnh việc ghi nhận
thêm quyền của các chủ thể khác ngoài Tòa án đƣợc thực hiện các biện pháp cần
thiết để thu thập chứng cứ, Bộ luật cũng đã quy định tƣơng đối đầy đủ, chi tiết về
điều kiện, trình tự, cách thức Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ cũng nhƣ trách
nhiệm, quyền hạn của ngƣời tiến hành tố tụng đối với việc xác minh, thu thập
chứng cứ nhằm bảo đảm có đủ căn cứ khi giải quyết vụ việc dân sự, tạo thuận lợi
cho các Tòa án trong việc giải quyết vụ việc dân sự. Tuy nhiên qua nghiên cứu thực
tiễn áp dụng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về các biện pháp thu
thập chứng cứ của Tòa án vẫn bộc lộ một số vƣớng mắc, bất cập nhƣ Bộ luật Tố
tụng dân sự 2015 chƣa quy định hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án giới hạn ở
giai đoạn nào, cách sử dụng thuật ngữ pháp lý chƣa thống nhất dẫn đến nhiều quan
điểm khác nhau khi áp dụng pháp luật, mặt khác, mặc dù Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015 đã có hiệu lực thi hành từ 01/7/2016 nhƣng về các biện pháp thu thập
chứng cứ của Tòa án vẫn chƣa có văn bản hƣớng dẫn thi hành,... Những vƣớng mắc
trên đã gây ra nhiều trở ngại trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Vì vậy, tác giả
đã chọn đề tài “Các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án và thực tiễn tại Tòa
án nhân dân thành phố Thái Bình” nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ với mong muốn
qua đó sẽ làm rõ khái niệm về các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố
tụng dân sự, các quy định của pháp luật hiện hành về các biện pháp thu thập chứng
cứ của Tòa án và thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh
Thái Bình, trên cơ sở đó đƣa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về chế
định này, góp phần nâng cao hiệu quả công tác giải quyết các vụ việc dân sự của
Tòa án cấp sơ thẩm.


2

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trƣớc năm 2015, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về hoạt động thu thập
chứng cứ ở nhiều khía cạnh, góc độ tiếp cận khác nhau, có thể kể đến nhƣ: Luận án tiến
sỹ luật học “Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam” của nghiên cứu
sinh Nguyễn Minh Hằng bảo vệ tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2009; Luận văn
thạc sỹ luật học “Hoạt động cung cấp, thu thập chứng cứ trong Tố tụng dân sự Việt
Nam” của học viên Nguyễn Minh Hằng bảo vệ tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội
năm 2012; Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trƣờng Trƣờng Đại học Luật Hà Nội
“Một số vấn đề lý luận về chứng minh trong tố tụng dân sự”, do TS. Nguyễn Công
Bình là chủ nhiệm năm 2012; Luận văn thạc sĩ luật học “Hoạt động thu thập chứng
cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự Việt Nam” của học viên Phạm Thị Hƣơng bảo
vệ tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2013; Luận văn thạc sĩ luật học “Các biện
pháp thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự” của học viên Nguyễn
Văn Thành bảo vệ tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2013; Luận văn thạc sĩ luật
học “Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án từ thực tiễn giải quyết các vụ án dân
sự của Tòa án cấp huyện thành phố Hải Phòng” của học viên Nguyễn Thị Liên bảo
vệ tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2014;.... Ngoài ra, còn nhiều ấn phẩm sách,
tạp chí, báo cáo,... đề cập tới vấn đề trên, có thể kể đến nhƣ: “Thu thập chứng cứ và
trách nhiệm chứng minh trong tố tụng dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”,
Tƣởng Duy Lƣợng, Tạp chí Kiểm sát số 24, tháng 01/2010; “Thu thập chứng cứ và
chứng minh theo quy định của luật sửa đổi, bổ sung một số điều của bộ luật tố tụng
dân sự”, Tƣởng Duy Lƣợng, Tạp chí Kiểm sát số 12, tháng 6/2011,...
Các công trình nghiên cứu đã góp phần cung cấp những kiến thức pháp lí,
thông tin về thực tiễn liên quan đến chứng cứ và hoạt động thu thập, nghiên cứu
chứng cứ của Tòa án nói chung. Tuy vậy, những công trình nghiên cứu này đƣợc
thực hiện chủ yếu vào thời điểm trƣớc khi Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đƣợc
ban hành. Kể từ sau thời điểm Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 đƣợc ban hành và có
hiệu lực thi hành, hiện mới chỉ có một số công trình nghiên cứu về hoạt động thu
thập chứng cứ nhƣ: Luận văn thạc sĩ luật học “Thu thập chứng cứ theo quy định của
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015” của học viên Hoàng Hải An bảo vệ tại Trƣờng
Đại học Luật Hà Nội năm 2017,…



3

Luận văn này nghiên cứu các quy định về các biện pháp thu thập chứng cứ
của Tòa án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và thực tiễn áp
dụng tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình kể từ khi Bộ luật Tố
tụng dân sự 2015 có hiệu lực thi hành. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài trong lúc này
là công việc rất có ý nghĩa và có tính thời sự.
3. Mục đích, đối tƣợng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài với mục đích là làm rõ khái niệm các biện pháp thu
thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự; nội dung các quy định của pháp luật
hiện hành về các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án, đồng thời đánh giá những
bất cập, hạn chế trong quy định của pháp luật và trong việc thực hiện các quy định
của pháp luật về các biện pháp thu thập chứng cứ tại Tòa án nhân dân thành phố
Thái Bình, tỉnh Thái Bình, trên cơ sở đó tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả thực hiện các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án nói chung và Tòa án
nhân dân thành phố Thái Bình nói riêng.
Đối tƣợng nghiên cứu đề tài là các quy định của pháp luật hiện hành về các
biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án và thực tiễn tại Tòa án nhân dân thành phố
Thái Bình.
Trong phạm vi đề tài luận văn thạc sỹ luật học, luận văn tập trung nghiên cứu
về khái niệm, quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về các biện pháp thu
thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự và việc áp dụng quy định của Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015 về các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án trong thực
tiễn giải quyết các vụ việc dân sự tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh
Thái Bình, từ đó đƣa ra một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về các
biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn đƣợc hoàn thành trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác –

Lê nin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về
Nhà nƣớc và pháp luật với các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học pháp lý truyền
thống nhƣ phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp tổng hợp, phƣơng pháp lịch sử,
phƣơng pháp thống kê, phƣơng pháp luật học so sánh,... để thực hiện đề tài.


