Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán theo bộ luật dân sự năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 69 trang )

BỘ TƯ PHÁP

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÊ ANH TUYÊN

NGHĨA VỤ TÀI SẢN VÀ CÁC KHOẢN CHI PHÍ LIÊN QUAN ĐẾN
THỪA KẾ ĐƯỢC THANH TOÁN THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015

Chuyên ngành
Mã số

: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
: 24UD03055

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Định hướng ứng dụng
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Bùi Đăng Hiếu

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn


này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lê Anh Tuyên


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

:Bộ luật dân sự

BLLĐ

:Bộ luật lao động

NSNN

:Ngân sách nhà nước

HN & GĐ :Hôn nhân và Gia đình
BTTH

:Bồi thường thiệt hại

TAND

:Tòa án nhân dân

VKSND


:Viện kiểm sát nhân dân


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
1.

Lý do chọn đề tài ..................................................................................... 1

2.

Tình hình nghiên cứu đề tài ................................................................... 2

3.

Mục đích, đối tượng nghiên cứu và giới hạn phạm vi nghiên cứu .... 3

4.

Phương pháp nghiên cứu đề tài............................................................. 4

5.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.............................................. 4

PHẦN NỘI DUNG .............................................................................................. 6
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHĨA VỤ TÀI SẢN VÀ THỰC
HIỆN NGHĨA VỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI CHẾT ĐỂ LẠI ............................. 6
1.1.

Lý luận chung về nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan
đến thừa kế do người chết để lại ........................................................................ 6
1.1.1. Nguồn tài sản được dùng để thực hiện nghĩa vụ người chết để lại và
thanh toán các chi phí liên quan đến thừa kế .................................................... 6
1.1.2. Chủ thể thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại và thanh toán
chi phí liên quan đến thừa kế .............................................................................. 9
1.1.3. Thứ tự thực hiện nghĩa vụ tài sản và thanh toán chi phí liên quan đến
thừa kế do người chết để lại của các chủ thể.................................................... 15
1.1.4. Thời điểm phát sinh nghĩa vụ tài sản và thanh toán chi phí liên quan
đến thừa kế do người chết để lại ....................................................................... 16
1.1.5. Phạm vi thực hiện nghĩa vụ tài sản và thanh toán chi phí liên quan
đến thừa kế ......................................................................................................... 17
Kết luận Chương 1 ............................................................................................ 23
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NGHĨA VỤ TÀI SẢN, CÁC
KHOẢN CHI PHÍ LIÊN QUAN ĐẾN THỪA KẾ ĐƯỢC THANH TOÁN,
NHỮNG BẤT CẬP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT .......... 24
2.1.
Quy định pháp luật về nghĩa vụ tài sản, các khoản chi phí liên quan
đến thừa kế được thanh toán ........................................................................... 24
2.1.1. Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng ................................... 24
2.1.2. Tiền cấp dưỡng còn thiếu ...................................................................... 26


2.1.3. Chi phí cho việc bảo quản di sản .......................................................... 29
2.1.4. Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ .............................................. 31
2.1.5. Tiền công lao động ................................................................................. 32
2.1.6. Tiền bồi thường thiệt hại ....................................................................... 33
2.1.7. Thuế và các khoản phải nộp khác vào Ngân sách nhà nước .............. 34
2.1.8. Các khoản nợ khác đối với cá nhân, pháp nhân .................................. 36
2.1.9. Tiền phạt ................................................................................................. 36

2.1.10. Các chi phí khác ..................................................................................... 36
2.2.

Thứ tự ưu tiên thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại ....... 37

2.2.1. Thứ tự thực hiện nghĩa vụ tài sản theo Bộ luật dân sự 2015 .............. 37
2.2.2. Những điểm khác nhau và ý nghĩa của việc sắp xếp thứ tự theo Bộ
luật dân sự 2015 so với Bộ luật dân sự 2005 .................................................... 39
2.2.3. Những bất cập của Bộ luật dân sự 2015 liên quan đến việc thực hiện
nghĩa vụ do người chết để lại và kiến nghị hoàn thiện pháp luật ................... 40
Kết luận Chương 2 ............................................................................................ 51
PHẦN KẾT ........................................................................................................ 53
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 54


Trang 1

PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Thừa kế là một chế định cơ bản, quan trọng và cần thiết trong đời
sống dân sự của hầu hết các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Vì vậy,
chế định này đã xuất hiện, tồn tại xuyên suốt trong quá trình lập pháp của
nước ta, từ Dân Luật Bắc Kỳ năm 1931, Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ Luật năm
1936, Bộ luật Sài Gòn năm 1972 đến Pháp lệnh thừa kế năm 1990, Bộ luật
dân sự 1995, Bộ luật dân sự 2005 và văn bản pháp luật hiện hành là Bộ luật
dân sự năm 2015. Với thời gian tồn tại lâu dài, các vấn đề chính liên quan đến
thừa kế đã được Cơ quan lập pháp xây dựng khá đầy đủ; tuy nhiên, khi đi vào
chi tiết từng quy định pháp luật vẫn tồn tại nhiều bất cập để chúng ta phải

nghiên cứu, đánh giá và hoàn thiện.
Trong số các vấn đề mà chế định thừa kế bao hàm, tác giả nhận thấy
vấn đề nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế rất đáng
được quan tâm tìm hiểu nhiều hơn nữa. Vấn đề này được Nhà nước đặt ra
nhằm bảo đảm nguyên tắc công bằng trong xã hội cho các chủ thể có quyền
tài sản đối với người đã chết và cũng để bảo đảm quyền lợi của các chủ thể
khác như người quản lý di sản hay người thừa kế. Nhận thấy vai trò quan
trọng của vấn đề này, khi ban hành Pháp lệnh thừa kế vào năm 1990, pháp
luật nước ta đã xây dựng Điều 34 về “Thanh toán các khoản chi từ di sản
trước khi chia di sản” và đến BLDS năm 2015 hiện hành, tại Điều 658 về
“Thứ tự ưu tiên thanh toán”. Tuy có ý nghĩa rất lớn và thiết thực nhưng quy
định pháp luật về nghĩa vụ tài sản, các khoản chi phí liên quan đến thừa kế tại
BLDS năm 2015 vẫn chưa được quy định cụ thể, còn nhiều thiếu sót cơ bản
về khái niệm của từng nghĩa vụ tài sản, các khoản chi phí; cách thức thanh
toán các nghĩa vụ này, …. Thêm vào đó, tuy đã gần 30 năm tồn tại quy định
liên quan đến “Các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa
kế” nhưng trên thực tiễn xét xử các vụ án tranh chấp thừa kế vẫn tồn tại nhiều
hạn chế.
Trong bối cảnh quy định tại Bộ luật dân sự năm 2015 còn nhiều bất
cập, cần được hoàn thiện, thực tiễn áp dụng còn nhiều thiếu sót, tác giả quyết
định lựa chọn đề tài “nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến


