Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Quyền xác định, xác định lại dân tộc và thực tiễn trên địa bàn tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (11.4 MB, 87 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐẶNG THÙY TRANG

QUYỀN XÁC ĐỊNH, XÁC ĐỊNH LẠI DÂN TỘC VÀ
THỰC TIỄN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
( Định hướng ứng dụng )

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐẶNG THÙY TRANG

QUYỀN XÁC ĐỊNH, XÁC ĐỊNH LẠI DÂN TỘC VÀ
THỰC TIỄN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN

Chuyên ngành :

Luật Dân sự và Tố tụng dân sự



Mã số

8380103

:

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
( Định hướng ứng dụng )

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Đình Nghị

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn
này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới các thầy cô giáo tại
Trường Đại học Luật Hà Nội, những người đã nhiệt tình hướng dẫn, giảng
dạy, giúp tôi có những kiến thức quý báu và bổ ích về chuyên ngành Luật Dân

sự và Tố tụng dân sự. Tôi cũng chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường Đại
học Luật Hà Nội, Khoa Đào tạo Sau Đại học đã tạo điều kiện thuận lợi giúp
tôi hoàn thành chương trình học và đề tài nghiên cứu.
Đặc biệt, tôi vô cùng biết ơn TS. Lê Đình Nghị – người đã tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ, động viên tôi hoàn thành Luận văn này.
Bên cạnh đó, tôi xin gửi lời cảm ơn tới Sở Tư pháp tỉnh Thái Nguyên đã
cung cấp cho tôi những số liệu liên quan tới đề tài Luận văn, các cán bộ thư
viện Trường Đại học Luật Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành Luận
văn này và tôi cũng xin cảm ơn gia đình và bạn bè, những người đã động
viên, giúp đỡ tôi trong quá trình làm Luận văn.
Mặc dù tôi đã cố gắng để thực hiện đề tài Luận văn một cách hoàn thiện
nhất, tuy nhiên do chưa có nhiều kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu khoa
học cũng như còn nhiều hạn chế về kiến thức nên không thể tránh được những
thiếu sót nhất định mà bản thân chưa thấy được. Tôi rất mong được sự góp ý
của quý thầy, cô để Luận văn hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 12/2018
Tác giả


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Viết đầy đủ
Bộ luật Dân sự

Viết tắt
BLDS

Nghị định số 123/NĐ-CP của Chính Nghị định số 123/2015/NĐ-CP
phủ ngày 15 tháng 11 năm 2015 quy
định chi tiết một số điều và biện pháp

thi hành Luật Hộ tịch
Trang

Tr


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Biểu 1: Kết quả đăng ký khai sinh chia theo dân tộc trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên năm 2015 – 2017.
Biểu 2: Tỷ lệ xác định dân tộc tỉnh Thái Nguyên năm 2015 – 2017.
Biểu 3: Kết quả xác định lại dân tộc tỉnh Thái Nguyên năm 2015 – 2017.
Biểu 4: Tỷ lệ xác định lại dân tộc trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên năm
2015 – 2017.


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ....................................................................... 2
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn ......................... 4
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn ............................................................. 4
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn......................................................... 5
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn ................... 5
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn .............................................. 5
Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN XÁC ĐỊNH, XÁC ĐỊNH
LẠI DÂN TỘC CỦA CÁ NHÂN ..................................................................... 7
1.1. Khái niệm và đặc điểm của quyền xác định, xác định lại dân tộc của cá
nhân ................................................................................................................ 7
1.1.1. Khái niệm quyền xác định, xác định lại dân tộc............................... 7
1.1.2. Đặc điểm của quyền xác định, xác định lại dân tộc của cá nhân ..... 9

1.2. Khái quát về sự phát triển của pháp luật dân sự Việt Nam về quyền xác
định, xác định lại dân tộc ............................................................................. 14
1.3. Mối quan hệ giữa quyền xác định, xác định lại dân tộc với các quyền khác20
1.4. Ý nghĩa pháp lý và ý nghĩa thực tiễn của việc xác định, xác định lại
dân tộc……………………………………………………………………….23
Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ QUYỀN XÁC
ĐỊNH, XÁC ĐỊNH LẠI DÂN TỘC ............................................................... 26
2.1. Nguyên tắc xác định dân tộc của cá nhân ............................................. 26
2.2. Các trường hợp xác định lại dân tộc của cá nhân ................................. 36
Chương 3. THỰC TIỄN THỰC HIỆN VIỆC XÁC ĐỊNH, XÁC ĐỊNH LẠI
DÂN TỘC CỦA CÁ NHÂN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN VÀ
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT.................................... 43


