Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Thụ lý vụ án dân sự và thực tiễn tại các tòa án nhân dân ở tỉnh sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.58 MB, 81 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
01

BLTTDS

02

CTTĐT

: Bộ luật tố tụng dân sự

03

: Cổng thông tin điện tử
NGUYỄN TRƯỜNG DOANH
HĐTPTATC
: Hội đồng thẩm phán Tòa án Tối cao

04

PLTTGQVADS

: Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án dân sự

05


TAND

: Tòa án nhân dân

06

TANDTC

: Tòa án nhân dân Tối cao

07
08

TATC THỤ LÝ VỤ ÁN
: Tòa
án Tối
cao THỰC TIỄN
DÂN
SỰ VÀ
TTDSTẠI CÁC TÒA ÁN
: TốNHÂN
tụng dân
sự Ở TỈNH SƠN LA
DÂN

09

UBND

: Ủy ban nhân dân


10

VADS

: Vụ án dân sự

11

VKS

: Viện Kiểm sát

12

VKSNDTC

: Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN TRƯỜNG DOANH


THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN
TẠI CÁC TÒA ÁN NHÂN DÂN Ở TỈNH SƠN LA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số
: 8380103

Người hướng dẫn khoa học : PGS. TS. PHAN HỮU THƯ

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi
dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Phan Hữu Thư về đề tài “Thụ lý vụ án dân
sự và thực tiễn tại các Tòa án nhân dân ở tỉnh Sơn La”.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn này đảm bảo tính chính
xác và trung thực, nguồn tài liệu được thu thập tại các Tòa án nhân dân ở
tỉnh Sơn La. Những nội dung trong luận văn có sử dụng tài liệu tham khảo
đều được trích dẫn nguồn đầy đủ, chính xác. Đề tài không trùng với bất cứ
đề tài nghiên cứu khoa học khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn
này./.
Tác giả luận văn

Nguyễn Trường Doanh



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
01

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

02

CTTĐT

Cổng thông tin điện tử

03

HĐTPTATC

Hội đồng thẩm phán Tòa án Tối cao

04

PLTTGQVADS

Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án dân sự

05

TAND

Tòa án nhân dân


06

TANDTC

Tòa án nhân dân Tối cao

07

TATC

Tòa án Tối cao

08

TTDS

Tố tụng dân sự

09

UBND

Ủy ban nhân dân

10

VADS

Vụ án dân sự


11

VKS

Viện Kiểm sát

12

VKSNDTC

Viện Kiểm sát nhân dân tối cao


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU................................................................................................................................
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN

1

SỰ............................................................................................................................................................
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thụ lý vụ án dân sự..........................

6
6

1.1.1. Khái niệm của thụ lý vụ án dân sự......................................................................... 6
1.1.2. Đặc điểm của thụ lý vụ án dân sự........................................................................... 10
1.1.3. Ý nghĩa của thụ lý vụ án dân sự.............................................................................. 15
1.2. Nội dung quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về

thụ lý vụ án dân sự...................................................................................................................... 18
1.2.1. Điều kiện thụ lý vụ án dân sự.................................................................................... 18
1.2.2. Trình tự thụ lý vụ án dân sự....................................................................................... 30
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1....................................................................................................... 35
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THỤ LÝ VỤ
ÁN DÂN SỰ TẠI CÁC TÒA ÁN Ở TỈNH SƠN LA, KIẾN NGHỊ
VÀ GIẢI PHÁP............................................................................................................................. 36
2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về thụ lý vụ án dân sự tại các Tòa án
ở tỉnh Sơn La và nguyên nhân của hạn chế vướng mắc...................................... 36
2.1.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về thụ lý vụ án dân sự tại các Tòa án ở
tỉnh Sơn La ......................................................................................................................................... 36
2.1.2. Nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc, bất cập................................................. 51
2.2. Một số kiến nghị về hoàn thiện pháp luật và giải pháp thực
hiện pháp luật về thụ lý vụ án dân sự tại các Tòa án ở tỉnh Sơn La. 54
2.2.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thụ lý vụ án dân sự 54
2.2.2. Một số giải pháp nhằm đảm bảo thực hiện pháp luật về thụ lý vụ
án dân sự tại các Tòa án ở tỉnh Sơn La.............................................................................. 57
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2....................................................................................................... 63
KẾT LUẬN ..................................................................................................................................... 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Quyền dân sự là một quyền quan trọng của các cá nhân, cơ quan, tổ
chức được pháp luật của các nước thừa nhận và ghi nhận trong hệ thống pháp
luật của mỗi nước. Song việc ghi nhận các quyền dân sự của các chủ thể là
chưa đủ, mà pháp luật còn phải quy định cơ chế để bảo vệ quyền dân sự khi

có các tranh chấp, yêu cầu xảy ra. Trong quá trình tham gia các giao dịch dân
sự, nếu quyền dân sự bị xâm phạm hoặc cho rằng quyền dân sự bị xâm phạm
thì các cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự
có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp có quyền khởi kiện
vụ án dân sự tại Tòa án có thẩm quyền. Khi đơn khởi kiện đáp ứng đủ các
điều kiện do pháp luật quy định, Tòa án sẽ thụ lý để giải quyết tranh chấp dân
sự. Vấn đề đặt ra là việc pháp luật quy định các điều kiện, thủ tục thụ lý sao
cho vừa tạo điều kiện thuận lợi cho người dân có thể thực hiện quyền khởi
kiện, vừa tránh tình trạng đương sự khởi kiện không có căn cứ ảnh hưởng đến
quyền và lợi ích của người khác, gây quá tải cho công việc của Tòa án.
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 thì “Tòa án nhân dân có nhiệm
vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân”. Trên cơ sở Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011), Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khóa XIII, đã thông qua Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015,
trong đó các quy định về thụ lý vụ án dân sự được kế thừa và đánh dấu bước
phát triển lập pháp hoàn thiện hơn. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có nhiều
quy định mới về thụ lý vụ án dân sự, bảo đảm cho việc thụ lý giải quyết các
vụ án dân sự được thuận lợi. Tuy vậy, thực tiễn thụ lý các vụ án dân sự tại các
Tòa án nhân dân ở tỉnh Sơn La cho thấy trong việc áp dụng các quy định này
vẫn còn nhiều khó khăn vướng mắc như: chưa có quy định cụ thể về điều kiện
thụ lý, thụ lý đối với các trường hợp bị đơn cố tình dấu địa chỉ, bỏ trốn, các tài
liệu, chứng cứ gửi kèm theo đơn khởi kiện, cách tính tiền tạm ứng án phí...Do


