Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự và thực tiễn áp dụng tại tòa án nhân dân thành phố thái bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (18.65 MB, 101 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN THỊ TUYẾT TRINH

CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH

Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số

:

8380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hƣớng ứng dụng)

Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Văn Trung

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công


trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn
này.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


LỜI CẢM ƠN

Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới các thầy cô giáo tại
Đại học Luật Hà Nội, những người đã nhiệt tình giảng dạy, giúp tôi có những
kiến thức quý báu và bổ ích về chuyên ngành Luật Dân sự và Tố tụng dân sự.
Bên cạnh đó, tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường Đại học Luật
Hà Nội, Khoa Đào tạo Sau Đại học đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp tôi
hoàn thành chương trình học và đề tài nghiên cứu.
Đặc biệt, với lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn TS. Trần
Văn Trung – người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, động viên tôi hoàn thành
Luận văn này.
Bên cạnh đó, tôi xin gửi lời cảm ơn tới TAND thành phố Thái Bình,
TAND tỉnh Thái Bình đã cung cấp cho tôi những số liệu, bản án liên quan tới
đề tài Luận văn, các cán bộ thư viện đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành Luận
văn này và tôi xin cảm ơn gia đình và bạn bè, những người đã động viên, giúp
đỡ tôi trong quá trình làm Luận văn.
Mặc dù tôi đã cố gắng để thực hiện đề tài Luận văn một cách hoàn thiện
nhất, song do chưa có nhiều kinh nghiệm trong công tác nghiên cứu khoa học
cũng như còn nhiều hạn chế về kiến thức nên không thể tránh được những
thiếu sót nhất định mà bản thân chưa thấy được. Tôi rất mong được sự góp ý
của quý thầy, cô để Luận văn hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 09/2018

Tác giả


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật Dân sự

BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng Dân sự

CBXXSTVADS

: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự

CBXXST

: Chuẩn bị xét xử sơ thẩm

TAND

: Tòa án nhân dân

UBND

: Ủy ban nhân dân

VKSND


: Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU

Bảng 1

: Số liệu giải quyết án dân sự sơ thẩm của TAND thành phố
Thái Bình từ năm 2013 – 2017

Biểu đồ 1

: Số liệu giải quyết án dân sự sơ thẩm của TAND thành phố
Thái Bình từ năm 2013 – 2017


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Danh mục từ viết tắt
Danh mục các bảng, biểu
Mục lục
PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………………...

01

1. Lý do chọn đề tài……………………………………………….


01

2. Tình hình nghiên cứu đề tài…………………………………….

02

3. Mục đích, đối tượng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu..

03

4. Phương pháp nghiên cứu đề tài………………………………...

04

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài……………………….

04

6. Bố cục của luận văn…………………………………………….

05

Chƣơng 1: KHÁI NIỆM VỀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM
VỤ ÁN DÂN SỰ VÀ CÁC QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH……………………………………….

06

1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của chuẩn bị xét xử sơ thẩm
vụ án dân sự…………………………………………………………


06

1.1.1. Khái niệm chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự………...

06

1.1.2. Đặc điểm của chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự…….

08

1.1.3. Ý nghĩa của chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự………

10

1.2. Các quy định của pháp luật hiện hành về chuẩn bị xét xử
sơ thẩm vụ án dân sự………………………………………………..

12

1.2.1. Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự………….

12

1.2.2. Những công việc tiến hành trong thời gian chuẩn bị xét xử
sơ thẩm………………………………………………………......…..

18



KẾT LUẬN CHƢƠNG 1………………………………………….

41

Chƣơng 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ
CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN
NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH VÀ MỘT SỐ KIẾN
NGHỊ HOÀN THIỆN……………………………………..............

43

2.1. Thực tiễn áp dụng các quy định về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ
án dân sự tại TAND thành phố Thái Bình……………………….....

43

2.1.1. Thực tiễn việc áp dụng quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử
sơ thẩm vụ án dân sự……………………………………………......

47

2.1.2. Những công việc tiến hành trong thời gian chuẩn bị xét xử
sơ thẩm tại TAND thành phố Thái Bình.………………………........

48

2.2. Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại…………………….

61


2.3. Kiến nghị hoàn thiện ………………………………………...

66

2.3.1. Kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về chuẩn bị
xét xử sơ thẩm vụ án dân sự………………………………...............

66

2.3.2. Về thực hiện pháp luật……………………………………

74

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2………………………………………….

76

KẾT LUẬN………………………………………………………...

