Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự trong bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và thực tiễn tại tòa án nhân dân huyện lộc bình, tỉnh lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.66 MB, 91 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------------------

TRẦN LỆNH HÀ

BẢO ĐẢM QUYỀN TRANH TỤNG
CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
NĂM 2015 VÀ THỰC TIỄN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN LỘC BÌNH, TỈNH LẠNG SƠN

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, NĂM 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------------------

TRẦN LỆNH HÀ

BẢO ĐẢM QUYỀN TRANH TỤNG
CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
NĂM 2015 VÀ THỰC TIỄN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN


HUYỆN LỘC BÌNH, TỈNH LẠNG SƠN

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 8380103
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Thu Hà

HÀ NỘI, NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN

Lời đầu tiên của Luận văn, tôi xin gửi lời cảm ơn đến các thầy cô đang công
tác và giảng dạy tại trường Đại học Luật Hà Nội nói chung và các thầy cô công tác
tại Khoa Đào tạo sau Đại học và Khoa Pháp luật Dân sự nói riêng đã quan tâm, tạo
điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện Luận văn. Đặc biệt, tôi
xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới PGS.TS Nguyễn Thị Thu Hà - Giảng viên
Khoa Pháp luật Dân sự, đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành Luận văn
tốt nghiệp này.
Mặc dù nhận được nhiều sự giúp đỡ về chuyên môn, song Tôi - với tư cách
là tác giả của Luận văn này, cam đoan danh dự và hoàn toàn chịu trách nhiệm cá
nhân về nội dung của Luận văn./.

Lạng Sơn, tháng 8 năm 2018
Học viên

Trần Lệnh Hà


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT


BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

TAND

Tòa án nhân dân

TTDS

Tố tụng dân sự

VADS

Vụ án dân sự

VKS

Viện kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN TRANH

TỤNG CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM..................6
1.1. Khái niệm và đặc điểm bảo đảm quyền tranh tụng của đƣơng sự trong tố
tụng dân sự .................................................................................................................6
1.2. Các yếu tố bảo đảm thực hiện quyền tranh tụng của đƣơng sự trong tố
tụng dân sự ...............................................................................................................13
1.2.1. Các quy định của pháp luật về bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự trong
tố tụng dân sự ............................................................................................................13
1.2.2. Trách nhiệm của Tòa án khi giải quyết vụ án dân sự .....................................13
1.2.3. Cơ chế kiểm sát, giám sát hoạt động tranh tụng ............................................15
1.2.4. Sự hiểu biết pháp luật của đương sự về tranh tụng trong tố tụng dân sự.......16
1.2.5. Sự hỗ trợ đương sự thực hiện quyền tranh tụng từ các cá nhân, cơ quan, tổ
chức ...........................................................................................................................16
1.3. Các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về bảo
đảm quyền tranh tụng của đƣơng sự ....................................................................17
1.3.1. Bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự trong thủ tục sơ thẩm ....................18
1.3.2. Bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự trong thủ tục phúc thẩm ................34
1.3.3. Bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự trong thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm ...........................................................................................................................41
1.3.4. Trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm đương sự thực hiện quyền tranh
tụng trong tố tụng dân sự ..........................................................................................45
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................47


CHƢƠNG 2. THỰC TIỄN BẢO ĐẢM QUYỀN TRANH TỤNG CỦA ĐƢƠNG
SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỘC
BÌNH, TỈNH LẠNG SƠN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ........................................48
2.1. Thực tiễn bảo đảm quyền tranh tụng của đƣơng sự trong tố tụng dân sự
tại Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn ..........................................48
2.1.1. Những kết quả đạt được ..................................................................................49
2.1.2. Những hạn chế, bất cập còn tồn tại ................................................................54