2

đó, cần có hướng dẫn cụ thể, chi tiết hơn nữa từ phía Tòa án tối cao để việc áp
dụng pháp luật được thống nhất trong thực tiễn xét xử. Để góp phần làm rõ

những vấn đề liên quan đến việc thụ lý vụ án dân sự; đồng thời thống nhất
cách hiểu, áp dụng pháp luật trong thực tiễn áp dụng tại các Tòa án nhân dân
ở tỉnh Sơn La, tác giả lựa chọn đề tài “Thụ lý vụ án dân sự và thực tiễn tại
các Tòa án nhân dân ở tỉnh Sơn La” làm luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thụ lý vụ án dân sự không phải là vấn đề mới trong khoa học pháp lý ở
Việt Nam. Các công trình nghiên cứu về nội dung này tương đối nhiều. Tuy
nhiên, các công trình này cũng chỉ đề cập riêng tới vấn đề thụ lý vụ án dân sự
hoặc thụ lý vụ việc dân sự. Đó là các công trình: Đề tài nghiên cứu khoa học
cấp trường về “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện một số chế định
cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam”của Trường Đại học Luật Hà
Nội, năm 2002; Luận văn: “Thụ lý và chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự
theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam” của Đoàn Đức Lương, Đại học Luật
Hà Nội, năm 1998; Luận văn “Thụ lý vụ án dân sự - Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn” của Liễu Thị Hạnh, Đại học Luật Hà Nội, năm 2009; Luận văn
“Thụ lý vụ việc dân sự và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Điện Biên” của Lê Hữu
Khang, Đại học Luật Hà Nội, năm 2016.
Ngoài ra, còn có các đề tài về áp dụng pháp luật nói chung cũng được đề
cập đến ở một số công trình nghiên cứu như: “Áp dụng pháp luật trong việc
giải quyết các vụ án dân sự của Tòa án nhân dân cấp tỉnh ở Việt Nam hiện
nay” của Viện Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị - Hành chính quốc
gia Hồ Chí Minh, năm 2004. Bên cạnh đó, các tạp chí pháp luật chuyên ngành
cũng đã đăng tải nhiều bài viết, bài nghiên cứu, trao đổi ít nhiều liên quan đến
đề tài mà tác giả đã chọn như: “Thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện
trong việc giải quyết các vụ việc về dân sự” của tác giả Tưởng Duy Lượng,
Tạp chí Tòa án nhân dân số 15 tháng 8/2007; “Vấn đề khởi kiện và thụ lý vụ
án dân sự” của tác giả Lê Thị Bích Lan, Tạp chí Luật học, năm 2005 (Số Đặc
san về Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005); “Về việc rút đơn khởi kiện của
đương sự trong tố tụng dân sự” của tác giả Nguyễn Triều Dương, Tạp chí Toà



3

án nhân dân số tháng 11/2009; “Về điều kiện khởi kiện tranh chấp thương mại
thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án trong một vụ án cụ thể” của tác giả
Ngô Đình Quyến, Tạp chí Toà án nhân dân số tháng 3/2008; “Quyền khởi
kiện và việc xác định tư cách tham gia tố tụng” của tác giả Trần Anh Tuấn,
Tạp chí Tòa án nhân dân, số 23/2008; “Xác định thẩm quyền giải quyết của
Tòa án đối với các vụ kiện về tranh chấp đất đai” của tác giả Nguyễn Minh
Hằng, Tạp chí Kiểm sát, số 10/2008; “Những vấn đề cơ bản cần lưu ý khi thụ
lý đơn khởi kiện, đơn phản tố, đơn yêu cầu độc lập” của tác giả Phạm Mạnh
Hùng, Tạp chí Kiểm sát, số 07/2012…
Việc nghiên cứu cho thấy, các công trình trên đây mới chỉ dừng lại ở
việc nghiên cứu về thụ lý vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân
sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011). Do đó, việc nghiên cứu về thụ lý
vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 trên cơ sở so
sánh, đối chiếu với Bộ luật tố tụng dân sự năm 2011 để chỉ ra những điểm
mới của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và những vấn đề cần tiếp tục nghiên
cứu, hoàn thiện là cần thiết. Đặc biệt, đến nay chưa có một công trình nào
nghiên cứu một cách tổng thể, toàn diện liên quan đến việc áp dụng pháp luật
về thụ lý vụ án dân sự được tiếp cận từ thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự
của các Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La. Trước tình hình đó, học viên đã chọn đề
tài “Thụ lý vụ án dân sự và thực tiễn tại các Tòa án nhân dân ở tỉnh Sơn
La” làm luận văn Thạc sĩ của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
* Mục đích của việc nghiên cứu đề tài
- Làm rõ những vấn đề chung về thụ lý vụ án dân sự như: Khái niệm, đặc
điểm, ý nghĩa của thụ lý vụ án dân sự và nội dung các quy định của pháp luật
tố tụng dân sự hiện hành, trong đó chủ yếu là Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
về thụ lý vụ án dân sự.

- Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về thụ lý vụ án dân sự của các
Tòa án nhân dân ở tỉnh Sơn La; trong đó chỉ rõ những hạn chế, vướng mắc
trong thụ lý các vụ án dân sự và nguyên nhân của nó, từ đó đề xuất các kiến
nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thụ lý vụ án dân sự và các kiến nghị nhằm


4

bảo đảm việc áp dụng đúng pháp luật của các Tòa án nhân dân ở tỉnh Sơn La.
* Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu của đề tài, Luận văn đặt ra một
số nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu và phân tích một số vấn đề chung về thụ lý vụ án dân sự
như: khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của thụ lý vụ án dân sự.
- Nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống quy định của pháp luật tố
tụng dân sự về thủ tục thụ lý vụ án dân sự và thực tiễn áp dụng pháp luật về
thụ lý vụ án dân sự tại các Tòa án nhân dân ở tỉnh Sơn La. Kết quả nghiên
cứu nhằm tìm ra những điểm mới, những hạn chế, bất cập trong các quy định
của pháp luật về thụ lý vụ án dân sự và những hạn chế, bất cập trong thực tiễn
áp dụng pháp luật về thụ lý vụ án dân sự của các Tòa án nhân dân ở tỉnh Sơn
La, đồng thời chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc đó.
- Đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam về thụ lý vụ án dân sự và các giải pháp nhằm đảm bảo cho việc áp dụng
đúng pháp luật về thụ lý vụ án dân sự của các Tòa án nhân dân ở tỉnh Sơn La.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Nghiên cứu các quy định của Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện
hành về điều kiện, thủ tục thụ lý vụ án dân sự. Tìm hiểu thực tiễn áp dụng
pháp luật về vấn đề này tại các Tòa án nhân dân ở tỉnh Sơn La.
* Phạm vi nghiên cứu

Để đảm bảo tính toàn diện, luận văn nghiên cứu cả việc thụ lý vụ án theo
đơn khởi kiện của nguyên đơn và việc thụ lý yêu cầu phản tố của bị đơn và
yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Luận văn chỉ đi sâu vào nghiên cứu thụ lý vụ án dân sự theo thủ tục sơ
thẩm, mà không nghiên cứu về thụ lý vụ án dân sự theo thủ tục phúc thẩm,
giám đốc thẩm, tái tẩm và thụ lý việc dân sự.
Do luận văn được thực hiện tại thời điểm Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015 mới có hiệu lực được hơn 2 năm, nên tác giả sẽ nghiên cứu về thực tiễn
áp dụng các quy định của pháp luật về thụ lý vụ án dân sự của các Tòa án