4

- Phƣơng pháp phân tích: xem xét các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa
án trong tố tụng dân sự theo từng quy định của pháp luật để hiểu đƣợc bản chất của
các quy định.
- Phƣơng pháp lịch sử: Tìm hiểu quy định pháp luật về các biện pháp thu thập
chứng cứ của Tòa án thời kỳ trƣớc, trên cơ sở đó so sánh với quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 về các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án.
- Phƣơng pháp so sánh: So sánh quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam và pháp luật một số quốc gia trên thế giới khi quy định về các biện pháp thu
thập chứng cứ của Tòa án, so sánh giữa quy định pháp luật hiện hành và pháp luật
của thời kỳ trƣớc về các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân
sự để thấy đƣợc những điểm mới, tiến bộ, những điểm cần học tập, phát triển hoặc
cần sửa đổi bổ sung cho phù hợp.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học pháp lý toàn diện và có hệ thống
về các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án cấp sơ thẩm trong tố tụng dân sự. Nội
dung của luận văn thể hiện các kết quả nghiên cứu sau: (1) Phân tích làm rõ khái
niệm, ý nghĩa của các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự,
phân tích làm rõ nội dung và đánh giá các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015 về các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án, đồng thời chỉ ra những hạn chế,
bất cập trong quy định của pháp luật; (2) Trình bày đƣợc những vấn đề về thực tiễn
thực hiện quy định của pháp luật về các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án
trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình,

tỉnh Thái Bình và đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện.
6. Bố cục của luận văn
Luận văn gồm ba phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Phần
nội dung của luận văn gồm hai chƣơng:
Chương 1: Khái niệm và các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
về các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án.
Chương 2: Thực tiễn thực hiện các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015 về các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án tại Tòa án nhân dân thành phố
Thái Bình, tỉnh Thái Bình và kiến nghị hoàn thiện.


5

Chƣơng 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
VỀ CÁC BIỆN PHÁP THU THẬP CHỨNG CỨ CỦA TÒA ÁN
THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015
1.1. Khái niệm chứng cứ và các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa
án trong tố tụng dân sự
Nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh của đƣơng sự là một trong
những nguyên tắc quan trọng trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên, trong quá trình tham
gia tố tụng tại Tòa án, xuất phát từ điều kiện kinh tế, xã hội, trình độ nhận thức pháp
luật của công dân, cơ quan, tổ chức, cá nhân, không phải khi nào đƣơng sự cũng có
khả năng thực hiện tốt nghĩa vụ của mình và nguyên tắc trên không phải lúc nào
cũng đƣợc bảo đảm thực hiện. Khi đó, nhiệm vụ của Tòa án là vận dụng những biện
pháp cần thiết để thu thập chứng cứ cho việc giải quyết vụ việc dân sự.
Dƣới góc độ ngôn ngữ học, khái niệm “biện pháp thu thập chứng cứ” đƣợc
ghép bởi ba từ “biện pháp”, “thu thập” và “chứng cứ”. “Biện pháp” là một danh từ
chỉ: cách làm, cách thức tiến hành, cách giải quyết một vấn đề cụ thể1; “thu thập”:
nhặt nhạnh, thu góp lại 2; “chứng cứ”: là những cái cụ thể nhƣ lời nói, việc làm, vật

chứng, tài liệu tỏ rõ điều gì đó có thật3. Nhƣ vậy, dƣới góc độ ngôn ngữ học thuần
túy, biện pháp thu thập chứng cứ là “tổng thể các cách thức tiến hành các hoạt
động thu góp những vật chứng, tài liệu, những cái cụ thể như lời nói, việc làm nhằm
chứng minh một sự việc là có thật”.
Dƣới góc độ khoa học pháp lý, việc luận giải và làm rõ về các biện pháp thu
thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự cần đƣợc bắt đầu từ “chứng cứ” –
đối tƣợng của hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án.
Trong quy định của pháp luật tố tụng dân sự của mỗi quốc gia, khái niệm
chứng cứ luôn giữ một vị trí quan trọng. Theo Bộ luật Tố tụng dân sự Nhật Bản thì
“chứng cứ là một tư liệu thông qua đó một tình tiết được Tòa án công nhận và là
một tư liệu, cơ sở thông qua đó Tòa án được thuyết phục là một tình tiết có tồn tại

1

Nguyễn Nhƣ Ý (1988), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, tr.161.

2

Nguyễn Nhƣ Ý (1988), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, tr.1593.

3

Nguyễn Nhƣ Ý (1988), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, tr.186.


6

hay không”4. Điều 401 Luật chứng cứ của Hoa Kỳ quy định: “Chứng cứ là những
gì mà hàm chứa trong nó sự tồn tại của bất cứ một sự thực nào mà bản thân sự hàm
chứa đó ảnh hưởng tới việc xác định một hành động hơn hoặc kém hơn”. Điều 55

Bộ luật Tố tụng dân sự Liên bang Nga quy định: “Chứng cứ trong vụ án dân sự là
những gì được thu thập theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định mà Tòa án căn
cứ vào đó để xác định có hay không có các tình tiết làm cơ sở cho những yêu cầu
hay sự phản đối yêu cầu của các bên cũng như các tình tiết khác có ý nghĩa để giải
quyết đúng đắn vụ án”5.
Mặc dù mỗi quốc gia có một cách định nghĩa khác nhau về chứng cứ nhƣng
có thể thấy, khái niệm chứng cứ trong hệ thống pháp luật các nƣớc đều có điểm
chung đó là xác định chứng cứ là cơ sở, căn cứ để Tòa án giải quyết vụ án.
Trong hệ thống pháp luật nƣớc ta, khái niệm chứng cứ đƣợc xây dựng trên cơ
sở tập trung vào khía cạnh giá trị chứng minh của chứng cứ, Điều 93 Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 quy định: “Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có
thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa
án trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do
Bộ luật này quy định và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định các tình tiết
khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là
có căn cứ và hợp pháp”.
Về hoạt động thu thập chứng cứ, theo Giáo trình Luật Tố tụng dân sự của
Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, “là việc phát hiện tìm ra các chứng cứ, tập hợp đưa
vào hồ sơ vụ việc dân sự để nghiên cứu, đánh giá và sử dụng giải quyết vụ việc dân
sự”6. Tại đề tài nghiên cứu khoa học cấp trƣờng “Một số vấn đề lí luận về chứng
minh trong tố tụng dân sự”, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, chủ nhiệm đề tài TS.
Nguyễn Công Bình, xây dựng khái niệm về hoạt động thu thập chứng cứ, theo đó,
theo nghĩa rộng “thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự là hoạt động tố tụng dân
sự của các chủ thể chứng minh trong việc phát hiện, ghi nhận, thu giữ, bảo quản

4

Bộ Tƣ pháp – Viện nghiên cứu và đào tạo (1998), Luật Tố tụng dân sự Nhật Bản, Hà Nội, tr.453-454.

5


Bộ Luật Tố tụng dân sự của Cộng hoà liên bang Nga, Nxb. Tƣ pháp, Hà Nội, 2005, tr.79-80.

6

Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (2011), Giáo trình Luật Tố tụng dân sự, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,

tr.164.