78


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khoản 1 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Ở nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về
chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo
vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Cùng với các quyền con

người, quyền công dân khác, quyền dân sự được pháp luật ghi nhận và
đảm bảo thực hiện là một chế định có ý nghĩa rất quan trọng. Để bảo vệ
cho các quyền dân sự, Nhà nước quy định bằng nhiều cách thức khác
nhau. Nhưng đặc biệt hơn, Nhà nước còn giao việc bảo vệ quyền dân sự
cho Tòa án.
Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Tòa án cũng là cơ quan tiến hành tố tụng dân sự chủ yếu trong tố
tụng dân sự. Khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“ Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.
Tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, quyền xét xử.
Tòa án bảo vệ quyền dân sự của cá nhân, tổ chức thông qua các hoạt động
tố tụng dân sự của mình. Theo sự phát triển của xã hội, pháp luật ngày
càng được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện để nâng cao việc thực hiện các
hoạt động tố tụng của Tòa án. Bên cạnh đó, vẫn có nhiều quy định còn
hạn chế, vướng mắc khi thực hiện trong thực tế, dẫn đến việc bảo vệ
quyền và lợi ích của đương sự chưa thật sự được đảm bảo, trong đó có
quy định về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự. Chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án dân sự có ý nghĩa rất quan trọng, không chỉ giúp Tòa án đảm
bảo cho việc xét xử được chính xác, khách quan, đúng pháp luật mà còn
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự, bởi vậy việc nghiên cứu
quy định về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự trên cơ sở các quy định
của pháp luật và thực hiện pháp luật trên thực tiễn là hết sức cần thiết. Dù


2

nghiên cứu dưới góc độ nào thì chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự vẫn
còn tồn tại một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu cả trong việc điều chỉnh

pháp luật và áp dụng pháp luật. Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, tác giả
chọn đề tài luận văn thạc sỹ là: “Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Do tính cấp thiết của đề tài cả về khoa học và thực tiễn nên chuẩn bị
xét xử sơ thẩm vụ án dân sự cũng đã được thể hiện ở một số công trình
nghiên cứu như sau:
-“Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự”, Nguyễn Triều Dương, Tạp chí
Luật học, năm 2005;
- “Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự”, Bùi Thị Thu Hiền, Luận
văn Thạc sỹ Luật học, năm 2014;
- “Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự”, Nông Thị Biển, Luận
văn Thạc sỹ Luật học, năm 2017;
- “Quy định về hòa giải vụ án dân sự trong Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015 và những nội dung cần làm rõ”, Bùi Thị Huyền, Tạp chí Luật
học, 2015;
- “Bàn về phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng
cứ và hòa giải vụ án dân sự”, Đặng Thị Thanh Hoa, Tạp chí Tòa án nhân
dân, 2017;…
Ngoài ra còn rất nhiều ấn phẩm sách, tạp chí, báo cáo... đề cập tới
vấn đề trên. Các công trình nghiên cứu đó đã góp phần cung cấp những
kiến thức pháp lí, thông tin về thực tiễn liên quan đến chuẩn bị xét xử sơ
thẩm, mang cho chúng ta một cái nhìn tổng quan về một giai đoạn trong
tố tụng dân sự tại Tòa án, chỉ ra những ưu điểm của quy định pháp luật ở
từng thời kỳ, bên cạnh đó còn nêu những điểm cần làm rõ khi quy định
pháp luật hiện tại chưa đáp ứng được thực tế. Theo sự phát triển của xã
hội, quy định của pháp luật ngày càng được bổ sung hoàn thiện, chính vì
vậy, việc tiếp tục nghiên cứu về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự là



3

cần thiết và đúng đắn. Ở luận văn này, ngoài việc nêu các quy định của
pháp luật về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự, tác giả còn nêu thực
tiễn việc thực hiện các quy định về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình nên có nhiều điểm mà các luận
văn về đề tài này phân tích theo hướng nghiên cứu chưa đề cập đến.
3. Mục đích, đối tƣợng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu
Mục đích mà luận văn này hướng tới chính là việc làm rõ các quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ
án dân sự, đồng thời nêu một số vấn đề trong thực tiễn liên quan đến
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân thành phố Thái
Bình và kiến nghị hoàn thiện quy định về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
dân sự trong luật tố tụng dân sự Việt Nam.
Đối tượng nghiên cứu được xác định là các quan điểm khoa học
pháp lí về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự, các quy định pháp luật
về chuẩn bị xét xử sơ thẩm của Việt Nam và một số quốc gia khác, các
thông tin, tư liệu thực tế và một số bản án của Tòa án nhân dân thành phố
Thái Bình liên quan đến vấn đề này, cụ thể:
- Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về chuẩn bị xét xử sơ
thẩm bao gồm: Định nghĩa, đặc điểm, ý nghĩa của chuẩn bị xét xử sơ thẩm
vụ án dân sự;
- Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành về chuẩn
bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự, so sánh quy định của pháp luật hiện hành
với các quy định pháp luật theo các thời kỳ và với các quy định về chuẩn
bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự của một số nước trên thế giới, qua đó thấy
được điểm tiến bộ, hạn chế của pháp luật Việt Nam hiện hành;
- Thực tiễn thực hiện quy định về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân
sự tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, qua đó rút ra được những ưu
điểm, hạn chế của pháp luật khi ứng dụng vào thực tiễn;

- Đề xuất phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật tố tụng dân
sự về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự.