5

nhân dân ở tỉnh Sơn La từ năm 2014 đến nay để so sánh, đối chiếu thực tiễn
áp dụng các quy định của pháp luật về thụ lý vụ án dân sự của các Tòa án
nhân dân ở tỉnh Sơn La trước khi Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có hiệu lực
và sau khi Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có hiệu lực áp dụng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật. Luận
văn vận dụng cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu
như: Phân tích, tổng hợp, lôgíc, lịch sử, qui nạp, tham khảo các ý kiến của các
chuyên gia, sử dụng kết quả thống kê... nhằm làm sáng tỏ các vấn đề trong nội
dung luận văn.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận được chia làm hai chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về thụ lý vụ án dân sự.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về thụ lý vụ án dân sự tại các
Tòa án nhân dân ở tỉnh Sơn La và kiến nghị.



6

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thụ lý vụ án dân sự
1.1.1. Khái niệm thụ lý vụ án dân sự
Để làm rõ khái niệm thụ lý vụ án dân sự, cần làm rõ khái niệm “vụ án
dân sự” (VADS) và “thụ lý”. Thuật ngữ VADS được đề cập trong Pháp lệnh
thủ tục giải quyết vụ án dân sự năm 1989 (PLTTGQVADS) bao gồm các
tranh chấp, yêu cầu dân sự được Tòa án thụ lý giải quyết như: Tranh chấp về
quyền sở hữu, hợp đồng, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng hoặc những
tranh chấp khác, việc xác định công dân đã chết hoặc mất tích…. Bởi theo
PLTTGQVADS không có sự phân biệt giữa quy định của pháp luật về thủ tục
giải quyết vụ án dân sự và việc dân sự.
BLTTDS năm 2004 được ban hành, trong đó Điều 1 quy định: “Bộ luật
tố tụng dân sự quy định những nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự; trình
tự, thủ tục khởi kiện để Toà án giải quyết các vụ án về tranh chấp dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây gọi chung là vụ
án dân sự) và trình tự, thủ tục yêu cầu để Toà án giải quyết các việc về yêu
cầu dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động (sau đây
gọi chung là việc dân sự); trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự, việc dân
sự (sau đây gọi chung là vụ việc dân sự) tại Toà án”. Như vậy, BLTTDS năm
2004 quy định về nguyên tắc, trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc dân sự
(VVDS) và thuật ngữ vụ việc dân sự đã được BLTTDS ghi nhận chính thức.
Khái niệm vụ việc dân sự bao gồm VADS và việc dân sự; trong đó, VADS là
các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh
thương mại và lao động được quy định thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa
án theo thủ tục TTDS và được Tòa án thụ lý giải quyết. Việc dân sự là việc

riêng của các cá nhân, cơ quan, tổ chức không có tranh chấp nhưng yêu cầu
Tòa án công nhận hoặc không công nhận sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại
và lao động của mình hoặc của cá nhân, cơ quan, tổ chức khác; yêu cầu Tòa


7

án công nhận hoặc không công nhận cho mình quyền về dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh thương mại và lao động được pháp luật quy định thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục TTDS và được Tòa án thụ lý,
giải quyết. Việc phân biệt vụ án dân sự và việc dân sự để áp dụng các thủ tục
tố tụng khác nhau để giải quyết.
Như vậy, vụ án dân sự là những tranh chấp phát sinh từ những quan hệ
pháp luật dân sự dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại và lao
động được Tòa án thụ lý, giải quyết theo đơn khởi kiện của các cá nhân, cơ
quan, tổ chức nhằm yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình, của người khác, lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước.
Thụ lý VADS là hoạt động của cơ quan có thẩm quyền giải quyết các
VADS. Khái niệm “thụ lý” VADS có mối quan hệ biện chứng với quyền khởi
kiện của chủ thể pháp luật. Có thể nói, chỉ khi quyền khởi kiện của chủ thể
pháp luật được thực thi thì mới có hoạt động thụ lý VADS của các cơ quan
tiến hành tố tụng. Và ngược lại, chỉ khi hoạt động thụ lý được thực hiện thì
quyền khởi kiện của chủ thể pháp luật mới được thực hiện và quyền, lợi ích
hợp pháp của chủ thể mới có khả năng được đảm bảo.
Theo nghĩa chung nhất, thì “thụ lý là tiếp nhận giải quyết vụ kiện”1, là
việc Toà án bắt đầu nhận trách nhiệm giải quyết VADS.
Dưới góc độ pháp lý, “thụ lý vụ án là bắt đầu tiếp nhận một vụ việc để
xem xét giải quyết. Theo pháp luật tố tụng dân sự, thụ lý vụ án là việc Toà
dân sự nhận đơn yêu cầu của đương sự đề nghị xem xét, giải quyết một vụ

việc để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, tổ chức, cơ
quan”2. Theo cách hiểu này thì thụ lý VADS là việc Toà án tiếp nhận đơn đề
nghị của đương sự để xem xét giải quyết. Tuy nhiên, cách giải thích này chưa
phân biệt được thụ lý VADS và thụ lý việc dân sự.
Khi nghiên cứu về khái niệm thụ lý VADS cũng tồn tại các quan điểm
khác nhau như:
1

Viện Ngôn ngữ học: Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng - Trung tâm Từ điển học, Hà Nội - Đà
Nẵng, tr .961.
2
Viện Khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp: Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển Bách khoa - Nxb Tư pháp,
Hà Nội, 2006, tr 732.


8

Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Thụ lý vụ án dân sự là hành vi tố tụng của
Toà án chấp nhận đơn khởi kiện của đương sự và như vậy đã chính thức ràng
buộc trách nhiệm của các chủ thể vào các quan hệ tố tụng. Việc thụ lý là bước
khởi điểm làm phát sinh các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Mặc dù vậy, nói
một cách chính xác thì thụ lý gồm có nhiều hành vi tố tụng được diễn ra trong
thời hạn nhất định, do đó nó được coi như là một giai đoạn tố tụng nhỏ”3.
Quan điểm thứ hai cho rằng: “Thụ lý vụ án dân sự là việc Toà án nhận
đơn khởi kiện của người khởi kiện và vào sổ thụ lý vụ án để giải quyết”4.
Có thể thấy, các quan điểm này đã nói lên một cách tương đối thống nhất
về nội dung cơ bản của khái niệm thụ lý VADS, đó là việc chấp nhận đơn
khởi kiện của đương sự để xem xét. Tuy nhiên, ở quan điểm thứ nhất tác giả
mới chỉ đề cập đến việc Toà án chấp nhận đơn khởi kiện của đương sự nhưng
chưa đề cập đến các hoạt động cơ bản của việc thụ lý VADS. Quan điểm thứ

