Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và thực tiễn thực hiện tại tòa án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.96 MB, 126 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------------------

NGUYỄN SƠN TÙNG

NGƢỜI BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA
ĐƢƠNG SỰ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI TÒA ÁN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hƣớng ứng dụng)

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------------------

NGUYỄN SƠN TÙNG

NGƢỜI BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA
ĐƢƠNG SỰ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI TÒA ÁN

Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự


Mã số: 8380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hƣớng ứng dụng)

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HOÀNG NGỌC THỈNH

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu
độc lập của riêng tôi. Nội dung cũng như các số liệu trình bày
trong Luận văn hoàn toàn trung thực. Những kết luận khoa học
trong Luận văn không sao chép trong bất kì công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Nguyễn Sơn Tùng


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn: Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Sau đại học,
Khoa Luật dân sự và Tố tụng dân sự, Bộ môn Tố tụng dân sự đã tạo điều kiện cho
tôi học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận văn này.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Hoàng Ngọc Thỉnh,
người thầy đã hướng dẫn tận tình và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt
quá trình nghiên cứu hoàn thành Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô
giáo đã truyền thụ những kiến thức quý báu cho tôi trong suốt quá trình học tập,

nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã động viên tôi trong suốt quá trình
học tập và nghiên cứu.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 8 năm 2018

Nguyễn Sơn Tùng


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng dân sự

BLTTDS 2015

: Bộ luật tố tụng dân sự nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2015

NXB

: Nhà xuất bản

TA

: Toà án

TAND

: Toà án nhân dân


Tr

: Trang

TTDS

: Tố tụng dân sự

VADS

: Vụ án dân sự

VVDS

: Vụ việc dân sự

HĐXX

: Hội đồng xét xử

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƢỜI BẢO VỀ QUYỀN VÀ
LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ............7
1.1 Khái niệm, đặc điểm và vai trò của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự ............................................................................................................7
1.1.1 Khái niệm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

7

1.1.2 Đặc điểm của Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

13

1.1.3 Vai trò của Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự

18

1.2 Các quy định của pháp luật hiện hành về Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự .................................................................................................21
1.2.1 Quy định về các chủ thể là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự
21
1.2.2 Quy định về điều kiện trở thành người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự
24
1.2.3 Quy định về quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự trong tố tụng dân sự
30
KẾT LUẬN CHƢƠNG I ........................................................................................45
CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT

TỐ TỤNG DÂN SỰ VỀ NGƢỜI BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP
CỦA ĐƢƠNG SỰ TẠI CÁC TÒA ÁN. NHỮNG BẤT CẬP VÀ MỘT SỐ
KIẾN NGHỊ .............................................................................................................46
2.1 Một số tồn tại, hạn chế trong thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tại Tòa án ........................46
2.2 Một số nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc khi thực hiện các quy
định của pháp luật về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự ......57
2.2.1 Từ phía tổ chức, hoạt động của Tòa án

57

2.2.2 Từ những hạn chế của các quy định pháp luật có liên quan

58


2.2.3 Nhận thức pháp luật TTDS của các đương sự còn thấp và hoạt động hỗ
trợ của các cá nhân, tổ chức còn hạn chế
59
2.3 Một số kiến nghị liên quan tới các quy định của pháp luật về người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự ...............................................................60
2.3.1 Kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự
60
2.3.2 Kiến nghị thực hiện pháp luật về người bảo về quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự
67
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................71
KẾT LUẬN CHUNG ..............................................................................................72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC LUẬN VĂN


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Ngày 28/11/2013, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá
XIII, kỳ họp thứ sáu đã thông qua Hiến pháp mới. Theo quy định của Hiến pháp
năm 2013 thì nhiều nội dung quan trọng về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, tổ
chức và hoạt động của Toà án, quyền con người, quyền công dân đã được sửa đổi,
bổ sung. Các quy định này cần tiếp tục được cụ thể hóa trong các luật tố tụng nói
chung và BLTTDS sửa đổi nói riêng, tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết các vụ
việc thuộc thẩm quyền của TA.
Quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp là một trong những quyền dân sự
của công dân đã được luật định là một trong những nguyên tắc cơ bản, không thể
thiếu trong hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung cũng như trong pháp luật TTDS
nói riêng. Đây là công cụ pháp lý để đảm bảo cho các đương sự bảo vệ được quyền
và lợi ích hợp pháp của mình trong trường hợp có sự xâm phạm. Tuy nhiên, không
phải lúc nào đương sự cũng có được sự nhận thức đầy đủ các quyền, nghĩa vụ theo
quy định của pháp luật TTDS. Vì vậy, kết quả bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
họ trước TA không tránh khỏi những hạn chế, vướng mắc. Xuất phát từ nhu cầu bảo
vệ tối đa những quyền, lợi ích hợp pháp của mình đồng thời hạn chế những thiếu
sót, kể cả trong trường hợp có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng thì các đương sự vẫn
có xu hướng tìm người nắm vững pháp luật và có kinh nghiệm tham gia tố tụng để
hỗ trợ họ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trước TA.
Trên thực tế, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là một
trong những người tham gia tố tụng quan trọng. Vì vậy, việc xác định rõ người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, quy định một cách cụ thể, chi tiết về
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là vấn đề tất yếu.