7

các bằng chứng theo biện pháp và thủ tục do pháp luật quy định”7 và ở góc độ hẹp
hơn theo tinh thần của Điều 85 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi, bổ sung
năm 2011, đề tài đã đƣa ra khái niệm “thu thập chứng cứ là hoạt động tố tụng do
Tòa án tiến hành nhằm tìm phát hiện, thu giữ, ghi nhận, thêm những bằng chứng
cần thiết khác dùng làm căn cứ cho việc giải quyết vụ việc dân sự”8. Nhƣ vậy, cùng
một khái niệm thu thập chứng cứ, hai tài liệu đã đƣa ra các cách định nghĩa khác
nhau. Cách định nghĩa tại Giáo trình Luật Tố tụng dân sự của Trƣờng Đại học Luật
Hà Nội đã đề cập đến bản chất và mục đích của hoạt động thu thập chứng cứ nói
chung của các chủ thể trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Tại đề tài nghiên
cứu khoa học “Một số vấn đề lí luận về chứng minh trong tố tụng dân sự”, theo
nghĩa hẹp, các tác giả đề cập đến hoạt động thu thập chứng cứ trong giới hạn là hoạt
động tố tụng do cơ quan tiến hành tố tụng là Tòa án tiến hành.
Trên cơ sở phân tích những góc độ, cách tiếp cận khác nhau về khái niệm
“thu thập chứng cứ”, tại Luận văn thạc sỹ luật học với đề tài “Các biện pháp thu
thập chứng cứ của Tòa án trong Tố tụng dân sự”, tác giả Nguyễn Văn Thành đã
định nghĩa “Biện pháp thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự là tổng thể cách
thức, phương pháp do luật tố tụng dân sự quy định đối với việc Tòa án trong những
điều kiện nhất định được sử dụng những cách thức do Bộ luật Tố tụng dân sự quy

định, nhằm thu thập thêm những tình tiết, sự kiện, thông tin dùng làm căn cứ để giải
quyết đúng đắn vụ việc dân sự”9. Với cách tiếp cận vấn đề nhƣ trên, tác giả Nguyễn
Văn Thành đã nêu đƣợc mục đích tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ và xác
định chủ thể tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ là Tòa án. Tuy nhiên, cách
tiếp cận của tác giả đã đồng nghĩa “biện pháp thu thập chứng cứ trong tố tụng dân
sự” với “biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự” và xác
định chỉ chủ thể Tòa án mới đƣợc pháp luật tố tụng dân sự quy định đƣợc tiến hành
các biện pháp thu thập chứng cứ. Đây cũng là cách tiếp cận của Bộ luật Tố tụng dân
7

Nguyễn Công Bình (Chủ nhiệm, 2012), Một số vấn đề lí luận về chứng minh trong tố tụng dân sự, Đề tài

nghiên cứu khoa học cấp trƣờng, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr.97-98.
8

Nguyễn Công Bình (Chủ nhiệm, 2012), Một số vấn đề lí luận về chứng minh trong tố tụng dân sự, Đề tài

nghiên cứu khoa học cấp trƣờng, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr.98.
9

Nguyễn Văn Thành (2013), Các biện pháp thu nhập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự, Luận văn

thạc sĩ luật học, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr.3.


8

sự năm 2004, sửa đổi bổ sung năm 2011, cụ thể, Bộ luật chỉ quy định các biện pháp
thu thập chứng cứ cho chủ thể là Tòa án mà chƣa quy định cơ quan, tổ chức, cá
nhân thu thập tài liệu chứng cứ bằng các biện pháp nào (Điều 85 Bộ luật Tố tụng

dân sự năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011). Việc quy định này không phù hợp
với các quy định khác của pháp luật tố tụng dân sự cũng nhƣ thực tiễn khi mà pháp
luật quy định đƣơng sự có nghĩa vụ “cung cấp chứng cứ chứng minh cho yêu cầu
của mình là có căn cứ và hợp pháp”10 nhƣng không quy định cách thức để đƣơng
sự thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình hoặc pháp luật chỉ quy định cho cơ quan
khác nhƣ Viện kiểm sát có quyền “yêu cầu đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức
cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng để bảo đảm cho việc thực hiện thẩm quyền
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm”11 nhƣng không xác
định rõ ràng đây là một biện pháp thu thập chứng cứ của chủ thể là Viện kiểm sát.
Khắc phục những bất cập trên, Điều 97 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định
cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền thu thập các tài liệu, chứng cứ với các biện pháp
nhƣ: Thu thập vật chứng, tài liệu đọc đƣợc, nghe đƣợc, nhìn đƣợc; thông điệp dữ
liệu điện tử; Xác định ngƣời làm chứng và lấy xác nhận của ngƣời làm chứng; Yêu
cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cho sao chép hoặc cung cấp những tài liệu có liên
quan đến việc giải quyết vụ việc mà cơ quan, tổ chức, cá nhân đó đang lƣu giữ,
quản lý; Yêu cầu Ủy ban nhân dân cấp xã chứng thực chữ ký của ngƣời làm chứng;
Yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ nếu đƣơng sự không thể thu thập tài liệu,
chứng cứ; Yêu cầu Tòa án ra quyết định trƣng cầu giám định, định giá tài sản; Yêu
cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện công việc khác theo quy định của pháp luật.
Trên cơ sở quy định về các biện pháp thu thập chứng cứ của các chủ thể nói chung,
pháp luật tố tụng dân sự đƣa ra quy định rõ hơn về các biện pháp thu thập chứng cứ
Tòa án đƣợc tiến hành cũng nhƣ điều kiện áp dụng trong từng trƣờng hợp cụ thể.
Từ những phân tích trên, ta có thể xây dựng khái niệm về biện pháp thu thập
chứng cứ của Tòa án dƣới góc độ khoa học pháp lý nhƣ sau: “Biện pháp thu thập
chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự là cách thức, phương pháp mà pháp luật
tố tụng dân sự quy định cho Tòa án, trong những điều kiện nhất định, được áp dụng
10

Điều 97 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011.


11

Khoản 4 Điều 85 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011.


9

nhằm tìm, phát hiện, thu giữ, ghi nhận thêm những bằng chứng cần thiết dùng làm
căn cứ cho việc giải quyết vụ việc dân sự”.
Bằng quy định trong những trƣờng hợp nhất định, Tòa án có quyền áp dụng
các biện pháp thu thập chứng cứ cần thiết một mặt thể hiện chức năng xã hội của
nhà nƣớc nhằm duy trì sự ổn định xã hội, thiết lập nên những thiết chế để xã hội
đƣợc vận hành một cách có trật tự. Mặt khác, do khi tham gia quan hệ pháp luật tố
tụng dân sự, xuất phát từ quyền, lợi ích của mình, các đƣơng sự thƣờng có xu
hƣớng xuất trình các chứng cứ có lợi cho bản thân nên quy định về việc Tòa án có
thể áp dụng biện pháp cần thiết để thu thập chứng cứ có ý nghĩa vô cùng quan trọng
trong việc xây dựng hồ sơ vụ việc dân sự, củng cố các chứng cứ của vụ việc dân sự,
giúp Tòa án có cái nhìn khách quan và toàn diện về vụ việc cần phải giải quyết, có
thêm cơ sở, căn cứ pháp lý để giải quyết vụ việc, nâng cao chất lƣợng công tác xét
xử của Tòa án, hạn chế án hủy, sửa do thiếu và yếu về mặt chứng cứ.
1.2. Quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 về các biện pháp
thu thập chứng cứ của Tòa án
1.2.1. Các trường hợp Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ trong tố tụng
dân sự
Thứ nhất, Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ theo yêu cầu của đƣơng sự
Điều 97 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định:
“1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình thu thập tài liệu, chứng cứ
bằng những biện pháp sau đây:
....
e) Yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ nếu đương sự không thể thu

thập tài liệu, chứng cứ;
g) Yêu cầu Tòa án ra quyết định trưng cầu giám định, định giá tài sản”.
Nhƣ vậy, đƣơng sự có quyền yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ nếu
đƣơng sự không thể thu thập tài liệu, chứng cứ hoặc yêu cầu Tòa án ra quyết định
trƣng cầu giám định, định giá tài sản. Khi quy định về từng biện pháp thu thập
chứng cứ cụ thể, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định đƣơng sự có quyền yêu
cầu Tòa án lấy lời khai của ngƣời làm chứng (Điều 99), yêu cầu Tòa án tiến hành
đối chất (Điều 100), yêu cầu Tòa án tiến hành xem xét, thẩm định tại chỗ (Điều