Trang 2

thừa kế được thanh toán theo Bộ luật dân sự năm 2015” để nghiên cứu
cho luận văn thạc sĩ luật học khóa 24 tại Đại học Luật Hà Nội.
2.
Tình hình nghiên cứu đề tài
Tại Việt Nam, một số công trình nghiên cứu có liên quan đến nghĩa

vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán đã được
các tác giả khác thực hiện, tiêu biểu là các nghiên cứu sau:
- Trần Thị Huệ “Xác định di sản và việc thanh toán , phân chia di
sản thừa kế theo pháp luật Việt Nam”, Luận án tiến sĩ luật học;
- Phùng Trung Tập (2002) “Thừa kế theo pháp luật của công dân
Việt Nam từ năm 1945 đến nay”, Luận án tiến sĩ luật học;
- Nguyễn Ngọc Điện (2001) “Bình luận khoa học về pháp luật thừa
kế trong BLDS Việt Nam”; NXB Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh;
- Nguyễn Minh Tuấn, “Pháp luật về thừa kế của Việt Nam những
vấn đề lý luận và thực tiễn”; NXB Lao động xã hội;
- Phạm Văn Tuyết “Thừa kế - Quy định của pháp luật và thực tiễn
áp dụng
- Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý – Bộ Tư Pháp “Bình luận khoa
học một số vấn đề cơ bản của Bộ luật dân sự”;
- Vũ Lê Thu Trang (2010) “Thanh toán và phân chia di sản thừa
kế”, Luận án thạc sỹ Luật học;
Về hướng nghiên cứu của các công trình đã được các tác giả khác
thực hiện, mặc dù mỗi tác giả có một hướng tiếp cận và phương pháp nghiên
cứu khác nhau, nhưng có thể khái quát hóa hướng nghiên cứu của các công
trình đã được công bố như sau:
- Dưới góc độ khoa học pháp lý, chủ yếu nghiên cứu các quy định
về thừa kế nói chung và các quy định có liên quan đến nghĩa vụ tài sản và các
khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán;
- Dưới góc độ thực tiễn, chủ yếu nghiên cứu việc áp dụng các quy
định về thừa kế trong việc giải quyết tranh chấp.
Tại luận văn này, tác giả sẽ tập trung nghiên cứu, nêu ra cách hiểu
đầy đủ nhất có thể về các khoản chi phí và nghĩa vụ tài sản do người chết để
lại được thanh toán; đồng thời, chỉ rõ những bất cập của BLDS 2015 hiện



Trang 3

hành và đề xuất nội dung hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến nội
dung đề tài.
3.
Mục đích, đối tượng nghiên cứu và giới hạn phạm vi nghiên cứu
3.1.
Mục đích nghiên cứu của đề tài luận văn
Nghiên cứu một cách toàn diện và sâu sắc các vấn đề lý luận có liên
quan đến nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được
thanh toán theo Bộ luật dân sự năm 2015. Cụ thể hóa khái niệm, nội dung bao
hàm liên quan đến các khoản chi phí liên quan đến thừa kế, trong khi BLDS
năm 2015 còn quy định mang tính tổng quát và chưa có văn bản hướng dẫn cụ
thể cho vấn đề này. Đồng thời, nghiên cứu một vụ án có liên quan trực tiếp
đến đề tài luận văn và phân tích, định hướng giải quyết vụ án theo quy định
pháp luật. Trên cơ sở đó, Luận văn sẽ chỉ ra các vấn đề còn bất cập của BLDS
2015 về vấn đề này và đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật với
mục tiêu phù hợp với thực tiễn áp dụng.
3.2.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận văn
Cơ sở lý luận của việc chuyển giao nghĩa vụ tài sản của người chết
cho những chủ thể thay mặt thực hiện nghĩa vụ như người quản lý di sản,
người thừa kế, người được di tặng. Đồng thời, tác giả sưu tầm một vụ án thực
tế đã được Tòa án nhân dân thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu thụ lý giải
quyết theo thông báo về việc thụ lý vụ án số 07/TB-TLVA ngày 22/03/2018
để nghiên cứu, tăng thêm tính ứng dụng cho luận văn của mình.
3.3.
Phạm vi nghiên cứu đề tài luận văn
- Luận văn không nghiên cứu rộng các vấn đề liên quan đến thừa kế
nói chung mà tập trung nghiên cứu quy định pháp luật về nghĩa vụ tài sản và

việc thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.
- Quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về các khoản chi phí và
nghĩa vụ tài sản của người chết được thanh toán và chỉ ra những bất cập đồng
thời đề xuất hoàn thiện quy định của BLDS năm 2015;
- Nêu ra nội dung một vụ án thực tiễn liên quan đến đề tài để phân
tích và đề xuất hướng giải quyết vụ án theo quy định pháp luật.
4.
Phương pháp nghiên cứu đề tài


Trang 4

Luận văn sử dụng các phương pháp sau để triển khai đề tài, cụ thể
như sau:
- Phương pháp phân tích các quy phạm pháp luật có liên quan đến
nghĩa vụ tài sản nói chung và nghĩa vụ tài sản do người chết để lại nói riêng
tại phần lý luận chung về thừa kế; khái niệm về các nghĩa vụ được thanh toán
từ di sản thừa kế, …
- Phương pháp tổng hợp áp dụng trong trường hợp đối với một vấn
đề nhưng có nhiều cách hiểu khác nhau. Đơn cử như vấn đề “toàn bộ di sản”
được hiểu là như thế nào có đến ba cách hiểu khác nhau. Từ việc tổng hợp các
cách hiểu đó, tác giả phân tích ưu điểm, nhược điểm của mỗi cách hiểu và đưa
ra một quan điểm phù hợp nhất;
- Phương pháp so sánh áp dụng trong trường hợp đối chiếu quy định
tại BLDS 2015 so với các quy định đã ban hành trước đây liên quan đến vấn
đề của Luận văn. Nhằm chỉ ra những điểm mới của BLDS năm 2015 và để
làm sáng tỏ vấn đề lý luận cũng như thực tiễn của vấn đề nghĩa vụ tài sản và
các khoản chi phí liên quan đến thừa kế;
- Luận văn sử dụng phương pháp quy nạp khi phân tích những quy
định pháp luật, cách hiểu khác nhau về một vấn đề để đến kết luận khái quát

liên quan đến vấn đề đó;
- Luận văn sử dụng phương pháp phân loại khi phân loại chủ thể
thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại theo quy định của BLDS năm
2015 áp dụng trong các giai đoạn và trường hợp khác nhau như: (i) Thời điểm
di sản chưa được chia; (ii) Thời điểm di sản đã chia; (iii) Trường hợp không
có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không được
quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản;
- Luận văn sử dụng phương pháp thống kê khi tiến hành thu thập,
thống kê một số vụ án liên quan đến đề tài luận văn;
5.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa khoa học của đề tài
5.1.
Chế định thừa kế nói chung và vấn đề nghĩa vụ tài sản, các khoản chi
phí liên quan đến thừa kế nói riêng là vấn đề được rất nhiều luật gia quan tâm.
Bởi đây là một trong những chế định cơ bản, quan trọng, điều chỉnh