Một trong những mục tiêu hướng đến của pháp luật TTDS là bảo đảm ngày
càng tốt hơn việc giải quyết các VVDS, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự. Kế thừa các quy định của các văn bản pháp luật được ban hành trước, Bộ
Luật Tố tụng dân sự năm 2015 ra đời, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày 01/07/2016


2

với một số quy định về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong
TTDS. Lý luận cũng như thực tiễn đã chứng minh vai trò của người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTDS là hết sức quan trọng. Người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự ngày càng chứng tỏ được vị trí, vai trò của
mình. Tuy nhiên trên thực tế, trong nhiều VVDS, vai trò của người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự vẫn chưa được nhìn nhận và đánh giá đúng mức.
Từ mong muốn nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ hơn những quy
định của pháp luật hiện hành về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự trong TTDS; thông qua việc nghiên cứu này có thể nêu ra những kiến nghị nhằm
hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật Việt Nam về người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự.
Với những lý do trên, tác giả lựa chọn việc nghiên cứu vấn đề “Người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và thực tiễn thực hiện tại Tòa án” làm đề
tài viết luận văn cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Khi BLTTDS 2015 ra đời, chưa có một công trình nào nghiên cứu đầy đủ về
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Việc tìm hiểu về vấn đề
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự mới chỉ dừng lại ở một số bài
viết trên tạp chí chuyên ngành luật khi đề cập đến người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự như bài “Một số vấn đề về người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự theo BLTTDS năm 2005” của tác giả Phan Vũ Linh trên
Tạp chí TAND số 5 năm 2011; Bài “vướng mắc trong việc cấp giấy chứng nhận

cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự” của tác giả Đinh Văn
Vụ trên tạp chí TAND số 24 năm 2011; Bài “người đại diện và bảo vệ quyền lợi
của đương sự trong TTDS” của luật sư Hoàng Thu Yến trên tạp chí Nhà nước và
pháp luật , số 5/2006. … Một số công trình nghiên cứu liên quan đến người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTDS như: Luận án tiến sĩ với đề tài
“quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ” của tác giả Nguyễn Triều Dương, Luận văn thạc sĩ
với đề tài “Nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của


3

đương sự trong tố tụng dân sự” của tác giả Bùi Thị Thu Huyền năm 2016, luận văn
thạc sỹ với đề tài “Sự tham gia của luật sư trong tố tụng dân sự” của tác giả Hoàng
Minh Tuấn năm 2016…
Các công trình nghiên cứu trên đây mới chỉ đề cập đến một số góc độ khác
nhau về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự theo quy định của
BLTTDS 2004 trước đây, đồng thời các đề tài đó đa phần đi sâu nghiên cứu về một
trong những người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phổ biến đó là
“Luật sư”… mà chưa nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện về người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự theo quy định của BLTTDS năm 2015.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một số vấn đề lý luận và thực tiễn về
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTDS như khái niệm
chung, đặc điểm, ý nghĩa của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
trong TTDS, các quy định của pháp luật TTDS hiện hành về người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp đương sự; thực tiễn thực hiện và những kiến nghị hoàn thiện các
quy định của pháp luật TTDS về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự.
Phạm vi nghiên cứu đề tài được giới hạn ở một số nội dung sau:
Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của đương sự trong TTDS;
Các quy định của pháp luật hiện hành về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự trong TTDS. Thực tiễn thực hiện các quy định này tại các Tòa
án, chỉ ra các bất cập, hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của những hạn chế đó. Đề
xuất những kiến nghị hoàn thiện pháp luật TTDS Việt Nam về người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự.
4. Cơ sở phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, quan điểm
của Đảng và Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Ngoài


4

ra, để hoàn thiện đề tài nghiên cứu của mình, luận văn sử dụng kết hợp các phương
pháp nghiên cứu khoa học khác nhau:
- Phương pháp phân tích được sử dụng nhằm làm rõ những vấn đề về lý luận
và thực tiễn về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTDS.
- Phương pháp nghiên cứu lịch sử được sử dụng nhằm nghiên cứu rõ hơn các
quy định của pháp luật Việt Nam về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự đã được ghi nhận trong các văn bản pháp luật trước đây.
- Phương pháp so sánh được sử dụng đối chiếu, so sánh điểm giống và khác
biệt giữa người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự với một số người
tham gia tố tụng khác như người đại diện của đương sự, … Từ đó làm nổi bật đặc
điểm, ý nghĩa, vai trò của người bảo vệ.
- Phương pháp thống kê được sử dụng trong việc thống kê các số liệu trong
thực tiễn thực hiện chế định người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
làm cơ sở cho việc đưa ra những nhận xét, kết luận và kiến nghị các biện pháp nâng
cao hiệu quả hoạt động tham gia tố tụng của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự.