10

101), yêu cầu Tòa án ra quyết định trƣng cầu giám định, định giá tài sản (Điều 102,
Điều 104), yêu cầu Tòa án thu thập chứng chứng cứ (Điều 106).
Việc yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ nếu đƣơng sự không thể thu
thập tài liệu, chứng cứ phải đáp ứng quy định tại khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015 đó là: đƣơng sự đã áp dụng các biện pháp cần thiết để thu thập tài
liệu, chứng cứ mà vẫn không thể tự mình thu thập đƣợc và đƣơng sự phải có văn
bản yêu cầu Tòa án thu thập tài liệu, chứng cứ.
Yêu cầu của đƣơng sự về việc đề nghị Tòa án áp dụng biện pháp thu thập
chứng cứ cũng cần phải nói rõ biện pháp mà đƣơng sự đề nghị Tòa án áp dụng là
biện pháp thu thập nào, biện pháp đó có đƣợc quy định trong Bộ luật Tố tụng dân
sự hay không. Khi đã nhận thấy đủ những điều kiện để tiến hành thu thập chứng cứ
theo yêu cầu của đƣơng sự, Thẩm phán cần giải thích cho đƣơng sự biết nghĩa vụ
nộp tạm ứng chi phí tƣơng ứng với biện pháp thu thập mà đƣơng sự yêu cầu (ví dụ:
tạm ứng chi phí giám định, chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ, định giá tài sản,...).
Thẩm phán chỉ tiến hành thu thập chứng cứ khi đƣơng sự đã nộp tiền tạm ứng chi
phí tố tụng nếu họ thuộc trƣờng hợp phải nộp tạm ứng.
Một trong những nguyên tắc trong tố tụng dân sự đó là quy định nghĩa vụ
chứng minh thuộc về đƣơng sự. Tuy nhiên, hiện nay ở nƣớc ta chƣa tạo ra đƣợc cơ

chế thuận lợi để các đƣơng sự làm tốt nghĩa vụ chứng minh của mình, các đƣơng sự
rất khó có thể tự mình thu thập các chứng cứ do cơ quan, tổ chức, cá nhân khác lƣu
trữ, đặc biệt là các tài liệu, chứng cứ thuộc sự quản lý của cơ quan nhà nƣớc. Chính
vì vậy, việc pháp luật quy định đƣơng sự trong những trƣờng hợp không thể tự
mình thu thập chứng cứ có quyền yêu cầu Tòa án thực hiện các biện pháp thu thập
chứng cứ cần thiết để hỗ trợ thu thập chứng cứ có ý nghĩa quan trọng, tạo điều kiện
cho đƣơng sự thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của chính họ.
Thứ hai, những trƣờng hợp Tòa án tự mình thu thập chứng cứ
Ngoài việc thu thập chứng cứ theo yêu cầu của đƣơng sự, trong một số
trƣờng hợp, Thẩm phán cũng có thể tự mình thu thập chứng cứ. Theo Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 thì đó là các trƣờng hợp: Lấy lời khai của đƣơng sự khi
đƣơng sự chƣa có bản khai hoặc nội dung bản khai chƣa đầy đủ, rõ ràng, lấy lời


11

khai của ngƣời làm chứng khi xét thấy cần thiết (Điều 98, Điều 99); Đối chất khi
xét thấy có mâu thuẫn trong lời khai của các đƣơng sự, ngƣời làm chứng (khoản 1
Điều 100); Xem xét, thẩm định tại chỗ, trƣng cầu giám định khi xét thấy cần thiết
(Điều 101, Điều 102); Định giá tài sản, thẩm định giá tài sản khi các đƣơng sự
không thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá tài sản hoặc đƣa ra giá tài sản khác
nhau hoặc không thỏa thuận đƣợc giá tài sản hoặc các bên thỏa thuận với nhau hoặc
với tổ chức thẩm định giá tài sản theo mức giá thấp so với giá thị trƣờng nơi có tài
sản định giá tại thời điểm định giá nhằm trốn tránh nghĩa vụ với Nhà nƣớc hoặc
ngƣời thứ ba hoặc có căn cứ cho thấy tổ chức thẩm định giá tài sản đã vi phạm pháp
luật khi thẩm định giá (Điều 104); Ủy thác thu thập chứng cứ (Điều 105); Yêu cầu
cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu đọc đƣợc, nghe đƣợc, nhìn đƣợc hoặc
hiện vật khác liên quan đến việc giải quyết vụ việc dân sự trong trƣờng hợp có yêu
cầu của đƣơng sự hoặc khi xét thấy cần thiết (Điều 106); Xác minh sự có mặt hoặc

vắng mặt của đƣơng sự tại nơi cƣ trú hoặc các biện pháp khác theo quy định của Bộ
luật Tố tụng dân sự (khoản 2 Điều 97).
Khi quyết định tự mình thu thập chứng cứ mà không có yêu cầu của đƣơng
sự, Thẩm phán phải hết sức thận trọng, xác định đủ những tài liệu làm cơ sở để tự
mình thu thập chứng cứ. Đồng thời khi đã có đủ cơ sở pháp lý, Thẩm phán phải tiến
hành đúng biện pháp trong phạm vi thẩm quyền của mình.
Trên thế giới hiện tồn tại nhiều hệ thống pháp luật khác nhau, trong đó hai hệ
thống pháp luật chủ yếu đó là hệ thống pháp luật châu Âu lục địa (continental law)
và hệ thống pháp luật án lệ (common law). Xuất phát từ đặc trƣng của từng hệ
thống pháp luật mà pháp luật các quốc gia cũng có những quy định khác nhau về
hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án.
Hệ thống pháp luật Anh, Mỹ theo truyền thống pháp luật tranh tụng. Trong tố
tụng dân sự đề cao vai trò thu thập chứng cứ của đƣơng sự, Thẩm phán chỉ là trọng
tài trong quá trình giải quyết vụ việc, phán quyết của Tòa án trên cơ sở chứng cứ mà
đƣơng sự đã xuất trình mà hoàn toàn không trực tiếp tiến hành hoạt động thu thập
chứng cứ. Theo pháp luật tố tụng dân sự Hoa Kỳ, các bên đƣơng sự phải tự mình
tìm kiếm, thu thập mọi chứng cứ cần thiết để bảo vệ quyền lợi của mình nhƣ thu
thập các chứng cứ viết, các vật chứng, đề xuất Tòa án triệu tập ngƣời làm chứng cần


