Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

CƠ sở lý LUẬN về QUẢN lý ĐÁNH GIÁ học SINH ở TRƯỜNG TIỂU học THEO HƯỚNG đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.22 KB, 48 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ ĐÁNH GIÁ
HỌC SINH Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC THEO
HƯỚNG ĐỔI MỚI


Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Các nghiên cứu trên thế giới
Hoạt động đánh giá người học nói chung và đánh giá
HS trong các trường tiểu học nói riêng đã và đang được
các nước tiên tiến trên thế giới quan tâm nghiên cứu để có
những đổi mới về cách đánh giá HS như:
Ở Thụy Điển từ năm 2011 trong đánh giá HS đã áp
dụng cách chấm điểm mới ở trường phổ thông. Với các
mức đểm theo chữ số từ A, B, C, D và E và F là điểm số
cuối cùng bị trượt. Trong đó điểm B và điểm D được coi
là điểm thay thế khi HS không đạt điểm A hay C cho các
phần (cho dù đạt được đa số).
Đối với những HS trong quá trình học tập vì lý do
như nghỉ học quá nhiều, HS sẽ nhận một dấu gạch ngang
thay vì điểm F, tức là coi như không đạt về thái độ học tập.
Với những HS có nguy cơ nhận điểm F ở một môn học
hay khoá học nhất định, GV bộ môn sẽ thông báo cho HS


và cha mẹ HS. Khi bị điểm F, các em sẽ được hướng dẫn
cách cải thiện điểm để có thể cải thiện kết quả.
Với các trường tiểu học ở Mỹ, HS được giáo viên
trực tiếp đánh giá theo quá trình học tập cả năm học. Bản
kết quả đánh giá quá trình học tập được gửi cho phụ huynh
vào các khoảng thời gian khác nhau. Về cách đánh giá
cuối kỳ hay cuối năm được thực hiện dưới hình thức cho


điểm bằng chữ từ A đến F (bỏ qua E), trong đó A là điểm
tốt nhất và F là điểm trượt, hay cho điểm bằng tỷ lệ phần
trăm. Như vậy HS thường xuyên được thông báo kết quả
học tập tới cha mẹ để cùng có biện pháp giáo dục các em.
Hiện nay, chương trình dạy học ở tiểu học tại Canada
rất đa dạng theo từng tổ chức và mục tiêu giáo dục của
từng trường, từng cộng đồng địa phương. Nhưng kết quả
cuối cùng để lên lớp, HS phải được làm bài kiểm tra do
GV đưa tới. Nếu kết quả không đạt, các em phải học lại
một năm. Những em có tài năng có thể được phép bỏ qua
một lớp và học ở những lớp cao hơn.


Khi theo học ở trường công lập, mỗi HS có bộ “hồ
sơ” riêng và được áp dụng trong hệ thống đánh giá liên tục
theo suốt thời gian học từ lớp Một. Về cách tính điểm thì ở
các trường khác nhau, ví dụ như của Canada khác nhau ở
từng bang. Saskatchewan sử dụng A+, A, B, C và F (điểm
trượt), trong khi Ontario áp dụng A, B, C, D, R, F.
Về thang điểm phụ thuộc vào một số tiêu chí như
điểm của bài kiểm tra ở cả năm học, sự tham gia vào hoạt
động thảo luận trên lớp, hoàn thành bài tập về nhà… HS
nhận báo cáo học tập với điểm số mỗi môn học ít nhất hai
lần mỗi năm (có một số nơi lên đến sáu lần một năm).
Năm học đầu cấp, HS tiểu học được đánh giá thông
qua việc trao đổi giữa GV với cha mẹ HS, thay vì đánh giá
bằng điểm số. Việc đánh giá bằng điểm số từ lớp mấy phụ
thuộc vào quy định của từng địa phương. Mỗi năm học
HS nhận báo cáo đánh giá kết quả học tâp vào cuối kỳ
học, và không có bài kiểm tra lên lớp.