4

Trong phạm vi luận văn này, đề tài được nghiên cứu dưới góc độ
các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, các văn bản pháp luật có liên
quan và việc thực hiện các quy định này tại Tòa án nhân dân thành phố
Thái Bình.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Các phương pháp được sử dụng để nghiên cứu đề tài bao gồm:
Phương pháp hệ thống, phương pháp lịch sử, phân tích, chứng minh, kết
hợp với phương pháp so sánh, tổng hợp, liệt kê,...
- Phương pháp phân tích: Xem xét chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
dân sự qua từng vấn đề, khía cạnh nhỏ để hiểu được bản chất của các quy
định;
- Phương pháp lịch sử: Qua quy định pháp luật về chuẩn bị xét xử
sơ thẩm vụ án dân sự qua từng giai đoạn để thấy được sự kế thừa và phát
triển của pháp luật;
- Phương pháp so sánh: Qua việc so sánh quy định pháp luật về
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự giữa Việt Nam và một số quốc gia
trên thế giới, giữa quy định pháp luật về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
dân sự hiện hành và quy định của các thời kỳ trước để thấy được những
điểm cần học tập, phát triển hoặc cần sửa đổi bổ sung cho phù hợp.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Khi nghiên cứu đề tài này, tác giả rất mong muốn luận văn sẽ trở
thành một trong những tài liệu cung cấp cho người đọc những thông tin về
các vấn đề pháp lí và thực tiễn áp dụng quy định về chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án dân sự; qua đó người đọc sẽ có một cái nhìn tổng quát về một

giai đoạn của tố tụng dân sự, hiểu rõ hơn về trình tự thủ tục tố tụng tại
Tòa án và nắm bắt được những ưu điểm, hạn chế của quy định pháp luật
về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự trong Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015. Bên cạnh đó, qua thực tiễn việc thực hiện các quy định về chuẩn bị
xét xử sơ thẩm vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình
chúng ta sẽ rút ra được những kinh nghiệm trong việc áp dụng các quy


5

định pháp luật vào thực tế, qua đó có phương hướng điều chỉnh, bổ sung
quy định pháp luật để đảm bảo được tối đa quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn bao gồm 02
chương:
Chương 1: Khái niệm về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự và
các quy định của pháp luật hiện hành.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng các quy định về chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình và một số
kiến nghị hoàn thiện.


6

Chƣơng 1
KHÁI NIỆM VỀ CHUẨN BỊ XÉT XỬ SƠ THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ
VÀ CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của chuẩn bị xét xử sơ thẩm
vụ án dân sự

1.1.1. Khái niệm chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
Chuẩn bị xét xử là một giai đoạn trong sơ thẩm vụ án dân sự. Bộ
luật tố tụng dân sự (BLTTDS) không đưa ra một khái niệm cụ thể về
chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự (CBXXSTVADS).
Theo Đại từ điển Tiếng Việt thì “chuẩn bị” là: “Tạo ra cho có sẵn
những cái, những việc cần để làm một việc nào đó”1.
Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng định nghĩa: “Xét xử là hoạt
động do Tòa án tiến hành theo pháp luật tố tụng, trong đó Tòa án sau khi
nghiên cứu một cách khách quan toàn diện và đầy đủ các tình tiết của vụ
án, tiến hành giải quyết và xử lý vụ án bằng việc ra bản án và các quyết
định cần thiết có liên quan”2.
Từ điển luật học định nghĩa: “Xét xử sơ thẩm là một từ hán việt, có
nghĩa là lần đầu tiên đưa vụ án ra xét xử tại một tòa án có thẩm quyền”3.
Theo pháp luật tố tụng dân sự hiện hành, việc xét xử vụ án dân sự
được tiến hành qua hai cấp là cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm, ngoài ra còn
có thủ tục đặc biệt là giám đốc thẩm, tái thẩm. Tuy nhiên, trong thực tế
xét xử, có nhiều vụ án có tình tiết phức tạp, vụ án kéo dài nhiều năm, trải
qua nhiều cấp xét xử, khi bản án sơ thẩm bị hủy thì hồ sơ vụ án lại được
chuyển lại cho Tòa cấp sơ thẩm xem xét lại theo quy định của pháp luật.
Bởi vậy, ở đây, ta không thể xem xét xét xử sơ thẩm là “lần đầu tiên đưa
vụ án ra xét xử tại một Tòa án có thẩm quyền”, mà ta sẽ xác định là “đưa
1

Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb. Văn hóa – Thông tin, Hà Nội,
tr.397.
2
Nguyễn Duy Lãm (chủ biên) (1996), Sổ tay thuật ngữ pháp lý thông dụng, Nxb. Giáo dục, Hà
Nội, tr.418.
3
Bộ Tư Pháp – Viện Khoa học Pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa – Nxb.

Tư pháp, Hà Nội, tr.870.


7

vụ án ra xét xử tại cấp sơ thẩm”, tức là đưa vụ án ra xét xử tại cấp xét xử
thứ nhất.
Từ điển luật học, Bộ Tư Pháp – Viện Khoa học Pháp lý khái quát:
Vụ án: Một vụ việc có dấu hiệu trái pháp luật mang tính chất
hình sự hoặc tranh chấp giữa các chủ thể pháp luật được đưa
ra tòa án hoặc cơ quan trọng tài giải quyết. Vụ việc thuộc
thẩm quyền giải quyết của cơ quan tư pháp hoặc trọng tài.
Theo luật tổ chức tòa án nhân dân, tòa án xét xử những vụ án
hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh doanh,
thương mại, hành chính và giải quyết những việc khác theo
quy định của pháp luật4.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, thì “chuẩn bị xét xử sơ
thẩm” là “Hoạt động do Tòa án tiến hành sau khi thụ lý vụ án dân sự để
đưa vụ án ra xét xử tại phiên tòa sơ thẩm”5.
Từ đó, tác giả đưa ra định nghĩa: “Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án
dân sự là những hoạt động tố tụng do Tòa án tiến hành từ khi thụ lý vụ án
đến khi ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử nhằm tạo ra những điều
kiện cần thiết cho việc xét xử tại cấp xét xử thứ nhất của Tòa án”.
Điều 102 Hiến pháp năm 2013, Điều 2 Luật tổ chức Tòa án nhân
dân (TAND) năm 2014, Điều 1 BLTTDS năm 2015 quy định: Tòa án có
thẩm quyền giải quyết các vụ án dân sự bao gồm các tranh chấp về dân
sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại và lao động. Điều 26, 28,
30, 32 BLTTDS năm 2015 đã liệt kê các tranh chấp về dân sự, hôn nhân
gia đình, kinh doanh thương mại và lao động thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án.