- Phương pháp tổng hợp được sử dụng trong việc tổng hợp các vấn đề đã
nghiên cứu nhằm đưa ra những nhận định và những kết luận.
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ một số vấn đề chung về Người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTDS như: khái niệm người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nói chung, các điều kiện cụ thể để
được công nhận là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đối với
từng đối tượng cụ thể, ý nghĩa của việc tham gia tố tụng của người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự. Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; từ đó đánh giá các quy định
của pháp luật hiện hành về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và
tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật, qua đó đề xuất một số kiến nghị


5

nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định pháp luật TTDS về
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTDS.
Để đạt được mục đích trên, Luận văn phải thực hiện những nhiệm vụ sau:
Nghiên cứu làm rõ những vấn đề khái quát về Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự trong TTDS;
Phân tích làm rõ các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về Người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTDS;
Tìm hiểu thực tiễn thực hiện các quy định trên, chỉ ra các bất cập, hạn chế, tồn tại và
nguyên nhân của những hạn chế đó. Đề xuất những kiến nghị hoàn thiện pháp luật
TTDS Việt Nam về Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu toàn diện, đầy đủ, hệ thống các vấn đề lý luận và thực
tiễn về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTDS, luận văn
có những đóng góp mới sau đây:

Phân tích được khái niệm, đặc điểm về Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự trong TTDS.
Phân tích và làm sáng tỏ những điểm hợp lý, tồn tại, bất cập của các quy
định pháp luật hiện hành về Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
trong TTDS và việc thực hiện tại các Tòa án.
Đề xuất những giải pháp hoàn thiện và thực hiện pháp luật TTDS Việt Nam
về Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn với đề
tài: “Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTDS và thực
tiễn thực hiện tại TA” được kết cấu bởi hai chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự trong TTDS.


6

Chương 2: Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTDS tại các Tòa án.
Những bất cập và một số kiến nghị.


7

CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƢỜI BẢO VỀ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH
HỢP PHÁP CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1 Khái niệm, đặc điểm và vai trò của ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đƣơng sự
1.1.1 Khái niệm ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTDS là một
khái niệm chuyên ngành nên trong từ điển tiếng Việt không có khái niệm này. Từ
điển giải thích thuât ngữ luật học, có đưa ra khái niệm người bảo vệ quyền lợi ích
của đương sự trong TTDS là “người tham gia tố tụng hỗ trợ đương sự bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của họ trước Tòa án.1” Tương tự định nghĩa nêu trên,
khoản 1 Điều 75 BLTTDS năm 2015 cũng đưa ra khái niệm: “Người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự là người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự.” Tuy nhiên, các khái niệm này mới chỉ phản án vai trò
của người bảo vệ quyền lợi của đương sự, chứ chưa nêu điều kiện, thủ tục để một
người có thể trở thành người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong
TTDS.
Dưới góc độ nghiên cứu, Giáo trình luật Tố tụng dân sự Việt Nam của
Trường Đại học Luật Hà Nội, đưa ra khái niệm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự trong TTDS là “người tham gia tố tụng có đủ điều kiện do pháp
luật quy định được đương sự yêu cầu (nhờ) tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của họ”2. Có thể thấy, khái niệm này đã hoàn thiện hơn có với khái
niệm trong Từ điển giải thích thuật ngữ luật học nêu trên và nêu được vai trò của
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTDS, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp của đương sự phải đáp ứng các điều kiện do pháp luật quy
1

Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học (luật dân sự, luật hôn nhân và
gia đình, luật tố tụng dân sự), Nxb Công an nhân dân, tr 210.
2
Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình luật Tố tụng dân sự, Nxb Công an nhân dân, tr 123.