Thang điểm đánh giá HS được cho trong khoảng từ 4
đến 10 điểm. Nếu nhận điểm 4 ở một môn học nào đó vào


cuối kỳ học xuân, các em phải tham gia bài kiểm tra riêng
biệt vào cuối kỳ học hè để có thời gian cải thiện kiến thức
môn học đó. Như vậy HS có thời gian để nhìn nhận kết quả
học tập và cải thiện kết quả học tập của mình. Nếu HS có
nhiều điểm 4 ở các môn học, các em có thể phải học lại cho
dù đã tham gia lớp học phụ đạo và nhận hỗ trợ đặc biệt.
Trường hợp đặc biệt nếu học sinh HS phải học lại, quyết
định có được học tiếp hay không là sau khi GV, hiệu trưởng
nhà trường và cha mẹ HS đã trao đổi với nhau.
Giáo dục tiểu học ở Singapore được bắt đầu từ khi
trẻ 7 tuổi, hệ thống được chia làm 2 cấp trong đó, cấp
cơ bản 4 năm và cấp định hướng 2 năm. Ở các trường
tiểu học Singapore việc đánh giá thực hiện theo “Mức
thành tích” và “Điểm số toàn phần”, cụ thể như sau:
Cấp cơ bản: Ở mức độ 1 đó là từ 85% trở lên; mức độ
2 từ 70% đến dưới 85%; mức độ 3 từ 50% đến dưới 70%
và mức độ 4 dưới 50%.
Cấp định hướng: Mức độ 1 từ 85% trở lên; mức độ 2
từ 70% đến dưới 85%; mức độ 3 từ 50% đến dưới 70%;


mức độ 4 từ 30% đến dưới 50% và mức điểm U dưới
30%.
Khi học ở cấp định hướng, HS được phân loại theo
khả năng. Các em học các môn học ở mức độ khác nhau
dựa trên điểm số những môn tương ứng ở lớp 4 tiểu học.

Giáo dục Tiểu học ở New Zealand với mục tiêu là
nhằm tạo ra “những người học tự tin, kết nối, tích cực
tham gia, ham học hỏi” và nền tảng vững chắc trong việc
đọc, viết và toán học. Chương trình giáo dục ở tiểu học
gồm 8 môn: Tiếng Anh, nghệ thuật, giáo dục sức khỏe và
thể chất, ngôn ngữ, toán học và thống kê, khoa học, khoa
học xã hội, công nghệ. Kỹ năng đọc, viết và làm toán được
đánh giá thường xuyên với mong muốn được lập ra bởi
Tiêu chuẩn quốc gia cho từng lứa tuổi.
Về thang đánh giá HS được chia theo thang điểm
chữ: A, B, C là điểm đỗ và D, E, F, P là điểm trượt. Cha
mẹ HS sẽ nhận kết quả học tập của con hai lần một năm và
thường xuyên trao đổi với GV về sự tiến bộ của con trong


các buổi họp thường kỳ với các giáo viên khác và với cha
mẹ HS.
Hiện nay có nhiều nghiên cứu về đánh giá HS theo
định hướng đổi mới trong các nhà trường như:
Những nghiên cứu lý luận về đánh giá HS trong quá
trình học tập trên lớp như công trình của C.A.Paloma và
Robert L.Ebel “Measuring Educational Achievement” (Đo
lường để đánh giá thành tích giáo dục) nghiên cứu đã mô
tả chi tiết phương thức đánh giá HS ở trường phổ thông ở
Mỹ. Nghiên cứu cho thấy việc đánh giá HS tập trung đánh
giá các năng lực HS thể hiện trong quá trình giảng dạy của
GV và học tập của HS.
Nghiên cứu về “Measurement and Evaluation in
Teaching” (Đo lường và đánh giá trong dạy học) của
Norman E. Gronlund giới thiệu cho GV và những người

đang học nghiệp vụ sư phạm về nguyên tắc và quy trình
đánh giá việc dạy học hiệu quả. Trong nghiên cứu khẳng
định năng lực của người học là đối tượng của các đánh giá
và đo lường sư phạm, nếu không đánh giá được năng lực


của người học thì việc đánh giá chỉ mang tính hình thức và
không thể hiện nguyên tắc trong đánh giá.
Trong tác phẩm “A Teacher’s Guide to Assessment”
(Hướng dẫn GV đánh giá) do D.S. Frith và H.G.Macintosh
phân tích sâu về những lý luận cơ bản của đánh giá trong
dạy học, cách xây dựng kế hoạch hoạt động đánh giá, cách
đánh giá, cho điểm, và phương thức đánh giá bằng nhận
xét của GV đối với học sinh. Đây là cuốn sách gợi mở rất
nhiều cho nhà quản lý trong việc quản lý đánh giá HS theo
hướng đổi mới.
Ngoài ra xu hướng đánh giá hiện đại đang thịnh hành
của Anthony J.Nitko, Đại học Arizôna (Mỹ) mang tên
“Educational Assessment of Students” (Đánh giá học sinh)
đã đề cập đến nội dung của đánh giá học sinh, bao gồm:
Phát triển các kế hoạch giảng dạy kết hợp với đánh giá;
đánh giá về mục tiêu, hiệu quả; đánh giá học sinh. Trong
nghiên cứu này: Đánh giá HS còn là trách nhiệm của hiệu
trưởng nhà trường, hiệu quả của công tác đánh giá HS có
tốt hay không là do nhận thức và năng lực của hiệu trưởng