12

thiết,... Các bên đƣơng sự có quyền và nghĩa vụ trao đổi chứng cứ với nhau và
quyền đƣợc biết toàn bộ các chứng cứ của bên kia. Trƣờng hợp Thẩm phán thấy
rằng chứng cứ mà các đƣơng sự xuất trình chƣa đầy đủ để giải quyết vụ việc thì
Thẩm phán yêu cầu các bên đƣơng sự cung cấp thêm chứng cứ chứ Thẩm phán
không tự mình thu thập chứng cứ.12
Khác với Anh, Mỹ theo truyền thống pháp luật tranh tụng, Pháp và Nga là
hai nƣớc có truyền thống tố tụng xét hỏi nên Thẩm phán có vai trò quan trọng trong
quá trình xây dựng hồ sơ giải quyết vụ việc dân sự, pháp luật tố tụng dân sự của

Nga và Pháp bên cạnh việc quy định nghĩa vụ chứng minh là của đƣơng sự còn
đồng thời quy định trong một số trƣờng hợp, Tòa án có thể thu thập chứng cứ và
đƣơng sự, các bên liên quan có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án khi có yêu
cầu. Pháp luật tố tụng dân sự của nƣớc Cộng hòa Pháp có những quy định về vai trò
của Tòa án trong việc thu thập chứng cứ, nhƣ tại Điều 27, Chƣơng 2, thiên I, quyển
thứ nhất Bộ luật Tố tụng dân sự của nƣớc Cộng hòa Pháp quy định: “Thẩm phán tự
mình tiến hành tất cả những biện pháp thẩm cứu cần thiết. Thẩm phán có quyền
nghe lời trình bày của những người có thể làm sáng tỏ vụ việc cũng như những
người có quyền lợi liên quan bởi quyết định của thẩm phán mà không bị lệ thuộc
vào bất kỳ thể thức nào”13. Bộ luật Tố tụng dân sự Pháp còn quy định Thẩm phán
có quyền điều tra và dành một mục riêng với 27 điều quy định cụ thể về hoạt động
này. Nhƣ vậy, ở Pháp, Thẩm phán đƣợc quyền chủ động trong hoạt động thu thập
chứng cứ phục vụ cho việc giải quyết vụ án.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự nƣớc Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa, chứng minh là nghĩa vụ của các đƣơng sự, các bên đƣơng sự có nghĩa vụ cung
cấp chứng cứ cho Tòa án và chịu trách nhiệm về việc cung cấp chứng cứ của mình.
Chỉ trong trƣờng hợp chứng cứ do hai bên đƣơng sự cung cấp trái ngƣợc, mâu thuẫn
nhau thì Tòa án phải điều tra để thu thập chứng cứ hoặc trong trƣờng hợp đƣơng sự
không tự mình cung cấp đƣợc chứng cứ thì Tòa án hỗ trợ đƣơng sự xác minh thu
thập chứng cứ.
12

Nguyễn Thị Thu Hà (2011), “Pháp luật tố tụng dân sự Hoa Kỳ và khả năng ứng dụng vào việc hoàn thiện

pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam”, Tạp chí Luật học, (Số 01), tr 55, 56.
13

Bộ luật Tố tụng dân sự của nước Cộng hòa Pháp, 1998, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.9



13

Theo quy định tại Điều 151 Bộ luật Tố tụng dân sự Nhật Bản, trƣờng hợp
cần phải làm rõ các vấn đề của vụ án thì Tòa án có quyền tiến hành các biện pháp
nhƣ yêu cầu các bên bổ sung chứng cứ, yêu cầu bên đƣơng sự hoặc ngƣời thứ ba
đang lƣu giữ chứng cứ xuất trình chứng cứ; thẩm tra chứng cứ, tiến hành điều tra,...
Có thể thấy, các nƣớc theo truyền thống tố tụng tranh tụng thì đề cao vai trò
của các bên đƣơng sự trong việc chứng minh sự việc, Tòa án chỉ là ngƣời trọng tài
trung gian và ra phán quyết, không có vai trò hỗ trợ đƣơng sự trong việc thu thập
chứng cứ. Trong khi đó, ở các nƣớc theo truyền thống tố tụng xét hỏi thì lại đề cao
vai trò của Thẩm phán trong việc chứng minh sự việc. Pháp luật tố tụng dân sự của
Trung Quốc, Nhật Bản có nhiều điểm tƣơng đồng với pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam khi đều quy định vai trò của Tòa án khi tiến hành các biện pháp thu thập
chứng cứ và đang hoàn thiện pháp luật theo hƣớng tăng cƣờng trách nhiệm chứng
minh cho đƣơng sự, giảm nhẹ công việc thu thập chứng cứ cho Tòa án.
1.2.2. Các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án trong tố tụng dân sự
1.2.2.1. Lấy lời khai của đương sự, người làm chứng
Lấy lời khai là biện pháp thu thập chứng cứ ghi lại ý kiến trình bày của
đƣơng sự, ngƣời làm chứng. Việc lấy lời khai của các đƣơng sự, ngƣời làm chứng
có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc làm sáng tỏ nội dung vụ án, yêu cầu
của các đƣơng sự và là cơ sở quan trọng để giải quyết vụ án.
Điều kiện tiến hành lấy lời khai của đương sự, người làm chứng: Về mặt
nguyên tắc, lời khai của đƣơng sự do đƣơng sự tự cung cấp, tự viết và ký tên. Điều
98 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “1. Thẩm phán chỉ tiến hành lấy lời
khai của đương sự khi đương sự chưa có bản khai hoặc nội dung bản khai chưa đầy
đủ, rõ ràng. Đương sự phải tự viết bản khai và ký tên của mình. Trường hợp đương
sự không thể tự viết được thì Thẩm phán lấy lời khai của đương sự”. Để việc lấy lời
khai của các đƣơng sự phục vụ tốt cho quá trình giải quyết các vụ án, Thẩm phán
phải nắm chắc các tình tiết có ý nghĩa quan trọng của vụ án, các quy định của pháp
luật nội dung cần áp dụng giải quyết vụ án. Lời khai của đƣơng sự phải tập trung

vào những tình tiết mà đƣơng sự khai chƣa đầy đủ, rõ ràng nhằm làm rõ nội dung
cơ bản của vụ án, yêu cầu của các bên đƣơng sự, các căn cứ pháp lý và chứng cứ
thực tế để bảo vệ yêu cầu của các đƣơng sự.


14

Ngƣời làm chứng là ngƣời đƣợc đƣơng sự mời đến hoặc do cơ quan tiến
hành tố tụng triệu tập đến để khai báo những tình tiết có liên quan đến vụ án mà họ
đƣợc biết, ngƣời làm chứng là ngƣời không có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định trƣờng hợp cần lấy lời khai của
ngƣời làm chứng tại Điều 99, đó là trƣờng hợp “theo yêu cầu của đương sự hoặc
khi xét thấy cần thiết”. Đối với trƣờng hợp Thẩm phán lấy lời khai của ngƣời làm
chứng theo yêu cầu của đƣơng sự thì trƣớc khi áp dụng biện pháp này, Thẩm phán
phải xem xét đủ các điều kiện để thu thập chứng cứ theo yêu cầu của đƣơng sự mới
tiến hành lấy lời khai của ngƣời làm chứng.
Khi xét thấy cần thiết, tuy đƣơng sự không có yêu cầu, Thẩm phán có thể
tiến hành lấy lời khai của ngƣời làm chứng. Đƣợc coi là “cần thiết” nếu việc lấy lời
khai của ngƣời làm chứng bảo đảm cho việc giải quyết vụ án dân sự đƣợc toàn diện,
chính xác, công minh, đúng pháp luật.
Lời khai của ngƣời làm chứng chứa đựng nhiều chứng cứ về những tình tiết
cần chứng minh nhằm giúp Tòa án tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Tuy vậy,
không phải trƣờng hợp nào lời khai của ngƣời làm chứng cũng đúng và phù hợp với
sự thật khách quan. Do đó, các lời khai của ngƣời làm chứng phải đƣợc đánh giá
với các chứng cứ khác của vụ án.
Về chủ thể thực hiện hoạt động lấy lời khai, theo quy định của Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015, việc lấy lời khai của đƣơng sự do Thẩm phán tiến hành. Thƣ
ký Tòa án chỉ có thể giúp Thẩm phán ghi lời khai của đƣơng sự vào biên bản.
Về địa điểm lấy lời khai, trên thực tế, không phải lúc nào hoạt động lấy lời
khai cũng đƣợc thực hiện tại trụ sở Tòa án mà có lúc đƣợc thực hiện ngoài trụ sở