hai đã nêu được các bước cơ bản của việc thụ lý VADS bao gồm nhận đơn và
vào sổ thụ lý. Song quan điểm thứ hai cũng chưa phân biệt được thụ lý VADS
và thụ lý việc dân sự. Hơn nữa thụ lý VADS không chỉ là việc nhận đơn khởi
kiện và vào sổ thụ lý vụ án, mà để vào sổ thụ lý vụ án phải trải qua thủ tục
xem xét đơn khởi kiện.
Theo quy định của pháp luật TTDS, khi có tranh chấp dân sự thì người
có quyền khởi kiện phải làm đơn khởi kiện để yêu cầu Tòa án có thẩm quyền
thụ lý, giải quyết nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính mình hay
của người khác. Tòa án phải tiến hành thụ lý và giải quyết theo một trình tự,
thủ tục do pháp luật quy định đối với các đơn khởi kiện của các chủ thể có
quyền. Thông thường, các chủ thể có quyền lựa chọn Tòa án để yêu cầu bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi có mẫu thuẫn, tranh chấp phát sinh
từ lĩnh vực dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án....(Khác với yêu
cầu giải quyết việc dân sự, các chủ thể sẽ làm đơn yêu cầu giải quyết việc dân
sự và Tòa án sẽ tiến hành thụ lý đơn yêu cầu theo thủ tục khác với thủ tục thụ
3

Tống Công Cường, Luật tố tụng dân sự Việt Nam, nghiên cứu so sánh, NXB Đại học quốc gia
TP. Hồ Chí Minh; tr 315.
4
Trường Đại học Luật Hà Nội (2012) Giáo trình Luật Tố tụng dân sự, NXB CAND, Hà Nội;
tr 247.


9

lý VADS). Khi nhận được đơn khởi kiện và các chứng cứ, tài liệu kèm theo thì
Toà án phải vào sổ nhận đơn và xem xét trong thời hạn do pháp luật quy định.
Tòa án sẽ phải kiểm tra tính đầy đủ và hợp pháp của hồ sơ khởi kiện, xác định
các điều kiện để thụ lý VADS như: điều kiện về quyền khởi kiện của chủ thể;

điều kiện về thẩm quyền; điều kiện sự việc chưa được giải quyết bằng bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có
thẩm quyền khác… Trong trường hợp thấy vụ án thuộc thẩm quyền của mình
thì Toà án phải thông báo cho người khởi kiện biết để họ nộp tiền tạm ứng án
phí (trừ trường hợp được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí).
Sau khi người khởi kiện nộp cho Toà án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí thì
Toà án vào sổ thụ lý VADS. Các hoạt động đó của Toà án được gọi là trình
tự, thủ tục thụ lý VADS.
Chủ thể xem xét đơn khởi kiện, tài liệu chứng cứ để quyết định có thụ lý
hay không thụ lý, luật TTDS không quy định cụ thể người có thẩm quyền của
Tòa án có trách nhiệm thụ lý VADS xem xét đơn khởi kiện. Ở Việt Nam,
trước BLTTDS năm 2015, pháp luật TTDS không quy định cụ thể người có
thẩm quyền của Tòa án có quyền và trách nhiệm tiến hành thụ lý VADS là ai.
Cho đến BLTTDS năm 2015, quy định người có thẩm quyền xem xét thụ lý
VADS là Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện.
Thụ lý VADS là công việc đầu tiên của Toà án trong quá trình tố tụng.
Nếu không có việc thụ lý vụ án thì Toà án sẽ không có các bước tiếp theo của
quá trình tố tụng. Thụ lý VADS bao gồm các hoạt động cơ bản là nhận đơn
khởi kiện, xem xét và vào sổ thụ lý vụ án. Các hoạt động này bao gồm nhiều
công đoạn nhỏ như tiếp nhận đơn khởi kiện, kiểm tra nội dung đơn đã đầy đủ
điều kiện của luật định hay chưa, Toà án nhận những tài liệu chứng cứ ban
đầu kèm theo đơn khởi kiện, thông báo về việc nộp tiền tạm ứng án phí và
vào sổ thụ lý....
Như vậy, thời điểm Tòa án đã vào sổ thụ lý VADS là cơ sở pháp lý để
ràng buộc các chủ thể vào trong một mối quan hệ cụ thể được điều chỉnh bằng
pháp luật TTDS. Trong mối quan hệ này, Toà án là chủ thể thực hiện quyền
lực nhà nước thông qua việc thụ lý giải quyết tranh chấp và yêu cầu dân sự.


10


Các quyết định của Toà án có tính chất bắt buộc đối với các bên. Hoạt động
này làm phát sinh quyền và nghĩa vụ tố tụng của các chủ thể và đặt trách
nhiệm giải quyết vụ án cho Toà án trong đúng thời hạn luật định. Thời điểm
thụ lý VADS cũng là thời điểm bắt đầu tính thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm.
Thụ lý VADS có mối quan hệ mật thiết với các hoạt động tố tụng khác.
Toà án chỉ tiến hành các công tác chuẩn bị xét xử sơ thẩm dân sự; quyết định
đưa vụ án ra xét xử, mở phiên tòa dân sự sơ thẩm sau khi đã thụ lý vụ án. Các
yêu cầu dân sự trong nội bộ nhân dân thường được giải quyết dứt điểm khi có
cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhận trách nhiệm giải quyết. Bằng việc thụ
lý VADS, Toà án đã chính thức xác nhận thẩm quyền và trách nhiệm giải
quyết VADS theo quy định của pháp luật.
Như vậy, thụ lý VADS là việc Toà án tiếp nhận, xem xét, chấp nhận
đơn khởi kiện của người khởi kiện khi đã thỏa mãn các điều kiện do pháp
luật quy định và vào sổ thụ lý để giải quyết VADS theo quy định của pháp
luật TTDS.
1.1.2. Đặc điểm thụ lý vụ án dân sự
- Thứ nhất, thụ lý VADS là việc bảo đảm quyền khởi kiện của cá nhân,
cơ quan, tổ chức:
Quyền khởi kiện là một trong các quyền dân sự của con người. Khi
tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự, tranh chấp tất yếu sẽ xảy ra và dẫn
đến nhu cầu có cơ quan, tổ chức đứng ra giải quyết tranh chấp đó. Tuyên
ngôn toàn thế giới về nhân quyền của Liên hợp quốc ngày 19/12/1948 đã
khẳng định: “Mọi người đều có quyền khiếu nại có hiệu quả đến các cơ quan
pháp lý quốc gia có thẩm quyền chống lại những hành vi vi phạm các quyền
căn bản mà Hiến pháp và luật pháp đã thừa nhận”5. Trong lĩnh vực dân sự,
để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, các chủ thể có quyền thực hiện
các biện pháp khác nhau để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình như
tự bảo vệ hoặc yêu cầu Tòa án hoặc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
khác bảo vệ. Khởi kiện là hành vi đầu tiên của các cá nhân, cơ quan, tổ chức

tham gia vào quan hệ pháp luật TTDS, là cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ
5

. Viện thông tin khoa học xã hội (1998), Quyền con người - Các văn kiện quan trọng, Hà Nội, tr.146.