3.1. Thực tiễn thực hiện pháp luật về xác định, xác định lại dân tộc trên địa
bàn tỉnh Thái Nguyên ................................................................................... 43
3.1.1. Khái quát tình hình tự nhiên, kinh tế, xã hội tỉnh Thái Nguyên ..... 43
3.1.2. Tình hình thực hiện pháp luật về xác định, xác định lại dân tộc trên
địa bàn tỉnh Thái Nguyên.......................................................................... 47
3.2. Kiến nghị và giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về xác định, xác
định lại dân tộc ............................................................................................. 61
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người hiện nay ngày càng được các quốc gia dân tộc coi

trọng, đề cao và quan tâm. Xã hội ngày càng phát triển thì quyền con người
càng được tôn trọng và bảo vệ. Bên cạnh các quyền của công dân như quyền
chính trị, quyền kinh tế,.... và quyền dân sự, cụ thể là quyền nhân thân ngày
một quan trọng hơn, vì quyền dân sự ảnh hưởng trực tiếp và hầu hết tới
quyền, lợi ích của công dân trong tất cả mọi lĩnh vực của cuộc sống. Quyền
xác định, xác định lại dân tộc là một trong những quyền nhân thân của cá
nhân nên quyền dân sự nói chung và quyền xác định, xác định lại dân tộc nói
riêng đã được quy định cụ thể, rõ ràng trong pháp luật dân sự và ngày càng
hoàn thiện hơn, trở thành một trong các quyền dân sự quan trọng được pháp
luật quan tâm, bảo vệ một cách tối đa.
Hiện nay, ở nước ta có 54 dân tộc anh em được quy định trong “Danh
mục các dân tộc Việt Nam”, theo Quyết định số 421 ngày 02/3/1979 của
Tổng cục Thống kê Việt Nam. Dân tộc đông nhất là dân tộc Kinh, chiếm
86,2% dân số. Các dân tộc thiểu số đông dân nhất: Tày, Thái, Mường, Khmer,
Hoa, Nùng, H’Mông, Dao, Gia Rai, Ê Đê, Chăm, Sán Dìu, Ra Glai. Đa số các
dân tộc này sống ở miền núi và vùng sâu vùng xa ở miền Bắc, Tây Nguyên,
miền Trung, Đồng Bằng sông Cửu Long. Cuối cùng là các dân tộc Brâu, Ơ đu
và Rơ Măm chỉ có trên 300 người. Với một quốc gia đa dạng về dân tộc như
Việt Nam thì việc xảy ra các sự kiện để xác định, xác định lại dân tộc là điều
tất yếu.1
1

Kết quả toàn bộ Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2009, phần I: Biểu Tổng
hợp, Cục thống kê Việt Nam, trích trong tài liệu: “Nguyễn Văn Cừ, Trần Thị Huệ, (2017),
Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, Công an nhân dân, Hà Nội, tr.77.


2


Ngoài ra, trong bối cảnh hiện nay, có rất nhiều thế lực thù địch, phản
cách mạng dựa vào vấn đề dân tộc nhằm chia rẽ sự đoàn kết dân tộc nhằm
làm suy yếu, chống phá Nhà nước ta nên việc quy định của pháp luật về xác
định, xác định lại dân tộc là hợp lý, cần thiết, vì thế nó không chỉ mang ý
nghĩa xác định quyền xác định, xác định lại dân tộc là một quyền dân sự của
cá nhân, đảm bảo lợi ích chính đáng cho cá nhân mà còn có ý nghĩa trong việc
nghiêm cấm việc lợi dụng hành vi xác định, xác định lại dân tộc để trục lợi,
chia rẽ, làm tổn hại đến sự đoàn kết giữa các dân tộc Việt Nam.
Mặc dù, quyền xác định, xác định dân tộc đã được quy định lần đầu tiên
ở BLDS năm 1995 và ngày càng hoàn thiện hơn ở BLDS năm 2005 và BLDS
năm 2015, tuy nhiên trong thực tiễn áp dụng pháp luật vẫn còn nhiều tồn tại,
vướng mắc do quy định của pháp luật còn chưa rõ ràng, phù hợp với thực tiễn
hoặc thiếu cơ chế điều chỉnh, hay xuất phát từ chính các cá nhân không nhận
thức được quyền lợi của mình.
Từ những lý do trên, có thể thấy việc nghiên cứu “Quyền xác định, xác
định lại dân tộc của cá nhân” là rất cần thiết. Qua đó, góp phần hiểu rõ và
thống nhất các quy định của pháp luật có liên quan đến quyền xác định, xác
định lại dân tộc của cá nhân cũng như nắm bắt được thực trạng thực hiện
quyền này trên thực tiễn hiện nay, từ đó đưa ra kiến nghị thích hợp nhằm góp
phần hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo vệ quyền này đối với cá nhân. Tuy nhiên,
trong phạm vi đề tài này, tác giả chỉ tìm hiểu thực tiễn thực hiện pháp luật của
quyền trong phạm vi địa bàn tỉnh Thái Nguyên – nơi sinh sống của nhiều dân
tộc anh em. Trên đây cũng chính là lý do tác giả chọn đề tài “Quyền xác định,
xác định lại dân tộc và thực tiễn trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua thực tiễn tìm hiểu việc nghiên cứu khoa học về quyền xác định,
xác định lại dân tộc của cá nhân còn rất hạn chế. Chủ yếu là các công trình
nghiên cứu chung về quyền nhân thân hoặc nghiên cứu cụ thể về một quyền