CBXXST nói chung và CBXXSTVADS nói riêng thường được
nghiên cứu dưới 2 góc độ: thứ nhất, là một giai đoạn của tố tụng dân sự
4

Bộ Tư Pháp – Viện Khoa học Pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa – Nxb.
Tư pháp, Hà Nội, tr.860.
5
Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, Nxb. Công an nhân
dân, Hà Nội, tr.183.


8

bao gồm tất cả các hoạt động từ sau khi thụ lý đến khi đưa vụ án ra xét xử
(như phân công Thẩm phán giải quyết vụ án, lập hồ sơ, thụ lý vụ án, hòa
giải, ban hành các quyết định công nhận thỏa thuận, tạm đình chỉ, đình chỉ
giải quyết hay quyết định đưa vụ án ra xét xử) và thứ hai, là các hoạt
động chuẩn bị cho xét xử sơ thẩm, theo đó những người tiến hành tố tụng
và tham gia tố tụng tiến hành các hoạt động cụ thể để chuẩn bị cho việc
xét xử sơ thẩm. Ở Việt Nam, CBXXSTVADS thường chỉ được nghiên
cứu dưới góc độ thứ hai do ảnh hưởng nhiều của luật thực định. Ở luận
văn này, tác giả nghiên cứu CBXXSTVADS dưới góc độ là các hoạt động
chuẩn bị cho xét xử sơ thẩm, cụ thể là những hoạt động tố tụng sau: phân
công Thẩm phán; thông báo về việc thụ lý vụ án; lập hồ sơ vụ án; nghiên
cứu hồ sơ vụ án; phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai
chứng cứ và hòa giải; ban hành các quyết định công nhận sự thỏa thuận
của các đương sự, quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết
định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự hoặc quyết định đưa vụ án ra xét xử
sơ thẩm.
1.1.2. Đặc điểm của chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự

- Thứ nhất, chuẩn bị xét xử vụ án dân sự được bắt đầu từ sau khi
Tòa án thụ lý vụ án cho đến khi Thẩm phán ban hành Quyết định đưa vụ
án ra xét xử
Tác giả Bùi Thị Huyền đã viết: “Chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân
sự là giai đoạn tố tụng được thực hiện sau khi Tòa án thụ lý vụ án […]”6.
Khi thụ lý vụ án, Tòa án đã xác định trách nhiệm của mình trong việc giải
quyết vụ án dân sự. Khi vào sổ thụ lý, Tòa án phải thực hiện các hoạt
động tố tụng để CBXXSTVADS. Thời điểm thụ lý vụ án cũng là thời
điểm pháp lý để tính thời hạn việc CBXXST của Tòa án. Nếu hết thời hạn
chuẩn bị xét xử mà Thẩm phán giải quyết vụ án chưa ban hành được các
quyết định theo quy định của pháp luật, thì vụ án này sẽ được tính là quá
Nguyễn Công Bình chủ nhiệm đề tài (2002), Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện một số
chế định cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Hà
Nội, tr.109.
6


9

hạn, Thẩm phán sẽ phải chịu trách nhiệm giải trình lý do quá hạn. Sau khi
thụ lý vụ án, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án sẽ ban hành
Thông báo thụ lý vụ án gửi cho các đương sự trong vụ án. Khi các đương
sự trong vụ án được thông báo về việc thụ lý vụ án thì quyền, nghĩa vụ
của họ trong việc cung cấp tài liệu, chứng cứ cũng phát sinh. Bên cạnh đó,
sau khi thụ lý vụ án, Thẩm phán sẽ tiến hành một loạt các hoạt động tố
tụng như: lập hồ sơ vụ án, triệu tập đương sự, thu thập, xác minh chứng
cứ, tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng
cứ và hòa giải,… Khi xác định hồ sơ vụ án đã đầy đủ thì Thẩm phán sẽ
ban hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử, đây là căn cứ chấm dứt hoạt
động chuẩn bị xét xử sơ thẩm.

