Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Căn cứ ly hôn theo luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và thực tiễn áp dụng tại huyện mai sơn, tỉnh sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 88 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐINH THỊ PHƯƠNG THÚY

CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA
ĐÌNH NĂM 2014 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI
HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐINH THỊ PHƯƠNG THÚY

CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ
GIA ĐÌNH NĂM 2014 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TẠI HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự


Mã số: 8380103

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Ngô Thị Hường

HÀ NỘI - NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn này đảm bảo tính chính xác và trung thực.
Những nội dung trong luận văn có sử dụng tài liệu tham khảo đều được trích dẫn
nguồn đầy đủ và chính xác. Đề tài không trùng với bất cứ đề tài nghiên cứu khoa
học nào khác.
Tác giả luận văn


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS

: Bộ luật dân sự

HN&GĐ

: Hôn nhân và gia đình

TAND

: Tòa án nhân dân

TTDS


: Tố tụng dân sự

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Nguyên nhân, lý do ly hôn.................................................................48


MỤC LỤC

BÌA PHỤ
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CĂN CỨ LY HÔN THEO
LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH ............................................................ 7
1.1. Khái niệm ly hôn và căn cứ ly hôn........................................................ 7
1.1.1. Khái niệm ly hôn ................................................................................. 7
1.1.2. Khái niệm căn cứ ly hôn.................................................................... 10
1.2. Cơ sở của việc quy định căn cứ ly hôn trong Luật hôn nhân và gia
đình ............................................................................................................. 13
1.2.1. Cơ sở lý luận ...................................................................................... 13
1.2.2. Cơ sở thực tiễn ................................................................................... 15
1.3. Lược sử quy định về căn cứ ly hôn qua các giai đoạn phát triển của
pháp luật về hôn nhân và gia đình ............................................................ 17

1.3.1. Trong thời kỳ phong kiến .................................................................. 17
1.3.2. Trong thời kỳ Pháp thuộc .................................................................. 21
1.3.3. Trong quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959.............. 23
1.3.4. Trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 ................................... 24
1.3.5. Trong Luật Hôn nhân gia đình năm 2000 ........................................ 26
Kết luận chương 1 ...................................................................................... 28
Chương 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CĂN CỨ LY HÔN TẠI TOÀ ÁN
NHÂN DÂN HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA VÀ MỘT SỐ KIẾN
NGHỊ........................................................................................................... 29
2.1. Quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 về căn cứ ly hôn
..................................................................................................................... 29
2.1.1. Căn cứ ly hôn trong trường hợp thuận tình ly hôn........................... 29


2.1.2. Trường hợp cha, mẹ, người thân thích khác có yêu cầu .................. 39
2.1.3. Yếu tố lỗi trong căn cứ ly hôn ........................................................... 42
2.2. Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn tại Tòa án nhân dân huyện Mai
Sơn, tỉnh Sơn La ......................................................................................... 46
2.2.1. Khái quát về đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của huyện Mai Sơn,
tỉnh Sơn La .................................................................................................. 46
2.2.2. Tình hình ly hôn tại huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La ............................ 47
2.2.3. Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014 qua
một số vụ án cụ thể ...................................................................................... 50
2.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật về
căn cứ ly hôn ............................................................................................... 61
Kết luận chương 2 ...................................................................................... 68
KẾT LUẬN ................................................................................................. 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

.



1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Gia đình là cái nôi sản sinh ra con người, nuôi dưỡng, giáo dục và hình thành
nhân cách con người. Vì vậy Đảng và Nhà nước ta trong những năm qua luôn quan
tâm tới vấn đề gia đình. Luật Hôn nhân và gia đình (sau đây viết tắt là Luật
HN&GĐ) ra đời có vai trò góp phần xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ
HN&GĐ tiến bộ, nhằm xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ hạnh phúc, bền
vững. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về gia đình được ghi nhận tại Hiến pháp
năm 2013: “Gia đình là tế bào của xã hội. Nhà nước bảo hộ HN&GĐ theo nguyên
tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng. Cha mẹ có trách
nhiệm nuôi dạy con thành những người công dân tốt, con cháu có bổn phận chăm
sóc ông bà, cha mẹ. Nhà nước và xã hội không thừa nhận việc phân biệt đối xử giữa
các con”. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay các vụ án về ly hôn đang ngày càng
có chiều hướng gia tăng, đòi hỏi Tòa án phải hướng dẫn đường lối áp dụng căn cứ
ly hôn để giải quyết các trường hợp ly hôn nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của vợ chồng và các thành viên gia đình, thực hiện nguyên tắc vợ chồng bình đẳng,
tránh tình trạng phân biệt đối xử và bạo lực gia đình.
Thực tiễn thời gian qua cho thấy, số lượng vụ án ly hôn xảy ra rất nhiều và có
xu hướng tăng mạnh. Bên cạnh đó, có nhiều vụ án chưa được xử lý, giải quyết thỏa
đáng, chưa phù hợp với căn cứ ly hôn theo quy định của pháp Luật HN&GĐ Việt
Nam. Có nhiều nguyên nhân của vấn đề này, đó là: chuyên môn nghiệp vụ chưa
đồng đều, một số ít công chức chưa đạt chuẩn về trình độ, chủ yếu mới qua tập huấn
đào tạo, chế độ chính sách còn thấp. Việc thực thi công vụ do đó vừa thiếu tính
chuyên nghiệp, vừa không đáp ứng kịp thời yêu cầu của người dân.
Hậu quả của ly hôn không chỉ là việc chấm dứt các quan hệ nhân thân, tình cảm
giữa vợ và chồng mà còn làm phát sinh hàng loạt các vấn đề về tài sản, về con cái,

về cấp dưỡng… Những vấn đề đó đều có tác động đến sự ổn định xã hội. Do đó,
nếu không có sự điều chỉnh một cách chính xác, hợp tình, hợp lý của các chế định
pháp luật, mà cụ thể là Luật HN&GĐ thì tình trạng ly hôn như hiện nay sẽ ảnh
hưởng lớn đến sự ổn định và phát triển chung của xã hội.