3

dân sự như quyền nhân thân của cá nhân đối với hình ảnh hoặc bảo vệ quyền
nhân thân của cá nhân trong các lĩnh vực dân sự, lĩnh vực xuất bản hay bảo vệ
quyền nhân thân của cá nhân trong lĩnh vực lao động, quyền xác định lại giới
tính, quyền được bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, thân thể hay quyền được bảo
vệ danh dự nhân phẩm uy tín,…
Tuy nhiên có thể kể đến một số công trình nghiên cứu chung về quyền
nhân thân trong đó có đề cập đến quyền xác định, xác định lại dân tộc như:
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường “Quyền nhân thân của cá nhân và bảo
vệ quyền nhân thân trong pháp luật dân sự” do TS. Lê Đình Nghị làm chủ
nhiệm đề tài, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2008, trong đó có một
chuyên đề về “Quyền nhân thân liên quan đến cá biệt hóa cá nhân: Quyền của
cá nhân đối với họ tên, dân tộc, hình ảnh” của Th.S Nguyễn Minh Oanh, hay
đề tài “Khái niệm và phân loại quyền nhân thân” của PGS.TS Bùi Đăng Hiếu
trên tạp chí Luật học, Số 7/2009, tr.39 – 46 có phân loại các quyền nhân thân,
trong đó có quyền xác định, xác định lại dân tộc theo các tiêu chí về căn cứ
phát sinh, chủ thể mang quyền, đối tượng quyền, thời hạn bảo hộ, hành vi
xâm phạm,…
Còn công trình nghiên cứu khoa học về quyền xác định, xác định lại dân
tộc thì có một số bài viết nghiên cứu như: “Về Điều 30 Bộ luật Dân sự
“Quyền xác định dân tộc” của tác giả Nguyễn Đình Toàn trên tạp chí Dân chủ
và Pháp luật, Số 2/2003, tr28, 47”; “Ngăn chặn tình trạng xác định lại dân tộc
nhằm hưởng lợi bất chính từ chính sách dân tộc của nhà nước” của tác giả Đỗ
Văn Nhân trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số 10/2011, tr.60 – 61; “Xác
định dân tộc trong giấy khai sinh” của tác giả Trang Anh trên tạp chí Dân chủ
và Pháp luật, Số 12/2002, tr.47 – 48,…
Như vậy, có thể nói so với các công trình nghiên cứu khoa học về các
quyền nhân thân khác thì quyền xác định, xác định lại dân tộc vẫn còn khá
hạn chế, hầu hết các đề tài nghiên cứu đều đã khá lâu, chưa có sự cập nhật về



4

các quy định mới trong BLDS năm 2015 và các văn bản quy phạm pháp luật
hiện hành khác có liên quan. Từ những tình hình thực tế đã được nêu lên ở
phần tính cấp thiết của đề tài cho thấy việc nghiên cứu về “Quyền xác định,
xác định lại dân tộc và thực tiễn trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên” là cần thiết.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật dân sự
Việt Nam hiện hành liên quan đến quyền xác định, xác định lại dân tộc của cá
nhân và thực tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
* Phạm vi nghiên cứu
Trong khả năng của tác giả và khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ, đề
tài chỉ tập trung nghiên cứu, phân tích, đánh giá một số nội dung sau: Khái
niệm, đặc điểm của quyền xác định, xác định lại dân tộc của cá nhân; Khái
quát sự phát triển của pháp luật dân sự Việt Nam về quyền xác định, xác định
lại dân tộc; Mối quan hệ giữa quyền xác định, xác định lại dân tộc với các
quyền nhân thân khác; Quy định của pháp luật hiện hành về nguyên tắc xác
định dân tộc, các trường hợp xác định lại dân tộc của cá nhân và thực tiễn
thực hiện việc xác định, xác định lại dân tộc của cá nhân trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Việc nghiên cứu đề tài: “Quyền xác định, xác định lại dân tộc và thực
tiễn trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên” nhằm đạt mục tiêu chủ yếu sau đây: làm
rõ một số vấn đề lý luận cũng như phân tích, đánh giá các quy định của pháp
luật hiện hành của Việt Nam về quyền xác định, xác định lại dân tộc của cá
nhân. Làm rõ tình hình thực tiễn thực hiện pháp luật về xác định, xác định lại
dân tộc của cá nhân trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Từ đó, chỉ ra những hạn

chế, vướng mắc trong quy định của pháp luật cũng như trên thực tiễn thực
hiện pháp luật và đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện hệ


5

thống pháp luật liên quan đến quyền xác định, xác định lại dân tộc của cá
nhân ở nước ta hiện nay.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Luận văn giải quyết các câu hỏi:
(1) Thế nào là quyền xác định, xác định lại dân tộc của cá nhân? Quyền
xác định, xác định lại dân tộc của cá nhân có những đặc điểm gì?
(2) Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật dân sự về quyền xác
định, xác định lại dân tộc trong hệ thống pháp luật Việt Nam như thế nào?
(3) Mối quan hệ giữa quyền xác định, xác định lại dân tộc với các quyền
nhân thân khác là gì?
(4) Pháp luật hiện hành về quyền xác định, xác định lại dân tộc được quy
định như thế nào?
(5) Thực tiễn thực hiện việc xác định, xác định lại dân tộc của cá nhân
tại địa bàn tỉnh Thái Nguyên như thế nào? Với thực trạng đó cần đưa ra
những kiến nghị gì nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về xác định, xác định
lại dân tộc của cá nhân?
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Xem xét, phân tích, đánh giá các
quan điểm, quy định pháp lý về quyền xác định, xác định lại dân tộc của
cá nhân trong pháp luật Việt Nam và tình hình thực tiễn trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên.
- Phương pháp lịch sử: Trình bày quá trình phát triển các quy định về
quyền xác định, xác định lại dân tộc của cá nhân trong hệ thống pháp luật