Trang 5

một mối quan hệ xã hội phổ biến phát sinh trong bất kỳ xã hội nào, cộng đồng
dân cư hay nhóm người nào có quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng.
Việc nghiên cứu, cập nhật, chỉnh lý bổ sung những quy định này để vừa phù
hợp với truyền thống, văn hóa mỗi dân tộc, vừa hội nhập, phù hợp với xu thế
phát triển chung của xã hội là việc cần thiết. Nhất là đối với pháp luật về thừa
kế ở Việt Nam, một trong những nước có truyền thống văn hóa lâu đời, tính
cố kết cộng đồng, làng mạc, họ hàng, gia đình rất bền chặt.
Tuy nhiên mỗi cá nhân, tổ chức có cách tiếp cận và nghiên cứu ở
những góc độ khác nhau. Các vấn đề tác giả đưa ra trong luận văn này nhằm
phân tích cơ sở lý luận của việc chuyển giao nghĩa vụ tài sản của người chết;

đồng thời, cụ thể hóa khái niệm, nội dung bao hàm liên quan đến các khoản
chi phí liên quan đến thừa kế mà BLDS 2015 chỉ quy định mang tính liệt kê,
chưa có hướng dẫn rõ ràng. Từ việc nghiên cứu sẽ phát hiện những vấn đề
còn hạn chế của quy định pháp luật để đề xuất hoàn thiện BLDS năm 2015
vừa mới có hiệu lực chưa lâu.
5.2.

Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Cùng với sự phát triển nhanh chóng kinh tế - xã hội của đất nước,
các quan hệ nhân thân, tài sản cũng phát sinh và xảy ra tranh chấp nhiều hơn,
phức tạp hơn. Nhằm hoàn thiện và đáp ứng nhu cầu thực tiễn đời sống dân sự,
hạn chế những tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ tài sản do người chết để lại;
việc nghiên cứu và hoàn thiện quy định pháp luật về thừa kế có ý nghĩa lớn
cho việc áp dụng vào thực tiễn của cá nhân, pháp nhân cũng như Cơ quan tiến
hành tố tụng.
6.

Bố cục của luận văn
Nội dung chính của luận văn được kết cấu bởi hai chương, cụ thể:
Chương 1: Lý luận chung về nghĩa vụ tài sản và thực hiện nghĩa vụ
tài sản do người chết để lại.
Chương 2: Quy định pháp luật về nghĩa vụ tài sản, các khoản chi phí
liên quan đến thừa kế được thanh toán , những bất cập và kiến nghị hoàn thiện
pháp luật.


Trang 6

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHĨA VỤ TÀI SẢN VÀ THỰC

HIỆN NGHĨA VỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI CHẾT ĐỂ LẠI
1.1.
Lý luận chung về nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan
đến thừa kế do người chết để lại
Có thể hiểu, cơ sở hình thành nghĩa vụ tài sản do người chết để lại
như sau: khi còn sống, người này có nghĩa vụ tài sản đối với bên có quyền mà
khi người đó chết đi, nghĩa vụ này chưa được thực hiện hoặc đã thực hiện
nhưng chưa hoàn thành. Tiếp theo đó, những chủ thể được pháp luật quy định
có trách nhiệm thay mặt và sử dụng di sản của người chết thực hiện các nghĩa
vụ tài sản cho bên có quyền.
Thêm vào đó, pháp luật còn quy định có hai loại chi phí liên quan đến
thừa kế cần thanh toán gồm có: (i) Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai
táng; và (ii) Chi phí cho việc bảo quản di sản.
1.1.1. Nguồn tài sản được dùng để thực hiện nghĩa vụ người chết để lại
và thanh toán các chi phí liên quan đến thừa kế
Nguồn tài sản được dùng để thực hiện các nghĩa vụ do người chết để
lại chính là di sản của người chết đó. Theo Điều 612, BLDS 2015, di sản gồm
có: (i) Tài sản riêng của người chết và (ii) phần tài sản của người chết trong
tài sản chung với người khác.
1.1.1.1. Tài sản riêng của người chết
Tài sản riêng của người chết có thể được hình thành từ các nguồn tài
sản như sau:
(i) Tài sản khi người đó còn sống đã tự tạo lập bằng các khoản thu
nhập hợp pháp khi chưa kết hôn
Mỗi chúng ta khi còn độc thân, có đủ khả năng lao động sẽ có thể tự
tạo ra các khoản thu nhập hợp pháp cho chính mình, thông qua việc tự mình
hoạt động thể chất, trí tuệ; tự mình sản xuất, kinh doanh hay may mắn có
được khi trúng thưởng hoặc đi làm thuê cho pháp nhân, cá nhân có nhu cầu
tuyển dụng lao động. Giá trị sức lao động có thể được quy đổi bằng tiền hoặc
bằng tài sản tương ứng khác. Người lao động có thể giữ lại khoản tiền công

lao động để làm vốn tích lũy bằng cách gửi ngân hàng, làm sổ tiết kiệm hoặc


Trang 7

sử dụng khoản tiền đó để tham gia các giao dịch khác, dẫn đến hình thành các
tài sản phát sinh từ thu nhập hợp pháp đó. Những tài sản có được trong thời
gian này được xem là tài sản riêng của người đó.
(ii) Tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng
Mỗi con người là tổng hòa của các mối quan hệ gia đình, quan hệ xã
hội khác. Vì vậy, nguồn gốc hình thành nên khối tài sản của người đó cũng đa
dạng, ngoài tài sản cho chính mình tạo lập thì người đó còn có các tài sản
khác hình thành từ các mối quan hệ này. Trong đó, thừa kế riêng và tặng cho
riêng được pháp luật thừa nhận là những căn cứ để xác lập quyền sở hữu tài
sản riêng hợp pháp của người thừa kế, người nhận tặng cho tài sản.
(iii) Tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định của Luật
HN & GĐ năm 2014
Theo Điều 38, Luật HN & GĐ năm 2014 quy định rằng, trong thời
kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án chia một
phần hoặc toàn bộ tài sản chung.
Như vậy, tài sản riêng của một người cũng được hình thành theo sự
thỏa thuận phân chia hợp pháp trong thời kỳ hôn nhân hoặc theo bản án, quyết
định có hiệu lực của Cơ quan Tòa án.
(iv) Tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu và tài sản khác mà theo quy
định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của người đó.
Tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu là những tài sản gắn liền với đời
sống hàng ngày của người đó như: quần áo, giày dép, đồng hồ, điện thoại, …
Tài sản khác thuộc sở hữu riêng của người đó bao gồm: (1) Quyền
tài sản đối với đối tượng sở hữu trí tuệ theo quy định của pháp luật sở hữu trí
tuệ; (2) Tài sản mà người đó xác lập quyền sở hữu riêng theo bản án, quyết