8

định. Tuy nhiên, không phải cứ ai đáp ứng các điều kiện do pháp luật quy định được

đương sự yêu cầu (nhờ) đều có thể trở thành người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho đương sự trong TTDS trước Tòa án mà người đó phải Tòa án công nhận
tư cách tham gia tố tụng dưới một hình thức nhất định.
Để làm rõ khái niệm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
trong TTDS cần làm rõ các khái niệm tố tụng dân sự, đương sự, bảo vệ, quyền và
lợi ích hợp pháp.
Trước hết cần tìm hiểu về thuật ngữ tố tụng dân sự. Khi tham gia vào các
quan hệ xã hội nói chung và quan hệ pháp luật dân sự nói riêng, các cá nhân, pháp
nhân có quyền tự do xác lập, thực hiện, định đoạt các hành vi không vi phạm điều
cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội, không ảnh hưởng quyền và lợi ích
hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước. Trong trường
hợp cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác, lợi ích công cộng,
lợi ích của Nhà nước bị xâm phạm thì có nhiều phương thức để bảo vệ các cá nhân,
cơ quan, tổ chức. Một trong các phương thức đó là việc các cá nhân, cơ quan, tổ
chức làm đơn khởi kiện hoặc làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp, yêu cầu
dân sự. Khi Tòa án tiếp nhận đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của các chủ thể thì quá
trình giải quyết VVDS phát sinh, quá trình đó được gọi là tố tụng dân sự. Ở Việt
Nam hiện nay, theo quy định của Luật Tổ chức TAND năm 2014 và BLTTDS năm
2015, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật tố tụng hành chính năm 2015, Luật
Phá sản năm 2014 thì thủ tục giải quyết các tranh chấp, yêu cầu, vi phạm phát sinh
trong đời sống xã hội do Tòa án giải quyết được thực hiện theo các thủ tục tố tụng
hình sự, tố tụng hành chính, tố tụng dân sự và thủ tục phá sản.
Trước khi BLTTDS năm 2004 ra đời, khi các tranh chấp, yêu cầu phát sinh từ
các quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động sẽ được Tòa án giải
quyết theo các thủ tục tố tụng được quy định trong các Pháp lệnh Thủ tục giải quyết
các vụ án dân sự, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế và Pháp lệnh Thủ
tục giải quyết các tranh chấp lao động , từ đó tồn tại ba khái niệm: tố tụng dân sự, tố
tụng kinh tế và tố tụng lao động. Theo đó, tố tụng dân sự dùng để chỉ thủ tục giải



9

quyết các tranh chấp, yêu cầu từ quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình tại
Tòa án. BLTTDS năm 2004 ra đời đã thống nhất ba loại thủ tục TTDS, tố tụng kinh
tế, tố tụng lao động thành thủ tục TTDS. Như vậy, thủ tục TTDS là thủ tục giải
quyết các VVDS phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa hẹp, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động.
Quá trình TTDS bắt đầu từ thời điểm TA tiếp nhận đơn khởi kiện, đơn yêu
cầu của các cá nhân, cơ quan tổ chức nhưng kết thúc tại thời điểm nào là vấn đề còn
có các quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng, TTDS là trình tự, thủ
tục được pháp luật quy định để giải quyết VVDS tại Tòa án. Quá trình tố tụng kết
thúc khi bản án, quyết định dân sự của TA có hiệu lực pháp luật và không bị kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Hoạt động thi hành án dân sự không
phải là hoạt động tố tụng dân sự vì công tác thi hành án dân sự do cơ quan thì hành
án dân sự tổ chức và chỉ nhằm thực hiện bản án, quyết định của Tòa án. Quan điểm
khác lại cho rằng, tố tụng dân sự là trình tự, thủ tục được pháp luật quy định để giải
quyết VVDS tại TA và thi hành án dân sự. Quan điểm thứ hai là quan điểm của
Trường Đại học Luật Hà Nội, theo đó “luật tố tụng dân sự…, bao gồm hệ thống các
quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong tố tụng dân sự để bảo
đảm giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự”. 3 Tác giả luận văn đồng tình
với quan điểm này, bởi mục đích của TTDS là việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức và lợi ích của nhà nước khi quyền và lợi ích hợp
pháp đó được thực thi trên thực tế. Theo đó, thi hành án là hoạt động tố tụng dân sự.
Như vậy, có thể hiểu tố tụng dân sự là trình tự, thủ tục do pháp luật quy định
để giải quyết các VVDS và thi hành án dân sự phát sinh từ quan hệ pháp luật dân
sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao động . Tuy nhiên, dù thi
hành án dân sự có được coi là một giai đoạn của TTDS hay không thì trong phạm vi
luận văn, tác giả chỉ giới hạn nghiên cứu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự là người tham gia tố tụng dân sự trong giai đoạn giải quyết VVDS.


3

Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình luật Tố tụng dân sự, Nxb Công an nhân dân, tr 12.