2

Luật HN&GĐ năm 2014 ra đời đã bảo vệ quyền lợi của mọi thành viên trong
gia đình, hướng tới xây dựng hạnh phúc, là căn cứ để Tòa án giải quyết các vụ, việc
HN&GĐ một cách thấu tình, đạt lý. Bằng các quy định về ly hôn, Nhà nước cũng
hướng tới bảo vệ lợi ích của gia đình, của xã hội khi xác định những điều kiện cho
phép chấm dứt quan hệ hôn nhân trước pháp luật.
Huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La là một huyện có diện tích lớn trong tỉnh, với dân
số đông, tiếp giáp với thành phố Sơn La. Trên địa bàn huyện phần đông là đồng bào
dân tộc Thái, Mông và một số đồng bào dân tộc ít người khác. Do đó, nhận thức về
các quy định của pháp luật nói chung, trong đó có quy định của pháp Luật HN&GĐ
còn nhiều hạn chế. Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện
Mai Sơn, tình hình ly hôn trên địa bàn huyện trong những năm vừa qua cũng rất
phức tạp. Số vụ ly hôn có xu hướng gia tăng, đặc biệt trong đối tượng là các cặp vợ
chồng trẻ, việc giải quyết con cái và tài sản có nhiều phức tạp. Các căn cứ ly hôn
trong các vụ án đã giải quyết trên địa bàn huyện Mai Sơn là rất đa dạng, có nhiều
căn cứ phức tạp cần được đánh giá chi tiết và cẩn thận trong quá trình giải quyết.
Các căn cứ ly hôn được quy định tại Điều 55 và Điều 56 của Luật HN&GĐ
năm 2014 còn chưa cụ thể, và chưa có văn bản hướng dẫn về việc áp dụng các căn
cứ ly hôn đó. Bởi vậy, với mong muốn tìm hiểu rõ hơn về các căn cứ ly hôn, học
viên quyết định chọn đề tài “Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 và thực tiễn áp dụng tại huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La” làm đề tài luận văn
Thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Căn cứ giải quyết các trường hợp ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014 tại Toà
án đã được giới khoa học pháp lý và nhất là những người trực tiếp làm công tác xét
xử của ngành Tòa án quan tâm nghiên cứu. Đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài
viết đề cập đến một số khía cạnh về những vấn đề liên quan đến đề tài.
Về bài viết trên các tạp chí gồm:
- Th.s Nguyễn Thị Thu Vân, “Căn cứ ly hôn trong cổ luật Việt Nam”, Tạp
chí Nhà nước và pháp luật, số 8/20051. Bài viết đề cập đến diện mạo của căn cứ
ly hôn trong cổ luật Việt Nam, giai đoạn được tính từ khi ra đời Bộ luật Hồng
1

Số 208. Từ trang 55 đến trang 61


3

Đức đến trước thời kỳ pháp thuộc, khi pháp luật Việt Nam nói chung và căn cứ
ly hôn nói riêng chịu ảnh hưởng sâu sắc của học thuyết Nho giáo và tư tưởng
pháp lý Trung Hoa;
- Nguyễn Anh Tuấn, “Một số vướng mắc trong giải quyết án ly hôn với người
mắc bệnh tâm thần”, Tạp chí kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao số 7/2005;
- Th.s Đoàn Đức Lương, “Cần có hướng dẫn thống nhất về thụ lý yêu cầu ly
hôn hay không công nhận vợ chồng và thủ tục giải quyết”, Tạp chí Kiểm sát, Viện
kiểm sát nhân dân Tối cao số 9/2005;
- Đỗ Văn Chỉnh, “Ly hôn với người mắc bệnh tâm thần – Thực tế và giải
quyết”, Tạp chí Tòa án, TAND Tối cao số 9/2006;
- Phạm Thị Quý, “Việc ly hôn có bắt buộc phải qua hòa giải cơ sở trước khi
khởi kiện ra Tòa án?”, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 10/2009;
- TS Đặng Quang Phương, "Thực trạng của các bản án hiện nay và một số
kiến nghị nhằm hoàn thiện các bản án", Tạp chí TAND số 7/1999 và số 8/1999;
- Th.s Nguyễn Văn Cừ, “Quyền sở hữu của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm

2000”, Tạp chí Luật học số 4/2000;
- Trần Thị Quốc Khánh, “Từ hòa giải trong truyền thống dân tộc đến hòa giải
ở cơ sở ngày nay”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 11/2004;
Về Luận văn, luận án:
- Nông Thị Nhung (2014), “Căn cứ ly hôn – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
áp dụng tại Lạng Sơn”, Trường Đại học Luật Hà Nội;
- Luận văn thạc sỹ: “Căn cứ ly hôn – một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng
tại Lạng Sơn”, của tác giả Nông Thị Nhung, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội,
năm 2014.
- Khoá luận tốt nghiệp “Căn cứ ly hôn theo quy định pháp luật hôn nhân và gia
đình Việt Nam hiện hành” của tác giả Nguyễn Thị Kim Oanh; Người hướng dẫn:
ThS.Lê Vĩnh Châu . Tp.Hồ Chí Minh, 2015. - 58tr.
Về sách tham khảo:
- Nguyễn Ngọc Điệp, Trần Đông Phong, Hồ Thị Hệ (2001), “Những điều cần
biết về ly hôn”, Nhà xuất bản Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh;


4

- Bùi Văn Thuấn (2002), “Phụ nữ và pháp luật, quyền và nghĩa vụ của vợ
chồng đối với tài sản riêng và chung”, Nhà xuất bản Phụ nữ.
Như vậy, vấn đề căn cứ ly hôn trong Luật HN&GĐ Việt Nam đã được nghiên
cứu khá nhiều trong các công trình nghiên cứu khoa học. Đa phần các đề tài trên
mới chỉ nghiên cứu các căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2000. Hiện chưa có
công trình nào nghiên cứu cụ thể về thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn trên địa bàn
huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Do đó, việc lựa chọn đề tài của tác giả mang ý nghĩa
lý luận và thực tiễn quan trọng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài có mục đích nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về căn cứ ly

hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014 cũng như việc áp dụng căn cứ ly hôn trên địa bàn
huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La để từ đó đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và
nâng cao hiệu quả áp dụng căn cứ ly hôn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về căn cứ ly hôn như: Khái niệm, cơ sở lý
luận và thực tiễn của quy định về căn cứ ly hôn, ý nghĩa của căn cứ ly hôn;
- Nội dung căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014;
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn trong quá trình giải quyết các vụ
việc ly hôn trên địa bàn huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La;
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết
căn cứ ly hôn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài: Luật HN&GĐ năm 2014 và các văn
bản pháp luật có liên quan về ly hôn cũng như thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn trên
địa bàn huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận của căn cứ ly hôn theo pháp Luật HN&GĐ
Việt Nam năm 2014 và thực tiễn áp dụng tại TAND huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.