nhà trường. Như vậy, nghiên cứu này đã nêu được sự nhận
thức, vai trò, tầm quan trọng hoạt động quản lý của hiệu
trưởng với việc đánh giá HS nhà trường.

Ngoài ra còn có những nghiên cứu về quản lý đánh
giá HS theo tiếp cận năng lực HS: Cuốn “Monitering
Educational Achivement” của N.Postlethwaite (2004);
cuốn “Monitering Evaluation: Some Tools, Methods and
Approches” do Worbank phát hành (2004); cuốn
“Managing

Evaluation

in

Educational”

của

Kath

Aspinwall, Tim Simkins, John F. Wilkinson and M. John
Mc Auley (1992); cuốn “Mười bước tiến tới hệ thống
giám sát và đánh giá dựa trên kết quả” của Jody Zall
Kusek, Ray C.Rist (2005), … Trong tài liệu đã chỉ cho
người đọc thấy các nghiệp vụ quản lý cần thực hiện để
quản lý hoạt động đánh giá HS như thế nào cho hiệu quả,
làm thế nào cần đánh giá HS trong công cuộc đổi mới giáo
dục trên toàn thế giới.
Trong tài liệu của UNESCO có bàn đến hoạt động
đánh giá HS tại Việt Nam “Monitoring Educational


Achievement” (Giám sát thành tích giáo dục) đã giải thích ý

nghĩa của khái niệm “giám sát thành tích giáo dục”, chỉ ra
các nhóm tiêu chí được đánh giá và một số vấn đề đặt ra
đối với các nhà quản lý giáo dục trong công tác quản lý của
nhà trường nói chung và quản lý hoạt động đánh giá HS
nói riêng. (dẫn theo tài liệu Luận văn của tác giả: Lê Hồng
Anh)
Như vậy trong hơn 3 thập kỷ qua, đánh giá đối với
giáo dục quốc tế đã có những bước tiến rất lớn cả về lý
luận và thực tiễn. Thể hiện rõ xu hướng đánh giá của thế
giới là hướng đến đánh giá năng lực học sinh, phương
pháp, cách thức đánh giá rất đa dạng, sáng tạo và linh
hoạt.
- Các nghiên cứu trong nước
Đã có nhiều công trình nghiên cứu quan tâm về hoạt
động dạy học và đánh giá trong dạy hoc, cụ thể là:
Các tác giả Hoàng Đức Nhuận và Lê Đức Phúc là
những tác giả nghiên cứu nhiều về lý luận đánh giá học
sinh. Các công trình nghiên cứu khoa học công nghệ cấp


nhà nước thể hiện như “Cơ sở lý luận của việc đánh giá
chất lượng học tập của HS phổ thông” (3/1995). Nghiên
cứu làm nền tảng cho việc xây dựng các khái niệm, các
thuật ngữ về đánh giá giáo dục cũng như những quy định
về nội dung và kỹ thuật đánh giá [18].
Tác giả Dương Thiệu Tống cũng cho xuất bản cuốn
“Trắc nghiệm và đo lường thành quả học tập” năm 1995,
tái bản năm 2005. Cuốn sách là một đóng góp to lớn cho
giáo dục Việt Nam về phần đánh giá định lượng kết quả
học tập của HS [22].