Việt Nam.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
* Ý nghĩa khoa học
Luận văn là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề xác
định, xác định lại dân tộc của cá nhân nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật Việt Nam và bảo đảm quyền, lợi ích của cá nhân trong việc xác


6

định, xác định lại dân tộc. Do đó, luận văn có những đóng góp về mặt khoa
học như sau:
- Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận về quyền xác định, xác định lại
dân tộc của cá nhân.
- Luận văn làm rõ nội dung cũng như bất cập trong quy định của pháp
luật Việt Nam hiện hành về quyền xác định, xác định lại dân tộc.
- Luận văn phân tích, đánh giá tình tình thực hiện xác định, xác định lại
dân tộc trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
- Luận văn đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện
pháp luật Việt Nam về việc xác định, xác định lại dân tộc của cá nhân.
* Ý nghĩa thực tiễn
- Với kết quả phân tích, đánh giá quy định của pháp luật hiện hành và
thực tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, quyền xác định, xác định
lại dân tộc đối với cá nhân, luận văn đã góp phần hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam liên quan đến việc xác định, xác định lại dân tộc của cá nhân.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các cá nhân trong
quá trình học tập và làm việc cũng như những cá nhân có quan tâm, nghiên
cứu về quyền xác định, xác định lại dân tộc của cá nhân hiện nay.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, bố cục của

luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Khái quát chung về quyền xác định, xác định lại dân tộc của
cá nhân
Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành về quyền xác định, xác
định lại dân tộc.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện việc xác định, xác định lại dân tộc
của cá nhân trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên và một số kiến nghị hoàn thiện
pháp luật


7

Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN XÁC ĐỊNH, XÁC ĐỊNH LẠI
DÂN TỘC CỦA CÁ NHÂN
1.1. Khái niệm và đặc điểm của quyền xác định, xác định lại dân tộc của
cá nhân
1.1.1. Khái niệm quyền xác định, xác định lại dân tộc
Xác định, xác định lại dân tộc là một quyền dân sự của cá nhân được quy
định trong BLDS năm 2015. Tuy nhiên BLDS năm 2015 không có quy định
thế nào là quyền xác định, xác định lại dân tộc.
Dân tộc hiện nay được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, trong đó dân tộc
được hiểu phổ biến theo các nghĩa sau:
Dân tộc (tộc người) là hình thái đặc thù của một tập đoàn người, xuất
hiện trong quá trình phát triển của tự nhiên và xã hội, được phân biệt bởi ba
đặc trưng cơ bản là ngôn ngữ, văn hóa và ý thức tự giác về cộng đồng, mang
tính bền vững qua hàng nghìn năm lịch sử, ví dụ dân tộc Tày, dân tộc Khơ
Me, dân tộc Nùng,…2
Theo từ điển Việt – Việt, dân tộc là cộng đồng người có chung một lãnh
thổ, ngôn ngữ, đặc trưng văn hóa.3

Dân tộc cũng có nghĩa là các cộng đồng người có chung một ngôn ngữ,
một lãnh thổ, một nền kinh tế và một truyền thống văn hóa; hay dân tộc cũng
có nghĩa là tên gọi các cộng đồng người hình thành trong lịch sử ở những
giai đoạn phát triển khác nhau.4
Theo các nghĩa trên thì dân tộc là một bộ phận quốc gia – Quốc gia có
nhiều dân tộc.
2

Bộ Tư pháp -Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển Luật học, Tư pháp, Hà Nội, tr.213
Từ điển Việt – Việt, tại địa chỉ: ngày truy cập 23/5/2018.
4
Từ điển Việt – Việt, tại địa chỉ
ngày truy cập 23/5/2018.
3


8

Hoặc theo một số nghĩa khác. Theo từ điển Luật học, dân tộc cũng có
nghĩa là hình thái phát triển cao nhất của tộc người, xuất hiện trong xã hội tư
bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Dân tộc đặc trưng bởi sự cộng đồng bền
vững và chặt chẽ hơn về kinh tế, ngôn ngữ, lãnh thổ, các đặc điểm về văn hóa
và ý thức tự giác tộc người.5
Dân tộc cũng được hiểu là cộng đồng chính trị - xã hội, được hình thành
do sự tập hợp của nhiều tộc người có trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác
nhau cùng chung sống trên một lãnh thổ nhất định và được quản lý thống
nhất bởi nhà nước.6
Theo các nghĩa này thì dân tộc là toàn bộ nhân dân của một quốc gia –
Quốc gia dân tộc.
Dân tộc trong quyền xác định, xác định lại dân tộc được hiểu theo nghĩa

thứ nhất. Dân tộc “là một cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ, bền vững,
về kinh tế, ngôn ngữ, lãnh thổ và có nét văn hóa đặc thù”.
Xác định dân tộc được hiểu là việc xác định lần đầu tiên dân tộc cho một
cá nhân áp dụng phổ biến đối với trường hợp trẻ sơ sinh khi làm thủ tục đăng
ký khai sinh.7
Xác định lại dân tộc có thể hiểu là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền
đăng ký xác định lại dân tộc của cá nhân theo quy định của Bộ luật Dân sự.8
Như vậy có thể hiểu việc xác định lại dân tộc là việc xác định dân tộc
cho những cá nhân đã được thừa nhận một dân tộc trước đó mà thuộc các
trường hợp được xác định lại dân tộc và có yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xác định lại dân tộc.