10

Về khái niệm đương sự, Điều 68 BLTTDS 2015 không đưa ra khái niệm
đương sự mà chỉ liệt kê những chủ thể được gọi là đương sự, “Đương sự trong vụ
án dân sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đương sự trong việc dân sự là cơ quan, tổ chức, cá
nhân bao gồm người yêu cầu giải quyết việc dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan.” Giáo trình luật Tố tụng dân sự của Trường Đại học Luật Hà Nội đưa ra
khái niệm: “đương sự trong vụ việc dân sự là người tham gia tố tụng để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà
nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách do có quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ việc
dân sự”4. Có thể thấy, do có tranh chấp, yêu cầu về quyền và nghĩa vụ của các cá
nhân, cơ quan, tổ chức khi tham gia các quan hệ pháp luật dân sự mới dẫn đến Tòa
án thụ lý VVDS và mới xuất hiện tư cách tố tụng của các chủ thể tham gia tố tụng,
trong đó có đương sự. Như vậy, do liên quan đến quyền và nghĩa vụ dân sự trong
VVDS mới là yếu tố căn bản dẫn đến một chủ thể trở thành đương sự trong TTDS.
Do có quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ việc dân sự nên việc tham gia tố tụng của
họ có thể theo đơn kiện, yêu cầu của chính họ hoặc người tham gia tố tụng khác
hoặc Tòa án. Như vậy, theo tác giả đương sự trong vụ việc dân sự là người có
quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ việc dân sự tham gia tố tụng theo yêu cầu của
chính mình hoặc người khác hoặc Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ
trách.
Về khái niệm bảo vệ được hiểu là “dùng lí lẽ để bênh vực, giữ vững ý kiến ,
quan điểm5”

Về khái niệm quyền và lợi ích hợp pháp. Quyền là “khái niệm dùng để chỉ
những điều mà pháp luật công nhận và bảo đảm thực hiện đối với cá nhân tổ chức
để theo đó cá nhân được hưởng, được làm, được đòi hỏi mà không ai được ngăn

4

Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình luật Tố tụng dân sự, Nxb Công an nhân dân, tr107.

5

Viện khoa học pháp lý Bộ tư pháp (2005),Từ điển Luật học, NXB từ điển bách khoa, tr 111.


11

cản, hạn chế”6. Dấu hiệu đặc trưng của quyền là phải có sự ghi nhận về mặt pháp lý
và được bảo đảm thực hiện bởi các quy định của pháp luật và phải được thừa nhận
về mặt xã hội, gắn liền với một chủ thể. Lợi ích là điều có ích, có lợi cho một cá
nhân, hay tập thể7. Hơp pháp là đúng với pháp luật8. Quyền và lợi ích hợp pháp ở
đây được hiểu là những quyền và lợi ích đúng với pháp luật của các cá nhân, cơ
quan, tổ chức phát sinh từ các quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa rộng. Như vậy,
quyền và lợi ích hợp pháp được đề cập đến trong khái niệm này là những điều do
các bên trong quan hệ pháp luật dân sự thỏa thuận hoặc pháp luật công nhận và
bảo đảm thực hiện theo quy định của pháp luật có lợi cho các đương sự .
Từ việc phân tích các khái niệm, thuật ngữ đã nêu cho thấy, khi tham gia vào
các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ pháp luật dân sự nói riêng, nếu cho rằng
quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác, lợi ích công cộng, lợi ích Nhà
nước bị xâm phạm hoặc có tranh chấp thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền làm
đơn khởi kiện hoặc làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp, yêu cầu dân sự.
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình tại Tòa án trong quá trình giải quyết

các vụ việc theo thủ tục TTDS, các đương sự có thể tự mình thực hiện các quyền,
nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật.
Tuy nhiên trong thực tiễn, không phải trong mọi trường hợp đương sự đều có
thể tự mình tham gia tố tụng để thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó để bảo vệ quyền
lợi chính đáng cho mình, có thể có nhiều lý do khác nhau như, do hạn chế về trình
độ hiểu biết pháp luật hoặc do không hoặc ít có kinh nghiệm tham gia tố tụng, ...
Như vậy, đương sự có thể lựa chọn giải pháp là nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho mình. Sự hỗ trợ pháp lý từ người có kiến thức và kinh nghiệm
tham gia tố tụng sẽ giúp cho đương sự có thể bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp
pháp của mình, bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án, trước pháp luật, không phụ
thuộc vào dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, trình độ văn
hoá, hoàn cảnh. Trên tinh thần đó, các bản Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm
6

Viện khoa học pháp lý Bộ tư pháp (2005),Từ điển Luật học, NXB từ điển bách khoa, tr 648.
Viện ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, tr 2003.
8
Viện khoa học pháp lý Bộ tư pháp (2005),Từ điển Luật học, NXB từ điển bách khoa, tr 848.
7