Tác giả Trần Thị Tuyết Oanh với cuốn “Đánh giá và
đo lường kết quả học tập” đã phân tích vai trò, nội dung
và các tiêu chí đánh giá HS trong quá trình giáo dục nói
chung và trong dạy học nói riêng [19].
Những nghiên cứu tiếp theo cũng đã đề cập đến các
thuật ngữ, khái niệm với các nguyên tắc đánh giá, kỹ thuật
đánh giá, quy trình đánh giá có thể kể đến nghiên cứu của
Đỗ Thị Thúy Hằng với cuốn sách mang tên “Đánh giá
trong giáo dục” dành cho các sinh viên, học viên trong


đào tạo Chương trình cử nhân và cao học chuyên ngành
Quản lý giáo dục. Tài liệu sẽ cung cấp cho người học
những kiến thức cơ bản làm nền tảng cho việc kiểm tra,
đánh giá trong giáo dục [11].
Tiếp theo tác giả Nguyễn Công Khanh, Đào Thị Oanh
đã nghiên cứu đánh giá HS theo hướng đổi mới và xuất
bản giáo trình “Kiểm tra đánh giá trong giáo dục”. Công
trình có giá trị rất lớn trong công cuộc đổi mới giáo dục
hiện nay về lĩnh vực đánh giá HS theo hướng đổi mới
[16].
Ngoài ra còn có các nghiên cứu về đánh giá HS tiểu
học như: tài liệu bồi dưỡng GV“Đánh giá kết quả học tập
ở tiểu học” của các tác giả Vũ Thị Phương Anh và Hoàng
Thị Tuyết [1]; “Đánh giá trong giáo dục tiểu học” của tác
giả Phó Đức Hòa [12] … đã phân tích các khái niệm, nội
dung, quy trình, phương pháp, kĩ thuật…đánh giá trong
giáo dục tiểu học.
Bên cạnh đó còn có những luận văn, luận án đề cập về
vấn đề quản lý hoạt động kiểm tra, đánh giá trong giáo dục



như luận án của Đặng Huỳnh Mai, Nguyễn Thị Hồng
Vân…
Nhận xét: qua các đề tài nghiên cứu về đánh giá và
quản lý đánh giá HS, tác giả đã thể hiện rất rõ ràng và cụ
thể trong các đề tài đánh giá của mình. Việc quan tâm đến
quản lý đánh giá HS được xác định là khâu quan trọng
trong đổi mới nâng cao chất lượng dạy học. Song các
nghiên cứu đã chú trọng đến phương thức đánh giá HS,
mỗi công trình nghiên cứu ở những góc độ khác nhau. Tuy
nhiên vẫn chưa có nghiên cứu cụ thể nào về quản lý hoạt
động đánh giá HS theo hướng đổi mới trong các nhà
trường. Các nghiên cứu nêu trên là gợi mở quý giá, chỉ ra
lý luận cũng như hướng vận dụng trong nghiên cứu đề tài
về quản lý hoạt động đánh giá HS theo hướng đổi mới ở
các trường tiểu học huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương.
- Một số khái niệm cơ bản
- Quản lý


Hiện nay có nhiều quan niệm khác nhau về quản lý ở
các tác giả nước ngoài và đã được các nghiên cứu trong
nước vận dụng như:
Tác giả Lê Văn Phùng cho rằng: “Quản lý là tác động
có ý thức, bằng quyền lực, theo quy trình của chủ thế quản lý
để phối hợp các nguồn lực nhằm thực hiện mục tiêu của tổ
chức trong điều kiện môi trường biến đổi” [21, tr 25].
Các tác giả Nguyễn Thị Tuyết Hạnh, Đặng Thị Thanh
Huyền, Lê Thị Mai Phương: “Quản lý là quá trình thực

hiện các công việc xây dựng kế hoạch hành động (bao
gồm cả xác định mục tiêu cụ thể, chế định kế hoạch, quy
định tiêu chuẩn đánh giá và thể chế hóa), sắp xếp tổ chức
(bố trí tổ chức, phối hợp nhân sự, phân công công việc,
điều phối nguồn lực tài chính và kĩ thuật…), chỉ đạo, điều
hành, kiểm soát và đánh giá kết quả, sửa chữa sai sót (nếu
có) để đảm bảo hoàn thành mục tiêu của tổ chức đã đề
ra” [8, tr 42].
Theo tác giả Bùi Minh Hiền: “Quản lý là sự tác động
có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối
tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra” [13, tr 10]. Hoạt
động quản lý diễn ra theo các chức năng quản lý từ chức


