Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.97 MB, 106 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------------------

NGUYỄN THỊ HUỆ

BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG
TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Định hƣớng nghiên cứu

HÀ NỘI – 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------------------

NGUYỄN THỊ HUỆ

BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG
TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ

Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự


Mã số

: 83 80 104

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Định hƣớng nghiên cứu

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. HOÀNG THỊ MINH SƠN

HÀ NỘI – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác, Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn
này.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Huệ


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

:


Bộ luật hình sự

BLTTHS

:

Bộ luật tố tụng hình sự

HĐTP

:

Hội đồng thẩm phán

HĐXX

:

Hội đồng xét xử

HTND

:

Hội thẩm nhân dân

KSV

:


Kiểm sát viên

MTTQ

:

Mặt trận Tổ quốc

TAND

:

Tòa án nhân dân

TGPL

:

Trợ giúp pháp lý

TTHS

:

Tố tụng hình sự

VKS

:


Viện kiểm sát

VKSND

:

Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
SỐ BẢNG

TÊN BẢNG

Bảng 2.1

Tình hình xét xử sơ thẩm trong các năm từ 2013 đến
2017

Biểu đồ

Tình hình tham gia bào chữa của Luật sư trong các vụ án


2.2

hình sự

TRANG
41

44


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1.NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC
TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ ..................... 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm của việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử
các vụ án hình sự ............................................................................................... 8
1.2. Các yếu tố bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự
......................................................................................................................... 15
1.3. Vai trò, ý nghĩa của việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ
án hình sự ......................................................................................................... 16
1.3.1. Vai trò của việc đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án
hình sự ............................................................................................................. 17
1.3.2. Ý nghĩa của việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án
hình sự ............................................................................................................. 18
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 21
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG
TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ ........................... 22
2.1. Thực trạng quy định của pháp luật về bảo đảm tranh tụng trong xét xử
các vụ án hình sự ............................................................................................. 22
2.1.1. Quy định về nguyên tắc “Tranh tụng trong xét xử được bảo đảm” ..... 22

2.1.2. Quy định về bảo đảm tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm vụ án hình sự . 28
2.2. Thực tiễn bảo đảm tranh tụng trong xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự ... 36
2.2.1. Khái quát tình hình thực hiện tranh tụng trong xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự ............................................................................................................. 36
2.2.2. Đánh giá thực tiễn thực hiện tranh tụng trong xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự ............................................................................................................. 40
Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 60


Chƣơng 3. GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC TRANH TỤNG
TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ ................................................ 61
3.1. Yêu cầu của giải pháp .............................................................................. 61
3.2. Các giải pháp cụ thể nhằm bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử
các vụ án hình sự ............................................................................................. 66
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử các vụ án hình sự ........................................................................ 66
3.2.2. Giải pháp về nguồn nhân lực nhằm bảo đảm nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử các vụ án hình sự ........................................................................ 69
3.2.3.Các giải pháp khác................................................................................. 74
Kết luận chƣơng 3 ......................................................................................... 81
KẾT LUẬN .................................................................................................... 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết
Tranh tụng đã được thừa nhận trên phạm vi toàn cầu và được ghi nhận

tại Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền của Liên Hợp quốc. Theo đó, “Mọi
người đều có quyền hoàn toàn ngang nhau được phát biểu bình đẳng và công
khai trước Tòa án độc lập và không thiên vị, nơi quyết định các quyền và
nghĩa vụ của mình hoặc về việc buộc tội mình có cơ sở trước Tòa”1. Ở Việt
Nam, nhằm hướng đến xây dựng một nền tư pháp dân chủ, tiến bộ, Đảng và
Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương về cải cách tư pháp, trong đó đặc biệt
nhấn mạnh đến việc đảm bảo việc tranh tụng và nâng cao chất lượng tranh
tụng, cụ thể: Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến 2010,
định hướng đến năm 2020 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 48-NQ/TW) đã
nhấn mạnh: “Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân
chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận tiện, đảm bảo sự
tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất
lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại toà làm
căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao
chất lượng hoạt động tư pháp”; Nghị quyết số 08- NQ/TW ngày 02/01/2002
về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới (sau
đây gọi tắt là Nghị quyết số 08-NQ/TW) và nhất là Nghị quyết số 49- NQ/TW
ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 49-NQ/TW) chỉ rõ nhiệm vụ:“... Nâng
cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá
của hoạt động tư pháp”, “Nghiên cứu việc chuyển Viện kiểm sát thành viện
công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra”,“
Hoàn thiện cơ chế bảo đảm để Luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên
toà, đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với Luật sư..”. Trước khi
1

Liên Hợp quốc (1948), Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền, Pháp.