5

Bộ Tư pháp - Viện Khoa học pháp lý, tlđd chú thích 2, tr.214
Bộ Tư pháp - Viện Khoa học pháp lý, tlđd chú thích 2, tr.214
7
Nguyễn Văn Cừ, Trần Thị Huệ (2017), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự năm 2015 của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Công an nhân dân, Hà Nội, tr77.
8
Khoản 11 Điều 4 Luật Hộ tịch năm 2014.
6


9

Xác định, xác định lại dân tộc là một quyền nhân thân được quy định
trong Bộ luật Dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
“Quyền” dưới góc độ pháp lý được hiểu là khả năng được phép xử sự
theo một cách nhất định của chủ thể trong quan hệ dân sự để thực hiện, bảo vệ

lợi ích của mình. Quyền có nhiều cách phân loại, có thể phân loại quyền theo
các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,…
Từ những phân tích trên, có thể hiểu Quyền xác định, xác định lại dân
tộc là quyền nhân thân của cá nhân, là khả năng pháp luật cho phép cá nhân
được xác định, xác định lại dân tộc theo trình tự, thủ tục hợp pháp để đảm
bảo quyền, lợi ích của mình.
1.1.2. Đặc điểm của quyền xác định, xác định lại dân tộc của cá nhân
Quyền xác định, xác định lại dân tộc của cá nhân là một quyền nhân thân
nên sẽ có những đặc điểm chung của quyền nhân thân như sau:
Thứ nhất, quyền xác định, xác định lại dân tộc là quyền nhân thân liên
quan đến lợi ích tinh thần gắn liền với mỗi chủ thể và không thể dịch chuyển
cho người khác.
Lợi ích tinh thần của cá nhân là những giá trị tinh thần được pháp luật
ghi nhận và các chủ thể khác phải có nghĩa vụ tôn trọng giá trị tinh thần
của cá nhân đó. Những lợi ích tinh thần có thể là kết quả của hoạt động lao
động trí óc của con người (ví dụ như các tác phẩm văn học, nghệ thuật,
khoa học, các đối tượng của đối tượng quyền sở hữu công nghiệp, giống
cây trồng,..) hoặc các yếu tố khác làm chi phối quan hệ nhân thân do luật
dân sự điều chỉnh.
Quyền nhân thân là quyền dân sự gắn liền với mỗi cá nhân mà không
thể dịch chuyển cho người khác do nó phát sinh từ giá trị tinh thần của mỗi
chủ thể. Quyền nhân thân không thể là đối tượng giao dịch giữa các cá nhân.
Ví dụ, một cá nhân không thể đổi họ tên cho người khác và ngược lại hoặc
một cá nhân không thể ủy quyền cho người khác đăng ký kết hôn cho


10

mình,…. Không cá nhân nào có thể chuyển giao cho người khác trừ các
trường hợp do pháp luật quy định cho phép chủ thể chuyển giao cho chủ thể

khác. Ví dụ: Quyền công bố tác phẩm của tác giả có thể chuyển giao được
cho người khác nhưng có những yếu tố gắn liền với giá trị tinh thần của tác
giả không thể chuyển giao được đó là quyền đứng tên tác giả hoặc quyền
bảo vệ sự vẹn toàn của tác phẩm (Điều 45 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa
đổi bổ sung năm 2009).
Thứ hai, quyền xác định, xác định lại dân tộc là quyền nhân thân không
thể định giá được bằng tiền và không có tính chất ngang giá. Hay nói cách
khác quyền nhân thân mang tính chất phi tài sản. Như phân tích ở đặc điểm
thứ nhất, quyền nhân thân luôn gắn liền với giá trị tinh thần của mỗi chủ thể
nên về bản chất giá trị tinh thần này không thể định giá được bằng tiền và giá
trị nhân thân cũng không thể là đối tượng của hợp đồng mua bán, trao đổi
hoặc tặng cho,… giống như quyền tài sản. Đây cũng là điểm khác biệt giữa
quyền nhân thân và quyền tài sản. Vì quyền tài sản luôn mang tính chất tài
sản, trị giá được bằng tiền dựa trên nguyên tắc đền bù ngang giá.
Thứ ba, quyền xác định, xác định lại dân tộc là quyền nhân thân thuộc về cá
nhân. Quyền xác định, xác định lại dân tộc là quyền nhân thân thuộc về cá
nhân, mang tính chất cá nhân và luôn gắn liền với một cá nhân cụ thể. Quyền
này thuộc về cá nhân từ khi cá nhân sinh ra và không thể chuyển giao cho
người khác và chấm dứt khi người đó chết đi. Do đó quyền xác định, xác định
dân tộc là một quyền gắn liền với một chủ thể xác định.
Thứ tư, quyền xác định, xác định lại dân tộc là quyền cá biệt hóa cá nhân
trong xã hội. Quyền cá biệt hóa chủ thể được thể hiện dưới hình thức các công
cụ cá biệt hóa khác nhau ở mỗi chủ thể. Mỗi chủ thể đều có họ tên riêng, có
dân tộc riêng, có hình ảnh riêng,… được thể hiện ở các yếu tố lý lịch khác
nhau. Khi tập hợp các công cụ cá biệt hóa đó ở mỗi chủ thể thì có thể hình
dung và phân biệt với các chủ thể khác. Ví dụ, đối với nhóm quyền liên quan