- Thứ hai, CBXXSTVADS là điều kiện cần để đưa vụ án ra xét xử
CBXXSTVADS là những hoạt động tố tụng được thực hiện để đưa
vụ án ra xét xử, bởi vậy Thẩm phán phải thực hiện những hoạt động cần
thiết cho việc giải quyết vụ án như: lập và nghiên cứu hồ sơ, thu thập, xác
minh chứng cứ, tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công
khai chứng cứ và hòa giải,…để đảm bảo khi xét xử, Hội đồng xét xử cấp
sơ thẩm sẽ phán quyết công bằng, chính xác, đảm bảo quyền, lợi ích hợp
pháp của các bên đương sự.
- Thứ ba, CBXXSTVADS có mối liên hệ chặt chẽ với các giai đoạn
tố tụng khác
Sơ thẩm là cấp xét xử đầu tiên của Tòa án. CBXXSTVADS là việc
tiến hành các công việc cần thiết nhằm tạo ra những điều kiện cần thiết
cho việc xét xử của Tòa án tại cấp sơ thẩm. Như vậy, việc CBXXST có
ảnh hưởng rất lớn đến việc xét xử sơ thẩm và các cấp xét xử sau này.
CBXXST có tốt thì việc xem xét, đánh giá các tài liệu chứng cứ trong hồ
sơ vụ án của Hội đồng xét xử sẽ chính xác, đảm bảo được quyền, lợi ích
hợp pháp của đương sự. Hơn thế nữa, khi bản án, quyết định sơ thẩm bị
kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử phúc thẩm cũng phải căn cứ vào
các tài liệu, chứng cứ đã được cấp sơ thẩm thu thập để đánh giá kháng


10

cáo, kháng nghị. Đối với thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, các hoạt động
CBXXST cũng có mối liên hệ chặt chẽ để xem xét đánh giá căn cứ của
việc khiếu nại, kháng nghị giám đốc thẩm.
- Thứ tư, hòa giải là hoạt động tố tụng bắt buộc trong giai đoạn
CBXXSTVADS
Hòa giải là hoạt động tố tụng do Tòa án tiến hành nhằm giúp các
đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án dân sự. Trong

CBXXSTVADS, Tòa án phải tiến hành hòa giải, trừ những vụ án không
tiến hành hòa giải được và những vụ án không được hòa giải. Quá trình
giải quyết vụ án dân sự, quyền tự thỏa thuận của đương sự được đề cao
nhưng riêng trong CBXXSTVADS thì Tòa án phải tiến hành hòa giải, đối
với những hoạt động khác thì hòa giải không phải là hoạt động tố tụng bắt
buộc phải tiến hành. Việc hòa giải trong CBXXST có ý nghĩa rất quan
trọng, giúp rút ngắn quá trình tố tụng, giảm thiểu chi phí tố tụng. Khi hòa
giải, Tòa án sẽ đóng vai trò là người hướng dẫn, phân tích pháp luật, giúp
các đương sự tìm được tiếng nói chung trong việc giải quyết tranh chấp.
Hòa giải trong CBXXSTVADS cũng là hoạt động tố tụng để phân
biệt với giai đoạn phúc thẩm, bởi hiện nay pháp luật chưa có quy định cụ
thể đối với việc hòa giải trong giai đoạn phúc thẩm. Khi CBXXSTVADS
nếu các đương sự hòa giải được thì Tòa án sẽ ban hành Quyết định công
nhận sự thỏa thuận của các đương sự, còn trong giai đoạn phúc thẩm, Tòa
án sẽ chỉ ghi nhận sự thỏa thuận của các đương sự trong bản án mà không
ban hành Quyết định trên.
1.1.3. Ý nghĩa của chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
- Thứ nhất, CBXXSTVADS đảm bảo tối đa cho việc bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của đương sự
Bảo đảm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
được ghi nhận là một trong những nguyên tắc cơ bản của pháp luật tố tụng
dân sự (Điều 9 BLTTDS năm 2015). Bên cạnh việc pháp luật quy định
đương sự có quyền tự mình hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích


11

hợp pháp của mình, pháp luật còn quy định trách nhiệm của Tòa án trong
việc tạo điều kiện, hỗ trợ, bảo đảm cho việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự.

Đối với nhiều quốc gia trên thế giới như Hợp chủng quốc Hoa Kỳ,
Vương quốc Anh,… thì pháp luật quy định việc thu thập chứng cứ trong
quá trình chuẩn bị xét xử do đương sự hoặc người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của họ (Luật sư) thực hiện. Bởi trình độ dân trí của người dân,
điều kiện kinh tế của quốc gia cao nên việc chủ động thu thập chứng cứ
được giao cho đương sự. Ở nước ta, trình độ dân trí còn chưa cao, pháp
luật còn chưa được phổ biến rộng rãi, nhất là ở những vùng sâu, vùng xa;
một bộ phận lớn người dân không đủ điều kiện kinh tế để mời người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính vì thế pháp luật Việt Nam đã đặt ra
trách nhiệm của Tòa án phải tiến hành những hoạt động tố tụng đã được
quy định cụ thể trong BLTTDS để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của
đương sự, một trong số đó là hoạt động CBXXSTVADS.
- Thứ hai, CBXXSTVADS tạo điều kiện cho các bên đương sự cung
cấp các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ
và hợp pháp
Điều 93 BLTTDS năm 2015 quy định: Chứng cứ trong vụ việc dân
sự là những gì có thật được đương sự giao nộp, xuất trình cho Tòa án
trong quá trình tố tụng và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác định
các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay sự phản
đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp. Chứng cứ giúp cho Tòa án
làm rõ được những tình tiết trong vụ án, đồng thời thông qua việc cung
cấp chứng cứ, các bên đương sự chứng minh được yêu cầu của mình là có
căn cứ. Trong CBXXSTVADS, các đương sự có quyền và nghĩa vụ cung
cấp các chứng cứ cho Tòa án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
- Thứ ba, CBXXSTVADS giúp Tòa án tiến hành các công việc cần
thiết để đảm bảo cho hoạt động xét xử được chính xác, khách quan, đúng
pháp luật