2

Hiến pháp năm 2013 được ban hành, vấn đề tranh tụng trong xét xử ở nước ta
chưa được quy định thành một nguyên tắc trong Bộ luật Tố tụng hình sự
(BLTTHS). Mặc dù, BLTTHS năm 2003 cũng đã có những quy định thể hiện
một số nội dung của nguyên tắc tranh tụng như quy định nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa của bị can, bị cáo, các quy định về quyền và nghĩa vụ của bị
can, bị cáo, những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng khác, các
quy định về tranh luận tại phiên tòa...nhưng các quy định trên còn thiếu tính
cụ thể, nhất là chưa có văn bản pháp lý nào ghi nhận nguyên tắc và cơ chế bảo
đảm tranh tụng trong xét xử nên chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa chưa
cao. Xác định tầm quan trọng của hoạt động tranh tụng tại phiên tòa, Hiến
pháp năm 2013 quy định: “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo
đảm”. Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, tranh tụng được ghi nhận là một
nguyên tắc và phải được bảo đảm trong xét xử. Tuy nhiên, do mô hình tố tụng
ở nước ta về cơ bản là mô hình tố tụng xét hỏi nên việc bảo đảm nguyên tắc
tranh tụng trong tố tụng hình sự (TTHS) nói chung và trong xét xử các vụ án
hình sự nói riêng chưa thực sự được coi trọng đúng mức trên cả phương diện
lý luận, xây dựng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật. Về mặt lý luận,
hiện còn nhiều quan điểm khác nhau về tranh tụng, có quan điểm cho rằng đối
với mô hình tố tụng ở Việt Nam hiện nay, tranh tụng là một nguyên tắc, cũng
có quan điểm cho rằng tranh tụng là một mô hình tố tụng hay một thủ tục
trong tố tụng hình sự. Chính vì về mặt lý luận còn chưa thống nhất đó đã ảnh
hưởng ít nhiều đến việc bảo đảm tranh tụng. Thực tiễn hơn 10 năm thi hành
BLTTHS năm 2003 cho thấy chất lượng các khâu xét hỏi, tranh tụng trong
phiên toà hình sự đã có những chuyển biến tích cực, góp phần nâng cao hiệu
quả của hoạt động tố tụng hình sự nhưng cũng đã bộc lộ những hạn chế, bất
cập nhất định. Trong đó, việc tổ chức phiên toà theo tinh thần cải cách tư pháp
chưa được toàn diện, khâu tranh tụng tại phiên toà chưa có chuyển biến nhiều,
việc xét hỏi, tranh tụng vẫn mang nặng tính truyền thống. Những hạn chế trên

đã ảnh hưởng không nhỏ đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, làm


3

chậm tiến trình cải cách tư pháp, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với
cơ quan tư pháp và điều quan trọng là nó không phản ánh các giá trị đích thực
của Nhà nước pháp quyền mà chúng ta đang hướng tới. BLTTHS năm 2015 ra
đời, có hiệu lực từ 01/01/2018, ghi nhận nguyên tắc tranh tụng trong xét xử
được đảm bảo và cụ thể hóa trong Bộ luật với nhiều nội dung có liên quan, đòi
hỏi phải được tiếp tục nghiên cứu, nắm chắc và hiểu đúng tinh thần của điều
luật để triển khai thực hiện thống nhất. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu những
biện pháp bảo đảm cho nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được áp dụng có
hiệu quả cao nhất cũng góp phần bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền
công dân, đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp ở nước ta.
Với những lý do trên, thì việc lựa chọn nghiên cứu đề tài “Bảo đảm
nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự” là yêu cầu có tính
khách quan, cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Tranh tụng nói chung và tranh tụng trong tố tụng hình sự nói riêng là
một vấn đề còn khá mới mẻ đối với lĩnh vực tư pháp ở Việt Nam. Trước đây,
có quan điểm cho rằng tranh tụng là nguyên tắc đặc trưng của tố tụng hình sự
tư sản nên vấn đề này không được áp dụng trong tổ chức và hoạt động tư pháp
ở nước ta. Theo đó mà trước năm 2013, các công trình nghiên cứu về Bảo
đảm nguyên tắc tranh tụng còn hạn chế, chủ yếu là các công trình nghiên cứu
về hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hình sự như:
- Lưu Bình Dương về “Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm hình sự”
(2004): luận văn đã khái quát được lịch sử vấn đề tranh tụng trong tố tụng
hình sự, xây dựng khái niệm tranh tụng trong tố tụng hình sự, phân tích các
quy định của pháp luật Việt Nam liên quan đến tranh tụng tại phiên tòa sơ

thẩm (BLTTHS năm 1988 và BLTTHS 2003); phân tích thực tiễn thực hiện
việc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm theo BLTTHS 1988 và đề ra giải pháp
nâng cao hiệu quả tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm theo BLTTHS năm 1988.


4

- Nguyễn Mạnh Kháng “Cải cách tư pháp và vấn đề tranh tụng” - Tạp
chí Nhà nước và pháp luật, số 10/2003: tác giả đã phân tích bản chất của
tranh tụng và những ưu điểm, hạn chế của nó. Đồng thời, phân tích các điều
kiện để đảm bảo tranh tụng và khả năng vận dụng tranh tụng trong tình hình
nước ta cũng như hệ quả của việc vận dụng này.
- Trần Văn Độ (2004), “Bản chất tranh tụng tại phiên toà, Tạp chí khoa
học pháp lý, số 4: tác giả cho rằng phiên tòa là giai đoạn trung tâm thể hiện
đầy đủ nhất bản chất quá trình tố tụng nói chung và xét xử nói riêng, do đó,
việc nghiên cứu xây dựng một hệ thống tố tụng tranh tụng hay hệ thống tố
tụng khác có các yếu tố tranh tụng phải được xuất phát trước tiên từ vấn đề
tranh tụng tại phiên tòa. Từ đó, tác giả phân tích nội dung tranh tụng tại phiên
tòa trong các hệ thống tố tụng khác nhau và đưa ra một số giải pháp nhằm
đảm bảo cho nguyên tắc tranh tụng được thực hiện đầy đủ trong tố tụng.
- Nguyễn Thái Phúc (2008), Vấn đề tranh tụng và tăng cường tranh
tụng trong tố tụng hình sự theo yêu cầu của cải cách tư pháp, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, số 8: bài viết nêu quan điểm về khái niệm “tranh tụng”
dưới các góc độ khác nhau. Từ đó, tác giả đưa ra các giải pháp tăng cường
tranh tụng trong hoạt động tố tụng hình sự ở nước ta theo yêu cầu của cải
cách tư pháp.
Các tác giả đã xây dựng được khái niệm tranh tụng, trình bày những
vấn đề lý luận và quy định của BLTTHS năm 2003 về tranh tụng, phân tích
thực trạng tranh tụng ở nước ta và đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp
luật để nâng cao chất lượng tranh tụng. Ngoài ra, các nghiên cứu về lý luận và

thực tiễn tranh tụng với cách nhìn ở các góc độ khác nhau, thể hiện trên các
bài báo, tạp chí, có thể kể như bài: “Một số vấn đề về mối quan hệ giữa
tranh tụng trong tố tụng hình sự với chức năng xét xử của Toà án trong bối
cảnh cải cách tư pháp” - Nguyễn Trương Tín - Tạp chí Nhà nước và pháp
luật, số 10/2008. Sau khi Hiến pháp 2013 ghi nhận “Nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử được đảm bảo”, đã có nhiều các bài viết về nguyên tắc tranh