11


đến thân thể của cá nhân, bao gồm quyền được đảm bảo an toàn về tính mạng,
sức khỏe, thân thể; quyền hiến, nhận mô, bộ phận cơ thể người, quyền hiến,
lấy xác là nhóm quyền có liên quan trực tiếp tới thân thể của cá nhân. Cá nhân
có quyền được bảo vệ thân thể và cũng có quyền định đoạt đối với thân thể
của mình. Cá nhân có quyền yêu cầu bảo vệ khi có hành vi xâm phạm và sẽ
được bảo vệ tuyệt đối khỏi sự xâm phạm bất hợp pháp của bất kỳ chủ thể
khác. Như vậy, quyền xác định, xác định dân tộc là một quyền thuộc nhóm
quyền cá biệt hóa cá nhân.
Ngoài ra quyền xác định, xác định lại dân tộc còn có một số đặc điểm
riêng biệt như sau:
* Quyền xác định, xác định lại dân tộc là quyền nhân thân không gắn
với tài sản.
Đặc tính không gắn với tài sản là một trong những đặc tính cơ bản để
phân biệt quyền nhân thân gắn với tài sản và quyền nhân thân không gắn với
tài sản. Quyền nhân thân không gắn với tài sản chưa được định nghĩa cụ thể
trong văn bản quy phạm pháp luật nào nhưng có thể hiểu quyền nhân thân
không gắn với tài sản là những quyền nhân thân mà chủ thể của quyền đó chỉ
được hưởng các lợi ích về tinh thần, luôn gắn liền với đời sống tinh thần của
chủ thể, mang tính bình đẳng, không phân biệt hoàn cảnh kinh tế, địa vị của
chủ thể và không thể chuyển giao cho chủ thể khác.
Quyền xác định, xác định lại dân tộc luôn gắn liền với mỗi chủ thể nhất
định. Căn cứ vào quan hệ huyết thống hoặc nuôi dưỡng, chủ thể có thể xác
định, hoặc xác định lại dân tộc của mình theo quy định của pháp luật mà
không thể chuyển giao quyền này cho chủ thể khác thông qua một giao dịch
dân sự nào đó. Quyền xác định, xác định lại dân tộc được nhà nước công nhận
và bảo hộ đối với mỗi cá nhân, mỗi cá nhân đều có một dân tộc riêng trong
cộng đồng 54 dân tộc anh em của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quyền xác định, xác định lại dân tộc được công nhận đối với mọi cá nhân, cá



12

nhân đều bình đẳng trong việc xác định, xác định lại dân tộc của mình mà
không phụ thuộc vào các yếu tố khác và gắn liền trong suốt cuộc đời của cá
nhân đó.
Đây cũng chính là đặc điểm để phân biệt với nhóm quyền nhân thân gắn
với tài sản như quyền sở hữu trí tuệ (quyền tác giả, quyền liên quan đến tác
giả, quyền sở hữu công nghiệp,..) là nhóm quyền được xác lập cùng với sự
hình thành của sản phẩm (tài sản) trí tuệ vô hình của cá nhân sáng tạo ra. Nó
có thể chuyển giao một số quyền cho chủ thể khác như quyền công bố hoặc
cho phép người khác công bố tác phẩm. Nhóm quyền nhân thân này có thể
đem lại những giá trị vật chất nhất định.
* Quyền xác định, xác định dân tộc là nhóm quyền được bảo hộ có thời hạn
Việc xác định thời hạn bảo hộ này có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo
vệ quyền nhân thân khỏi sự xâm phạm bất hợp pháp của chủ thể khác. Quyền
xác định, xác định lại dân tộc chỉ được bảo hộ trong một thời hạn nhất định.
Đó là trong quá trình sống của cá nhân và chấm dứt khi cá nhân đó chết. Sau
khi một người chết đi thì đương nhiên các quyền thay đổi họ tên, quyền xác
định lại dân tộc, quyền xác định lại giới tính, quyền được đảm bảo an toàn về
tính mạng, sức khỏe danh dự của họ sẽ chấm dứt. Điều này thể hiện sự tôn
trọng đối với người đã chết. Ngoài ra có thể thấy đối với quyền xác định, xác
định lại dân tộc ở đây chỉ có thể được chính cá nhân đó hoặc người đại diện
theo pháp luật hoặc người giám hộ của người đó yêu cầu thay đổi trong
trường hợp cá nhân chưa thành niên, nếu một cá nhân đã chết thì việc xác
định lại dân tộc cũng không có ý nghĩa và nó cũng không còn thể hiện được
nguyện vọng của cá nhân đó, điều này trái với mục đích, ý nghĩa của pháp
luật khi quy định quyền nhân thân này. Đây cũng là đặc điểm để phân biệt
quyền xác định, xác định dân tộc với các quyền nhân thân khác thuộc nhóm
quyền được bảo hộ vô thời hạn. Đó là nhóm các quyền nhân thân được bảo hộ
vĩnh viễn ngay cả khi cá nhân đó đã chết như quyền đối với họ tên, quyền đối