5

Phạm vi không gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn trên địa bàn huyện Mai
Sơn, tỉnh Sơn La;
Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn từ năm
2013 đến năm 2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận

Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và
pháp luật, trong đó có vấn đề về áp dụng pháp luật trong giải quyết các trường hợp
ly hôn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của triết học Mác - Lênin về duy
vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử và lôgíc; phương pháp kết hợp
giữa lý luận và thực tiễn; phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, điều
tra, khảo sát.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Luận văn phân tích được những căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014.
Ngoài ra, luận văn đưa ra được những vấn đề thực tiễn, khó khăn và tồn tại của căn
cứ ly hôn, cũng như những ưu điểm, hạn chế của các quy định về căn cứ ly hôn theo
pháp Luật HN&GĐ năm 2014 so với Luật HN&GĐ năm 2000. Đặc biệt, luận văn
đi sâu vào phân tích các căn cứ ly hôn, nhận xét đưa ra những ưu điểm, hạn chế của
các quy định về căn cứ ly hôn. Trên cơ sở đó, đưa ra các quan điểm, giải pháp về
căn cứ ly hôn theo pháp Luật HN&GĐ Việt Nam.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp cơ sở lý luận và cơ sở
thực tiễn cho những người trực tiếp làm công tác giải quyết án ly hôn, nhằm thực
hiện nghiêm chỉnh Luật HN&GĐ.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho những người đang trực
tiếp làm công tác giải quyết án ly hôn tại TAND nói chung và TAND huyện Mai
Sơn, tỉnh Sơn La nói riêng.


6

7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết
cấu thành 02 chương.

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia
đình
Chương 2: Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn tại Tòa án nhân dân huyện Mai
Sơn, tỉnh Sơn La và một số kiến nghị.


7

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CĂN CỨ LY HÔN THEO LUẬT HÔN
NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
1.1. Khái niệm ly hôn và căn cứ ly hôn
1.1.1. Khái niệm ly hôn
Nếu như kết hôn là khởi đầu để xác lập nên quan hệ vợ chồng thì ly hôn có thể
coi là điểm cuối của hôn nhân khi quan hệ này thực sự tan rã. Khi đời sống hôn
nhân không thể duy trì được nữa thì ly hôn là một giải pháp cần thiết cho cả đôi bên
vợ chồng cũng như cho xã hội. Ly hôn giải phóng cho các cặp vợ chồng và những
thành viên trong gia đình thoát khỏi xung đột, mâu thuẫn bế tắc trong cuộc sống.
Bằng các quy định về ly hôn, Nhà nước cũng hướng tới bảo vệ lợi ích của gia đình,
của xã hội khi xác định những điều kiện cho phép chấm dứt quan hệ hôn nhân
trước pháp luật, gọi chung là căn cứ ly hôn.
Quan hệ hôn nhân với đặc điểm tồn tại lâu dài, bền vững cho đến suốt cuộc đời
con người vì nó được xác lập trên cơ sở tình yêu thương, gắn bó giữa vợ chồng. Tuy
nhiên, trong cuộc sống vợ chồng, vì những lý do nào đó dẫn tới giữa vợ chồng có
mâu thuẫn sâu sắc đến mức không thể chung sống với nhau nữa, vấn đề ly hôn được
đặt ra để giải phóng cho vợ chồng và các thành viên khác thoát khỏi mâu thuẫn gia
đình. Ly hôn là mặt trái của hôn nhân nhưng là mặt không thể thiếu được khi quan
hệ hôn nhân tồn tại chỉ là hình thức, tình cảm vợ chồng đã thực sự tan vỡ2.
Vấn đề ly hôn được quy định trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia là khác
nhau tùy theo thể chế chính trị, truyền thống văn hóa và quan điểm lập pháp của

từng nước. Một số nước cấm vợ chồng ly hôn (theo Đạo Thiên chúa), bởi vì theo họ
quan hệ vợ chồng bị ràng buộc thiêng liêng theo ý Chúa. Một số nước thì hạn chế ly
hôn bằng cách đưa ra những điều kiện hết sức nghiêm ngặt. Cấm ly hôn hay hạn chế
ly hôn đều trái với quyền tự do dân chủ của cá nhân.
Trên quan điểm tự do hôn nhân, bao gồm cả tự do kết hôn và tự do ly hôn, pháp
luật không bắt buộc nam nữ kết hôn khi họ không yêu nhau thì cũng không bắt buộc
vợ chồng phải chung sống với nhau khi tình yêu giữa họ không còn nữa. Việc ly
hôn nhằm giải phóng cho vợ, chồng thoát khỏi cuộc sống chung áp lực và không có
2

Thu Thủy (2011), “Ly hôn mang tính toàn cầu”, Báo phụ nữ Đà Nẵng,


8

hạnh phúc, với những mâu thuẫn sâu sắc mà trong một thời gian dài họ đã không
giải quyết được. Thừa nhận quyền tự do ly hôn của vợ, chồng còn nhằm bảo vệ
quyền lợi của những thành viên còn lại trong gia đình. Vì vậy, pháp luật của Nhà
nước XHCN công nhận quyền tự do ly hôn chính đáng của vợ chồng, không cấm
hoặc đặt ra những những điều kiện nhằm hạn chế quyền tự do ly hôn. Ly hôn dựa
trên sự tự nguyện của vợ chồng, nó là kết quả của hành vi có ý chí của vợ chồng khi
thực hiện quyền ly hôn của mình. Nhà nước bằng pháp luật không thể cưỡng ép
nam, nữ phải yêu nhau và kết hôn với nhau, thì cũng không thể bắt buộc vợ chồng
phải chung sống với nhau, phải duy trì quan hệ hôn nhân khi tình cảm yêu thương
gắn bó giữa họ đã hết và mục đích của hôn nhân đã không thể đạt được. Việc giải
quyết ly hôn là tất yếu đối với quan hệ hôn nhân đã thực sự tan vỡ. Điều đó là hoàn
toàn có lợi cho vợ chồng, con cái và các thành viên trong gia đình.
Ly hôn được hiểu là: “chấm dứt quan hệ vợ chồng do TAND công nhận hoặc
quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng3. Cách giải thích
này được sử dụng nhiều trong các nghiên cứu, giải thích cho các đương sự liên quan