5

tụng như: “Vấn đề áp dụng nguyên tắc tranh tụng trong luật tố tụng hình sự
Việt Nam” –TS.LS. Nguyễn Thanh Bình- Tạp chí Nghề Luật, số 10/2015;
“Thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử bảo đảm tinh thần Hiến pháp
2013” – ThS. Phạm Văn Tuyên, Tạp chí Lý luận chính trị, số 1/2016.
Với các công trình trên, khi nghiên cứu đề tài “Bảo đảm nguyên tắc
tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự”, tác giả có thuận lợi được tham
khảo khá nhiều nguồn tài liệu. Tuy nhiên, tình hình nghiên cứu cho thấy,
các tác giả chủ yếu tập trung nghiên cứu về hoạt động “tranh tụng” và nội
hàm “nguyên tắc tranh tụng”. Do đó, việc nghiên cứu các biện pháp bảo
đảm cho nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự vẫn rất cần
thiết, góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử và đề ra những giải pháp đảm bảo nguyên tắc này.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ
thống về mặt lý luận, đánh giá khách quan, có căn cứ khoa học về sự thể hiện
nguyên tắc tranh tụng trong trong giai đoạn xét xử. Trên cơ sở đó đề xuất các
giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện nguyên tắc này một cách hiệu quả nhất, góp
phần bảo vệ tốt hơn các quyền con người trong tố tụng hình sự.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu vấn đề bảo đảm nguyên

tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự trên phương diện lý luận, pháp
lý và thực tiễn tranh tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ở nước
ta hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Tranh tụng trong tố tụng hình sự là vấn đề có
phạm vi nghiên cứu rất rộng. Tuy nhiên, trong giới hạn của đề tài, tác giả chỉ
nghiên cứu vấn đề bảo đảm tranh tụng trong xét xử tại phiên tòa sơ thẩm các
vụ án hình sự, luận văn không nghiên cứu vấn đề bảo đảm tranh tụng trong
các giai đoạn trước và sau phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự; Do
BLTTHS năm 2015 mới được thi hành chưa đầy một năm nên Luận văn


6

nghiên cứu quy định về vấn đề này trong BLTTHS năm 2003 làm cơ sở cho
việc đánh giá thực tiễn và trong BLTTHS năm 2015 làm cơ sở cho việc tiếp
tục hoàn thiện pháp luật; nghiên cứu biện pháp bảo đảm tranh tụng tại phiên
tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự trong điều kiện, hoàn cảnh và mô hình tố
tụng hình sự cụ thể của Việt Nam trong thời gian từ năm 2013 đến 2017.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, những
quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta về nhà nước pháp
quyền, cải cách pháp luật, cải cách bộ máy nhà nước nói chung, cải cách tư
pháp và thủ tục tư pháp nói riêng.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp phân tích nhằm làm rõ
những vấn đề lý luận và thực tiễn về tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm,
phương pháp tổng hợp để tổng hợp những vấn đề nghiên cứu nhằm đưa ra
những nhận định và kết luận chung. Phương pháp thống kê được sử dụng để
thống kê số liệu trong thực tiễn xét xử liên quan đến tranh tụng tại phiên tòa
làm cơ sở cho việc đưa ra những nhận xét, kết luận và đề xuất các biện pháp

bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu, đề tài đặt ra nhiệm vụ nghiên
cứu là:
- Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về bảo đảm nguyên tắc tranh
tụng trong xét xử các vụ án hình sự;
- Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành về nguyên tắc
tranh tụng tại phiên tòa và bảo đảm thực hiện nguyên tắc này;
- Phân tích, đánh giá thực tiễn bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét
xử các vụ án hình sự, chỉ ra những kết quả đạt được, những hạn chế, vướng mắc
và nguyên nhân của nó.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn


7

Với mục tiêu nghiên cứu đã đề ra, luận văn góp phần bổ sung lý luận về
cải cách tư pháp mà trọng tâm là nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hình
sự, bổ sung hoàn thiện lý luận về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt
động xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự.
Về mặt thực tiễn, luận văn đóng góp vào việc tìm ra những hạn chế
trong thực trạng các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật,
qua đó, đưa ra những giải pháp có tính khả thi giúp nâng cao chất lượng tranh
tụng tại các phiên tòa sơ thẩm.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được trình bày thành ba chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử các vụ án hình sự.
Chương 2: Thực trạng bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các

vụ án hình sự
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng bảo đảm nguyên tắc tranh
tụng trong xét xử các vụ án hình sự