Tòa án, trong những trƣờng hợp nhƣ vậy thì “phải có người làm chứng hoặc xác
nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc Công an xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan,
tổ chức nơi lập biên bản”14. Thực chất việc xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã,
Công an xã, phƣờng thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi lập biên bản là nhằm đề cao
trách nhiệm, đồng thời xác định về mức độ tin cậy của biên bản lấy lời khai đó giúp
Tòa án lấy làm chứng cứ để giải quyết vụ việc dân sự.

14

Khoản 2 Điều 98 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.


15

Về thủ tục lấy lời khai của đương sự, người làm chứng: Theo quy định tại
khoản 2 Điều 98 và khoản 2 Điều 99 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì Thẩm
phán tự mình hoặc Thƣ ký Tòa án ghi lại lời khai của đƣơng sự, ngƣời làm chứng
vào biên bản. Biên bản lấy lời khai của đƣơng sự, ngƣời làm chứng phải đƣợc ngƣời
khai tự đọc lại hoặc nghe đọc lại và ký tên hoặc điểm chỉ. Đƣơng sự, ngƣời làm
chứng có quyền yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản lấy lời khai và ký
tên hoặc điểm chỉ xác nhận. Biên bản lấy lời khai phải có chữ ký của ngƣời lấy lời
khai, ngƣời ghi biên bản và đóng dấu của Tòa án, trƣờng hợp biên bản ghi thành
nhiều trang rời nhau thì phải ký vào từng trang và đóng dấu giáp lai. Biên bản ghi
lời khai lập ngoài trụ sở Tòa án phải có ngƣời làm chứng hoặc xác nhận của Ủy ban
nhân dân cấp xã hoặc Công an xã, phƣờng, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi lập
biên bản. Ngoài ra, trƣớc khi lấy lời khai của ngƣời làm chứng, Thẩm phán phải giải
thích quyền, nghĩa vụ của ngƣời làm chứng và yêu cầu ngƣời làm chứng cam đoan
về lời khai của mình.
Về năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự của
đương sự, người làm chứng được lấy lời khai, khi Thẩm phán tiến hành các hoạt

động thu thập tài liệu, chứng cứ nói chung, lấy lời khai nói riêng đối với ngƣời tham
gia tố tụng phải xác định đƣợc họ có đầy đủ năng lực pháp luật tố tụng dân sự và
năng lực hành vi tố tụng dân sự. Đây là điều kiện để xác định giá trị pháp lý của tài
liệu, chứng cứ thu thập đƣợc.
Đối với đƣơng sự chƣa đủ 6 tuổi hoặc ngƣời mất năng lực hành vi dân sự,
đƣơng sự từ đủ 6 tuổi đến chƣa đủ 15 tuổi quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 69
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, thì việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
những ngƣời này tại Tòa án do ngƣời đại diện hợp pháp của họ thực hiện. Việc lấy
lời khai của họ phải có mặt ngƣời đại diện hợp pháp của họ và ngƣời đại diện hợp
pháp của họ phải ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận vào biên bản lấy lời khai.
Trƣờng hợp lấy lời khai của ngƣời làm chứng, khoản 3 Điều 87 Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011 quy định về việc lấy lời khai của
ngƣời làm chứng không bảo đảm năng lực chủ thể, khi tiến hành lấy lời khai đối với
họ phải có mặt của ngƣời đại diện thì lời khai đó mới có giá trị đƣợc sử dụng là
chứng cứ của vụ việc dân sự. Tuy vậy, trên thực tế giải quyết vụ việc dân sự, có


16

những ngƣời làm chứng mặc dù họ không có ngƣời đại diện nhƣng việc tiến hành
lấy lời khai của họ theo thủ tục thông thƣờng thì lời khai của họ không bảo đảm tính
khách quan, chính xác. Khoản 3 Điều 99 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã tháo
gỡ đƣợc những khó khăn, hạn chế này bằng quy định bổ sung khi lấy lời khai đối
với ngƣời làm chứng là “người khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi” thì
phải có mặt của ngƣời đại diện, ngƣời đang quản lý, trông nom ngƣời đó. Nhƣ vậy,
với quy định bổ sung nêu trên, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã xác định thêm
về nhiệm vụ, trách nhiệm của Thẩm phán, bảo vệ ngƣời làm chứng.
Điều 98, Điều 99 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã quy định khá cụ thể,
chi tiết về hoạt động lấy lời khai của đƣơng sự, ngƣời làm chứng. Tuy nhiên, trong
từng quy định của pháp luật còn có sự mâu thuẫn, không thống nhất, không rõ ràng,

cụ thể nhƣ sau:
Thứ nhất, quy định của pháp luật về bản khai của đƣơng sự chƣa rõ ràng.
Theo khoản 1 Điều 98 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, đƣơng sự phải tự viết bản
khai và ký tên của mình, có nghĩa là bản khai phải đƣợc chính bản thân đƣơng sự
viết. Vậy trong trƣờng hợp bản khai do đƣơng sự tự soạn thảo hoặc nhờ ngƣời khác
soạn thảo trên máy vi tính trên cơ sở ý kiến của đƣơng sự có đƣợc coi là bản khai do
chính đƣơng sự viết không? Nếu chấp nhận bản khai đƣợc soạn thảo bằng máy vi
tính thì đƣơng nhiên việc đƣơng sự nhờ ngƣời khác viết tay hộ bản khai và sau đó
đƣơng sự ký tên dƣới bản khai cũng phải đƣợc chấp nhận. Và nhƣ vậy, liệu có mâu
thuẫn với quy định bản khai của đƣơng sự phải do đƣơng sự tự viết và ký tên?
Thứ hai, về mặt kỹ thuật lập pháp, cách diễn đạt tại khoản 1 Điều 98 Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015 chƣa đƣợc chính xác, gây mâu thuẫn trong chính nội dung
điều luật. Khoản 1 Điều 98 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định“1. Thẩm
phán chỉ tiến hành lấy lời khai của đương sự khi đương sự chưa có bản khai hoặc
nội dung bản khai chưa đầy đủ, rõ ràng...”. Nhƣ vậy, nếu chỉ đọc đến đây, có thể
hiểu pháp luật quy định Thẩm phán chỉ lấy lời khai của đƣơng sự trong hai trƣờng
hợp đó là “đương sự chưa có bản khai” hoặc “nội dung bản khai chưa đầy đủ, rõ
ràng”. Tuy nhiên, ngay sau đó, điều luật lại bổ sung thêm trƣờng hợp Thẩm phán
đƣợc lấy lời khai của đƣơng sự đó là “...Trường hợp đương sự không thể tự viết
được thì Thẩm phán lấy lời khai của đương sự”.