trong thực tiễn giải quyết vụ việc ly hôn. Theo đó, ly hôn được phản ánh rõ nét, đó
là việc “chấm dứt quan hệ vợ chồng”, nghĩa là giữa hai bên vợ chồng không còn tồn
tại quan hệ hôn nhân, mọi quyền và nghĩa vụ của hai bên sẽ được pháp luật giải
quyết thỏa đáng, đảm bảo quyền lợi cho các bên.
Theo Lê-nin: “thực ra tự do ly hôn tuyệt không có nghĩa là làm “tan rã” những
mối liên hệ gia đình mà ngược lại, nó củng cố những mối liên hệ đó trên những cơ
sở dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và vững chắc trong một xã hội văn
minh”4. Nhưng bên cạnh đó, ly hôn cũng có mặt hạn chế đó là sự ly tán gia đình, vợ
chồng, con cái. Vì vậy, khi giải quyết ly hôn, Toà án phải tìm hiểu kỹ nguyên nhân
và bản chất của quan hệ vợ chồng và thực trạng hôn nhân với nhiều yếu tố khác để
đảm bảo quyền lợi cho các thành viên trong gia đình, lợi ích của Nhà nước và của
xã hội.
Xét về mặt pháp lý thì ly hôn là một sự kiện pháp lý làm chấm dứt các quyền và
nghĩa vụ giữa vợ chồng và theo quy định của pháp luật chỉ có vợ, chồng mới có
3
4

Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp, Tr. 460.
V.I.Lênin - Toàn tập (1980), Tập 25, Nxb Tiến bộ, Maxcơva, Tr. 355.


9

quyền yêu cầu ly hôn. Để ly hôn vợ, chồng hoặc cả hai người hoàn toàn tự do trong
việc làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn của họ.
Khi vợ, chồng ly hôn không những ảnh hưởng trực tiếp đến quan hệ tình cảm
vợ chồng, chấm dứt mọi quyền và nghĩa vụ của vợ chồng với nhau, mà còn ảnh
hưởng xấu đến quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên khác trong gia đình.
Tòa án với chức năng là cơ quan có thẩm quyền xem xét và quyết định vợ, chồng có
được ly hôn hay không (Tòa án có thể chấp nhận đơn ly hôn hoặc bác đơn ly hôn

của vợ, chồng). Bằng biện pháp tư pháp đó, Tòa án có thể hạn chế hoặc ngăn chặn
những hiện tượng vợ, chồng lạm dụng quyền tự do ly hôn gây hậu quả xấu cho gia
đình và xã hội. Nhất là đối với những trường hợp một trong hai bên vợ chồng có
quan hệ ngoại tình, không có trách nhiệm chăm lo cho gia đình. Vì ích kỷ cá nhân
họ muốn ly hôn càng sớm càng tốt để rũ bỏ trách nhiệm với gia đình để chạy theo
người tình.
Việc Tòa án cho vợ, chồng ly hôn hay bác đơn yêu cầu của họ phải dựa vào
thực chất mối quan hệ vợ, chồng. Tuy nhiên, việc đánh giá thực chất mối quan hệ
vợ, chồng là một vấn đề khó khăn và phức tạp. Trong những năm gần đây, số vụ ly
hôn ở nước ta ngày càng gia tăng về số lượng, với những mâu thuẫn vợ chồng rất đa
dạng và phức tạp. Để đánh giá thực chất mối quan hệ vợ, chồng đã thực sự rạn nứt
và có thể hàn gắn được hay không đòi hỏi bản thân những Thẩm phán trực tiếp giải
quyết phải có kinh nghiệm sống và kiến thức chuyên môn vững vàng. Đồng thời
phải xác minh thật kỹ để tìm ra nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ, chồng. Phải tìm
hiểu tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của vợ, chồng trong thời gian tiến hành giải
quyết vụ kiện. Khi đã tìm ra nguyên nhân mâu thuẫn của vợ, chồng, mặc dù đại diện
Tòa án đã tiến hành hòa giải hai bên vợ, chồng theo hướng đoàn tụ gia đình. Phân
tích và giải thích cho vợ, chồng về hậu quả của ly hôn cũng như ảnh hưởng của việc
cha, mẹ ly hôn đối với đời sống tinh thần của con cái. Nhưng vợ, chồng vẫn cương
quyết ly hôn thì Tòa án sẽ căn cứ theo quy định của pháp luật để giải quyết.
Trong khoa học pháp lý nói chung và khoa học Luật HN&GĐ nói riêng, việc
đưa ra khái niệm đầy đủ về ly hôn có ý nghĩa quan trọng, phản ánh quan điểm
chung nhất của Nhà nước ta về ly hôn, tạo cơ sở lý luận cho việc xác định bản chất
pháp lý của ly hôn, xác định nội dung, phạm vi điều chỉnh của các quan hệ pháp


10

luật HN&GĐ về ly hôn và các vấn đề phát sinh khác. Khoản 8 Điều 8 Luật
HN&GĐ Việt Nam năm 2000 quy định: “Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do

Tòa án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc của chồng hoặc cả hai
vợ chồng;”. Khoản 14 Điều 3 Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014 quy định: “Ly hôn
là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật
của Tòa án”.
Nhìn chung, Luật HN&GĐ năm 2014 giải thích thuật ngữ ly hôn có sự thay đổi
cơ bản so với Luật HN&GĐ năm 2000. Tuy nhiên, về bản chất, Luật HN&GĐ năm
2014 và Luật HN&GĐ năm 2000 đều phản ánh được ly hôn là việc chấm dứt quan
hệ vợ chồng, giúp các bên trong quan hệ hôn nhân được giải thoát khỏi tình trạng
hôn nhân đổ vỡ. Khái niệm ly hôn trong Luật HN&GĐ năm 2014 mang tính chất
chặt chẽ hơn khi đề cập tới nội dung: “bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của
Tòa án”. Thông qua đó để phản ánh tính quyền lực của Nhà nước, cũng như phản
ánh bản chất của ly hôn nói riêng là mang tính chất giai cấp.
Như vậy, có thể hiểu khái niệm ly hôn như sau: Ly hôn là một sự kiện pháp lý
do Tòa án công nhận bằng quyết định công nhận thuận tình ly hôn hoặc bằng
bản án để chấm dứt quan hệ vợ chồng và chấm dứt quyền và nghĩa vụ của vợ
chồng với nhau.
1.1.2. Khái niệm căn cứ ly hôn
Nghiên cứu luật HN&GĐ và luật Dân sự của một số nước trên thế giới cũng
như trong khu vực về vấn đề ly hôn và căn cứ ly hôn cho thấy mỗi quốc gia có quan
điểm về vấn đề ly hôn có khác nhau, do vậy cũng có những quy định khác nhau về
căn cứ ly hôn. Pháp luật của nhiều nước quy định giải quyết ly hôn là dựa vào lỗi
của vợ chồng. Nhà nước tư sản coi hôn nhân như hợp đồng dân sự nên việc chấm
dứt hôn nhân cũng như chấm dứt hợp đồng là dựa vào lỗi của các bên... Giải quyết
vấn đề ly hôn ở các nước này là dựa vào hình thức của quan hệ hôn nhân, do vậy
việc xét xử của Toà án là việc làm hết sức rập khuôn, máy móc.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, hôn nhân (trong đó có ly hôn) là
hiện tượng xã hội mang tính giai cấp sâu sắc. Trong từng giai đoạn phát triển của
lịch sử, ở mỗi chế độ xã hội khác nhau, giai cấp thống trị đều thông qua Nhà nước,
bằng pháp luật (hay tục lệ) quy định chế độ hôn nhân phù hợp với ý chí của Nhà