8

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC
TRANH TỤNG TRONG XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm của việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng
trong xét xử các vụ án hình sự
Thuật ngữ “tranh tụng” gắn liền với hai truyền thống pháp luật cơ bản
của thế giới đó là thủ tục tố tụng tranh tụng và thủ tục tố tụng thẩm vấn, tương
ứng với hai hệ thống pháp luật được xem là chủ yếu là hệ thống pháp luật án
lệ và hệ thống pháp luật Châu âu lục địa. Tuy nhiên, ở cả hai hệ thống pháp
luật này ngày càng có xu hướng xích lại gần nhau và dần chuyển sang xu
hướng tương đồng để hòa nhập trong tương lai gần.
Về mặt thuật ngữ, thì “tranh tụng” có nghĩa là “sự kiện cáo nhau”2
giữa hai người (bên nguyên và bên bị) có lập trường tương phản yêu cầu Toà
án phân xử. Còn theo nghĩa Hán Việt thì thuật ngữ tranh tụng được ghép từ
hai từ “tranh luận” và “tố tụng”, có nghĩa là tranh luận trong tố tụng. Trong
tiếng Anh, thuật ngữ tranh tụng thường gắn liền với khái niệm“hệ tố tụng
tranh tụng” (Adversarial system) với hàm ý đối lập với hệ tố tụng thẩm vấn
(Inquisitorial System). Về mặt lịch sử, qua nghiên cứu cho thấy, loại hình tố
tụng đầu tiên xuất hiện là tố tụng tranh tụng. Các nhà nghiên cứu lịch sử pháp
luật đều thống nhất cho rằng loại tố tụng này đã được áp dụng tại Hy Lạp cổ
đại, sau đó được đưa vào La Mã với tên gọi “thủ tục hỏi đáp liên tục”3. Loại
tố tụng này sau đó phát triển ở nhiều quốc gia khác của Châu Âu. Ngày nay
nhiều quốc gia trên thế giới coi tranh tụng là một trong các nguyên tắc cơ bản

của tư pháp hình sự.
Qua nghiên cứu các công trình và tài liệu chuyên ngành TTHS đã công
bố cho thấy, khái niệm “tranh tụng” được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau:
2

Từ điển Tiếng Việt, Hà Nội
Nhà pháp luật Việt - Pháp (2002), Một số nội dung về nguyên tắc tố tụng xét hỏi và tranh tụng - Kinh
nghiệm của Pháp trong việc tuyển chọn, bồi dưỡng, bổ nhiệm, quản lý Thẩm phán, Hà Nội.
3


9

Thứ nhất, tranh tụng được hiểu theo nghĩa là một thủ tục hoặc một giai
đoạn của TTHS và trong một số trường hợp tranh tụng được đồng nhất với
“tranh luận” tại phiên toà. Một số tác giả cho rằng “nếu tranh tụng được xác
định kể từ khi mở phiên toà đến khi kết thúc phiên toà thì cũng có nghĩa là
tranh tụng và tranh luận là một”4. Tuy nhiên, tranh luận là một khái niệm có
nội hàm rộng hơn, nó bao gồm tất cả các hoạt động đối đáp (mang tính pháp
lý và không pháp lý) của các bên nhằm đưa ra lý lẽ thuyết phục đối phương
phải chấp nhận lý lẽ của mình. Trong khi đó, tranh tụng chỉ xuất hiện trong
hoạt động tố tụng là sự kiện cáo dẫn đến sự tranh luận giữa các bên đối lập tại
tòa án và bản chất của nó chính là các quan hệ pháp luật. Do vậy, tranh tụng
được tính từ khi “khai mạc phiên toà đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị
án”5.
Thứ hai, tranh tụng cũng được nhìn nhận như một hoạt động của TTHS
“tranh tụng là hoạt động tố tụng được thực hiện bởi các bên tham gia tố tụng
(bên buộc tội và bên bị buộc tội) có quyền bình đẳng với nhau trong việc thu
thập, đưa ra chứng cứ để bảo vệ các quan điểm và lợi ích của mình, phản bác
lại các quan điểm và lợi ích của phía đối lập”6. Hoạt động TTHS là hoạt

động tổng hợp của ba chức năng cơ bản: chức năng buộc tội, chức năng bào
chữa và chức năng xét xử. Ba chức năng này không tách rời nhau, quan hệ
gắn bó hữu cơ với nhau. Sự tồn tại của chức năng này tất yếu đòi hỏi sự tồn
tại của các chức năng còn lại. Mỗi chức năng tồn tại và vận động trong chừng
mực tồn tại và vận động của chức năng kia. Cuộc đấu tranh pháp lý giữa các
bên chủ thể có cơ hội ngang nhau trong việc bảo vệ lợi ích của mình trong
quan hệ pháp luật đang có tranh chấp trước chủ thể thứ ba (trọng tài) chính là
yếu tố làm cho hoạt động tố tụng hình sự có tính chất tranh tụng.
4

Nguyễn Đức Mai (2008), “Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nhằm nâng cao chất
lượng tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm”, Tạp chí Luật học, (7), tr.37-45
5
Lê Thúc Anh (2008), “Một số suy nghĩ về tranh tụng tại phiên toà trong cải cách tư pháp”, Tạp chí Toà án
nhân dân, (1), tr.2-4.
6
Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (2006), Từ điển luật học, NXB Tư pháp và NXB Từ điển Bách khoa,
Hà Nội.