17

Thứ ba, đối với biên bản lấy lời khai của đƣơng sự, ngƣời làm chứng đƣợc
lập ngoài trụ sở Tòa án, khoản 2 Điều 98 và khoản 2 Điều 99 Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015 quy định biên bản phải có ngƣời làm chứng hoặc xác nhận của Ủy ban
nhân dân cấp xã hoặc Công an xã, phƣờng, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi lập
biên bản. Theo quy định của điều luật, biên bản lấy lời khai chỉ cần “xác nhận” của
các cơ quan, tổ chức trên mà không đề cập đến việc các cơ quan, tổ chức này có

phải cử đại diện tham gia chứng kiến việc lấy lời khai hay không. Trƣờng hợp Ủy
ban nhân dân cấp xã hoặc Công an xã, phƣờng, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức có đại
diện chứng kiến việc lấy lời khai thì việc xác nhận của họ vào biên bản lấy lời khai
là hoàn toàn có căn cứ. Tuy nhiên, trong trƣờng hợp các cơ quan, tổ chức trên
không có đại diện tham gia chứng kiến việc lấy lời khai, thì việc họ xác nhận vào
biên bản lấy lời khai liệu có đảm bảo tính khách quan và nếu vẫn chấp nhận việc
“xác nhận” này thì nội dung xác nhận nhƣ thế nào?
1.2.2.2. Đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa đương sự với người
làm chứng
Đối chất trong tố tụng dân sự là biện pháp thu thập chứng cứ do Tòa án thực
hiện dƣới hình thức cho hai hay nhiều ngƣời tham gia tố tụng trong vụ án dân sự
cùng một lúc tham gia tranh luận và chất vấn lẫn nhau dƣới sự hƣớng dẫn trực tiếp
của ngƣời tiến hành tố tụng nhằm làm rõ những tình tiết mâu thuẫn trong lời khai
trƣớc đó của họ. Khi quy định về biện pháp thu thập chứng cứ đối chất, Điều 100,
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã thừa kế quy định tại Điều 88 của Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011. Theo đó, đối chất là biện pháp
thu thập chứng cứ đƣợc áp dụng trong trƣờng hợp có mâu thuẫn trong lời khai giữa
hai hay nhiều ngƣời tham gia tố tụng dân sự. Mâu thuẫn ở đây là sự trái ngƣợc
nhau, phủ định lẫn nhau giữa những lời khai mang nội dung thông tin về cùng một
hoặc một số tình tiết có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án. Việc đối chất không
nhất thiết phải thực hiện giữa tất cả các đƣơng sự trong vụ án, Thẩm phán chỉ tiến
hành đối chất giữa các đƣơng sự với nhau, giữa đƣơng sự với ngƣời làm chứng hoặc
giữa những ngƣời làm chứng với nhau theo yêu cầu của đƣơng sự hoặc khi xét thấy
có mâu thuẫn trong lời khai của các đƣơng sự, ngƣời làm chứng. Quy định biện
pháp đối chất, nhà làm luật đòi hỏi cơ quan tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố


18

tụng trƣớc khi nhận định lời khai của những ngƣời tham gia tố tụng phải kiểm tra kỹ

tất cả các tài liệu đã có và xác định chính xác tình tiết khách quan, loại trừ những
nhầm lẫn trong thu thập, đánh giá chứng cứ, nhận thức đúng sự thật khách quan của
vụ án.
Về hình thức, việc đối chất phải đƣợc lập thành biên bản, có chữ ký hoặc
điểm chỉ của những ngƣời tham gia đối chất (khoản 2 Điều 100 Bộ luật Tố tụng dân
sự năm 2015).
Có thể thấy, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 mới chỉ dừng lại ở quy định
cho phép Tòa án đƣợc sử dụng đối chất với tƣ cách là một biện pháp thu thập chứng
cứ và điều kiện thực hiện đối chất mà chƣa quy định cụ thể về trình tự, thủ tục tiến
hành đối chất, các trƣờng hợp hoãn phiên đối chất, quyền và nghĩa vụ của những
ngƣời tham gia đối chất,... do đó, các Tòa án gặp nhiều lúng túng khi áp dụng biện
pháp thu thập chứng cứ đối chất.
1.2.2.3. Trưng cầu giám định
Trƣng cầu giám định trong tố tụng dân sự là hoạt động tố tụng do Thẩm phán
hoặc ngƣời tiến hành tố tụng thực hiện, khi có yêu cầu của đƣơng sự hoặc xét thấy
cần thiết, yêu cầu ngƣời giám định, cơ quan giám định sử dụng các kiến thức,
phƣơng tiện, phƣơng pháp khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ để kết luận về chuyên môn
những vấn đề có liên quan đến hoạt động giải quyết vụ việc dân sự. Kết quả giám
định thu đƣợc giúp làm sáng tỏ các vấn đề còn đang hoài nghi, làm căn cứ cơ sở để
Thẩm phán ra quyết định cuối cùng một cách khách quan, trung thực, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của các đƣơng sự tham gia tố tụng. Đây là bƣớc tiến đáng kể
trong hoạt động tƣ pháp theo tinh thần cải cách tƣ pháp, tăng cƣờng dân chủ hóa
hoạt động tố tụng, góp phần mở rộng quyền tự do dân chủ của công dân, hoàn thiện
các thủ tục tố tụng tƣ pháp, bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch,
tôn trọng và bảo vệ quyền con ngƣời. Trong thực tiễn khi giải quyết các vụ việc dân
sự, hôn nhân gia đình, nhiều trƣờng hợp cần phải thực hiện trƣng cầu giám định
nhƣ: Trƣng cầu giám định chữ ký, chữ viết; trƣng cầu giám định AND để xác định
quan hệ huyết thống; trƣng cầu giám định mức độ thƣơng tích,…
Về nội dung quyết định trƣng cầu giám định, khoản 2 Điều 102 Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015 quy định: “2.... Trong quyết định trưng cầu giám định phải