11

pháp luật TTDS6. Khởi kiện trước hết là quyền dân sự của các chủ thể, là
phương thức mà các chủ thể yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền dân sự cho mình,
cho nhà nước hoặc người khác. Tuy nhiên, quyền khởi kiện của các chủ thể
chỉ làm phát sinh nghĩa vụ thụ lý vụ việc của Tòa án khi việc khởi kiện phải
tuân thủ đúng và đủ các điều kiện khởi kiện nhất định tùy theo vào pháp luật
của mỗi nước. Việc xem xét, thụ lý yêu cầu khởi kiện của các cá nhân, cơ
quan, tổ chức chính là sự bảo đảm của nhà nước đối với việc thực hiện các
quyền dân sự của các chủ thể đã được pháp luật ghi nhận. Như vậy, khởi kiện
và thụ lý vụ việc dân sự là những hoạt động tố tụng đầu tiên của sơ thẩm dân
sự, là tiền đề cho các hoạt động tố tụng tiếp theo. Kể từ thời điểm Tòa án thụ
lý sẽ phát sinh quyền, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vào quá trình giải
quyết vụ việc dân sự và bắt đầu giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm. Hiện nay
nhiều nước trên thế giới, trong đó Điều 4 của BLTTDS năm 2015 của Việt
Nam đều quy định về nghĩa vụ giải quyết vụ việc của Tòa án ngay cả khi
chưa có các quy định pháp luật điều chỉnh các quan hệ tranh chấp này nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể tham gia tố tụng và sẽ có
những chế tài đối với việc từ chối giải quyết vụ việc dân sự. Quy định nhằm
bảo đảm rằng mọi yêu cầu khởi kiện của người dân đều được Tòa án xem xét,
giải quyết góp phần bảo vệ tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự.
- Thứ hai, thụ lý VADS được thực hiện trên cơ sở đơn khởi kiện của cá
nhân, cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật:
Đặc điểm này xuất phát từ đặc trưng của quan hệ dân sự, luôn đề cao sự

tự thoả thuận, tự quyết định của các cá nhân, cơ quan, tổ chức. Điều này có
thể hiểu dù có tranh chấp, mâu thuẫn dân sự diễn ra hay có những sự kiện
pháp lý xảy ra làm căn cứ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của một chủ thể
nào đó...; nhưng nếu các đương sự, chủ thể không yêu cầu Toà án giải quyết
mâu thuẫn, công nhận sự kiện pháp lý thì Toà án cũng không thể tiến hành
hoạt động thụ lý VADS. Và mặc dù chủ thể có yêu cầu Tòa án giải quyết
những tranh chấp dân sự nhưng không phải mọi trường hợp Tòa án cũng chấp
nhận yêu cầu ấy. Vì bên cạnh việc thỏa mãn những điều kiện khác để Tòa án
6

Giáo trình luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Trường Đại học Luật hà Nội, Nxb Công an Nhân dân.


12

thụ lý thì người khởi kiện phải chứng minh được mình có quyền khởi kiện
theo quy định của pháp luật. Những người không liên quan (không chứng
minh được quyền khởi kiện) như không phải là các bên có quyền và lợi ích
hay nghĩa vụ trong quan hệ pháp luật tranh chấp… thì không có quyền này,
trừ một số trường hợp đặc biệt. Những trường hợp đặc biệt có thể là: bảo vệ
lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nước, hay bảo vệ lợi ích những người chưa
hoặc không có khả năng thực hiện quyền khởi kiện, quyền yêu cầu của
mình.... Tuy vậy, điều này không có nghĩa là Tòa án tự ý thụ lý VADS, mà
Tòa án chỉ thụ lý khi có người yêu cầu. Đây là nét khác biệt của TTDS so với
tố tụng hình sự, vì ở tố tụng hình sự, cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện việc
giải quyết vụ án thường xuất phát từ quyết định khởi tố của cơ quan có thẩm
quyền do mối quan hệ cần giải quyết là giữa Nhà nước và người thực hiện
hành vi phạm tội. Còn trong TTDS, khi quyền và lợi ích bị xâm phạm thì chủ
thể có quyền và lợi ích đó có quyền khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền
xem xét giải quyết để bảo vệ cho mình và khi đó Tòa án mới thực hiện chức

năng, nhiệm vụ của mình như quy định trong Hiến pháp và Luật tổ chức
TAND. Bên cạnh đó, để hạn chế những trường hợp lợi dụng quyền khởi kiện
để xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì pháp luật
cũng đặt ra giới hạn về phạm vi người có quyền khởi kiện, yêu cầu đó phải là
những người có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm và kèm theo yêu cầu
về năng lực TTDS. Đây là nét khác biệt của TTDS so với tố tụng hình sự. Vì
ở tố tụng hình sự cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện việc giải quyết vụ án
thường xuất phát từ quyết định khởi tố của cơ quan có thẩm quyền nhằm bảo
vệ lợi ích xã hội, lợi ích công cộng, lợi ích của công dân mà đối với một số tội
phạm dù có yêu cầu hay không họ vẫn tiến hành thụ lý điều tra...
- Thứ ba, thụ lý VADS là một hoạt động do Tòa án có thẩm quyền
thực hiện:
Xét xử là một trong những chức năng của TAND nhằm bảo vệ công lý,
quyền con người, quyền công dân đã được Hiến pháp quy định. Trong lĩnh
vực tố tụng dân sự, Tòa án có thẩm quyền xét xử, giải quyết các tranh chấp
dân sự do pháp luật TTDS quy định. Tuy nhiên, đối với một tranh chấp dân