10

Thứ ba, tranh tụng còn được nhìn nhận như một quy luật khách quan
của tố tụng nói chung, TTHS nói riêng. Ở góc độ này, tranh tụng được nhìn
nhận như một nguyên tắc cơ bản của TTHS,“tranh tụng được nhìn nhận như
một quá trình tồn tại, vận động, đấu tranh nhằm phủ định lẫn nhau giữa hai
chức năng cơ bản (chức năng buộc tội và chức năng bào chữa) là hai chức
năng có định hướng ngược chiều nhau, đối trọng nhau, có quyền ngang nhau
trong việc bảo vệ ý kiến, lập luận, lợi ích và phản bác ý kiến, lập luận, lợi ích
của phía bên kia mà đỉnh điểm của quá trình này diễn ra tại phiên toà sơ

thẩm trước Toà án có vai trò là trọng tài”7. Khi đã nhận thức được tranh tụng
là một quy luật khách quan thì cần phải tôn trọng và hành xử theo quy luật
khách quan. Trong pháp luật TTHS Liên bang Nga, “tranh tụng giữa các
bên” được ghi nhận rõ tại Điều 15 BLTTHS với tính chất là một nguyên tắc
cơ bản của TTHS Liên bang Nga.
Thứ tư, tranh tụng còn được hiểu là mô hình (kiểu, hệ) tố tụng của các
nước theo hệ thống luật án lệ (Anh - Mỹ). Theo một số học giả Hoa kỳ thì tố
tụng tranh tụng là mô hình tố tụng dựa trên quan điểm là sự thật sẽ được xác
lập thông qua sự tranh luận tự do và cởi mở giữa những người có những dữ
kiện chính xác về vụ án8. Hay tranh tụng là một mô hình tố tụng trong đó có
sự tranh luận bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bị buộc tội để tìm ra sự thật
khách quan của vụ án. Trong quá trình tranh luận bình đẳng này, bên buộc tội
(điều tra, truy tố) có nghĩa vụ phải chứng minh, còn bên bị buộc tội (bị can, bị
cáo và Luật sư của họ) có quyền (chứ không có nghĩa vụ phải) chứng minh
những sự việc xảy ra liên quan đến vụ án9.

7

Nguyễn Trương Tín (2008), “Một số vấn đề về mối quan hệ giữa tranh tụng trong tố tụng hình sự với chức
năng xét xử của Toà án trong bối cảnh cải cách tư pháp”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (10), tr.75-83;
Nguyễn Thái Phúc (2008), “Vấn đề tranh tụng và tăng cường tranh tụng trong TTHS theo yêu cầu cải cách tư
pháp”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (8), tr.58-67
8
Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý (1992), Tập Sắc lệnh do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký về Nhà nước và Pháp
luật, Thông tin khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Hà Nội.
9
Võ Thị Kim Oanh (2006), “Nguyên tắc tranh tụng - Giải pháp nâng cao chất lượng xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự”, Tạp chí Kiểm sát, (17), tr.35-37.



11

Như vậy, khái niệm “tranh tụng” được hiểu theo nhiều khía cạnh khác
nhau: tranh tụng được hiểu là một giai đoạn, một thủ tục của TTHS (ở nghĩa
này, tranh tụng thường bị đồng nhất với tranh luận tại phiên tòa); tranh tụng
được hiểu như một quá trình trong TTHS; một nguyên tắc của TTHS hoặc một
kiểu, mô hình TTHS. Mỗi cách hiểu nêu trên đều tiếp cận vấn đề “tranh tụng”
ở những góc độ khác nhau với mục đích nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên,
trong giới hạn phạm vi nghiên cứu, mục tiêu của luận văn không nhằm đánh
giá, phân tích tranh tụng dưới tất cả các góc nhìn trên mà chỉ tập trung phân
tích tranh tụng dưới góc độ là một nguyên tắc cơ bản của luật TTHS và đưa ra
các biện pháp bảo đảm để nguyên tắc này được thực hiện đầy đủ trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự.
Việc thừa nhận tranh tụng và bảo đảm tranh tụng là một nguyên tắc cơ
bản của luật TTHS là một bước tiến dài trong lịch sử lập pháp của nước ta. Về
khái niệm “nguyên tắc”, Từ điển tiếng Việt có nêu “nguyên tắc là điều cơ bản
định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm” 10. Như vậy, nguyên
tắc được hiểu với nghĩa là tư tưởng chỉ đạo, quy tắc cơ bản của một hoạt động
nào nó. Trong hoạt động tố tụng hình sự, PGS.TSKH Lê Cảm cho rằng những
nguyên tắc được quy định trong BLTTHS là nguyên tắc của luật TTHS và
được định nghĩa như sau: “nguyên tắc của luật TTHS là tư tưởng chủ đạo và
định hướng cơ bản trong pháp luật tố tụng hình sự, cũng như trong việc giải
thích và trong thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự thông qua một hay
nhiều quy phạm (chế định) của nó-của nguyên tắc tương ứng mà ta nghiên
cứu”11. Bên cạnh đó, có nhiều tác giả với các công trình nghiên cứu đưa ra
các khái niệm khác nhau về “nguyên tắc cơ bản của luật TTHS”, tựu chung
lại đều có những đặc điểm sau đây: i) Nguyên tắc cơ bản của luật TTHS là tư
tưởng chủ đạo và là định hướng cơ bản của hoạt động TTHS, thể hiện quan
điểm của Đảng, Nhà nước đối với quá trình giải quyết vụ án; ii) Nguyên tắc
10


Từ điển tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, NXB Đà Nẵng, 1996
Lê Văn Cảm (2004), “Những vấn đề lý luận cơ bản về chế định các nguyên tắc của Luật Tố tụng hình sự”,
Tạp chí Kiểm sát, (5),(6),(7), tr 12, 12, 144.
11