năng kế hoạch đến các chức năng tổ chức, chỉ đạo và kiểm
tra. Trên thực tế các chức năng quản lý không tồn tại và
tiến hành tuần tự mà chúng hỗ trợ phối hợp với nhau trong
quá trình thực hiện và liên kết giữa các chức năng quản lý
này là thông tin và các quyết định quản lý.
Từ các khái niệm trên, trong nghiên cứu này chúng
tôi chọn khái niệm quản lý như sau: Quản lý là sự tác
động có định hướng, có mục đích của chủ thể quản lý đến
đối tượng quản lý nhằm thực hiện các mục tiêu đề ra.
- Quản lý giáo dục
Xét một cách tổng thể, quản lý được ứng dụng trong
giáo dục thì được coi là quản lý giáo dục. Theo tài liệu giáo
trình “Khoa học quản lý giáo dục” của tác giả Nguyễn Thị
Tuyết Hạnh và Lê Thị Mai Phương [10] đã đưa ra khái
niệm quản lý giáo dục theo 2 cấp độ: Quản lý hệ thống và
quản lý trường học:

“Ở cấp độ quản lý hệ thống, quản lý giáo dục được
hiểu là những tác động có hệ thống, có ý thức, hợp quy
luật của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau đến tất cả


các mắt xích của hệ thống giáo dục nhằm đảm bảo cho hệ
thống giáo dục vận hành bình thường và liên tục phát
triển, mở rộng cả về số lượng cũng như chất lượng.
Ở cấp độ quản lý trường học, quản lý giáo dục, theo
Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt, là hệ thống tác động có mục
đích, có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thế quản lý nhà
trường làm cho nhà trường vận hành theo đường lối, quan
điểm giáo dục của Đảng, thực hiện được các tính chất của
nhà trường, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học giáo dục, đưa nhà trường tới mục tiêu dự kiến, tiến lên
trạng thái mới về chất, góp phần thực hiện mục tiêu chung
của giáo dục: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
Còn với tác giả Bùi Văn Quân: Quản lý giáo dục là
một dạng quản lý xã hội trong đó diễn ra các hoạt động
lập kế hoạch, khai thác, lựa chọn, tổ chức thực hiện các
nguồn lực, các tác động của chủ thể quản lý nhằm định
hướng, dẫn dắt, gây ảnh hưởng đến đối tượng quản lý
trong lĩnh vực giáo dục, nhằm thay đổi hay tạo ra hiệu


quả cần thiết vì sự ổn định và phát triển của giáo dục
trong việc đáp ứng các yêu cầu của xã hội đối với giáo
dục.
Quản lý giáo dục ở cấp độ trường học (cơ sở giáo

dục): là hệ thống những tác động có chủ đích, có kế
hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý đến tập thể cán
bộ, nhân viên, người dạy, người học, cha mẹ người học
hay người đỡ đầu, các lực lượng xã hội trong và ngoài
nhà trường để khai thác và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực, và cơ hội nhằm thực hiện có chất lượng mục
tiêu giáo dục” [10, tr 12].
Trong luận văn này, tác giả nghiên cứu QLGD theo
nghĩa hẹp, quản lý một trường học, một cơ sở giáo dục.
- Quản lý nhà trường
Tác giả Bùi Minh Hiền và Nguyễn Vũ Bích Hiền
khẳng định :“Quản lý nhà trường là quá trình tác động có
mục đích, có định hướng, có tính kế hoạch của các chủ thể
quản lý (đứng đầu là hiệu trưởng nhà trường) đến các đối
tượng quản lý (giáo viên, cán bộ nhân viên, người học,


các bên liên quan...) và huy động, sử dụng đúng mục đích,
có hiệu quả các nguồn lực nhằm thực hiện sứ mệnh của
nhà trường đối với hệ thống giáo dục và đào tạo, với cộng
đồng xã hội nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục đã xác định
trong một môi trường luôn biến động” [14, tr 31].
Như vậy có thể coi quản lý nhà trường về thực chất là
hệ thống những tác động có mục đích, có kế hoạch, phù
hợp với quy luật của chủ thể quản lý nhà trường đến tất cả
các thành tố cấu trúc nhằm đẩy mạnh hoạt động của nhà
trường theo nguyên lý giáo dục tiến tới mục tiêu giáo dục
mà trọng tâm là đưa hoạt động dạy học và giáo dục tiến lên
trạng thái mới về chất, có hiệu quả hơn.
- Đánh giá

Có nhiều khái niệm về đánh giá của các tác giả trong
nước và nước ngoài, trong luận văn nghiên cứu này, tác
giả sử dụng khái niệm đánh giá của tác giả Nguyễn Công
Khanh, Đào Thị Oanh:
“Đánh giá trong giáo dục là một quá trình thu thập,
tổng hợp, diễn giải thông tin về đối tượng cần đánh giá