13

sự cụ thể thì Tòa án nào có thẩm quyền giải quyết phải tuân theo các nguyên
tắc về thẩm quyền theo cấp và lãnh thổ. Việc quy định thẩm quyền giải quyết
vụ án dân sự của Tòa án có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giải quyết hiệu
quả các vụ án, đảm bảo cho hoạt động bình thường và hợp lý của bộ máy nhà
nước. Đồng thời, việc phân định thẩm quyền giữa các Tòa án cũng góp phần
cho các Tòa án thực hiện đúng nhiệm vụ và người dân dễ dàng thực hiện
quyền khởi kiện. Thẩm quyền của Tòa án được xác định một cách chính xác
sẽ tránh được sự chồng chéo trong việc thực hiện nhiệm vụ của Tòa án, góp
phần giải quyết đúng đắn, tạo điều kiện cho các đương sự tham gia tố tụng
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Việc khởi kiện của chủ thể khởi

kiện được Tòa án chấp nhận khi đơn khởi kiện được gửi đến đúng Tòa án có
thẩm quyền. Thẩm quyền dân sự của Tòa án được xác định theo thẩm quyền
loại việc, thẩm quyền theo cấp, thẩm quyền theo lãnh thổ và được quy định cụ
thể trong pháp luật tố tụng dân sự. Nếu người khởi kiện gửi đơn khởi kiện đến
Tòa án không đúng thẩm quyền thì Tòa án sẽ trả lại đơn khởi kiện hoặc
chuyển đơn đến Tòa án có thẩm quyền thụ lý đơn khởi kiện. Như vậy, thụ lý
VADS là một hoạt động do Tòa án có thẩm quyền thực hiện, nghĩa là VADS
đó phải thuộc thẩm quyền chung của Tòa án, đúng thẩm quyền theo cấp và
thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án. Khi thỏa mãn cả ba điều kiện về thẩm
quyền thì Tòa án mới tiến hành thủ tục thụ lý vụ án; nếu không thỏa mãn thì
Tòa án sẽ phải thực hiện chuyển đơn khởi kiện đến Tòa án có thẩm quyền
xem xét, giải quyết hoặc trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện.
- Thứ tư, thụ lý VADS là hoạt động đầu tiên của quá trình TTDS xác
nhận trách nhiệm giải quyết vụ án dân sự của Tòa án:
Thụ lý VADS thực chất là việc Tòa án nhận đơn khởi kiện để xem xét,
giải quyết. Khi đơn khởi kiện được nộp đến Tòa án thì Tòa án xem xét đơn
khởi kiện và có thể quyết định: trả lại đơn khởi kiện; chuyển đơn khởi kiện
đến cho Tòa án có thẩm quyền hoặc tiến hành thủ tục thụ lý vụ án.
Việc Tòa án chấp nhận tiến hành thụ lý vụ án đồng nghĩa với việc Tòa án
đã xác nhận trách nhiệm giải quyết vụ án thuộc về mình mà không phải thuộc
về một cơ quan Nhà nước nào khác. Từ đây, các mối quan hệ pháp luật tố


14

tụng sẽ được phát sinh, các chủ thể sẽ bị ràng buộc với nhau và mối quan hệ
đó sẽ được điều chỉnh bằng các quy định của pháp luật TTDS. Trong mối
quan hệ này, Tòa án là chủ thể thực hiện quyền lực nhà nước thông qua việc
thụ lý, giải quyết tranh chấp và quyết định thụ lý của Tòa án có tính chất bắt
buộc đối với các bên.

- Thứ năm, thụ lý VADS bao gồm các hoạt động cơ bản là tiếp nhận,
xem xét đơn khởi kiện; xem xét các điều kiện thụ lý và vào sổ thụ lý vụ án
để giải quyết:
Các hoạt động này bao gồm nhiều công đoạn nhỏ và được tiến hành theo
một trình tự và thời hạn nhất định như tiếp nhận đơn khởi kiện, kiểm tra nội
dung đơn đã đầy đủ điều kiện luật định hay chưa, Toà án nhận những tài liệu
chứng cứ ban đầu kèm theo đơn khởi kiện, thông báo về việc nộp tiền tạm
ứng án phí... và cuối cùng là việc vào sổ thụ lý VADS. Thời hạn thụ lý vừa
phải bảo đảm đủ cho Tòa án xem xét đơn khởi kiện một cách thận trọng, vừa
tránh kéo dài quá trình tố tụng.
- Thụ lý VADS phải được thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng
dân sự:
Các bước của thủ tục thụ lý VADS vừa phải bảo đảm cho việc Tòa án
thụ lý VADS chặt chẽ vừa phải bảo đảm quyền khởi kiện của người khởi
kiện. Tương tự như mọi hoạt động tố tụng khác, khi thực hiện thụ lý VADS,
Toà án đều phải tuân theo đầy đủ, chính xác mọi quy định của pháp luật
TTDS. Các vấn đề về chủ thể có quyền khởi kiện, thẩm quyền giải quyết của
Toà án, thu tiền tạm ứng án phí, hình thức của đơn khởi kiện, đơn yêu cầu,
việc trả lại đơn khởi kiện, thời hạn thông báo việc thụ lý... đều phải đảm bảo
tuân theo các quy định về điều kiện, trình tự, thủ tục, thời gian, cách thức thực
hiện... đã được quy định cụ thể trong BLTTDS. Ngoài ra, điều kiện để vụ án
được thụ lý còn phải tuân theo các quy định pháp luật về hôn nhân và gia
đình, lao động, thương mại, đất đai... Mọi trường hợp vi phạm các quy định
của pháp luật TTDS về thụ lý vụ án, chẳng hạn như thụ lý vụ án khi vụ án
chưa thoả mãn các điều kiện khởi kiện, trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu
không có lý do chính đáng, khách quan... đều là sự vi phạm pháp luật, ảnh


15


hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Tòa án chỉ thực hiện
hoạt động thụ lý khi việc khởi kiện của các chủ thể có quyền khởi kiện thỏa
mãn các điều kiện thụ lý theo quy định của pháp luật TTDS.
1.1.3. Ý nghĩa của việc thụ lý vụ án dân sự
- Thụ lý VADS là một bảo đảm của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền
con người, quyền và lợi ích hợp của công dân:
Bản chất cốt lõi của việc người dân đi kiện, hay yêu cầu Toà án công
nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý nào đó, xét cho cùng đều là
nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Việc ghi nhận các
quy định về thụ lý VADS thể hiện sự bảo đảm của nhà nước trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trên thực tế. Tuyên ngôn thế giới về
nhân quyền năm 1948 của Đại hội đồng Liên hợp quốc đã khẳng định: “Khi
một người bị xâm phạm đến quyền và lợi ích thì họ có quyền yêu cầu cơ quan
tài phán bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đó”. Vì vậy, khi có vấn đề pháp lý
phát sinh, người dân tìm đến Toà án (cơ quan có thẩm quyền xét xử của Nhà
nước) chính là thể hiện mong muốn được Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp công bằng cho họ. Khi Tòa án chấp nhận giúp họ giải quyết những
khó khăn này bằng việc thụ lý giải quyết VADS chính là sự tôn trọng quyền
con người, quyền công dân của Nhà nước. Điều này là một minh chứng khẳng
định phương châm, chức năng, nhiệm vụ, vai trò và bản chất Nhà nước cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước “của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân”. Ngoài ra, những quy định pháp luật về thụ lý VADS của Tòa án
còn là tiền đề để phòng ngừa và ngăn chặn mọi hành vi, mọi sự xâm phạm
đến quyền và lợi ích của người khác.
- Thụ lý vụ việc dân sự chính là cơ sở pháp lý để Toà án tiến hành các
hoạt động tố tụng, giải quyết VADS:
Mỗi cơ quan, tổ chức trong hệ thống cơ quan Nhà nước đều được Nhà
nước trao quyền và giới hạn quyền khi thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
mình. Toà án cũng không phải ngoại lệ. Tòa án được thiết lập để thực hiện
chức năng tư pháp của Nhà nước, tức là có chức năng xét xử các vụ án theo