2.1.3. Nguyên nhân của một số hạn chế, tồn tại trong việc bảo đảm thực hiện quyền
tranh tụng của đương sự trong tố tụng dân sự..........................................................61
2.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền tranh tụng của
đƣơng sự trong tố tụng dân sự ...............................................................................65
2.2.1. Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015 về bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự ....................................................65
2.2.2. Một số kiến nghị khác nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền tranh tụng
của đương sự trong tố tụng dân sự tại Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình ................68
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................72
KẾT LUẬN ..............................................................................................................73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng và hoàn thiện bộ máy Nhà nước, bộ máy cơ quan tiến hành tố tụng
và pháp luật về tố tụng để góp phần bảo vệ quyền con người, quyền công dân là một
trong những nhiệm vụ trọng tâm mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đang hướng
tới. Công cuộc cải cách tư pháp nói chung mà trọng tậm là đổi mới hoạt động xét xử
của Tòa án nói riêng do Đảng ta khởi xướng đã đạt được những thành tựu nhất định,
góp phần quan trọng vào việc đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa và phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Nhìn chung, trong thời gian qua, ngành
Tòa án nhân dân (TAND) luôn hoàn thành nhiệm vụ trọng tâm là xét xử, giải quyết
các vụ việc thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, qua đó góp phần giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội
nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hiện nay, công cuộc Đổi mới đất nước
đang được đẩy mạnh hơn và đi vào chiều sâu. Bên cạnh những thành tựu nhất định,
mặt trái của nền kinh tế thị trường đã tác động đến xã hội làm gia tăng tội phạm, đặc

biệt là các tội phạm về kinh tế. Mặt khác, các tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động,
hành chính, đặc biệt là các tranh chấp về đất đai, nhà ở, thừa kế, hay tranh chấp về
tài sản trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình cũng ngày một gia tăng đã và đang đặt
ra nhiều thách thức cho TAND với tư cách là cơ quan xét xử, cơ quan bảo vệ pháp
luật. Số vụ việc dân sự mà Tòa án thụ lý, giải quyết ngày càng nhiều, chứng tỏ
người dân ngày càng tham gia nhiều hơn vào hoạt động tố tụng dân sự (TTDS) tại
Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Do đó, trách nhiệm của Tòa
án là phải bảo đảm thực hiện tốt hơn việc xét xử, đồng thời bảo vệ quyền con người,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khi tham gia vào hoạt động giải quyết vụ án
dân sự (VADS). Thể chế hóa chủ trương của Đảng, Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật
Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015 đã lần đầu tiên khẳng định nguyên tắc tranh
tụng trong xét xử được bảo đảm. Vậy, tranh tụng và bảo đảm quyền tranh tụng của
đương sự trong TTDS là gì? Bản chất, đặc điểm, ý nghĩa của bảo đảm quyền tranh
tụng của đương sự trong điều kiện cải cách tư pháp được thể hiện ra sao? Thực tiễn
bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự trong TTDS diễn ra ở các địa phương như
thế nào? Hiện nay, vấn đề xây dựng, thực thi và hoàn thiện pháp luật TTDS nhằm


2

bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự đang thu hút sự quan tâm rộng rãi của
nhiều nhà khoa học pháp lý cũng như những nhà hoạt động pháp luật thực tiễn.
Nghiên cứu một số vấn đề mang tính lý luận, pháp luật thực định và thực tiễn về
bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự trong TTDS Việt Nam sẽ góp phần mở ra
một bước đi mới trong việc hoàn thiện và thực hiện pháp luật TTDS ở nước ta,
nhằm nâng cao chất lượng giải quyết các VADS, hạn chế đến mức thấp nhất tỷ lệ
các bản án, quyết định dân sự bị hủy, sửa do vi phạm thủ tục tố tụng, trong đó có
các vi phạm về bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự. Vì vậy, tác giả chọn đề tài:
“Bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
và thực tiễn tại Tòa án nhân dân huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn” làm luận văn

thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Dưới góc độ khoa học pháp lý, tranh tụng không phải là vấn đề mới nhưng
vẫn giữ nguyên được tính thời sự. Ngay từ trước và sau khi có BLTTDS năm 2004
sửa đổi, bổ sung năm 2011 đã có một số công trình khoa học pháp lý nghiên cứu về
vấn đề này như:
- Kỷ yếu hội thảo của Nhà pháp luật Việt – Pháp ngày 18/01/2002 về “Một số
nội dung về nguyên tắc tố tụng xét hỏi và tranh tụng. Kinh nghiệm của Pháp trong
việc tuyển chọn, bồi dưỡng, bổ nhiệm và quản lý Thẩm phán”;
- Luận văn thạc sỹ luật học “Tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm, một số vấn đề
lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà bảo vệ tại Trường Đại học Luật
Hà Nội năm 2002;
- Bài viết “Vấn đề tranh tụng trong TTDS” của tác giả Nguyễn Công Bình
đăng trên Tạp chí Luật học số 6/2003;
- Bài viết “Bản chất của tranh tụng tại phiên tòa” của tác giả Trần Văn Độ
đăng trên tạp chí Khoa học Pháp lý số 4/2004;
- Đề tài cấp cơ sở “Tranh tụng trong TTDS Việt Nam trước yêu cầu cải cách
tư pháp” do Trường Đại học Luật Hà Nội thực hiện năm 2011;
- Bài viết “Nguyên tắc tranh tụng trong TTDS” của tác giả Mai Bộ đăng trên