11

nước. Tức là Nhà nước bằng pháp luật quy định những điều kiện nào xác lập quan
hệ vợ chồng, đồng thời xác lập trong những điều kiện căn cứ nhất định mới được
phép xóa bỏ (chấm dứt) quan hệ hôn nhân. Đó chính là căn cứ ly hôn được quy định
trong pháp luật của Nhà nước. Như vậy, căn cứ ly hôn là những tình tiết (điều kiện)
được quy định trong pháp luật và chỉ khi có những tình tiết (điều kiện) đó, Tòa án
mới được xử cho ly hôn.
Ly hôn là hiện tượng xã hội mang tính giai cấp. Do có quan điểm khác nhau về
quy định và giải quyết ly hôn, cho nên căn cứ ly hôn được quy định trong pháp luật
của Nhà nước XHCN có nội dung khác về bản chất so với căn cứ ly hôn do Nhà
nước phong kiến, tư bản đặt ra. Pháp luật của nhà nước phong kiến, tư sản quy định
có thể cấm ly hôn (không quy định căn cứ ly hôn mà chỉ công nhận quyền vợ,
chồng được sống tách biệt nhau (biệt cư) bằng chế định ly thân; bằng hạn chế quyền
ly hôn theo thời gian xác lập quan hệ hôn nhân; theo độ tuổi của vợ chồng; và
thường quy định xét xử ly hôn dựa trên cơ sở lỗi của vợ, chồng hay của cả hai vợ
chồng (các điều kiện có tính chất hình thức, phản ánh nguyên nhân mâu thuẫn vợ
chồng, chứ không phải bản chất ly hôn đã tan vỡ). Ngược lại, pháp luật của Nhà
nước XHCN công nhận quyền tự do ly hôn chính đáng của vợ chồng, không thể
cấm hoặc đặt ra những điều kiện nhằm hạn chế quyền tự do ly hôn. Ly hôn dựa trên
sự tự nguyện của vợ chồng, nó là kết quả của hành vi có ý chí của vợ chồng khi
thực hiện quyền ly hôn của mình. Việc giải quyết ly hôn là tất yếu đối với quan hệ
hôn nhân đã thực sự tan vỡ, điều đó là hoàn toàn có lợi cho vợ, chồng, con cái và
các thành viên trong gia đình5.
Giải quyết ly hôn là dựa vào thực chất mối quan hệ vợ chồng, trên cơ sở đánh
giá một cách khách quan mà hoàn toàn không có ý chí chủ quan của cán bộ Tòa án
hay các đương sự. Do đó, việc giải quyết ly hôn không dựa vào lỗi của vợ chồng.
Trên quan điểm: “Ly hôn chỉ là việc xác nhận một sự kiện: cuộc hôn nhân này là
cuộc hôn nhân đã chết, sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài và lừa dối. Đương nhiên,

không phải sự tùy tiện của nhà lập pháp, cũng không phải sự tùy tiện của những cá
nhân, mà chỉ bản chất của sự kiện mới quyết định được là cuộc hôn nhân đã chết
5

Đinh Mai Phương (chủ biên), “Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
năm 2000”, NXB Chính trị quốc gia, tr.88


12

hoặc chưa chết. Bởi vì, như mọi người đều biết, việc xác nhận sự kiện chết tùy
thuộc vào thực chất của vấn đề, chứ không phải vào nguyện vọng của những bên
hữu quan... Nhà lập pháp chỉ có thể xác định những điều kiện, trong đó, hôn nhân
được phép tan vỡ. Nghĩa là trong đó, về thực chất hôn nhân tự nó đã bị phá vỡ rồi.
Việc Toà án cho phép phá bỏ hôn nhân chỉ có thể là việc ghi biên bản sự tan rã bên
trong của nó6.
Pháp luật cần dự liệu đúng và chính xác khi quy định về căn cứ ly hôn. Dựa vào
những quy định đó, Tòa án có thể áp dụng đúng đắn các quy định đó vào từng
trường hợp cụ thể để giải quyết ly hôn. Điều này vô cùng quan trọng, bởi ly hôn
chính là khi đời sống vợ chồng đã thực sự kết thúc, là giải pháp cuối cùng mà cả hai
bên vợ chồng cùng hướng đến. Sau ly hôn là hàng loạt những hậu quả pháp lý như:
quyền nuôi con, quyền thay đổi quyền nuôi con, nghĩa vụ cấp dưỡng, nghĩa vụ
thanh toán nợ… Vì vậy, pháp luật về căn cứ ly hôn quy định càng rõ ràng, cụ thể và
thống nhất thì quá trình áp dụng sẽ thuận lợi và chính xác.
Luật HN&GĐ năm 1959 (Điều 6), Luật HN&GĐ năm 1986 (Điều 40) và Luật
HN&GĐ năm 2000 (Điều 89) quy định dù hai bên vợ chồng thuận tình ly hôn hoặc
một bên vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn khi mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, đời sống
chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được thì Tòa án quyết
định cho ly hôn. Quy định về nội dung căn cứ ly hôn nhằm đảm bảo quyền tự do cá
nhân của vợ chồng trong quan hệ gia đình. Đồng thời nhằm đảm bảo sự dung hòa

giữa các lợi ích trái ngược nhau giữa vợ và chồng, trong đó có lợi ích của con cái,
thể hiện ý chí của giai cấp trong hôn nhân tự nguyện, bình đẳng, dân chủ và trong
khuôn khổ quy định của pháp luật. Khi quy định về nội dung căn cứ ly hôn phải
đảm bảo tính pháp chế, có nghĩa là những nội dung, những điều kiện cần và đủ để
giải quyết cho vợ chồng phải được các bên chủ thể tôn trọng và triệt để thực hiện.
Nếu việc quy định nội dung căn cứ ly hôn không đảm bảo tính pháp chế, không
đảm bảo quyền lợi của vợ chồng và các thành viên khác trong gia đình sẽ dẫn đến
việc tuân thủ pháp luật không nghiêm túc và có thể dẫn tới những vi phạm hoặc sự
tuân thủ pháp luật không mang tính tự nguyện.