12

cơ bản của luật TTHS được ghi nhận và thể hiện thông qua các quy phạm của
pháp luật tố tụng hình sự; iii) Nguyên tắc cơ bản của luật TTHS chi phối đến
toàn bộ hay một số giai đoạn của hoạt động tố tụng hình sự trong quá tình xây
dựng và áp dụng pháp luật tố tụng hình sự.
Ở đây cần phân biệt các khái niệm nguyên tắc TTHS và nguyên tắc của
luật (hay Bộ Luật) tố tụng hình sự. Nguyên tắc TTHS tồn tại mang tính khách
quan, do hoạt động TTHS mang tính khách quan tồn tại trong tất cả các xã hội
có giai cấp và Nhà nước, nó là đòi hỏi tất yếu của Nhà nước khi trừng trị
người phạm tội. Việc hình thành các nguyên tắc tố tụng hình sự không phải là
ngẫu nhiên, càng không phải là ý chí chủ quan của những nhà làm luật mà
nguyên tắc của tố tụng hình sự, xét cho cùng là sản phẩm phát triển của xã hội
và đồng thời là thành tựu của hoạt động tư pháp trong lĩnh vực tố tụng hình
sự. Theo tác giả Nguyễn Ngọc Chí thì luật TTHS “là một phạm trù chủ quan,
là nhận thức hiện tượng khách quan của nhà làm luật. Nhà làm luật trên cơ
sở nhận thức các quy luật khách quan đó ghi nhận trong các quy phạm pháp
luật và trở thành nguyên tắc của luật tố tụng hình sự. Chính vì vậy mà luật tố
tụng hình sự một quốc gia có nguyên tắc này nhưng nó lại không có trong
luật tố tụng hình sự của một quốc gia khác”12.Các nguyên tắc của luật TTHS
phải được ghi nhận trong các văn bản pháp luật (như Hiến pháp, BLTTHS...)
và mang tính pháp lý. Như vậy, khi các nguyên tắc TTHS được các nhà làm
luật nhận thức và ghi nhận trong các văn bản pháp luật thì khi đó nó trở thành

nguyên tắc của luật tố tung hình sự.
Qua các phân tích ở trên, có thể rút ra khái niệm về “nguyên tắc tranh
tụng” như sau: Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự là những tư tưởng
chủ đạo và định hướng cho hoạt động tố tụng hình sự, tồn tại khách quan và
chi phối toàn bộ quá trình tố tụng (từ khi xuất hiện chức năng buộc tội cho
đến khi có phán quyết có hiệu lực pháp luật của Toà án) nhằm đảm bảo cho
12

Nguyễn Ngọc Chí (2008), “Các nguyên tắc cơ bản trong Luật tố tụng hình sự - Những đề xuất sửa đổi, bổ
sung”, Tạp chí Khoa học Đại học quốc gia Hà nội, Kinh tế - luật (24), tr 242.


13

các chủ thể tham gia tố tụng thực hiện tranh tụng công bằng, dân chủ để gỡ
tội hoặc buộc tội, bình đẳng đưa ra chứng cứ để làm căn cứ cho Tòa án với
vai trò là trọng tài độc lập đưa ra phán quyết.
Nguyên tắc tranh tụng cũng có những đặc điểm chung với các nguyên
tắc cơ bản khác trong TTHS, tuy nhiên, nguyên tắc tranh tụng cũng có những
điểm đặc thù so với các nguyên tắc cơ bản khác trong TTHS, được thể hiện
như sau:
Một là, nguyên tắc tranh tụng xác định rõ chức năng buộc tội và chức
năng gỡ tội. Theo đó, các bên gỡ tội và buộc tội có tính chất đối kháng, phủ
định nhau.
Hai là, nguyên tắc tranh tụng có sự phân định rành mạch giữa các loại
chủ thể và các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự: chức năng buộc tội,
chức năng gỡ tội, chức năng trọng tài (xét xử) và tương ứng với nói là sự hiện
diện của ba chủ thể: bên buộc tội (công tố), bên gỡ tội (người bào chữa) và
Toà án (Thẩm phán, HĐXX).
Ba là, nguyên tắc tranh tụng đòi hỏi các bên buộc tội và bên gỡ tội bình

đẳng trong quá trình tố tụng. Bên buộc tội và bên gỡ tội có quyền bình đẳng
trong việc đưa ra các chứng cứ, yêu cầu, tranh luận, đối đáp với nhau để
chứng minh quan điểm của mình là đúng và phản bác quan điểm của phía bên
kia, còn Toà án đóng vai trò của người trọng tài; trên cơ sở kết quả tranh luận,
Toà án ra phán quyết về vụ án13. Đây là yêu cầu có tính bắt buộc. Sự bình
đẳng không có nghĩa là bình đẳng về địa vị pháp lý mà là sự bình đẳng trong
việc thừa nhận quyền của các bên trong việc đưa ra chứng cứ, yêu cầu, tranh
luận, đối đáp...
Bốn là, nguyên tắc tranh tụng đòi hỏi các bên buộc tội và gỡ tội phải
tích cực và chủ động thu thập chứng cứ nhằm mục đích chứng minh cho quan
điểm, lập luận của mình một cách thuyết phục nhất trước Toà án. Toà án
13

Nguyễn Văn Trượng (2008), “Bàn về việc bảo đảm quyền bình đẳng của Luật sư bào chữa khi tham gia
tranh tụng tại phiên toà hình sự”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (5), tr.45-49


14

không có nghĩa vụ chứng minh tội phạm, người phạm tội hoặc chứng minh bị
cáo vô tội.
Năm là, nguyên tắc tranh tụng đòi hỏi các bên buộc tội và gỡ tội phải
được kiểm tra chéo chứng cứ của nhau. Do các bên buộc tội và bị buộc tội
phải tự tìm, thu thập tài liệu, chứng cứ và trình bày trước phiên toà. Do vậy
việc kiểm tra chéo chứng cứ là cần thiết.
“Bảo đảm” được hiểu là “tạo điều kiện để chắc chắn giữ gìn được,
hoặc thực hiện được, hoặc có được những gì cần thiết”14. Như vậy, “bảo đảm
nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự” được hiểu là tạo điều
kiện cần và đủ để thực hiện được nguyên tắc tranh tụng đầy đủ, triệt để trong
xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án,