12


Trong CBXXSTVADS, Tòa án phải tiến hành một loạt các hoạt
động tố tụng để chuẩn bị cho việc xét xử. Việc chuẩn bị càng được thực
hiện kỹ càng thì kết quả thu được sẽ càng cao. Các hoạt động tố tụng
trong CBXXST: lập hồ sơ vụ án, thu thập tài liệu, chứng cứ, tổ chức phiên
họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải…
được thực hiện tốt, thì việc xét xử sơ thẩm sẽ công bằng, chính xác, đạt
hiệu quả cao, giảm thiểu tối đa tình trạng kháng cáo, kháng nghị, khiếu
nại giám đốc thẩm, tái thẩm dẫn đến hệ quả phải sửa án, hủy án.
Các hoạt động tố tụng trong CBXXSTVADS có ý nghĩa rất quan
trọng, tuy không đưa ra phán quyết nhưng nó là tiền đề, cơ sở pháp lý
đảm bảo cho việc xét xử của Tòa án được toàn diện, đúng pháp luật.
1.2. Các quy định của pháp luật hiện hành về chuẩn bị xét xử sơ
thẩm vụ án dân sự
1.2.1. Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
Khi bàn về CBXXSTVADS thì điều đầu tiên chúng ta cần nhắc tới
đó là thời hạn CBXXSTVADS. Theo Giáo sư Nguyễn Huy Đẩu trong
Luật Dân sự tố tụng Việt Nam:
Thời gian được ấn định dài hay ngắn là tùy ở bản chất, tính
cách hệ trọng của mỗi việc: Luật không muốn đương sự quyết
định hấp tấp, hoặc phải chờ đợi quá lâu; Tòa cũng không thể
phán quyết ngay mà không suy xét kỹ lưỡng hoặc lưu giữ hồ
sơ mãi mới xét xử. Hai thái độ cực đoan của cả đương nhân
lẫn Thẩm phán đều có phương hại đến sự điều hành công lý
và truy tầm sự thật. Như vậy, mỗi thời hạn thủ tục có lý do
chánh đáng riêng biệt7.
Đây là một quan điểm quan trọng trong việc xây dựng các quy định
về thời hạn tố tụng sau này. Khoảng thời gian này phải được quy định phù
hợp để đảm bảo Tòa án tiến hành thực hiện các hoạt động tố tụng và
những công việc cần thiết khác để làm sáng tỏ các vấn đề trong vụ án, và

7

Nguyễn Huy Đẩu (1962), Luật Dân sự Tố tụng Việt Nam, Nxb. Khai Trí, Sài Gòn, tr.448.


13

cũng đủ thời gian cho các đương sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ của
mình. Nếu thời hạn này được quy định quá dài hoặc quá ngắn, nó sẽ dẫn
đến những hệ lụy: ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết vụ án, không đảm
bảo quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
Thời hạn CBXXSTVADS được tính từ ngày Tòa án vào sổ thụ lý
đến ngày Tòa án ban hành một trong 04 quyết định: Quyết định công nhận
sự thỏa thuận của các đương sự, Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án
dân sự, Quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự hoặc Quyết định đưa
vụ án ra xét xử. Việc quy định thời hạn là nhằm mục đích đặt ra trách
nhiệm của những người tiến hành tố tụng đối với việc giải quyết vụ án,
trách nhiệm cho các đương sự thực hiện tốt quyền, nghĩa vụ của mình.
Tùy theo tính chất của từng loại vụ án mà pháp luật quy định thời
hạn chuẩn bị xét xử của từng loại vụ án là khác nhau. Khoản 1 Điều 203
BLTTDS năm 2015 quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử như sau:
Thời hạn chuẩn bị xét xử các loại vụ án, trừ các vụ án được
xét xử theo thủ tục rút gọn hoặc vụ án có yếu tố nước ngoài,
được quy định như sau:
a) Đối với các vụ án quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ
luật này thì thời hạn là 04 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án;
b) Đối với các vụ án quy định tại Điều 30 và Điều 32 của Bộ
luật này thì thời hạn là 02 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án.
Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả
kháng, trở ngại khách quan thì Chánh án Tòa án có thể quyết

định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 02
tháng đối với vụ án thuộc trường hợp quy định tại điểm a
khoản này và không quá 01 tháng đối với vụ án thuộc trường
hợp quy định tại điểm b khoản này.
Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án
thì thời hạn chuẩn bị xét xử được tính lại kể từ ngày quyết