(hiểu biết hay năng lực của học sinh, chương trình, nhà
trường...) một cách có hệ thống nhằm mục đích hiểu biết
sâu và sử dụng các thông tin này để ra quyết định về học
sinh, về chương trình, về nhà trường hay đưa ra các chính
sách giáo dục” [16, tr 33].
“Đánh giá trong lớp học là một thuật ngữ chung, đó
là một quá trình thu thập, tổng hợp, diễn giải thông tin
hay dữ liệu liên quan đến việc học tập và trải nghiệm của
HS nhằm mục đích phát triển một sự hiểu biết sâu về điều
gì HS biết, HS hiểu và HS có thể làm được, như là kết quả
của sự trải nghiệm giáo dục của chính các em, để đưa ra
quyết định giáo dục liên quan đến học sinh” [16, tr 33].
- Năng lực
Năng lực được hiểu theo nhiều khía cạnh khác nhau,
theo tác giả Nguyễn Công Khanh và Đào Thị Oanh:
“Năng lực là khả năng làm chủ hệ thống kiến thức,
kĩ năng, thái độ và vận hành (kết nối) chúng một cách hợp
lý vào thực hiện thành công nhiệm vụ hoặc giải quyết hiệu
quả vấn đề đặt ra của cuốc sống”[16, tr 10].


“Năng lực của HS là khả năng làm chủ những hệ

thống kiến thức, kĩ năng, thái độ... phù hợp và vận hành
(kết nối) chúng một cách hợp lý vào thực hiện thành công
nhiệm vụ học tập, giải quyết hiệu quả những vấn đề đặt ra
cho chính các em trong cuộc sống” [16, tr 111].
Trong Dự thảo chương trình giáo phổ thông mới hiện
nay thì năng lực được coi : “Là khả năng thực hiện thành
công hoạt động trong một bối cảnh nhất định nhờ sự huy
động tổng hợp các kiến thức, kỹ năng và các thuộc tính
cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,... Năng lực
của cá nhân được đánh giá qua phương thức và kết quả
hoạt động của cá nhân đó khi giải quyết các vấn đề của
cuộc sống” [6, tr 46].
Năng lực là yếu tố góp phần quyết định sự thành
công trong hoạt động của mỗi người. Nhưng để hình
thành năng lực phải gắn với hoạt động và mỗi cá nhân
phải được luyện tập, thực hành và người học phải được
trải nghiệm những nhiệm vụ học tập theo mục tiêu đề ra
và bảo đảm thực hiện nhiệm vụ đó hiệu quả. Năng lực


bao gồm cả khả năng chuyển tải kiến thức, kỹ năng, kinh
nghiệm, thói quen vào các tình huống học tập cụ thể và
bao gồm cả sự tổ chức thực hiện, sự thay đổi, đổi mới,
tính hiệu quả cá nhân cần có của người học để học tập.
Như vậy, ngoài kiến thức - kỹ năng - thái độ, năng lực
còn phụ thuộc vào một số yếu tố chủ quan khác như yếu
tố về thể chất - sinh lý và yếu tố khách quan và những bối
cảnh và điều kiện làm việc cũng như thái độ tham gia học
tập của HS.
- Đánh giá học sinh theo hướng đổi mới

Về đánh giá học sinh theo hướng đổi mới là đánh giá
HS theo tiếp cận năng lực. Có thể hiểu đánh giá HS theo
hướng đổi mới là đánh giá theo chuẩn đầu ra và thực hiện
thông qua sản phẩm của hoạt động. Sản phẩm hoạt động
thể hiện không chỉ là kiến thức, kĩ năng, mà chủ yếu là khả
năng vận dụng kiến thức, kĩ năng và thái độ cần có để thực
hiện nhiệm vụ học tập đạt tới một chuẩn nào đó. Như vậy
đánh giá theo hướng đổi mới đòi hỏi phải đáp ứng hai điều