định của Tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác và (3) Khoản trợ cấp, ưu
đãi mà người đó được nhận theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có
công với cách mạng; quyền tài sản khác gắn liền với nhân thân của người đó.
1.1.1.2. Phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác
Theo quy định tại Điều 207, BLDS 2015, định nghĩa sở hữu chung là
sở hữu của nhiều chủ thể đối với tài sản. Sở hữu chung bao gồm sở hữu chung
hợp nhất và sở hữu chung theo phần


Trang 8

Trong phạm vi luận văn, tác giả tạm chia phần tài sản của người chết
trong tài sản chung với người khác thành các nhóm nhỏ như sau:
(i) Tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân (thuộc loại
sở hữu chung theo phần có thể phân chia)
Theo quy định của Luật HN & GĐ 2014, tài sản chung của vợ chồng
gồm có:
Tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản
xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp
pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1
Điều 40 của Luật này.
Tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung
và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Như vậy, tất cả những tài sản hợp pháp mà vợ chồng có được trong
thời kỳ hôn nhân cùng với những tài sản mà vợ hoặc chồng có được trước khi
kết hôn nhưng đã thỏa thuận nhập thành tài sản chung thì trở thành khối tài
sản chung hợp nhất trong thời kỳ hôn nhân, trừ những tài sản được xem là tài
sản riêng của vợ hoặc chồng theo quy định của pháp luật HN & GĐ.
(ii) Tài sản chung theo phần với người khác
Theo khoản 1, Điều 209, BLDS 2015 quy định: sở hữu chung theo

phần là sở hữu chung mà trong đó phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu
được xác định đối với tài sản chung.
Vấn đề quan trọng là việc xác định đúng và đủ “phần quyền sở hữu”
của người chết trong khối tài sản chung này, vì đây là cơ sở để xác định
nguồn gốc di sản cho người chết để lại.
Trên thực tế có những trường hợp khá rõ ràng khi có đầy đủ các hợp
đồng góp vốn, chứng từ thanh toán và thỏa thuận hợp pháp khác chứng minh,
định lượng được giá trị tài sản mà người đó đã góp vào khối tài sản chung khi
còn sống. Tuy nhiên, đối với những giá trị mang tính chất tinh thần như trí
tuệ, công sức khác thì rất khó để xác định một cách “minh thị” phần quyền sở
hữu của người chết khi họ còn sống; trong những trường hợp này, hoàn toàn
phụ thuộc vào sự thỏa thuận của những người đồng sở hữu tài sản chung hoặc
theo phán quyết của Cơ quan có thẩm quyền.


Trang 9

1.1.2.

Chủ thể thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại và thanh
toán chi phí liên quan đến thừa kế
Khi một cá nhân chết, có hai vấn đề cần giải quyết, đó là: (i) Tài sản
của người chết (nếu có) sẽ thuộc về ai và (ii) Những nghĩa vụ tài sản của
người chết (nếu có) do ai tiếp tục được thực hiện. Thực ra, hai vấn đề này có
liên quan mật thiết với nhau, bởi vì về nguyên tắc chủ thể có trách nhiệm
thanh toán nghĩa vụ sẽ sử dụng chính tài sản của người chết để thực hiện.
Vậy, đó là những chủ thể nào?
Theo các quy định của BLDS 2015, việc thực hiện nghĩa vụ tài sản
của người chết để lại có thể do một trong những hoặc những chủ thể sau đây
thực hiện:

Thứ nhất là người hưởng thừa kế (căn cứ Điều 615, BLDS 2015);
Thứ hai là người quản lý di sản (căn cứ Điều 615, BLDS 2015);
Thứ ba là người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng (căn cứ Điều
645, BLDS 2015);
Thứ tư là người nhận di tặng (căn cứ Điều 646, BLDS 2015);
Thứ năm là Nhà nước (căn cứ Điều 622, BLDS 2015);
1.1.2.1. Trong trường hợp di sản chưa được chia
Theo khoản 2, Điều 615, BLDS 2015 quy định “2. Trường hợp di
sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản
lý di sản thực hiện theo thoả thuận của những người thừa kế trong phạm vi di
sản do người chết để lại.”.
Vậy người quản lý di sản là ai? BLDS 2015 không có định nghĩa cụ
thể về người này. Thay vào đó, Điều 616, BLDS 2015 quy định về các
phương thức, trường hợp xác lập tư cách của người quản lý di sản theo thứ tự
ưu tiên lần lượt qua một trong bốn sau:
(i) Được chỉ định trong di chúc, nghĩa là chủ thể được người để lại
di sản tin tưởng, giao phó việc quản lý di sản; hoặc
(ii) Do những người thừa kế thoả thuận cử ra, nghĩa là nếu không có
di chúc hoặc người lập di chúc không chỉ định người quản lý di sản thì người
thừa kế sẽ chỉ định (trong trường hợp chỉ có một người thừa kế) hoặc do
những người thừa kế thống nhất cử ra. Nếu người được cử tự nhận thấy không


Trang 10

có đủ điều kiện hay không muốn đảm nhận công việc này thì có quyền từ chối
để những người thừa kế cử người khác; hoặc
(iii) Trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và
những người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm
hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những