14

định tiếp tục giải quyết vụ án của Tòa án có hiệu lực pháp
luật.
Về thời hạn giải quyết vụ án, theo quy định tại Điều 203 BLTTDS
năm 2015, thời gian giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý đến khi ra quyết
định đưa vụ án ra xét xử đối với các vụ án tranh chấp về dân sự hôn nhân
và gia đình quy định tại Điều 26, 28 của BLTTDS là 4 tháng kể từ ngày
thụ lý vụ án và đối với các vụ án tranh chấp về kinh doanh thương mại và
lao động quy định tại Điều 30 và 32 BLTTDS năm 2015 thì thời hạn
CBXXSTVADS là 02 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án. Việc BLTTDS năm
2015 quy định thời hạn chuẩn bị xét xử khác nhau đối với từng loại vụ án
là sự kế thừa và phát triển của các quy định pháp luật đã được Nhà nước
ta ban hành quy định về thời hạn giải quyết các vụ án dân sự, lao động và
kinh tế tại Điều 47 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm
1989, Điều 36 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm
1996, Điều 34 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 và
Điều 179 BLTTDS năm 2004 do yêu cầu cấp thiết cần giải quyết nhanh
chóng các loại tranh chấp trên.
Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì
Chánh án Tòa án có thể ra Quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử
nhưng không quá 2 tháng đối với vụ án dân sự, hôn nhân gia đình và

không quá 1 tháng đối với vụ án kinh doanh, thương mại và lao động. Về
căn cứ gia hạn, BLTTDS quy định 3 căn cứ gia hạn thời hạn chuẩn bị xét
xử bao gồm:
“Những vụ án có tính chất phức tạp”: điểm a khoản 3 Điều 14 Nghị
quyết 05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán
TAND Tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ hai
“thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của BLTTDS đã được
sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS quy
định:


15

Những vụ án có tính chất phức tạp là những vụ án có nhiều
đương sự, có liên quan đến nhiều lĩnh vực; vụ án có nhiều tài
liệu, có các chứng cứ mâu thuẫn với nhau cần có thêm thời
gian để nghiên cứu tổng hợp các tài liệu có trong hồ sơ vụ án
hoặc tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn hoặc cần
phải giám định kỹ thuật phức tạp; những vụ án mà đương sự
là người nước ngoài đang ở nước ngoài hoặc người Việt Nam
đang cư trú, học tập, làm việc ở nước ngoài, tài sản ở nước
ngoài cần phải có thời gian uỷ thác tư pháp cho cơ quan lãnh
sự, ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài, cho Toà án nước
ngoài,….
“Trở ngại khách quan”: điểm b khoản 3 Điều 14 Nghị quyết
05/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán TAND
Tối cao quy định “Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh
khách quan tác động như: thiên tai, địch họa, nhu cầu chiến đấu, phục vụ
chiến đấu,… làm cho Toà án không thể giải quyết được vụ án trong thời
hạn quy định”.

“Sự kiện bất khả kháng” đây là một điểm mới trong việc pháp luật
quy định việc gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử. Theo khoản 1 Điều 156
BLDS năm 2015 (thay thế khoản 1 Điều 161 BLDS năm 2005), “Sự kiện
bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường
trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện
pháp cần thiết và khả năng cho phép”. Đây là những sự kiện xảy ra ngoài
ý chí của các chủ thể, các chủ thể không thể lường trước được, hoặc biết
trước nhưng không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp
cần thiết và khả năng cho phép để khắc phục sự kiện đó.
Khoản 1 Điều 203 BLTTDS năm 2015 đã kế thừa cơ bản các quy
định của Điều 179 BLTTDS năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011) về
thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng có bổ sung thêm quy định về việc tính lại
thời hạn chuẩn bị xét xử, theo đó: “Trường hợp có quyết định tạm đình


16

chỉ việc giải quyết vụ án thì thời hạn chuẩn bị xét xử được tính lại kể từ
ngày quyết định tiếp tục giải quyết vụ án của Tòa án có hiệu lực pháp
luật”.
Trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày có Quyết định đưa vụ án ra xét
xử, Tòa án phải mở phiên tòa, trong trường hợp có lý do chính đáng thì
thời hạn này là 02 tháng.
Việc quy định thời hạn chuẩn bị xét xử đối với các vụ án kinh
doanh thương mại, lao động là ngắn. Thực tế cho thấy, việc quy định thời
hạn đối với các vụ án kinh doanh thương mại, lao động là 02 tháng là
không đáng kể.
Bên cạnh đó, thực tiễn cho thấy việc quy định thời hạn như trên rất
bất cập đối với việc giải quyết các vụ án dân sự có yếu tố nước ngoài, vì
vậy BLTTDS năm 2015 đã bổ sung quy định về thời hạn giải quyết đối

với các vụ án này trong Phần thứ tám của Bộ luật: Thủ tục giải quyết vụ
việc dân sự có yếu tố nước ngoài. Theo đó, đối với những vụ án dân sự có
yếu tố nước ngoài thì phiên họp hòa giải phải được mở sớm nhất là 06
tháng và chậm nhất là 08 tháng, kể từ ngày ra văn bản thông báo thụ lý vụ
án. Ngày mở lại phiên họp hòa giải (nếu có) được ấn định cách ngày mở
phiên họp hòa giải chậm nhất là 01 tháng; phiên tòa phải được mở sớm
nhất là 09 tháng và chậm nhất là 12 tháng, nếu hoãn thì thời hạn là 01
tháng kể từ ngày ban hành thông báo thụ lý.
Điều 476 cũng quy định Toà án phải gửi thông báo thụ lý vụ án,
trong đó nêu rõ thời gian, địa điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp,
tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải (sau đây gọi chung là phiên họp
hòa giải), mở lại phiên họp hòa giải, mở phiên tòa và mở lại phiên tòa
trong văn bản thông báo thụ lý vụ án cho đương sự ở nước ngoài. Khi
đương sự ở nước ngoài không hợp tác, Tòa sẽ ấn định thời gian mở phiên
họp hòa giải và phiên tòa theo quy định này và tiến hành ủy thác tư pháp.
Quy định này đã phần nào khắc phục được nhược điểm về thời hạn đối
với việc giải quyết vụ án có yếu tố nước ngoài bởi việc ủy thác tư pháp