thẩm quyền quy định, thụ lý VADS chính là cơ sở pháp lý để Toà án tiến


16

hành các hoạt động tố tụng, giải quyết VADS bởi lẽ Toà án chỉ được tiến
hành hoạt động tố tụng giải quyết VADS khi đã thụ lý. Hơn nữa, việc làm tốt
các hoạt động thụ lý sẽ tạo tiền đề để giải quyết vụ việc nhanh chóng, hiệu
quả, chính xác.
- Thời điểm thụ lý VADS là thời điểm bắt đầu tính thời hạn giải quyết
VADS nhằm xác định trách nhiệm của Tòa án trong việc đảm bảo VADS được
giải quyết trong thời hạn mà pháp luật quy định:
Kể từ thời điểm Tòa án thụ lý VADS, quan hệ tố tụng (sự ràng buộc
pháp lý) giữa Tòa án - cơ quan có thẩm quyền nhận trách nhiệm giải quyết
mâu thuẫn hoặc xem xét thực hiện yêu cầu của đương sự và đương sự phát
sinh. Từ thời điểm này, Toà án sẽ phải thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ
của mình khi tiến hành các thủ tục để giải quyết giải quyết vụ việc dân sự.
Thời hạn giải quyết vụ việc được đặt ra là một điều hoàn toàn tất yếu. Bởi vì,
nếu không xác định thời hạn giải quyết VADS sẽ dẫn đến tình trạng quyền và
lợi ích hợp pháp của người dân không được bảo vệ kịp thời. Giải quyết
VADS quá hạn dẫn đến tình trạng tài liệu, chứng cứ dễ bị thất lạc hơn, người
bị kiện cũng như người đi kiện tốn kém nhiều thời gian, công sức cho vụ kiện
hơn nên gây ra tâm lý chán nản, sự hợp tác giữa các đương sự với nhau và với
Toà án kém đi... Vì thế cũng tạo nhiều khó khăn hơn cho Tòa án trong quá
trình giải quyết vụ án. Hơn thế nữa, điều này còn có thể dẫn đến tình trạng
thiếu trách nhiệm của Toà án trong việc giải quyết vụ việc, gây tồn đọng án
mà mâu thuẫn, yêu cầu của người dân lại không được giải quyết triệt để... Do
đó, để tính thời hạn giải quyết VADS, người ta cần một mốc thời gian cụ thể,
hợp lý sao cho vụ việc được giải quyết tính từ thời điểm đó, vừa đảm bảo giải
quyết nhanh chóng, kịp thời đồng thời đảm bảo cho Toà án có khoảng thời

gian hợp lý để tiến hành nghiên cứu hồ sơ VADS và Tòa án có thể ra một bản
án, quyết định đúng đắn, chính xác. Mốc thời gian để tính thời hạn giải quyết
VADS chính là thời điểm Toà án thụ lý VADS.
- Thụ lý VADS là cơ sở cho các hoạt động tố tụng tiếp theo:
Các hoạt động tố tụng giải quyết VADS như hòa giải, thu thập chứng cứ,
xét xử… chỉ có thể được tiến hành nếu Tòa án đã thụ lý VADS. Vì thế thụ lý


17

VADS là cơ sở pháp lý để Toà án tiến hành các hoạt động tố tụng giải quyết
yêu cầu khởi kiện và yêu cầu việc dân sự của người có quyền và lợi ích. Toà
án chỉ được tiến hành các bước tiếp theo của quá trình tố tụng nếu đã thụ lý
vụ án. Nếu Tòa án làm tốt hoạt động thụ lý sẽ tạo tiền đề giải quyết vụ việc
nhanh chóng, chính xác, hiệu quả.
- Thụ lý vụ việc dân sự là cơ sở để Toà án tính thời hạn để giải quyết yêu
cầu khởi kiện và yêu cầu dân sự:
Pháp luật quy định một thời hạn nhất định để giải quyết VADS và thời
hạn đó sẽ được bắt đầu tính kể từ thời điểm thụ lý. Nếu Tòa án thực hiện đúng
thủ tục thụ lý VADS thì quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự sẽ được giải
quyết nhanh chóng hơn. Về phía cơ quan Tòa án, tình trạng VADS tồn đọng,
quá trình giải quyết VADS, việc dân sự kéo dài sẽ được hạn chế. Và trên cơ
sở hoạt động thụ lý VADS đúng thủ tục, đúng thời gian, đúng đối tượng, Tòa
án sẽ kịp thời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự, đảm bảo pháp
luật được thực thi nghiêm túc trên thực tế. Và điều này, một mặt cũng thể hiện
chức năng bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân của Tòa án.
- Thụ lý VADS có ý nghĩa thiết thực, đảm bảo việc bảo vệ kịp thời
những quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ pháp luật
dân sự:

Việc thụ lý không chỉ làm phát sinh trách nhiệm của Toà án với người
dân, mà còn làm phát sinh tư cách của các chủ thể trong quan hệ pháp luật
TTDS, những người này sẽ có những quyền và nghĩa vụ tố tụng do pháp luật
TTDS quy định. Do đó, khi vụ án đã được thụ lý, điều này cũng có ý nghĩa
tạo nên mối quan hệ ràng buộc giữa các đương sự với nhau, giữa các đương
sự với Toà án... và làm sự phát sinh một số quyền và nghĩa vụ mới cho các
đương sự theo quy định của pháp luật trong suốt quá trình (các giai đoạn, thủ
tục) giải quyết VADS của Tòa án.
Quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể là vấn đề nhân quyền luôn
được các quốc gia trên thế giới quan tâm và được ghi nhận trong pháp luật
mỗi quốc gia. Tuy nhiên, chỉ công nhận quyền và lợi ích hợp pháp của các


18

chủ thể trong các quy định của pháp luật là chưa đầy đủ, mà điều quan trọng
và cơ bản nhất là cần phải thiết lập cơ chế thực hiện và bảo vệ chúng trong
trường hợp bị xâm phạm7. Do đó, khi quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm
hoặc tranh chấp thì các chủ thể có thể lựa chọn phương thức khởi kiện để yêu
cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, đó mới chỉ
là ghi nhận cơ chế giải quyết tranh chấp về mặt nguyên tắc. Để quyền yêu cầu
Tòa án giải quyết các VADS được đảm bảo một cách tuyệt đối thì nhà làm
luật phải có những quy định cụ thể về trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu của
cá nhân, cơ quan, tổ chức cũng như trách nhiệm của Tòa án khi quyền hiến
định nêu trên của đương sự không được đảm bảo. Nếu vấn đề này không được
xác định rõ trong những quy định của pháp luật thì quyền được yêu cầu Tòa
án bảo vệ sẽ không đảm bảo... Do đó, pháp luật đã đặt ra các quy định cụ thể
về trình tự, thủ tục giải quyết VADS nói chung, trong đó có thủ tục thụ lý
VADS nói riêng để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người dân trên
thực tế.