người thừa kế cử được người quản lý di sản; hoặc
(iv) Trường hợp chưa xác định được người thừa kế và di sản chưa
có người quản lý theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 616, BLDS 2015
thì di sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý.
Dù được xác lập tư cách bằng phương thức nào đi chăng nữa thì
người quản lý có vai trò rất lớn trong giai đoạn di sản chưa được chia. Người
này được quyền “a) Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với
người thứ ba liên quan đến di sản thừa kế;” (điểm a, khoản 1, Điều 618,
BLDS 2015). Đồng thời, điểm a, khoản 1, Điều 617, BLDS 2015, quy định
người quản lý di sản có nghĩa vụ thực hiện việc “a) Lập danh mục di sản; thu
hồi tài sản thuộc di sản của người chết mà người khác đang chiếm hữu, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác;”
Thêm vào đó, theo quy định tại khoản 2, Điều 615 và Điểm a, khoản
1, Điều 618, BLDS 2015, một trong những nhiệm vụ quan trọng của người
quản lý di sản là thay mặt những người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do
người chết để lại. Tuy nhiên, việc thực hiện nghĩa vụ của người chết không
phải do người quản lý di sản tự quyết định mà nó được tiến hành trên cơ sở
đồng ý của những người hưởng thừa kế (nếu có). Căn cứ vào khoản 2, Điều
615 và điểm b, khoản 1, Điều 617, BLDS 2015 kết với với sự suy đoán logic
thì khi thực hiện nghĩa vụ, người quản lý di sản cần phải được những người
hưởng thừa kế đồng ý những vấn đề sau:
Một là, phương thức thanh toán (như bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố,
thế chấp hoặc định đoạt tài sản bằng hình thức khác);
Hai là, loại tài sản (trong khối di sản) được đưa ra để thực hiện nghĩa
vụ.
Có thể hình dung mối quan hệ giữa chủ nợ - chủ thể quản lý di sản –
chủ thể hưởng thừa kế khi xuất hiện nghĩa vụ tài sản như sau: Chủ nợ yêu cầu


Trang 11


trả nợ và xuất trình bằng chứng về khoản nợ cho người quản lý di sản. Người
quản lý di sản trao đổi với người thừa kế để thẩm định, thống nhất phương án
giải quyết. Về bản chất là chủ thể quản lý di sản có thể không phải là người
hưởng di sản, họ chỉ là người thay mặt những người hưởng thừa kế quản lý
khối di sản, do đó, đương nhiên nghĩa vụ tài sản của người chết cũng không
thuộc về họ. Việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết để lại trong
trường hợp này chẳng qua là việc thay mặt cho người thừa kế để bảo đảm sự
thuận tiện trong việc thanh toán nghĩa vụ. Và những người hưởng thừa kế vẫn
phải chịu trách nhiệm trước những người có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ
của người quản lý di sản.
1.1.2.2. Sau khi di sản được chia
Khi di sản đã được chia, nếu những nghĩa vụ tài sản của người chết
chưa được thực hiện hoặc thực hiện chưa hết thì người trực tiếp thực hiện
nghĩa vụ tài sản lúc này là những người hưởng thừa kế. Theo quy định của
BLDS 2015, những chủ thể này bao gồm: (i) Người thừa kế theo di chúc hoặc
theo pháp luật; (ii) Người được di tặng; và (iii) Người quản lý di sản dùng vào
việc thờ cúng.
Thứ nhất, đối với người thừa kế
Pháp luật hiện hành quy định hai hình thức thừa kế là (i) Thừa kế
theo di chúc hoặc (ii) Thừa kế theo pháp luật. Tương ứng với hai hình thức
thừa kế này, người thừa kế cũng bao gồm (i) Người thừa kế theo di chúc và
(ii) Người thừa kế theo pháp luật.
Đối với người thừa kế theo di chúc
Người thừa kế theo di chúc là bất kỳ cá nhân, tổ chức nào được chỉ
định hưởng di sản trong di chúc hợp pháp, thỏa mãn những điều kiện quy
định tại Điều 613, BLDS 2015 và không thuộc trường hợp không được quyền
hưởng di sản theo quy định tại khoản 1, Điều 621, BLDS 2015. Tất cả các chủ
thể thừa kế theo di chúc, đủ điều kiện được thừa hưởng di sản của người chết
để lại trên thực tế đều có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết

để lại tương ứng với phần di sản mà mình được nhận.
Đối với người thừa kế theo pháp luật


Trang 12

Trong trường hợp người để lại di sản không có di chúc hoặc có di
chúc mà không phát sinh hiệu lực thì di sản thừa kế được chia theo quy định
pháp luật. Người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân đáp ứng đủ các
điều kiện sau:
Điều kiện thứ nhất, cá nhân đó phải thuộc diện thừa kế: là người có ít
nhất một trong ba mối quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ
nuôi dưỡng với người chết. Ngoài ra, việc xác định diện thừa kế còn phải dựa
trên việc xác định hàng thừa kế. Theo Điều 651, BLDS 2015 quy định có ba
hàng thừa kế, sắp xếp tương ứng với thứ tự ưu tiên hưởng thừa kế, cụ thể như
sau:
“a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi,
mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại,
anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà
người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác
ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người
chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột
của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.”
Những chủ thể được liệt kê ở trên thuộc phạm vi diện thừa kế và có
khả năng pháp lý được hưởng thừa kế theo hai nguyên tắc: (i) Những người
thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau và (ii) Những người ở
hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế
trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản

hoặc từ chối nhận di sản.
Điều kiện thứ hai, phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế:
Quan hệ pháp luật về thừa kế phát sinh từ thời điểm mở thừa kế, do đó, người
hưởng thừa kế phải còn sống mới đủ năng lực chủ thể tham gia quan hệ này.
Vậy, “còn sống” trong trường hợp này được hiểu là như thế nào?
Căn cứ quy định tại các Điều 611 và Điều 619, BLDS 2015 có thể thấy rằng,
thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có di sản chết theo sinh học hoặc bị
Tòa án tuyên bố đã chết. Và những người có quyền thừa kế di sản của nhau


Trang 13

đều chết cùng thời điểm (không xác định được ai chết trước) thì họ không có
quyền thừa kế di sản của nhau. Do vậy, người còn sống vào thời điểm mở
thừa kế là người có căn cứ rõ ràng chứng minh mình còn sống sau khi người
để lại di sản chết hoặc người thừa kế đã chết thì cũng phải chứng cứ hợp pháp
để xác định người đó chết sau người để lại di sản.
Ngoài ra, theo quy định của BLDS 2015, ngoài các chủ thể thừa kế
thông thường theo di chúc hoặc theo diện, hàng thừa kế còn xuất hiện một số
chủ thể thừa kế khá đặc biệt, gồm có: (i) Người thừa kế không phụ thuộc vào
nội dung di chúc (Điều 644, BLDS 2015); (ii) Người thừa kế thế vị (Điều
652, BLDS 2015). Trong đó, đối với người thừa kế không phụ thuộc vào nội
dung di chúc thì họ được hưởng di sản không phải với tư cách là người thừa
kế được chỉ định trong di chúc mà do mối quan hệ nhân thân đặc biệt với
người để lại di sản, họ được nhận một phần di sản nhằm bảo đảm cuộc sống.
Còn đối với người thừa kế thế vị họ cũng được hưởng di sản từ những điều
kiện và sự kiện pháp lý đặc biệt. Vậy, hai chủ thể vừa nêu có phải thực hiện
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại hay không. Theo chúng tôi, bản chất của
hai chủ thể này đều là người thừa kế, vì vậy, theo quy định tại Điều 615,
BLDS 2015 thì các chủ thể này cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản.