6

C. Mác. Ph. Ăng ghen (1978), “Bản dự Luật về ly hôn”, Tập 1, NXB sự thật Hà Nội.


13

Điều kiện cần để cho ly hôn là các tình tiết, sự việc phản ánh tình trạng mối
quan hệ vợ, chồng. Khoản 1 Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “Khi vợ
hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải
quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc
vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào
tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân
không đạt được”. Với cách thể hiện nội dung điều luật nói trên thì điều kiện cần là:
“... có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm
trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng”, còn điều kiện đủ là “làm cho hôn nhân lâm
vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân
không đạt được”.
Dựa trên các điều kiện đó thì Toà án nhân dân các cấp cho phép vợ chồng ly
hôn. Tuy nhiên, bên cạnh tính pháp chế, khi quy định về nội dung căn cứ ly hôn còn

phải đảm bảo tính khách quan, tính khả thi. Có nghĩa là, những quy định của pháp
luật về căn cứ ly hôn mặc dù được quy định và áp dụng chung cho tất cả các trường
hợp xin ly hôn nhưng khi áp dụng vào các trường hợp ly hôn cụ thể chúng ta không
thể áp dụng mang tính rập khuôn, máy móc. Việc quy định nội dung căn cứ ly hôn
nhằm đảm bảo sự công bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của tất cả các bên. Trong đó
có sự ưu tiên cho phụ nữ và trẻ em. Việc quy định các căn cứ cho ly hôn phải đảm
bảo rõ ràng, dễ hiểu và có thể áp dụng được trong thực tế cuộc sống. Điều này đòi
hỏi nhà lập pháp khi ban hành nội dung căn cứ ly hôn phải có tính dự liệu cao về
những trường hợp có thể cho ly hôn, đảm bảo tính khả thi trong việc áp dụng
pháp luật.
Như vậy, “căn cứ ly hôn là những tình tiết hay những điều kiện do pháp luật
quy định mà khi có những tình tiết hay điều kiện đó thì Tòa án cho ly hôn”.
1.2. Cơ sở của việc quy định căn cứ ly hôn trong Luật hôn nhân và gia đình
1.2.1. Cơ sở lý luận
Từ khi giành được chính quyền đến nay Đảng và Nhà nước ta không ngừng
chăm lo đến đời sống của gia đình nói riêng và đời sống của nhân dân nói chung.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từ rất sớm đã ban hành nhiều sắc lệnh quy định về kết hôn và
các điều kiện để kết hôn, trải qua một thời gian dài nhà nước đã ban hành nhiều văn


14

bản luật có hiệu lực pháp lý cao như Luật HN&GĐ năm 1959, Luật HN&GĐ năm
1986, Luật HN&GĐ năm 2000, và gần đây có Luật HN&GĐ năm 2014.
Hệ thống pháp luật Hôn nhân và gia đình của nhà nước ta từ năm 1945 đến nay
đã quy định căn cứ ly hôn ngày càng hoàn thiện, phù hợp, là cơ sở pháp lí để tòa án
giải quyết các án kiện ly hôn.
Cơ sở để quy định căn cứ ly hôn theo quan điểm của chủ nghĩa Mác –Lênin.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thể hiện quyền tự do kết hôn của nam nữ
nhằm xác lập quan hệ vợ chồng và quyền tự do ly hôn của vợ chồng nhằm chấm dứt

quan hệ vợ chồng và quyền tự do ly hôn theo đúng bản chất của một sự kiện – đó là
hôn nhân "đã chết", sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài và lừa dối. Đương nhiên,
không phải ý chí của nhà lập pháp, cũng phải sự tùy tiện của các cá nhân, mà chỉ
bản chất của sự kiện mới quyết định được cuộc sống hôn nhân này "đã chết" hay
chưa... Nhà lập pháp chỉ có thể xác định những điều kiện bản chất của mối quan hệ,
theo đó những trường hợp nào về mặt pháp lý hôn nhân được coi là sự tan vỡ nghĩa
là về thực chất, hôn nhân tự nó đã phá vỡ và việc tòa án cho phép phá bỏ hôn nhân
chỉ là việc ghi biên bản công nhận sự tan vỡ bên trong của nó và chỉ khi nào hôn
nhân xét về bản chất không còn là hôn nhân nữa, tòa án mới được xử cho ly hôn.
Sắc lệnh số 159/SL quy định căn cứ ly hôn vẫn dựa trên cơ sở “lỗi” của vợ
chồng. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 (Điều 26), Luật Hôn nhân và gia đình
năm 1986 (Điều 40), Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (Điều 89) và hiện nay là
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (Điều 55 và Điều 56) đã quy định căn cứ ly
hôn theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam trước đây không quy định những căn cứ ly hôn riêng biệt mà quy định căn cứ
ly hôn chung nhất, dựa vào bản chất của quan hệ hôn nhân đã tan vỡ. Nhưng với
Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 đã có sự lồng ghép quy định về căn cứ ly hôn
vào quy định về thuận tình ly hôn cũng như ly hôn theo yêu cầu của một bên.
Như vậy, căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 của Nhà
nước ta được quy định dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, có cơ sở
khoa học và thực tiễn kiểm nghiệm trong mấy chục năm qua, từ khi Nhà nước ta
ban hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959. Khi giải quyết ly hôn, cần hiểu điều
đó nói lên một thực trạng hôn nhân đã tan vỡ, quan hệ vợ chồng không thể tồn tại