12

1980, Hiến pháp năm 1992 và đến nay là Hiến pháp năm 2013 đều ghi nhận:
“Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự
được bảo đảm”9. Trên tinh thần của Hiến pháp năm 2013, Điều 9 BLTTDS năm
2015 ghi nhận nguyên tắc: “Bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự”10. Theo đó khi tham gia tố tụng dân sự, đương sự có quyền tự bảo vệ
hoặc nhờ luật sư hay người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Thông
qua sự hỗ trợ pháp lý của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đương

sự có thể nhận thức được đầy đủ hơn các quyền và nghĩa vụ của họ theo quy định
của pháp luật và từ đó có thể đưa ra được các yêu cầu, các chứng cứ, tài liệu chứng
minh cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho
đương sự thực hiện quyền bảo vệ của họ. Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm trợ
giúp pháp lý cho các đối tượng theo quy định của pháp luật để họ thực hiện quyền
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trước Tòa án. Không ai được hạn chế quyền bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTDS.
Cùng là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nhưng người đại
diện của đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có vai
trò khác nhau. Nếu người đại diện của đương sự là người thay mặt đương sự, thực
hiện thay đương sự các quyền và nghĩa vụ TTDS. Còn người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự là người tham gia tố tụng cùng với đương sự, am hiểu
về pháp luật, sử dụng kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng để đưa ra ý kiến, quan điểm
bênh vực cho quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự khi họ được đương sự yêu
cầu. Song, để bảo đảm cho việc giải quyết VVDS được chính xác, khách quan, tôn
nghiêm, pháp luật TTDS đã dự liệu những trường hợp có thể được chấp nhận là
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTDS và thông thường
họ là luật sư, trợ giúp viên pháp lý, người có kiến thức pháp luật… Bên cạnh đó,
pháp luật TTDS cũng dự liệu những trường hợp không được chấp nhận tham gia tố
tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong

9

Khoản 7 Điều 103 Hiến pháp năm 2013 của nước CHXHCN Việt Nam.
Điều 9 BLTTDS năm 2015.

10


13


TTDS, đó là những trường hợp không có năng lực hành vi TTDS hoặc sự tham gia
tố tụng sẽ làm ảnh hưởng đến tính khách quan, vô tư của Tòa án trong việc giải
quyết vụ việc dân sự ... Và khi có yêu cầu của đương sự nhờ một người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho mình trong một VVDS, Tòa án tiếp nhận yêu cầu của
đương sự cần có thủ tục để kiểm tra xem người đó có đủ điều kiện trở thành người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTDS hay không. Tùy theo
pháp luật của mỗi nước và tùy từng thời điểm mà thủ tục Tòa án chấp nhận tư cách
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có thể được thực hiện dưới
các hình thức khác nhau.
Từ những phân tích trên, Luận văn xin được xây dựng một khái niệm đầy đủ
về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTDS, phù hợp với
quy định hiện hành của BLTTDS 2015 và các khái niệm liên quan như sau: “Người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong TTDS là người tham gia vào
quá trình giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án khi có đương sự yêu cầu, đáp ứng đủ
các điều kiện do pháp luật quy định và được Tòa án làm thủ tục đăng ký nhằm đưa
ra lý lẽ, lập luận, quan điểm bảo vệ cho quyền và lợi ích phù hợp theo pháp luật
của các đương sự”.
1.1.2 Đặc điểm của Ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng
sự
Xuất phát từ vai trò là người hỗ trợ cho đương sự những nhận thức về pháp
luật trong quá trình tố tụng nên người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự phải là những người có hiểu biết pháp luật, có khả năng và nhiều kinh nghiệm
tham gia tố tụng. Thuộc nhóm những người tham gia tố tụng do vậy người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có đầy đủ những đặc điểm của người tham
gia tố tụng. Tuy nhiên, mục đích tham gia quá trình tố tụng của họ chỉ là để hỗ trợ
về mặt pháp lý cho đương sự nên so với những người tham gia tố tụng khác, người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự còn có những đặc điểm khác biệt
sau đây:



14

Thứ nhất, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người
hiểu biết về pháp luật, có khả năng tham gia tố tụng
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia vào quá trình
tố tụng với một vai trò hỗ trợ cho đương sự những vấn đề pháp lý cần thiết trong
quá trình tham gia tố tụng. Việc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự cần có sự hiểu biết về pháp luật là đặc điểm không thể thiếu đối với những người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Bản thân đương sự cần đến người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
mình cũng xuất phát từ mục đích nhằm hạn chế tối đa những ảnh hưởng không tốt
đến kết quả bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ trong trường hợp họ không thể tự
mình thực hiện được đầy đủ các quyền, nghĩa vụ TTDS. Vì thế, đương sự cũng sẽ
chỉ tìm đến những người có kinh nghiệm về tố tụng và hiểu biết về pháp luật để hỗ
trợ cho họ.
Trước đây, theo quy định tại Điều 63 BLTTDS 2004 thì chỉ có 2 đối tượng
có thể trở thành người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là Luật sư,
công dân Việt Nam. Tuy vậy, qua thực tiễn xét xử của Tòa án cho thấy thông
thường luật sư vẫn là sự lựa chọn đầu tiên của đương sự vì họ là người vừa có sự
hiểu biết pháp luật, vừa có kinh nghiệm tham gia tố tụng. BLTTDS sửa đổi 2011 đã
bổ sung thêm một đối tượng mới đó là trợ giúp viên pháp lý theo quy định của pháp
luật về trợ giúp pháp lý. Đối tượng này cũng có sự hiểu biết về pháp luật, có kinh
nghiệm và khả năng tham gia TTDS. BLTTDS 2015 đã bổ sung thêm thành phần
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đối với đương sự là người lao động, đó là
đại diện tổ chức tập thể người lao động nhằm phù hợp với quy định của Luật Công
đoàn 2012. Đối tượng này có sự hiểu biết nhất định pháp luật về lao động nên có
thể bảo vệ được quyền và lợi ích cho đương sự là người lao động và tập thể người
lao động trong các vụ án tranh chấp liên quan đến quan hệ lao động.
Thứ hai, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người

do đương sự lựa chọn


15

Theo quy định tại khoản 2 Điều 75 của BLTTDS 2015 chỉ rõ “Những người
sau đây được làm người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự khi có yêu
cầu của đương sự và được Tòa án làm thủ tục đăng ký người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự”. Như vậy, sự có mặt của người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự phụ thuộc vào đương sự. Điều này thể hiện ở việc người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự chỉ tham gia vào quá trình tố tụng từ
khi có yêu cầu của đương sự và được TA làm thủ tục đăng ký nhằm hỗ trợ, giúp đỡ
đương sự về nhận thức pháp luật bằng việc thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của
mình trong quá trình tham gia tố tụng. Do đó, không giống như người bào chữa
trong TTHS, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có thể xuất hiện
ở bất cứ giai đoạn tố tụng nào.
Thứ ba, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự khi tham
gia tố tụng phải được TA chấp nhận thông qua thủ tục đăng ký.
Không giống như những người tham gia tố tụng khác, để trở thành người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có sự “chấp nhận” của Tòa án,
được thực hiện bằng thủ tục đăng ký. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự bắt đầu tham gia tố tụng kể từ khi TA vào sổ đăng ký người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự và xác nhận vào giấy yêu cầu người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự (khoản 5 Điều 75 của BLTTDS 2015).
Thứ tư, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện
nhiệm vụ giúp đương sự về mặt pháp lý.
Đặc điểm này là sự khác biệt cơ bản giữa người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự với người tham gia tố tụng khác, bao gồm cả người đại diện của
đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch... Mặc dù, sự có
mặt của người tham gia tố tụng khác, ví dụ như người đại diện của đương sự cũng

nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích cho đương sự.
Cùng nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nhưng
người đại diện của đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương


16

sự có vai trò khác nhau. Nếu người đại diện của đương sự là người thay mặt đương
sự, thực hiện thay đương sự các quyền và nghĩa vụ TTDS. Trong khi đó, người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người tham gia tố tụng song song với
đương sự, am hiểu về pháp luật, sử dụng kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng để đưa ra
ý kiến, quan điểm bênh vực cho quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự khi họ
được đương sự yêu cầu. Họ không bị hạn chế trong việc thực hiện các quyền, nghĩa
vụ tố tụng của đương sự. Họ sẽ cùng đương sự tham gia tố tụng, giúp đỡ đương sự
về mặt pháp lý. Khi tham gia tố tụng người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự có vị trí pháp lý độc lập, không phụ thuộc vào phạm vi yêu cầu của đương
sự. Điều này thể hiện ở việc ngoài những quyền và nghĩa vụ mà đương sự có, người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự còn có nhiều quyền và nghĩa vụ
khác trong quá trình tham gia bảo vệ cho đương sự trước TA, tại các giai đoạn của
quá trình tố tụng, nổi bật nhất là các hoạt động tố tụng sau đây:
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người trình bày
đầu tiên trong việc xác định chứng cứ chứng minh cho yêu cầu, đề nghị của người
mà mình bảo vệ tại phiên tòa (Điều 248 BLTTDS 2015), là người phát biểu tranh
luận, đối đáp đầu tiên sau khi kết thúc việc hỏi, chuyển sang phần tranh luận tại
phiên tòa (Điều 200 BLTTDS 2015).
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia vào phiên
họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.
- Trong quá trình giải quyết VVDS, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự có quyền thu thập và cung cấp các tài liệu chứng cứ cho TA, được áp
dụng các biện pháp mà pháp luật có quy định để tiến hành thu thập chứng cứ.