-

Thứ hai, đối với người được di tặng

Di tặng là việc người lập di chúc dành một phần di sản để tặng cho
người khác. Việc di tặng phải được ghi rõ trong di chúc. Người được di tặng
là bất kỳ ai, không nhất thiết phải có mối quan hệ về huyết thống, hôn nhân,
nuôi dưỡng với người để lại di sản.
Về việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết để lại của người
được di tặng quy định tại khoản 3, Điều 646, BLDS 2015, “3. Người được di
tặng không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần được di tặng, trừ
trường hợp toàn bộ di sản không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người
lập di chúc thì phần di tặng cũng được dùng để thực hiện phần nghĩa vụ còn
lại của người này.”. Có thể nhận thấy, pháp luật Việt Nam ưu tiên việc bảo
đảm sự toàn vẹn của tài sản được di tặng cũng như tôn trọng ý chí, tình cảm
của trước khi người để lại di sản chết đối với người được di tặng.
-

Thứ ba, đối với người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng


Trang 14

Việc quy định quyền để lại di sản dùng vào việc thờ cúng cho thấy
sự phù hợp với phong tục, tập quán của nước ta. Tại khoản 1, Điều 645,
BLDS 2015 quy định: “1. Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di
sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và
được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc
thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không
theo thoả thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền

giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ
cúng.”. Tuy nhiên, để bảo đảm quyền lợi của chủ nợ, khoản 2, Điều 645,
BLDS 2015 quy định hạn chế quyền để lại di sản thờ cúng như sau: “Trường
hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản
của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.”.
Vậy, giữa “di sản được di tặng” và “di sản dùng vào việc thờ cúng”
thì sẽ ưu tiên sử dụng di sản nào để thanh toán nghĩa vụ trước? Vấn đề này tác
giả sẽ đi sâu phân tích tại tiểu mục 1.2.3, mục 1.2, Chương I của luận văn.
Chủ thể thực hiện nghĩa vụ này là người quản lý di sản dùng vào việc
thờ cúng. Việc thực hiện nghĩa vụ của người quản lý di sản dùng vào việc thờ
cúng không phải là hành vi pháp lý độc lập của người này, mà được tiến hành
trên cơ sở đồng thuận của người thừa kế về việc cắt giảm di sản dùng vào việc
thờ cúng và phương thức thanh toán nghĩa vụ. Theo quy định tại đoạn 3, Điều
645, BLDS 2015 thì những người thừa kế có quyền giám sát việc quản lý di
sản có đúng với mục địch được chỉ định trong di chúc hay không. Với những
trường hợp người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng do người thừa kế chỉ
ra thì việc giám sát là đương nhiên. So với người quản lý di sản khi di sản
chưa chia thì quyền hạn của người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng sẽ
lớn hơn. Bởi vì, di sản dùng vào việc thờ cúng không được chia thừa kế, việc
dùng di sản thờ cúng thể hiện ý nguyện của người đã chết và người được giao
quản lý loại di sản này cũng phải được nhận sự tín nhiệm cao hơn việc quản
lý các di sản bình thường.
Ngoài ra, theo Điều 622, BLDS 2015 quy định: “Trường hợp không
có người thừa kế theo di chúc, theo pháp luật hoặc có nhưng không được
quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản thì tài sản còn lại sau khi đã thực


Trang 15

hiện nghĩa vụ về tài sản mà không có người nhận thừa kế thuộc về Nhà

nước.”. Như vậy, ngoài những chủ thể cơ bản nêu trên thì Nhà nước với tư
cách tiếp nhận tài sản không có người thừa kế cũng phải thực hiện nghĩa vụ
tài sản của người chết, phần còn lại (nếu có) thuộc về Nhà nước.
1.1.3.

Thứ tự thực hiện nghĩa vụ tài sản và thanh toán chi phí liên quan
đến thừa kế do người chết để lại của các chủ thể
Trong thực tiễn, có thể xảy ra trường hợp khối di sản được định đoạt

thành ba phần tương ứng với các chủ thể sau: (i) Phần di sản thừa kế tương
ứng với người thừa kế; (ii) Phần di tặng tương ứng với người được di tặng và
(iii) Phần di sản dùng vào việc thờ cúng tương ứng với người quản lý di sản
dùng vào việc thờ cúng. Vậy, thứ tự thực hiện nghĩa vụ của chủ thể mỗi phần
di sản nêu trên như thế nào? Chủ thế nào sẽ có khả năng bảo toàn di sản mà
mình được hưởng tốt hơn.
Hiện nay, BLDS 2015 chưa quy định cụ thể về thứ tự thanh toán của
các chủ thể này. Nếu xem xét một cách chủ quan theo câu chữ của BLDS
2015 tại các Điều “Điều 646. Di tặng 3. Người được di tặng không phải thực
hiện nghĩa vụ tài sản đối với phần được di tặng, trừ trường hợp ...” và “Điều
645. Di sản dùng vào việc thờ cúng: …2. Trường hợp toàn bộ di sản của
người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không
được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.” Có thể tạm thời sắp xếp
thứ tự thực hiện nghĩa vụ như sau: nếu phần di sản thừa kế (i) mà đủ để thực
hiện nghĩa vụ tài sản thì phần (ii) và (iii) không phải thực hiện; nếu phần (i)
không đủ thì tiếp đến phần (iii) sẽ thực hiện; nếu phần (i) và (iii) không đủ thì
phần (ii) mới tiếp tục phải thực hiện.
Việc xác định người thừa kế (i) đầu tiên có trách nhiệm thực hiện
nghĩa vụ là hợp lý. Bởi vì, phần di sản (ii) và (iii) ngoài ý nghĩa vật chất còn ý
nghĩa tinh thần nên cần được ưu tiên bảo toàn hơn so với phần di sản (i). Tuy
nhiên, vì yếu tố tinh thần nên việc sắp xếp nêu trên còn mang định tính, do đó

có thể đề xuất đến phương án như sau: Thứ tự lần lượt là (i) Phần di sản thừa
kế tương ứng với người thừa kế rồi đến đồng thời cả (ii) Phần di tặng tương
ứng với người được di tặng và (iii) Phần di sản dùng vào việc thờ cúng tương
ứng với người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng. Theo phương án này,


Trang 16

nếu tài sản chia thừa kế không đủ thực hiện nghĩa vụ thì phần di sản thờ cúng
và phần di tặng sẽ cùng được cắt giảm theo tỷ lệ để thực hiện việc hoàn thành
phần nghĩa vụ còn lại. Tỷ lệ này có thể được xác định theo công thức: [DSTC/
(DSTC + DT)] x NVTSCL và [DT/ (DSTC + DT)] x NVTSCL
Ví dụ: A có di sản 500 triệu đồng, khoản nợ 250 triệu đồng. A định
đoạt di chúc như sau: cho B thừa kế 100 triệu đồng; giao C dùng thờ cúng 250
triệu đồng; di tặng D 150 triệu đồng.
Theo công thức tích: DSTC = 250 triệu đồng; DT = 150 triệu đồng;
NVTSCL = 150 triệu đồng. Vậy nghĩa vụ còn lại được chia theo tỷ lệ:
C phải chi trả = 250 triệu/400 triệu x 150 triệu = 93,75 triệu
1.1.4.