15

được nữa, vì “sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài và giả dối” và ly hôn là một giải pháp
tích cực để giải phóng cho vợ chồng cũng như các thành viên khác trong gia đình
khỏi cảnh “bất bình thường” đó, đảm bảo lợi ích của vợ chồng, của gia đình và xã

hội.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
Sau hơn 10 năm đưa vào triển khai, thực hiện Luật HN&GĐ năm 2000 đã đạt
được những thành tựu đáng kể. Nhiều quy định của Luật đã được thực hiện tốt đi
sâu vào nhận thức của người dân. Các nguyên tắc cơ bản của Luật HN&GĐ năm
2000 đã được thực hiện. Hôn nhân được xây dựng trên cơ sở tự nguyện, tiến bộ,
một vợ một chồng, quyền bình đẳng giữa vợ và chồng ngày càng được nâng cao.
Vai trò của người phụ nữ trong gia đình ngày càng được khẳng định và trở nên quan
trọng. Tuy nhiên, thực tế vẫn còn nhiều trường hợp người phụ nữ bị ngược đãi, nạn
bạo hành gia đình vẫn còn. Chính vì vậy, hiện nay số lượng các vụ án về ly hôn
ngày càng gia tăng. Có nhiều vụ án phức tạp và giải quyết kéo dài. Tòa án giải
quyết các vụ án ly hôn phải căn cứ vào các quy định của pháp luật để giải quyết.
Đây chính là nguyên do cơ bản dẫn tới sự ra đời của Luật HN&GĐ năm 2014. Tuy
nhiên, việc xây dựng căn cứ ly hôn như thế nào để đáp ứng được yêu cầu có thể
điều chỉnh được các quan hệ xã hội đang diễn ra là một câu hỏi lớn. Từ những phân
tích trên có thể thấy việc quy định căn cứ ly hôn phải dựa trên một số cơ sở sau:
Thứ nhất, quy định căn cứ ly hôn phải đảm bảo lợi ích của cá nhân, gia đình và
của xã hội, trong đó có quan hệ vợ chồng. Xã hội muốn vững mạnh thì tế bào của
xã hội – gia đình phải ổn định. Nhà nước chỉ chấp nhận cho phép chấm dứt quan hệ
hôn nhân giữa vợ và chồng khi việc ly hôn không trái với lợi ích gia đình. Ví dụ:
trong pháp luật phong kiến, lợi ích của gia đình được chú trọng đứng trên lợi ích của
vợ và chồng, do đó, khi có căn cứ làm ảnh hưởng tới lợi ích của gia đình, thì vợ
chồng được ly hôn.
Thứ hai, căn cứ ly hôn đảm bảo sự công bằng về lợi ích giữa các bên đương sự.
Khi giải quyết ly hôn, cần hiểu điều đó nói lên một thực trạng hôn nhân đã tan vỡ,
quan hệ vợ chồng không thể tồn tại được nữa, vì “sự tồn tại của nó chỉ là bề ngoài
và giả dối” và ly hôn là một giải pháp tích cực để giải phóng cho vợ chồng, đảm bảo
lợi ích của vợ chồng, của gia đình và xã hội. Ly hôn bảo đảm quyền lợi ích các bên,



16

giải thoát xung đột, bế tắc trong đời sống hôn nhân, đảm bảo quyền và lợi ích chính
đáng của các bên trong quan hệ hôn nhân.
Thứ ba, quy định căn cứ ly hôn giúp cho vợ chồng nhận thức, điều chỉnh hành
vi của mình để có thể tự dàn xếp, thỏa thuận để quan hệ vợ chồng tốt đẹp hơn; hoặc
đưa ra quyết định ly hôn. Thông qua đó, là biện pháp hữu hiệu trong việc củng cố
quan hệ gia đình, bảo vệ lợi ích chính đáng của các đương sự và trên hết là bảo vệ
cuộc hôn nhân đã được xác lập, vì chỉ có người trong cuộc mới thực sự hiểu tình
trạng thực tế của cuộc sống vợ chồng.
Thứ tư, căn cứ ly hôn là cơ sở pháp lý để cơ quan có thẩm quyền xem xét giải
quyết việc ly hôn của vợ chồng khi có yêu cầu. Tòa án chỉ giải quyết ly hôn khi việc
ly hôn là cần thiết, phù hợp với thực tế của quan hệ vợ chồng và đảm bảo sự thống
nhất trong việc xét xử. Trường hợp Tòa án xét thấy quan hệ hôn nhân của vợ và
chồng không có đủ căn cứ để đưa ra quyết định, bản án ly hôn thì Tòa án sẽ không
ra quyết định, bản án ly hôn. Đồng thời, Tòa tiến hành cho các bên hòa giải tại cơ
sở, phân tích, giải thích để cho các bên hiểu và suy nghĩ lại.
Thứ năm, căn cứ ly hôn nhằm bình ổn quan hệ hôn nhân, bảo vệ và thúc đẩy sự
phát triển của xã hội, góp phần củng cố chế độ một vợ một chồng, tự nguyện, tiến
bộ, góp phần khẳng định nguyên tắc bình đẳng giữa vợ chồng. Căn cứ ly hôn là cơ
sở đảm bảo sự nhất quán, thống nhất trong việc xây dựng những chế định, những
quy phạm pháp luật HN&GĐ. Khi tế bào gia đình của một xã hội ổn định thì xã hội
đó cũng được ổn định. Các quy định về căn cứ ly hôn được quy định chặt chẽ thì sẽ
góp phần giảm tình trạng ly hôn, khi tình trạng hôn nhân chưa đáp ứng đủ các căn
cứ ly hôn theo pháp luật quy định thì Tòa án sẽ không giải quyết ly hôn. Căn cứ ly
hôn thể hiện sự bình đẳng ở việc pháp luật không “thiên vị” chủ thể nào, pháp luật
quy định quyền yêu cầu ly hôn, đưa ra và chứng minh các căn cứ ly hôn là quyền
của cả vợ và chồng. Điều này được quy định trong Luật HN&GĐ năm 2014 là hoàn
toàn tiến bộ so với pháp luật ở những thời kỳ trước – thiên vị người chồng hơn.
Nhà nước quy định về căn cứ ly hôn, đây là căn cứ pháp lý, công cụ để Tòa án

có thể giải quyết yêu cầu ly hôn một cách chính xác và thỏa đáng. Quy định căn cứ
ly hôn trong pháp luật là cần thiết, có ý nghĩa quan trọng. Tuy vậy, căn cứ ly hôn
được quy định trên cơ sở các điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa trong từng thời kỳ