13

với hình ảnh, quyền bí mật riêng tư, danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân,
hay quyền được đứng tên thật trên tác phẩm,..
* Hành vi xâm phạm đến quyền xác định, xác định lại dân tộc là hành vi
xâm phạm tác động vào chính chủ thể quyền
Đối với hành vi xâm phạm này chủ thể quyền là người bị hành vi xâm
phạm tác động tới. Hậu quả những hành vi này mang lại là những tổn thất
trực tiếp (như tính mạng, sức khỏe, thân thể,…) hoặc gián tiếp như những khó
khăn ngăn cản các chủ thể thực quyền thực hiện hành vi liên quan đến nhân
thân của mình. Đối với quyền xác định, xác định lại dân tộc thì hậu quả của
hành vi xâm phạm quyền này là các hậu quả gián tiếp, làm cho chủ thể không
không được hưởng tối đa các quyền lợi, nghĩa vụ hợp pháp của mình. Ví dụ:
việc xác định dân tộc không đúng theo các nguyên tắc xác định dẫn tới việc
không được hưởng những chính sách, ưu đãi về nhà nước,… Và quá trình
khắc phục thiệt hại đó được thực hiện bằng cách xác định lại dân tộc, cải
chính, thay đổi nội dung hộ tịch mà không phải bằng các hành vi bồi thường
thiệt hại như chăm sóc, chữa bệnh, xin lỗi, chấm dứt hành vi cản trở giống với
thiệt hại được gây ra và có hậu quả trực tiếp. Đây cũng là một đặc điểm để
phân biệt quyền xác định, xác định lại dân tộc với các quyền nhân thân khác
thuộc các nhóm khác như nhóm hành vi xâm phạm tác động vào chủ thể khác
không phải chủ thể quyền (như quyền đối với họ tên, quyền bí mật đời tư, bảo
vệ danh dự, uy tín) hay nhóm các hình vi xâm phạm tác động vào vật phẩm
liên quan đến quyền (như quyền đối với hình ảnh, quyền đối với quốc tịch,
quyền đứng tên trên tác phạm….)
Việc xác định đúng hành vi xâm phạm có ý nghĩa rất quan trọng trong
việc nhận diện và chứng minh hành vi vi phạm quyền nhân thân của một cá
nhân đối với việc xác định lại dân tộc cũng như yêu cầu cơ quan nhà nước

bảo vệ, khôi phục lại các giá trị nhân thân bị xâm phạm đó.


14

* Phương thức nhà nước bảo vệ quyền xác định, xác định lại dân tộc là
bảo vệ khi có yêu cầu của chủ thể
Quyền xác định, xác định lại dân tộc chỉ được bảo vệ khi chính chủ thể
bị xâm phạm hoặc chủ thể có quyền yêu cầu bảo vệ trong trường hợp người
bị xâm phạm chưa có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, hoặc bị mất năng lực
hành vi dân sự hoặc có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi,... Họ sẽ
là người tự đánh giá xem quyền nhân thân của mình có bị xâm phạm hay
không, và có quyền tự quyết định có yêu cầu chấm dứt và khắc phục hậu quả
do có hành vi xâm phạm hay không. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ
bảo vệ khi có yêu cầu của chủ thể quyền mà không tự can thiệp khi không có
yêu cầu.
Khi có yêu cầu bảo vệ thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc người
có hành vi vi phạm phải chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công
khai hoặc bồi thường thiệt hại nếu có cho người bị thiệt hại hoặc áp dụng các
biện pháp khác.
1.2. Khái quát về sự phát triển của pháp luật dân sự Việt Nam về quyền
xác định, xác định lại dân tộc
Ở Việt Nam, kể từ sau Cách mạng Tháng Tám đến nay, quyền nhân
thân của cá nhân luôn được pháp luật bảo vệ và ngày càng được coi trọng.
Quyền xác định, xác định lại dân tộc là một trong các quyền nhân thân của cá
nhân. Có thể tóm tắt lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật dân sự Việt
Nam về quyền xác định, xác định lại dân tộc của cá nhân như sau:
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời.
Ngày 9 tháng 11 năm 1946, Quốc hội thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Căn cứ vào tình hình đất nước lúc bấy giờ

các quy định của Hiến pháp tập trung vào “nhiệm vụ của nước ta ở giai đoạn
này là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên


15

nền tảng dân chủ”.9 Trước nguy cơ tất yếu đó, trong điều kiện chưa thể cho ra
đời các văn bản quy phạm pháp luật mới, chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc
lệnh số 90/SL với nội dung cho phép tạm thời áp dụng một số luật lệ ở Bắc,
Trung, Nam cho đến khi ban hành những văn bản quy phạm pháp luật áp
dụng thống nhất trên toàn quốc. Sắc lệnh có nguyên tắc “những luật lệ ấy
không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ
cộng hòa” 10. Để điều hành công việc của Chính phủ và hoàn cảnh đất nước
phải kháng chiến chống thực dân Pháp, chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký nhiều sắc
lệnh. Trong lĩnh vực dân sự có Sắc lệnh 97/SL ngày 22 tháng 5 năm 1950 về
“Sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân sự”. Đây là văn bản có ý nghĩa
quan trọng thể hiện việc sắc lệnh vẫn tiếp tục cho thi hành những quy định cơ
bản của các bộ dân luật cũ nhưng đồng thời cũng có sự bổ sung, thay thế nhất
định tạo nên nền móng cho các nguyên tắc cơ bản của luật dân sự sau này.
Nhiều nguyên tắc thể hiện tính chất dân chủ, tiến bộ và thể hiện bản chất của
quan hệ dân sự được ghi nhận trong sắc lệnh này như “Những quyền dân sự
đều được bảo vệ khi người ta hành sự nó đúng với quyền lợi của nhân dân”
(Điều 1).
Hiến pháp năm 1959 ra đời trong bối cảnh Hiến pháp 1946 không còn
phù hợp với sự thay đổi của chính trị, xã hội đánh dấu một bước phát triển
mới trong quá trình lập hiến của Việt Nam. Hiến pháp năm 1959 đã có những
quy định cụ thể về quyền công dân như quyền bình đẳng (Điều 24), quyền tự
do tín ngưỡng (Điều 26), quyền bất khả xâm phạm về tài sản của công dân
(Điều 40),.. tuy nhiên về quyền nhân thân cũng như quyền xác định, xác định
lại dân tộc của cá nhân thì chưa được quy định cụ thể tại một văn bản pháp