đảm bảo quyền và lợi ích của của các bên tham gia tranh tụng.
Việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự có
các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, các chủ thể tham gia tranh tụng đều có quyền xác định sự
thật vụ án theo quy định của pháp luật. Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong
phiên tòa xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự không chỉ đòi hỏi bên buộc tội là
Viện kiểm sát, bị hại mà còn đòi hỏi bên gỡ tội người bào chữa, bị cáo và
những người tham gia tố tụng khác cũng phải áp dụng mọi biện pháp hợp
pháp để xác định sự thật của vụ án.
Thứ hai, các bên tham gia tố tụng (buộc tội và gỡ tội) đều có quyền
bình đẳng để đưa ra chứng cứ chứng minh cho luận điểm của mình.
Thứ ba, Tòa án chỉ đóng vai trò trọng tài, độc lập và khách quan, chỉ
căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa để đưa ra phán quyết.
Từ sự phân tích trên có thể đưa ra khái niệm bảo đảm nguyên tắc tranh
tụng trong xét xử các vụ án hình sự như sau:
Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ án hình sự là việc
cơ quan, người có thẩm quyền trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình
14

Từ điển tiếng việt, />

15

tạo điều kiện cần và đủ cho các chủ thể buộc tội, gỡ tội thực hiện tranh tụng
công bằng, dân chủ,bình đẳng trong việc đưa ra quan điểm, chứng cứ và
tranh luận để làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án làm căn cứ cho Tòa
án với vai trò là trọng tài độc lập đưa ra phán quyết theo quy định của pháp
luật.
1.2. Các yếu tố bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các vụ
án hình sự

Tranh tụng là một nguyên tắc quan trọng trong tố tụng nói chung và
trong xét xử nói riêng, để việc tranh tụng được thực hiện và thực hiện có hiệu
quả thì cần phải có các yếu tố bảo đảm, đó là:
Thứ nhất, yếu tố về pháp lý. Những bảo đảm về mặt pháp lý được thể
hiện trên các phương diện như: các quy định đầy đủ, hợp lý, khả thi về địa vị
tố tụng của các bên tham gia tố tụng tại phiên tòa để họ có đầy đủ điều kiện,
khả năng thực hiện các nội dung tranh tụng theo chức năng, nhiệm vụ hoặc lợi
ích của mình: được chủ động thu thập chứng cứ, được xét hỏi những người
tham gia tố tụng, đặc biệt là người làm chứng trong giai đoạn điều tra, được
yêu cầu cung cấp tài liệu. Bên cạnh đó, quy định thủ tục tố tụng bình đẳng,
nhất là tại phiên tòa; đảm bảo để các bên tham gia tố tụng được xét hỏi, tranh
luận một cách khách quan, công bằng và bình đẳng; mở rộng phạm vi các vụ
án hình sự có sự tham gia bắt buộc của luật sư. Tư tưởng bình đẳng này
không chỉ thể hiện ở tại phiên toà mà còn phải được đảm bảo ở mọi giai đoạn
tố tụng. Chúng tôi cho rằng nếu bên buộc tội và bên bào chữa không thực sự
bình đẳng và Toà án không độc lập trong quá trình xét xử thì sẽ không có
tranh tụng hoặc tranh tụng hình thức, nửa vời. Ngoài ra, cần quy định quyền
khiếu nại, kháng cáo bản án, quyết định của các bên và hiệu lực như nhau của
các khiếu nại đó.
Thứ hai, yếu tố về tổ chức bao gồm các vấn đề như: phân định rõ chức
năng của Cơ quan điều tra, công tố và Toà án, tạo điều kiện phát triển các tổ
chức bổ trợ với chức năng hợp lý phù hợp với cơ chế tranh tụng (luật sư, giám


16

định, trợ giúp pháp lý…). Các vấn đề như quan hệ giữa Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát trong TTHS, Viện kiểm sát có chức năng kiểm sát tư pháp hay
không, có cho phép thành lập các tổ chức thám tử tư để giúp người tham gia
tố tụng thu thập chứng cứ trong giai đoạn điều tra hay không, tăng cường các

tổ chức luật sư, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý… việc mở rộng phạm vi
bào chữa để đảm bảo các phiên toà có sự tham gia của người bào chữa ngày
càng nhiều; nâng cao văn hoá pháp lý trong tố tụng nói chung và tại phiên toà
nói riêng… là những vấn đề cần được quan tâm nghiên cứu thoả đáng.
Thứ ba, yếu tố con người thể hiện ở các mặt sau đây: Việc nâng cao
trình độ, nhận thức của các bên tham gia tố tụng, đảm bảo cho họ có đủ năng
lực về chuyên môn, về phong cách, về khả năng diễn đạt để thực hiện tốt việc
tranh tụng tại phiên toà cũng là những vấn đề đáng quan tâm. Trong những
trường hợp người tham gia tranh tụng không có khả năng đó thì nhất thiết
phải được sự trợ giúp của luật sư, mở rộng đối tượng được trợ giúp pháp lý
bắt buộc….Nhận thức, năng lực, sự độc lập và chế độ trách nhiệm cá nhân
của các chức danh tư pháp là điều kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để thực
hiện tranh tụng. Việc đào tạo các kỹ năng nghiệp vụ theo yêu cầu tranh tụng,
đặc biệt là hướng đào tạo nguồn để có thể luân chuyển giữa các chức danh
Kiểm sát viên, Thẩm phán, Luật sư sẽ tạo cho họ khả năng tranh tụng có hiệu
quả dù họ ở vị trí buộc tội, gỡ tội hay trọng tài để ra phán quyết.
Thứ tư, yếu tố cơ sở vật chất cho quá trình tranh tụng cũng là vấn đề cần
quan tâm đúng mức, như: vị trí của các bên tại phiên toà thế nào để đảm bảo
không khí tố tụng bình đẳng, khách quan; tạo điều kiện cho các bên dễ dàng tiếp
xúc trong quá trình tố tụng; hệ thống âm thanh, hình ảnh thuận tiện cho việc theo
dõi phiên tòa, thực hiện các biện pháp tố tụng đặc biệt như ghi âm, ghi hình,
phục dựng hiện trường bằng hình ảnh đồ họa…
1.3. Vai trò, ý nghĩa của việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong
xét xử các vụ án hình sự