- Khi nghiên cứu hồ sơ VVDS, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự được ghi chép và sao chụp các tài liệu có trong hồ sơ để thực hiện việc
bảo vệ cho đương sự…
Thứ năm, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được trao
nhiều nhiệm vụ và quyền hạn khi tham gia tố tụng.


17

Việc tham gia tố tụng của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự không giống như những người tham gia tố tụng khác, ví dụ như người đại diện
theo ủy quyền của đương sự chỉ được thực hiện các công việc trong phạm vi đương
sự ủy quyền. Một số người tham gia bổ trợ cho quá trình tố tụng như người làm
chứng, người giám định, người phiên dịch chỉ tham gia tố tụng khi cần thiết, được
TA triệu tập và thực hiện nhiệm vụ có liên quan đến vụ án. Vì vậy những sự tham
gia này thể hiện sự không thường xuyên, lúc có, lúc không.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có rất nhiều quyền
hạn khi tham gia tố tụng để có thể thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho đương sự, giúp đỡ đương sự về mặt pháp lý.
Theo quy định thì người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự được thực
hiện các quyền và nghĩa vụ đã được quy định tại Điều 76 BLTTDS 2015. Khác với
người đại diện của đương sự chỉ thay mặt nhân danh đương sự tham gia tố tụng,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền hạn rất lớn khi tham
gia tố tụng. Cụ thể như quyền nghiên cứu và sao chụp tài liệu có trong hồ sơ vụ án,
quyền xác minh thu thập chứng cứ, thay mặt đương sự yêu cầu thay đổi người tiến
hành tố tụng… Do đó, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
thường là chủ thể chính tham gia vào các giai đoạn của các phiên tòa. Đặc biệt là
trong việc tranh luận và ngay cả trong việc trả lời thay đương sự khi HĐXX hỏi
đương sự. Tại các phiên hòa giải, nếu có sự tham gia của người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự thì họ sẽ lựa chọn những biện pháp tối ưu nhất cho việc

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Việc tham gia tố tụng của người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự giúp đương sự tránh được phải tham
gia tố tụng kéo dài làm mất thời gian và tiền bạc của đương sự. Đặc biệt trong việc
thu thập đánh giá chứng cứ, một người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự có trình độ pháp luật sẽ có những cách tiếp cận, thu thập và đánh giá chứng cứ
đúng nhất, đầy đủ nhất, làm cơ sở cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự một cách tốt nhất.


18

1.1.3 Vai trò của Ngƣời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự
Nói tới vai trò của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
trong TTDS là nói tới những tác động, ảnh hưởng của người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự đối với các cá nhân, tổ chức trong quá trình tham gia tố
tụng, góp phần vào quá trình xây dựng và phát triển dân chủ, tạo lập công bằng xã
hội. Khẳng định vai trò của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
trong TTDS là khẳng định nguyên tắc “Thượng tôn pháp luật”, coi pháp luật là
thước đo giá trị công bằng, chuẩn mực ứng xử của chủ thể trong xã hội.
Việc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng
xuất phát từ nhu cầu cần được bảo vệ của các đương sự tại phiên tòa. Người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia vào quá trình tố tụng với vai trò là
người hỗ trợ cho đương sự những nhận thức về pháp luật trong quá trình tố tụng là
rất cần thiết. Điều này có tác dụng lớn không những đối với việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự trước Tòa án mà cả đối với việc giải quyết VVDS
của Tòa án.
Vai trò của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thể hiện ở
những điểm như sau:
Thứ nhất, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự giúp
đương sự nhận thức đúng quyền, lợi ích hợp pháp của mình và bảo vệ các quyền

và lợi ích đó trước TA khi có sự vi phạm, giúp các đương sự có được sự cân bằng
trong “cuộc đấu tranh pháp lý”:
Thông qua việc thực hiện các quyền được pháp luật tố tụng quy định cho
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự như quyền xác minh, thu thập
chứng cứ; nghiên cứu hồ sơ vụ án; giúp đương sự trình bày về yêu cầu của họ và
cung cấp các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu đó tại phiên tòa; tham gia
hỏi tại phiên tòa… người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có thể bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự một cách hiệu quả nhất. Vì vậy, sự tham
gia tố tụng của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự góp phần đảm
bảo một cách tốt nhất việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trước


×