luật nào.
Tại Điều 3 Hiến pháp 1959 đã có quy định:
9

Hiến pháp năm 1946, Lời nói đầu
Hiến pháp năm 1946, Lời nói đầu

10


16

“ Các dân tộc trên đất nước Việt Nam đều bình đẳng về quyền lợi và
nghĩa vụ. Các dân tộc có quyền duy trì hoặc sửa đổi phong tục, tập quán,
dùng tiếng nói, chữ viết, phát triển văn hóa dân tộc mình. Nhà nước ra sức
giúp đỡ các dân tộc thiểu số mau tiến kịp trình độ kinh tế và văn hóa chung”.
Như vậy, có thể thấy nhà nước Việt Nam đã đề cập đến dân tộc và
quyền dân tộc của công dân. Mặc dù quyền xác định dân tộc vẫn chưa được
quy định cụ thể ở một văn bản pháp luật nào nhưng có thể thấy nó đã manh
nha được thể hiện là một quyền nhân thân của cá nhân. Kế thừa và phát huy
những quy định của Hiến pháp 1959 thì Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp
năm 1992 vẫn giữ quy định về quyền dân tộc của công dân “các dân tộc có
quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn và phát huy những phong tục, tập
quán, truyền thống văn hóa tốt đẹp của mình” (Điều 5 – Hiến pháp 1980),
“các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc và
phát huy những phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp của mình” (Điều 5
– Hiến pháp năm 1992). Có thể nói đây chính là “mầm non” cho sự phát
triển, quy định về quyền xác định, xác định lại dân tộc ở Bộ luật Dân sự năm
1995 sau này - Bộ luật Dân sự đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.

Mặc dù chưa có quy định cụ thể về quyền xác định, xác định lại dân tộc
nhưng không có nghĩa là ở trong giai đoạn này pháp luật Việt Nam không bảo
vệ quyền dân tộc của cá nhân. Trong Bộ luật Hình sự năm 1985 có quy định
nhiệm vụ của Bộ luật Hình sự là “bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền làm
chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân, bảo vệ quyền bình đẳng giữa
đồng bào các dân tộc, bảo vệ các quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công
dân”.11 Và cụ thể trong Điều 81 BLHS năm 1985 có quy định về tội phá hoại
chính sách đoàn kết:

11

Điều 1 Bộ luật Hình sự năm 1985


17

“1. Người nào có một trong các hành vi sau đây nhằm chống chính
quyền nhân dân thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm:
…..
b) Gây hằn thù, miệt thị, chia rẽ dân tộc, xâm phạm quyền bình đẳng
trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam
….”
Như vậy, có thể thấy dù chưa có quy phạm pháp luật quy định trực tiếp
về quyền xác định, xác định lại dân tộc nhưng đã có những quy định của pháp
luật thể hiện ý nghĩa quan trọng của quyền dân sự này.
Bắt đầu từ năm 1995, đất nước bước sang giai đoạn phát triển mới, chấm
dứt nền kinh tế tập trung, bao cấp, thay vào đó là nền kinh tế thị trường, nhiều
thành phần. Sau nhiều năm “thai ngén” BLDS năm 1995 đã được ban hành và
có hiệu lực từ ngày 01 tháng 07 năm 1996. BLDS năm 1995 ra đời đã đánh
dấu một bước ngoặt to lớn trong quá trình lập pháp của nước ta. BLDS năm

1995 là Bộ luật lớn điều chỉnh một phạm vi quan hệ xã hội rộng lớn với rất
nhiều các lĩnh vực liên quan.
Quyền xác định, xác định lại dân tộc được quy định lần đầu tiên tại Điều
30 Bộ luật Dân sự năm 1995:
“1. Cá nhân khi sinh ra được xác định dân tộc theo dân tộc của cha,
mẹ. Trong trường hợp cha và mẹ thuộc hai dân tộc khác nhau thì dân tộc của
người con được xác định là dân tộc của người cha hoặc dân tộc của người mẹ
theo tập quán hoặc theo thỏa thuận của cha, mẹ.
2. Người đã thành niên có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xác định lại dân tộc trong các trường hợp sau đây:
a) Xác định lại theo dân tộc của người cha hoặc người mẹ nếu cha, mẹ
thuộc hai dân tộc khác nhau.
b) Xác định lại theo dân tộc của cha đẻ, mẹ đẻ trong trường hợp làm con
nuôi của người thuộc dân tộc khác.”


×