17

lịch sử. Pháp luật phong kiến đề cao bảo vệ quyền gia trưởng của người đàn ông,
trách nhiệm của người đàn ông. Do đó, pháp luật phong kiến luôn “trọng nam,
khinh nữ” gây ra sự bất bình đẳng trong vấn đề ly hôn giữa vợ và chồng. Căn cứ ly
hôn trên cơ sở đạo đức Nho giáo, đặt ra đối với người đàn ông với vai trò gia trưởng
trong gia đình. Tới thời kỳ thực dân Pháp, chủ nghĩa nhân dân ảnh hưởng tới từng
gia đình, từng quy định pháp lý. Luật cho phép thuận tình ly hôn trong trường hợp
vợ chồng không hợp tính tình. Nhiều quy định của pháp luật hôn nhân thời kỳ Pháp
thuộc có ảnh hưởng rất lớn tới đời sống nhân dân ta. Khi tới thời kỳ xã hội chủ
nghĩa, kinh tế phát triển, vị thế của người phụ nữ ngày càng được nâng cao. Các
quy định của pháp luật về ly hôn nói chung và căn cứ ly hôn nói riêng có sự quy
định cụ thể, rõ ràng hơn, bình đẳng hơn giữa vợ và chồng, nhằm bảo vệ quyền
lợi của các bên.
1.3. Lược sử quy định về căn cứ ly hôn qua các giai đoạn phát triển của
pháp luật về hôn nhân và gia đình
1.3.1. Trong thời kỳ phong kiến
Từ thế kỷ XV, dưới ảnh hưởng của Nho giáo thì đạo tề gia là cơ sở của đạo trị
quốc. Các mối quan hệ cha con, vợ chồng, anh em là ba trong số các mối quan hệ
cơ bản của xã hội. Với sự ra đời của Bộ luật Hồng Đức và sau này là Luật Gia
Long, pháp Luật HN&GĐ đã bắt đầu đề cập về ly hôn một cách khá rõ nét.
Người Việt Nam, về đạo lý luôn luôn mong muốn cuộc hôn nhân lâu dài, bền
vững. Tuy nhiên, pháp luật phong kiến cũng thừa nhận việc chấm dứt hôn nhân do
những nguyên nhân khác nhau.
Trong cổ luật Việt nam, các căn cứ ly hôn thường được biết tới dưới tên gọi

“duyên cớ ly hôn” hay “các trường hợp ly hôn”.
Các duyên cớ ly hôn thời kỳ này thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Nho giáo, nghĩa
là chúng được quy định dựa trên sự bất bình đẳng giữa vợ chồng và nhằm mục đích
bảo vệ quyền lợi gia đình, gia tộc hơn là quyền lợi cá nhân nên chúng được chia làm
ba loại: rẫy vợ, ly hôn bắt buộc và ly hôn thuận tình.
* Rẫy vợ:
Rẫy vợ là việc người chồng được đơn phương bỏ vợ ngoài tầm kiểm soát của
tất cả các thiết chế xã hội. Điều 310 Bộ luật Hồng Đức quy định, nếu người vợ


18

phạm phải một trong các điều “thất xuất” thì chồng phải bỏ vợ, không bỏ sẽ bị tội
biếm. Tuy Bộ luật Hồng Đức không thống kê rõ các trường hợp nào được coi là
“thất xuất”, nhưng Hồng Đức thiện chính thư (Đoạn 161) và Bộ luật Gia Long
(Điều 108) đã nêu rõ, đó là bảy trường hợp sau: không có con, dâm đãng, không thờ
bố mẹ chồng, lắm điều, trộm cắp, ghen tuông và bị ác tật.
Trong quan niệm của xã hội Việt Nam truyền thống, việc hôn nhân không đơn
thuần là việc hai cá nhân tạo lập một gia đình mà hơn thế, nó là việc của hai bên gia
tộc. Đối với cộng đồng gia tộc, mục đích của hôn nhân là để duy trì dòng dõi và thờ
phụng tổ tiên. Trong hoàn cảnh ấy, việc không có con được coi là bất hiếu với cha
mẹ, gây thiệt hại cho lợi ích gia tộc và vì cớ ấy, người chồng được phép đơn
phương rẫy bỏ vợ mình. Cũng trong lợi ích (về mặt tinh thần) của cộng đồng gia tộc
mà việc người vợ ghen tuông hay dâm đãng, nếu người chồng không bỏ thì bại hoại
gia đạo; người vợ phạm tội trộm cắp mà không bỏ thì vạ lây đến chồng; vì lý do
người vợ bị ác tật, khi có việc tế tự sẽ không làm được xôi hay cỗ, ảnh hưởng tới lợi
ích gia đình, người chồng cũng phải bỏ. Có thể nói, với bảy lý do mà người chồng
được đơn phương rẫy vợ các luật gia phong kiến đã hy sinh lợi ích của các cá nhân
để đặt lên trên lợi ích gia đình. Năm trong số bảy duyên cớ rẫy vợ nói trên tuy có
phần lỗi của người vợ dù chúng không hẳn nghiêm trọng nhưng vì lợi ích gia đình,

người chồng được quyền đơn phương ly hôn không cần biết đến ý kiến người vợ
cũng như không cần xét đâu là nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm lỗi của người vợ.
Hai duyên cớ còn lại, không có con và bị ác tật, dù người phụ nữ không hề có lỗi
nhưng nhà lập pháp cũng coi là duyên cớ ly hôn, cũng là vì mục đích để bảo vệ
quyền lợi gia đình. Sự hy sinh quyền lợi cá nhân vợ chồng để bảo vệ quyền lợi gia
đình còn được các nhà lập pháp hướng Nho đẩy xa đến mức mô phỏng hoàn toàn
quy định của pháp luật Trung Hoa, theo đó, nếu người chồng không bỏ vợ trong
trường hợp “thất xuất”, chính bản thân người chồng sẽ bị xử tội biếm (Điều 310 Bộ
luật Hồng Đức, Đoạn 166 Hồng Đức chính thiện thư).
Bên cạnh các trường hợp “thất xuất”, cổ luật Việt Nam còn quy định ba trường
hợp mà người chồng không được bỏ vợ, dù rằng người vợ đã phạm phải “thất xuất”,
đó là: vợ đã để tang nhà chồng được 3 năm; khi vợ chồng lấy nhau nghèo hèn, sau
trở nên giàu có; khi vợ chồng lấy nhau, vợ còn bà con họ hàng, khi bị bỏ, vợ không


×