3

trang Web của TAND tối cao năm 2014 v.v…
Sau khi BLTTDS năm 2015 được ban hành với rất nhiều điểm mới, tiến bộ,
đã có một số công trình nghiên cứu đến vấn đề tranh tụng như:
- Luận văn thạc sỹ luật học của Đoàn Thị Xuân Sơn về “Bảo đảm tranh tụng
trong TTDS Việt Nam” năm 2015;
- Luận văn thạc sỹ luật học của Trịnh Văn Chung về “Nguyên tắc tranh tụng
trong TTDS Việt Nam” năm 2016;

- Luận văn thạc sỹ luật học của Phạm Thị Ánh Ngọc về “Nguyên tắc bảo
đảm tranh tụng trong TTDS Việt Nam” năm 2016;
- Luận văn thạc sỹ luật học của Nguyễn Thị Thu Hương về “Tranh tụng
trong TTDS - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” năm 2016…
Tranh tụng và bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự trong TTDS Việt
Nam là vấn đề rộng, có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Do mục đích và phạm vi
nghiên cứu của các tác giả là khác nhau nên chưa có một công trình nghiên cứu nào
đầy đủ và có hệ thống nhất về vấn đề này cũng như chưa có công trình nào nghiên
cứu, đánh giá thực tiễn tranh tụng tại Tòa án cụ thể.
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
- Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng tỏ hơn nữa những vấn đề
lý luận về bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự trong TTDS Việt Nam, nội dung
các quy định của pháp luật TTDS về vấn đề này. Trên cơ sở phân tích thực tiễn, phát
hiện những bất cập, vướng mắc về lập pháp và tổ chức thực hiện pháp luật về bảo
đảm quyền tranh tụng của đương sự trong TTDS. Từ đó, đưa ra những kiến nghị
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự trong
TTDS theo tinh thần cải cách tư pháp.
- Đối tượng nghiên cứu đề tài là những vấn đề lý luận cơ bản về bảo đảm
quyền tranh tụng của đương sự trong TTDS; các quy định của pháp luật TTDS Việt
Nam về bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự trong TTDS; thực tiễn thực hiện
việc bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự tại TAND huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng
Sơn trong những năm gần đây.


4

- Bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự trong TTDS là vấn đề lớn được
hiểu dưới nhiều góc độ và có nhiều nội dung khác nhau. Vì vậy, trong phạm vi của
một luận văn thạc sỹ, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề sau:
Thứ nhất, luận văn tập trung làm rõ khái niệm, đặc điểm bảo đảm quyền

tranh tụng của đương sự trong TTDS, các yếu tố bảo đảm thực hiện quyền tranh
tụng của đương sự trong TTDS và sự thể hiện việc bảo đảm quyền tranh tụng của
đương sự qua các quy định của BLTTDS năm 2015;
Thứ hai, luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu bảo đảm quyền tranh tụng
của đương sự trong quá trình giải quyết VADS tại Tòa án ở các giai đoạn sơ thẩm,
phúc thẩm và giám đốc thẩm, tái thẩm. Còn bảo đảm quyền tranh tụng của đương
sự trong quá trình giải quyết VADS theo thủ tục rút gọn và thủ tục giải quyết việc
dân sự sẽ được nghiên cứu ở công trình tiếp theo.
Thứ ba, luận văn tập trung nghiên cứu về bảo đảm pháp lý và việc tổ chức
thực hiện việc bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự trong TTDS, tập trung phân
tích, đánh giá những kết quả đã đạt được và những hạn chế, bất cập còn tồn tại
trong thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự trong
TTDS tại TAND huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn. Từ đó, đề xuất một số kiến nghị
giải pháp về lập pháp và tổ chức thi hành pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả bảo
đảm quyền tranh tụng của đương sự trong TTDS tại TAND huyện Lộc Bình.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Dưới góc độ phương pháp chung, đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin là chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bên cạnh đó là tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật, đặc biệt là chủ trương, đường
lối của Đảng về cải cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.
Với phương pháp nghiên cứu chung như trên, các phương pháp nghiên cứu
cụ thể được sử dụng trong luận văn là: liệt kê, so sánh, đối chiếu, phân tích và tổng
hợp.
5. Đóng góp của Luận văn
Đây là công trình nghiên cứu về tranh tụng trong TTDS Việt Nam dưới góc
độ tiếp cận là một quyền của đương sự và cơ chế bảo đảm quyền, nên có những