D phải chi trả = 150 triệu/400 triệu x 150 triệu = 56,25 triệu
Thời điểm phát sinh nghĩa vụ tài sản và thanh toán chi phí liên

quan đến thừa kế do người chết để lại
1.1.4.1. Thời điểm phát sinh nghĩa vụ của người thừa kế
Theo Điều 614, BLDS 2015 quy định: “Thời điểm phát sinh quyền
và nghĩa vụ của người thừa kế
Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền,
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại.”
Như vậy, quyền và nghĩa vụ của người thừa kế phát sinh từ thời điểm

mở thừa kế. Đây là mốc thời gian rất quan trọng, làm cơ sở phát sinh nhiều
vấn đề pháp lý như: thời điểm có hiệu lực di chúc, bắt đầu khoảng thời gian
để từ chối nhận di sản, căn cứ tính thời hiệu khởi kiện, thời điểm phát sinh
quyền và nghĩa vụ của người thừa kế. Theo khoản 1, Điều 611, BLDS 2015
quy định: “1.Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Trường
hợp Tòa án tuyên bố một người là đã chết thì thời điểm mở thừa kế là ngày
được xác định tại khoản 2 Điều 71 của Bộ luật này.”
Thời điểm người có tài sản chết được chia thành hai trường hợp:
Trường hợp thứ nhất: Người này chết tự nhiên theo sinh học, thời
điểm mở thừa kế di sản của họ là thời điểm người đó chết;
Trường hợp thứ hai: Người này chết pháp lý theo tuyên bố của tòa
án, thời điểm mở thừa kế di sản của họ được xác định theo khoản 1, Điều 71,
BLDS 2015, cụ thể như sau:


Trang 17

“a) Sau 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án
có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
b) Biệt tích trong chiến tranh sau 05 năm, kể từ ngày chiến tranh kết
thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
c) Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai
nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là
còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
d) Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn
sống; thời hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của Bộ luật
này.”
1.1.4.2. Thời điểm phát sinh nghĩa vụ tài sản của chủ thể khác
Ngoài người thừa kế, có hai chủ thể phổ biến, gồm có: người quản lý
di sản dùng vào việc thờ cúng và người được di tặng cũng là chủ thể thực hiện

nghĩa vụ tài sản của người chết để lại.
Hiện nay, BLDS 2015 chưa quy định về thời điểm phát sinh nghĩa vụ
đối với di sản thừa kế của những chủ thể này. Tuy nhiên, căn cứ quy định tại
các Điều 645 và Điều 646, BLDS 2015 thì nghĩa vụ của hai chủ thể này phát
sinh khi có điều kiện. Chỉ khi phần di sản của người thừa kế không đủ để thực
hiện nghĩa vụ thì người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng và người được
di tặng mới phải thực hiện phần nghĩa vụ còn lại. Trước hết, chủ thể có quyền
phải yêu cầu người quản lý di sản (nếu di sản chưa được chia), sau đó, yêu
cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ (nếu di sản đã được chia). Tiếp theo đó,
mới yêu cầu thì người quản lý di sản dùng vào việc thờ cúng, người được di
tặng thực hiện nghĩa vụ nếu cần thiết. Cách xác định như vậy là phù hợp quy
định pháp luật và phù hợp với ý nghĩa tinh thần khi ý chí của người để lại di
sản được bảo đảm.
1.1.5. Phạm vi thực hiện nghĩa vụ tài sản và thanh toán chi phí liên quan
đến thừa kế
Trong Dân luật Bắc Kỳ năm 1931, Điều 373 quy định rằng “các
đồng thừa kế phải cùng nhau trang trải các khoản nợ và đảm nhiệm các
nghĩa vụ trong việc thừa kế, ít nhiều tùy theo phần của mỗi người được
hưởng. Lại cả người được tặng giữ tất cả hay một phần thừa kế cũng thế.”


Trang 18

Tinh thần điều luật nêu trên khá tương đồng với quy định tại Pháp
lệnh thừa kế năm 1990 cho đến quy định hiện hành đối với việc thực hiện
nghĩa vụ chỉ giới hạn trong phạm vi di sản mà người chết để lại (nếu di sản
chưa chia) hoặc tương ứng với phần di sản mà người thừa kế nhận được (nếu
tài sản đã chia).
1.1.5.1. Trường hợp di sản chưa được chia
Trong trường hợp này, người quản lý di sản sẽ thay mặt những người

thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết để lại trên cơ sở thỏa thuận
với những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại theo quy
định tại khoản 2, Điều 615, BLDS 2015. Tuy nhiên, hiện nay vẫn có một số
cách hiểu khác nhau về “phạm vi di sản”, nội dung này, tác giả sẽ phân tích
cụ thể tại tiểu mục 2.2.3, mục 2.2, Chương 2, Luận văn về hạn chế quy định
pháp luật.
Thêm một vấn đề khác cũng cần phải xác định là những hoa lợi, lợi
tức phát sinh từ khối di sản tư thời điểm mở thừa kế có được nhập vào khối di
sản để xác định phạm vi thực hiện nghĩa vụ của người chết hay không? Đây là
vấn đề rất đáng quan tâm. Bởi vì trên thực tế, có những khoản lợi tức rất lớn
phát sinh từ di sản, đơn cử như lợi tức thu được từ việc sở hữu cổ phần trong
những Công ty có doanh thu lớn; đồng thời, việc xác định khoản hoa lợi, lợi
tức có nhập vào khối di sản cũng ảnh hưởng đến quyền lợi của người thừa kế,
chủ nợ và các chủ thể khác có liên quan. Theo quy định của BLDS, vấn đề
này phụ thuộc vào thời điểm xác lập quyền sở hữu đối với di sản và thời điểm
thu được hoa lợi, lợi tức phát sinh từ di sản đó. Áp dụng quy định tại Điều
224, BLDS 2015: “Chủ sở hữu, người sử dụng tài sản có quyền sở hữu đối
với hoa lợi, lợi tức theo thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật, kể từ
thời điểm thu được hoa lợi, lợi tức đó”. Và theo Điều 614, BLDS 2015 thì kể
từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có quyền, nghĩa vụ do người
chết để lại. Vậy kể từ thời điểm mở thừa kế (người để lại di sản chết) thì
người thừa kế xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do người chết để lại. Xét
về đặc tính hoa lợi: Là sản vật tự nhiên mà tài sản mang lại, không chịu sự tác
động của người sở hữu tài sản đó. Xét về đặc tính của lợi tức: Phải qua tác
động của chủ sở hữu mới sinh ra lợi tức, là lợi ích vật chất của chủ thể thu