17

thường tốn kém thời gian và chi phí, nhiều trường hợp việc ủy thác tư
pháp kéo dài tới vài năm bởi thủ tục ủy thác tư pháp đối với các Tòa án
còn gặp nhiều khó khăn do việc thực hiện ủy thác tư pháp là khác nhau
đối với các quốc gia, chưa có hướng dẫn cụ thể các kênh thực hiện ủy thác
đối với một số quốc gia,…
Đối chiếu với BLTTDS của Liên bang Nga, ta có thể thấy được
điểm tương đồng trong việc quy định thời hạn xét xử giữa BLTTDS Việt
Nam và BLTTDS của Liên bang Nga. Điều 154 BLTTDS năm 2003 của
Liên bang Nga quy định:

1. Vụ án dân sự được Tòa án xét xử trong thời hạn 2 tháng kể
từ ngày nhận đơn kiện. Nếu vụ án do Thẩm phán hòa giải giải
quyết thì được xét xử trong thời hạn 1 tháng kể từ ngày nhận
đơn khởi kiện.
2. Vụ án yêu cầu khôi phục việc làm, đòi tiền cấp dưỡng được
xét xử trong thời hạn 1 tháng.
3. Luật liên bang quy định thời hạn xét xử có thể ngắn hơn
đối với 1 số loại vụ án dân sự.
Thời hạn giải quyết vụ án ở cấp sơ thẩm được quy định tại BLTTDS
Trung Quốc như sau: nếu vụ án giải quyết theo trình tự thông thường thì
thời hạn là 6 tháng kể từ ngày thụ lý, nếu cần gia hạn thì Chánh án Tòa án
quyết định gia hạn không quá 6 tháng 8.
Khác với quy định tại BLTTDS của Việt Nam, BLTTDS của Cộng
hòa Pháp và Nhật Bản lại không quy định thời hạn giải quyết vụ án mà
quy định từng thời hạn là do Thẩm phán ấn định. Điều 3 BLTTDS Pháp
quy định: “Thẩm phán phải bảo đảm cho quá trình tiến hành tố tụng được
tiến hành theo đúng thủ tục quy định. Thẩm phán có quyền ấn định thời

8

Ngô Cường (2010), Việc áp dụng các quy định của BLTTDS trong việc giải quyết các vụ án về
kinh doanh, thương mại (Một số đề xuất sửa đổi, bổ sung), Hội thảo đánh giá việc áp dụng các quy
định của BLTTDS sau 5 năm triển khai thực hiện, tập trung vào lĩnh vực giải quyết tranh chấp
thương mại (Dự án giải quyết tranh chấp thương mại, TANDTC-DANIDA/BSPS4), Hà Nội, tr.5.


18

hạn và quyết định những biện pháp cần thiết” 9. Việc quy định Thẩm phán
có quyền ấn định thời hạn tạo điều kiện cho Tòa án chủ động trong việc

thu thập đầy đủ tài liệu chứng cứ, cấp, tống đạt văn bản cho các đương
sự,… tạo sự linh hoạt, mềm dẻo trong việc giải quyết các tranh chấp dân
sự. Đây là một quy định tiến bộ, hiện đại mà pháp luật nước ta nên xem
xét áp dụng.
Khoản 2 Điều 203 BLTTDS năm 2015 đã bổ sung và cụ thể hóa các
nhiệm vụ, quyền hạn mà Thẩm phán phải thực hiện trong giai đoạn chuẩn
bị xét xử, bao gồm:
a) Lập hồ sơ vụ án theo quy định tại Điều 198 của Bộ luật
này;
b) Xác định tư cách đương sự, người tham gia tố tụng khác;
c) Xác định quan hệ tranh chấp giữa các đương sự và pháp
luật cần áp dụng;
d) Làm rõ những tình tiết khách quan của vụ án;
đ) Xác minh, thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật
này;
e) Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;
g) Tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công
khai chứng cứ và hòa giải theo quy định của Bộ luật này, trừ
trường hợp vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn;
h) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Bộ
luật này.
1.2.2. Những công việc tiến hành trong thời gian chuẩn bị xét xử
sơ thẩm
1.2.2.1. Phân công Thẩm phán
Việc đầu tiên sau khi thụ lý vụ án đó là Tòa án tiến hành phân công
một Thẩm phán giải quyết vụ án dân sự: “Trong thời hạn 03 ngày làm
9

Nhà pháp luật Việt – Pháp (1998), Bộ luật Tố tụng Dân sự của nước Cộng hòa Pháp, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, tr.7.



×