17

1.3.1. Vai trò của việc đảm bảo nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các
vụ án hình sự

Trong tố tụng bao giờ cũng có sự tham gia của các bên có quyền và (hoặc)
lợi ích trái ngược nhau yêu cầu Tòa án phân xử. Để có cơ sở cho Tòa án có thể
phân xử, pháp luật quy định cho các bên tham gia tố tụng quyền khởi kiện vụ
việc ra trước tòa án, chứng minh và tranh luận để bảo vệ yêu cầu của mình. Như
vậy, tranh tụng bao giờ cũng gắn với hoạt động tài phán của Tòa án. Tranh tụng
là một yêu cầu khách quan, là điều kiện cần thiết để Tòa án thực hiện chức năng
xét xử của mình một cách tốt nhất.
Trong toàn bộ quá trình tố tụng, xét xử đóng vai trò trung tâm, thể hiện
đầy đủ nhất bản chất của hệ thống tư pháp của mỗi nhà nước, là giai đoạn quyết
định đúng đắn, khách quan của việc giải quyết vụ án, bảo vệ lợi ích nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Giai đoạn xét xử là giai đoạn
có vai trò đặc biệt quan trọng và mang tính quyết định trong giải quyết vụ án,
thực hiện các nhiệm vụ, mục đích tố tụng đặt ra. Bản án, quyết định của Tòa án
về nguyên tắc phải là chân lý. Điều này chỉ có thể xảy ra khi những nội dung của
bản án phù hợp với thực tại khách quan của vụ án. Do đó, bảo đảm nguyên tắc
tranh tụng trong xét xử đóng vai trò cốt yếu để tìm ra sự thật khách quan của vụ
án. Vai trò đó được thể hiện qua các khía cạnh sau:
Thứ nhất, tại các phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự có sự tham gia
đầy đủ nhất của tất cả các chủ thể của hai bên (buộc tội, bào chữa) và các chủ thể
khác tham gia vào quá trình tố tụng. Như vậy, chỉ có tại phiên tòa, các chức năng
tố tụng cơ bản: buộc tội, gỡ tội, tài phán được phân định rõ ràng giữa bên buộc
tội, bên gỡ tội, tòa án và cũng chỉ tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, vai
trò của bên buộc tội, bên bào chữa được xác định là các bên có quyền bình đẳng
với nhau trong việc sử dụng các phương tiện mà pháp luật cho phép để thực hiện
chức năng tranh tụng. Có thể thấy rằng ở giai đoạn xét xử, nguyên tắc tranh tụng
được thể hiện một cách đầy đủ và toàn diện nhất.


18


Thứ hai, về bản chất, tranh tụng là một quá trình tranh luận giữa các bên
về lập luận nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án. Tranh tụng chỉ được coi
là bắt đầu khi có sự xuất hiện chức năng buộc tội và tương ứng với nó là chức
năng gỡ tội. Việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng thực sự mở ra một cơ hội để
cho các bên (buộc tội và gỡ tội) có một vị thế ngang nhau để tìm hiểu sự thật
khách quan của vụ án và bảo vệ luận điểm của mình trước Tòa. Tòa án chỉ ra
phán quyết theo những chứng cứ và lý lẽ được coi là hợp pháp và bác bỏ những
chứng cứ chưa đúng và bất hợp lý.
Thứ ba, kết quả tranh tụng tại phiên tòa là cơ sở để Tòa án đưa ra các phán
quyết về tội phạm và người phạm tội. Do đó, việc bảo đảm nguyên tắc tranh
tụng trong xét xử có thể hạn chế mức thấp nhất các trường hợp kết án oan, sai.
1.3.2. Ý nghĩa của việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử các
vụ án hình sự
Tranh tụng không chỉ là công cụ tìm ra chân lý mà theo Hiến pháp năm
2013, tranh tụng còn có ý nghĩa là công cụ bảo vệ quyền con người, quyền công
dân trong nhà nước pháp quyền, là cách thức để nâng cao nhận thức, tạo ra môi
trường dân chủ, bình đẳng trong các quan hệ tố tụng. Chính vì lẽ đó, nguyên tắc
tranh tụng trong xét xử được ghi nhận trong Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam và được cụ thể hóa trong Luật Tổ chức TAND năm 2014 và BLTTHS
năm 2015. Do vậy, việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử có ý nghĩa
cả về mặt chính trị-xã hội và mặt pháp lý.
Ý nghĩa về mặt chính trị - xã hội: nguyên tắc tranh tụng là một giá trị tiêu
biểu của nền dân chủ thực sự. Điều này đã được chứng minh qua quá trình hình
thành và phát triển của tố tụng hình sự thế giới. Trong thời đại ngày nay, dân chủ
được coi là một trong những giá trị lớn nhất của nền văn minh nhân loại,
không có dân chủ sẽ không có bình đẳng, không có tiến bộ và không có văn
minh. Do vậy, các quyền và lợi ích của mỗi các nhân, từng chủ thể trong xã
hội càng cần phải có những bảo vệ ngày một tốt hơn về mặt pháp lý và về mặt



×