kiện là người học cần phải có sản phẩm đầu ra và sản
phẩm đó phải đạt chuẩn nào đó theo yêu cầu nhất định.
Đánh giá HS theo hướng đổi mới cần đặc biệt nhấn
mạnh đến đánh giá quá trình học. Đánh giá quá trình học
có thể thông qua: kết quả học tập, thành tích học tập của
học sinh; khả năng trình bày miệng; sản phẩm học tập (bài
tiểu luận, các phiếu học tập, hồ sơ học tập); các bài kiểm
tra trên lớp; các kết quả quan sát trong quá trình học và
việc tự đánh giá của chính học sinh.
Như vậy, đánh giá HS theo hướng đổi mới thì không
lấy kiểm tra là tái hiện kiến thức đã học làm trung tâm của
việc đánh giá mà cần chú trọng khả năng vận dụng sáng
tạo tri thức trong các tình huống ứng dụng khác nhau của
HS. Hiện nay cách đánh giá HS theo hướng đổi mới đã và
đang được các nhà GD vận dụng, song giữa đánh giá theo
tiếp cận nội dung kiến thức và đánh giá theo tiếp cận năng
lực có sự giống nhau nhưng về bản chất là có sự khác
nhau cơ bản.



Trong việc đổi mới giáo dục hiện nay về bản chất là
đổi mới đánh giá HS tức là đánh giá HS theo tiếp cận phát
triển năng lực với đánh giá HS theo tiếp cận nội dung
trang bị kiến thức là không có mâu thuẫn. Đánh giá theo
tiếp cận phát triển năng lực được coi là bước phát triển cao
hơn so với đánh giá kiến thức, kỹ năng. Để chứng minh
người học có năng lực ở một mức độ nào đó, phải tạo cơ
hội để HS giải quyết có hiệu quả vấn đề đặt ra. Khi đó đòi
hỏi người học vừa phải vận dụng những kiến thức, kỹ
năng đã được học ở nhà trường, vừa phải dùng những kinh
nghiệm của bản thân thu được từ những trải nghiệm trong
cuộc sống bên ngoài nhà trường (trong gia đình, cộng
đồng và xã hội).
Vì vậy, thông qua việc thực hiện mục tiêu giáo dục,
HS có thể đồng thời tự đánh giá được cả trình độ nhận
thức, kỹ năng thực hiện và những thái độ của người học.
Mặt khác, đánh giá năng lực không hoàn toàn chỉ dựa vào
chương trình giáo dục môn học như đánh giá kiến thức, kỹ
năng, bởi năng lực là tổng hòa, kết tinh kiến thức, kỹ năng,
thái độ, tình cảm, giá trị, chuẩn mực đạo đức,… được hình


thành từ nhiều lĩnh vực học tập và từ sự trải nghiệm về
mặt xã hội của một con người.
- Đánh giá học sinh tiểu học theo hướng đổi mới
- Hệ thống năng lực cần có ở học sinh tiểu học
Theo Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông mới,
chương trình giáo dục phổ thông nhằm hình thành và phát
triển cho HS tiểu học những năng lực chủ yếu sau:
- Năng lực tự học

Năng lực tự học là năng lực biểu hiện thông qua việc
xác định đúng đắn mục tiêu học tập; lập kế hoạch và thực
hiện cách học; và đánh giá, điều chỉnh cách học nhằm tự học
và tự nghiên cứu một cách hiệu quả và có chất lượng.
- Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo
Năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo là năng lực
biểu hiện thông qua việc phát hiện và làm rõ được vấn đề;
đề xuất, lựa chọn, thực hiện và đánh giá được các giải
pháp giải quyết vấn đề; nhận ra, hình thành và triển khai
được các ý tưởng mới; và có tư duy độc lập.


-Năng lực thẩm mỹ
Năng lực thẩm mỹ là năng lực biểu hiện thông qua
các hành vi nhận ra cái đẹp; diễn tả, giao lưu thẩm mỹ; và
tạo ra cái đẹp.
- Năng lực thể chất
Năng lực thể chất là năng lực biểu hiện thông qua
cuộc sống thích ứng và hài hòa với môi trường; rèn luyện
sức khỏe thể lực; và nâng cao sức khỏe tinh thần.
- Năng lực giao tiếp
Năng lực giao tiếp là năng lực biểu hiện thông qua
việc xác định mục đích giao tiếp; kỹ năng thể hiện thái độ
giao tiếp; lựa chọn và sử dụng phương thức giao tiếp dựa
trên nền tảng kỹ năng sử dụng tiếng Việt và ngoại ngữ.
- Năng lực hợp tác
Năng lực hợp tác là năng lực biểu hiện thông qua
việc xác định mục đích và phương thức hợp tác, trách
nhiệm và hoạt động của bản thân trong quá trình hợp tác,



×