1.2. Nội dung quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về
thụ lý vụ án dân sự8
1.2.1. Điều kiện thụ lý vụ án dân sự
Mặc dù, BLTTDS không quy định cụ thể về điều kiện thụ lý VADS; tuy
nhiên, qua nghiên cứu các quy định của BLTTDS về khởi kiện và trả lại đơn
khởi kiện cho thấy, để đơn khởi kiện của các cá nhân, cơ quan, tổ chức được
Tòa án thụ lý cần phải đáp ứng các điều kiện sau:
1.2.1.1. Người khởi kiện phải có quyền khởi kiện và có tư cách về mặt
pháp lý
Theo Điều 186, 187 của BLTTDS năm 2015 quy định cá nhân, cơ quan,
tổ chức có quyền khởi kiện trong 03 trường hợp: khởi kiện vì lợi ích của
chính mình; khởi kiện vì lợi ích của người khác và khởi kiện vì lợi ích Nhà
nước, lợi ích công cộng thuộc lĩnh vực mình phụ trách.
7

TS Nguyễn Thị Thu Hà (2011), Phúc thẩm trong tố tụng dân sự, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học
Luật Hà Nội, Hà Nội, tr 11.
8
Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 - Chủ biên TS. Bùi Thị Huyền, Nhà xuất
bản Lao động, năm 2016.


19

- Trường hợp khởi kiện vì lợi ích của chính mình:
Trong trường hợp này, người khởi kiện phải đáp ứng hai điều kiện: Chủ
thể có quyền khởi kiện do quyền lợi của họ bị tranh chấp hoặc vi phạm và là
chủ thể có năng lực hành vi TTDS đầy đủ.
Theo Điều 69 BLTTDS năm 2015 quy định “Cá nhân có năng lực
hành vi TTDS đầy đủ là người từ đủ 18 tuổi trở lên và không bị mất năng

lực hành vi dân sự đầy đủ”. Đương sự là người từ đủ mười lăm tuổi đến
chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc
giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình được tự mình tham gia tố tụng
về những việc có liên quan đến quan hệ lao động hoặc quan hệ dân sự đó,
tức là trong trường hợp này họ là người có năng lực hành vi TTDS đầy đủ.
Trường hợp cơ quan, tổ chức là pháp nhân thì việc khởi kiện được thực
hiện thông qua người đại diện của pháp nhân theo quy định tại Điều 137
BLDS năm 20159.
Chủ thể có quyền khởi kiện do quyền lợi của họ bị tranh chấp hoặc vi
phạm là chủ thể đã tham gia quan hệ pháp luật dân sự (dân sự theo nghĩa
hẹp, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động) nhưng họ
cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị người khác xâm phạm hoặc
có tranh chấp. Trong trường hợp này, họ phải chứng minh họ đã tham gia
vào quan hệ pháp luật dân sự đó (hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng
vay tài sản, quan hệ lao động, quan hệ hôn nhân và gia đình…) hoặc có
một sự kiện pháp lý xảy ra và họ có quyền lợi ích hợp pháp phát sinh từ sự
kiện đó (sự kiện một người chết dẫn đến người khác có quyền khởi kiện
chia thừa kế…). Ngoài ra, có một số trường hợp, một chủ thể không trực
tiếp tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự, nhưng quyền và lợi ích hợp
pháp của họ bị ảnh hưởng bởi quan hệ dân sự do người có liên quan xác
9

Điều 137 BLDS năm 2015, đại diện theo pháp luật của pháp nhân:
1. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân bao gồm:
a) Người được pháp nhân chỉ định theo điều lệ;
b) Người có thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật;
c) Người do Tòa án chỉ định trong quá trình tố tụng tại Tòa án.
2. Một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi người đại diện có quyền đại
diện cho pháp nhân theo quy định tại Điều 140 và Điều 141 của Bộ luật này.



20

lập thì họ cũng có quyền khởi kiện VADS. Chẳng hạn, A và B là hai vợ
chồng, A chuyển nhượng quyền sử dụng đất chung của hai vợ chồng cho
C, nên B đã khởi kiện C để yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất giữa A và C. Tuy nhiên, việc khởi kiện của các chủ thể
này không được TATC hướng dẫn cụ thể, nên trên thực tế áp dụng có sự
không thống nhất.
Bên cạnh đó, trên thực tế hiện nay có nhiều tranh chấp liên quan đến
tài sản của hộ gia đình, dòng họ và các tổ chức không có tư cách pháp nhân
chiếm tỉ lệ không nhỏ so với các loại tranh chấp khác, đặc biệt là các tranh
chấp liên quan đến quyền sử dụng đất. Về nguyên tắc, đây là các chủ thể
không có tư cách pháp nhân nên việc khởi kiện phải được thực hiện thông
qua các cá nhân hoặc người đại diện theo ủy quyền của các thành viên hộ
gia đình, thành viên dòng họ. Tuy nhiên, đòi hỏi tất cả các thành viên của
dòng họ, hộ gia đình đều phải ký tên vào đơn khởi kiện thì Tòa án mới thụ
lý giải quyết là không phù hợp với thực tế trong nhiều trường hợp. Bởi
tranh chấp thường phát sinh giữa một trong các thành viên của hộ gia đình,
dòng họ với các thành viên của hộ gia đình hoặc dòng họ. Do đó, khi xảy ra
tranh chấp, khởi kiện và Tòa án có thụ lý hay không thì việc xác định chủ
thể có quyền khởi kiện đối với trường hợp này vẫn còn có sự không thống
nhất và bất cập trong thực tiễn.
- Trường hợp khởi kiện vì lợi ích của người khác, có hai trường hợp:
+ Trường hợp người có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm là
người không có năng lực hành vi TTDS đầy đủ như người chưa thành niên
(trừ trường hợp theo khoản 6 Điều 69 BLTTDS năm 2015) và người mất
năng lực hành vi dân sự. Trong trường hợp này, mặc dù đương sự trước đó
đã tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự, có quyền và lợi ích hợp pháp bị
xâm phạm hoặc có tranh chấp, song do không có năng lực hành vi TTDS

đầy đủ nên họ không thể thực hiện được việc khởi kiện, hay nói cách khác
cho dù họ có viết đơn khởi kiện thì Tòa án cũng không thể thụ lý. Trong
trường hợp này, Tòa án chỉ thụ lý khi đơn khởi kiện do người đại diện theo


×