19

ghi rõ tên, địa chỉ của người giám định, đối tượng cần giám định, vấn đề cần giám
định, các yêu cầu cụ thể cần có kết luận của người giám định”.
Tòa án có thể yêu cầu ngƣời giám định giải thích kết luận giám định hoặc
triệu tập ngƣời đó đến phiên tòa, phiên họp để hỏi những nội dung cần thiết trong
trƣờng hợp nếu xét thấy kết luận giám định không đầy đủ, không rõ ràng hoặc có
dấu hiệu vi phạm pháp luật (khoản 3 Điều 102 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015).
Việc trƣng cầu giám định bổ sung hoặc giám định lại đƣợc thực hiện nếu
thuộc trƣờng hợp quy định tại khoản 4, khoản 5 Điều 102 Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015. Theo đó, việc trƣng cầu giám định bổ sung đƣợc thực hiện trong trƣờng
hợp nội dung kết luận chƣa rõ, chƣa đầy đủ hoặc khi phát sinh vấn đề mới liên quan
đến tình tiết của vụ việc đã đƣợc kết luận giám định trƣớc đó; việc giám định lại
đƣợc thực hiện trong trƣờng hợp có căn cứ cho rằng kết luận giám định lần đầu
không chính xác, có vi phạm pháp luật hoặc trong trƣờng hợp đặc biệt theo quyết
định của Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao theo quy định của Luật Giám định tƣ pháp.
Điều 90 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 chỉ quy định về hoạt động
trƣng cầu giám định của Thẩm phán hoặc ngƣời tiến hành tố tụng thực hiện theo
yêu cầu của đƣơng sự hoặc khi xét thấy cần thiết, trong khi đó, khoản 3 Điều 2 Luật
Giám định tƣ pháp năm 2012 quy định: ”Người yêu cầu giám định là người có
quyền tự mình yêu cầu giám định sau khi đã đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng trưng cầu giám định mà không được chấp nhận. Người có
quyền tự mình yêu cầu giám định bao gồm đương sự trong vụ việc dân sự, ...”. Để
phù hợp với quy định của Luật Giám định tƣ pháp, ngoài việc quy định đƣơng sự có
quyền yêu cầu Tòa án trƣng cầu giám định, Điều 102 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015 đã bổ sung thêm nội dung hoàn toàn mới về quyền yêu cầu giám định của
đƣơng sự, theo đó, đƣơng sự có quyền tự mình yêu cầu giám định sau khi đã đề

nghị Tòa án trƣng cầu giám định nhƣng Tòa án từ chối yêu cầu của đƣơng sự.
Quyền này đƣợc thực hiện trƣớc khi Tòa án ra quyết định đƣa vụ án ra xét xử theo
thủ tục sơ thẩm, quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự.


20

Qua nghiên cứu quy định liên quan đến trƣng cầu giám định, yêu cầu giám
định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và các văn bản liên quan nhận thấy còn
một số điểm bất cập nhƣ sau:
Thứ nhất, khi quy định về xử lý hành vi cản trở hoạt động xác minh, thu thập
chứng cứ của ngƣời tiến hành tố tụng, Điều 489 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
chƣa đề cập đến việc xử lý khi đƣơng sự, ngƣời liên quan đến giám định không hợp
tác trong quá trình cung cấp mẫu giám định dẫn đến tình trạng mặc dù Tòa án đã
trƣng cầu giám định nhƣng cơ quan giám định không thể thực hiện đƣợc việc giám
định do không có mẫu vật giám định. Trong khi đó, nhiều vụ vệc kết luận giám định
đƣợc xác định là căn cứ mấu chốt và quyết định đến việc chấp nhận hay không chấp
nhận yêu cầu của đƣơng sự nhƣ trƣng cầu giám định ADN trong các vụ việc xác
định cha, mẹ, con,...
Thứ hai, về quyền tự mình yêu cầu giám định của đƣơng sự: Khoản 1
Điều 22 Luật Giám định tƣ pháp năm 2012 quy định về thời hạn cơ quan tiến hành
tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng phải thông báo về việc từ chối yêu cầu giám định,
theo đó: “1. Người yêu cầu giám định có quyền gửi văn bản yêu cầu cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trưng cầu giám định. Trường hợp cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không chấp nhận yêu cầu thì trong thời
hạn 07 ngày phải thông báo cho người yêu cầu giám định bằng văn bản. Hết thời
hạn nói trên hoặc kể từ ngày nhận được thông báo từ chối trưng cầu giám định,
người yêu cầu giám định có quyền tự mình yêu cầu giám định”. Về thời điểm thực
hiện quyền, khoản 1 Điều 102 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 quy định:
“1...Quyền tự yêu cầu giám định được thực hiện trước khi Tòa án ra quyết định đưa

vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm, quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân
sự”. Pháp luật đã quy định cho đƣơng sự có quyền tự mình yêu cầu giám định, giới
hạn thời điểm chấm dứt quyền nhƣng chƣa quy định cho các chủ thể này thời hạn
để thực hiện quyền. Trong trƣờng hợp, ngay sau khi thông báo cho ngƣời yêu cầu
giám định về việc không chấp nhận trƣng cầu giám định, Tòa án ra quyết định đƣa
vụ án ra xét xử hoặc quyết định mở phiên họp giải quyết việc dân sự, vậy liệu quyền
tự mình yêu cầu giám định của đƣơng sự có đƣợc bảo đảm thực hiện? Mặc khác, Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015 cũng chƣa có quy định cụ thể về điều kiện để cơ quan


21

tiến hành tố tụng, ngƣời tiến hành tố tụng từ chối trƣng cầu giám định nên đã dẫn
tới việc áp dụng không thống nhất giữa các Tòa án ở các địa phƣơng khác nhau và
liệu việc từ chối này có phải lúc nào cũng phù hợp với quy định: “Tòa án có trách
nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập chứng cứ…” theo khoản 3 Điều 6 Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015 không? Trong trƣờng hợp sau khi đƣơng sự tự mình
yêu cầu giám định, kết quả giám định chứng minh yêu cầu giám định của đƣơng sự
là có căn cứ và đƣợc sử dụng để xác định sự thật khách quan của vụ án, Tòa án,
ngƣời tiến hành tố tụng đã từ chối yêu cầu giám định của đƣơng sự có phải chịu
trách nhiệm về việc đã từ chối tiến hành trƣng cầu giám định?
1.2.2.4. Định giá tài sản, thẩm định giá tài sản
Định giá tài sản, thẩm định giá tài sản là biện pháp thu thập chứng cứ đƣợc
thực hiện trong hầu hết các vụ án có tranh chấp liên quan đến tài sản. Khoản 5,
khoản 15 Điều 4 Luật Giá năm 2012 quy định:
“…5. Định giá là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức, cá
nhân sản xuất, kinh doanh quy định giá cho hàng hóa, dịch vụ.

15. Thẩm định giá là việc cơ quan, tổ chức có chức năng thẩm định giá xác
định giá trị bằng tiền của các loại tài sản theo quy định của Bộ luật dân sự phù hợp

với giá thị trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định, phục vụ cho mục đích nhất
định theo tiêu chuẩn thẩm định giá”.
Nhƣ vậy, có thể hiểu dƣới góc độ là một biện pháp thu thập chứng cứ của
Tòa án, định giá, thẩm định giá tài sản là hoạt động xem xét, đánh giá và đƣa ra kết
luận mang tính pháp lý bằng văn bản về giá của đối tƣợng nhất định. Việc định giá
tài sản, thẩm định giá tài sản giúp Tòa án có căn cứ xác định giá trị tài sản tranh
chấp, từ đó làm căn cứ để phân chia tài sản hoặc giải quyết các tranh chấp liên quan
tài sản.
Điều 104 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đã mở rộng quyền chủ động của
đƣơng sự trong việc xác định giá trị tài sản tranh chấp so với Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011, theo đó đƣơng sự có quyền cung cấp giá tài
sản đang tranh chấp, thỏa thuận về giá tài sản đang tranh chấp, các đƣơng sự có


×