Trang 19

được thông qua khai thác hợp pháp tài sản thuộc quyền sở hữu của mình1. Do

đó, kể từ thời điểm xác lập quyền sở hữu (khối di sản được chuyển giao
quyền sở hữu từ người để lại di sản sang người thừa kế) thì hoa lợi, lợi tức
thuộc quyền sở hữu của người thừa kế, là tài sản riêng của người thừa kế. Mà
đã thuộc quyền sở hữu của người thừa kế thì họ có quyền định đoạt theo quy
định của pháp luật. Trong khi đó, khoản 1 Điều 615, BLDS 2015 chỉ giới hạn
nghĩa vụ tài sản phải thực hiện là trong phạm vi di sản mà thôi. Vậy hoa lợi,
lợi tức từ di sản không thuộc trường hợp được tính để thực hiện nghĩa vụ theo
thứ tự. Đánh giá tính hợp lý: (i) Phù hợp với khoản 2 Điều 659, BLDS 2015:
“2. Trường hợp di chúc xác định phân chia di sản theo hiện vật thì người thừa
kế được nhận hiện vật kèm theo hoa lợi, lợi tức thu được từ hiện vật đó hoặc
phải chịu phần giá trị của hiện vật bị giảm sút tính đến thời điểm phân chia di
sản; nếu hiện vật bị tiêu hủy do lỗi của người khác thì người thừa kế có quyền
yêu cầu bồi thường thiệt hại.”. (ii) Điều thứ 466 Dân luật Bắc kỳ 1931 quy
định:“Các sản vật của ruộng đất, các lợi tức về hộ luật, các gia súc đẻ con
ra, thì là của người sở hữu chủ vì quyền phụ thiêm mà được”. Vậy theo quy
định này thì những hoa lợi, lợi tức thuộc quyền sở hữu của người thừa kế.
Điều này cũng phù hợp với các chế định tương tự về hoa lợi, lợi tức như
quyền sở hữu các lợi ích phát sinh từ tài sản thất lạc, chìm đắm… (ví dụ
khoản 2 Điều 231, BLDS 2015). Tuy nhiên, vẫn tồn tài một bất cập nhỏ đó là:
tranh chấp về hoa lợi, lợi tức phát sinh khi thanh toán di sản có thể xảy ra là
do việc phân chia di sản diễn ra sau thời điểm mở thừa kế một thời gian tương
đối dài. Trong thời gian ấy sẽ phát sinh những quyền, nghĩa vụ của người
quản lý di sản, người chiếm hữu, sử dụng di sản trong thời gian chưa phân
chia và chưa thực hiện nghĩa vụ. Mà theo Điều 618 thì người quản lý, sử
dụng, chiếm hữu di sản chỉ được hưởng thù lao, thanh toán chi phí bảo quản
di sản; người đang chiếm hữu sử dụng được tiếp tục sử dụng di sản. Như vậy
bộ luật chưa liệt kê cụ thể quyền hưởng hoa lợi, lợi tức từ khối di sản. Đối với
1

Nguyễn Văn Cừ- Trần Thị Huệ (2017), “Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015


của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, Tr.217


Trang 20

người được tiếp tục sử dụng di sản khi di sản chưa được phân chia, cũng đồng
nghĩa với việc họ được hưởng lợi từ di sản, vậy việc tiếp tục sử dụng này có
được hiểu là được tiếp tục khai thác hoa lợi và tác động làm sinh ra lợi tức
hay không? Bởi lẽ mỗi một căn cứ xác lập quyền sở hữu đối với một loại tài
sản nhất định đều có một không gian, chế định khác nhau trong bộ luật dân
sự, nếu như đã quy định cụ thể về việc hưởng các tài sản phát sinh từ gia súc
thất lạc, gia cầm thất lạc… thì cũng nên quy định rõ ràng về quyền hưởng hoa
lợi, lợi tức đối với di sản, không chỉ đối với người thừa kế, mà còn đối với
người quản lý, chiếm hữu, sử dụng hợp pháp không phải là người thừa kế.
Ngoài ra, nghĩa vụ tài sản cho người chết để lại có thể phải thanh
toán bằng tiền hoặc bằng hiện vật. Trong khi đó, di sản mà người chết để lại
cũng có thể bằng tiền hoặc bằng các tài sản khác. Trong trường hợp, di sản để
lại là vật như nhà, đất, phương tiện giao thông, …mà phải thanh toán bằng
tiền cho chủ nợ thì người quản lý di sản xin ý kiến của những người thừa kế
để bán di sản lấy tiền trả nợ. Và ngược lại, nếu người chết để lại di sản bằng
tiền nhưng phải thanh toán cho chủ nợ bằng hiện vật thì người quản lý di sản
xin ý kiến của những người thừa kế để dùng tiền mua hiện vật thanh toán nợ.
Ngoài ra có thể thỏa thuận với người có quyền về việc thay thế hình thức thực
hiện nghĩa vụ, nếu thỏa thuận đó không trái luật, không nhằm làm trốn tránh
nghĩa vụ với người khác, không trái đạo đức xã hội…
1.1.5.2. Trường hợp di sản đã được chia
Liên quan đến vấn đề này, Điều thứ 374, Dân Luật Bắc Kỳ năm 1931
đã quy định như sau: “Trong việc các con ăn của thừa kế cha mẹ thì những
người thừa kế phải chịu trách nhiệm liên đới và vô hạn về tất cả các khoản

nợ, trừ có việc thì tố cáo lẫn nhau không kể. Lại cả người chồng hay vợ còn
lại hoặc cháu đích tôn ăn thừa kế cũng thế.”
Theo quy định nêu trên, phạm vi thực hiện nghĩa vụ là vô hạn trong
trường hợp các con hưởng thừa kế của cha mẹ, vợ chồng hưởng thừa kế của
nhau hay cháu đích tôn hưởng thừa kế của ông, bà. Quy định này tuy cho thấy
việc bảo đảm quyền lợi cho chủ nợ nhưng lại quá bất hợp tình, bất hợp lý khi
những người hưởng thừa kế không được hưởng nhiều di sản mà phải gánh vác


×