5


đóng góp mới như sau:
Một là, góp phần bổ sung, làm rõ và hoàn chỉnh nhận thức chung về khái
niệm, đặc điểm bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự trong TTDS Việt Nam
cũng như các yếu tố bảo đảm thực hiện quyền tranh tụng của đương sự trong TTDS.
Hai là, phân tích các quy định của pháp luật về bảo đảm quyền tranh tụng
của đương sự trong TTDS, chỉ ra những hạn chế còn tồn tại, nguyên nhân của
những hạn chế, vướng mắc đó. Từ đó đưa ra những kiến nghị, đề xuất nhằm nâng
cao hiệu quả bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự trong TTDS.
6. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 2
chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự
trong TTDS Việt Nam.
Chương 2: Thực tiễn bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự trong TTDS tại
TAND huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn và một số kiến nghị.


6

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN TRANH TỤNG
CỦA ĐƢƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

1.1. Khái niệm và đặc điểm bảo đảm quyền tranh tụng của đƣơng sự
trong tố tụng dân sự
Nhìn về lịch sử, thuật ngữ “tranh tụng” đã được biết đến từ lâu trên thế giới,
gắn với sự xuất hiện của Tòa án. Các nhà nghiên cứu lịch sử pháp luật đều thống
nhất loại hình tố tụng đầu tiên xuất hiện trong lịch sử của các hình thái xã hội là tố
tụng tranh tụng. Loại tố tụng này được áp dụng đầu tiên tại Châu Âu, mà cụ thể là

tại Hy Lạp cổ đại, sau đó nó được đưa vào La Mã với tên gọi “thủ tục hỏi đáp liên
tục”1. Từ đó đến nay, tranh tụng tiếp tục được kế thừa, phát triển và được áp dụng
hầu hết ở các nước thuộc hệ thống luật lục địa cũng như hệ thống luật án lệ, trở
thành loại hình tố tụng phổ biến nhất bên cạnh loại hình tố tụng thẩm vấn và mô
hình hỗn hợp. Có thể nói, tranh tụng là kết tinh của nền tư pháp dân chủ.
Ở Việt Nam, “tranh tụng” được xuất hiện lần đầu tiên tại Nghị quyết số 08NQ/TW ngày 02/01/2001 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác
tư pháp trong thời gian tới. Theo đó, Nghị quyết này đã đề cập đến thuật ngữ “tranh
tụng” qua việc xác định định hướng mới trong hoạt động của các cơ quan tư pháp là
“…Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại
phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát
viên, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những
bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật
quy định”2. Trên cơ sở kết quả triển khai thực hiện Nghị quyết trên, Bộ chính trị đã
ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020,

1

Xem: Nhà pháp luật Việt - Pháp (2002), Một số nội dung về nguyên tắc tố tụng xét hỏi và tranh tụng. Kinh
nghiệm của Pháp trong việc tuyển chọn, bồi dưỡng, bổ nhiệm, quản lý Thẩm phán, Hà Nội, tr. 2.
2
Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết 08 - NQ/TƯ ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị, Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới.


7

khẳng định: “…Bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, lấy kết quả
tranh tụng tại tòa làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột
phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp”3. Ngay sau đó, Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm

2020 một lần nữa nhấn mạnh: “…Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa
xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp... Hoàn thiện cơ chế bảo đảm
để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời xác định rõ chế độ
trách nhiệm đối với luật sư”4. Thể chế hóa quan điểm trên của Đảng ta, Hiến pháp
năm 2013 đã lần đầu tiên quy định nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo
đảm5. Sau đó, BLTTDS năm 2015 với tư cách là văn bản luật có nhiệm vụ cụ thể
hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về TTDS đã khẳng định bảo đảm tranh tụng
trong xét xử là một nguyên tắc của TTDS6.
Tuy vậy, không một văn bản quy phạm pháp luật hay văn kiện của Đảng đưa
ra định nghĩa cụ thể về khái niệm “tranh tụng”. Về mặt ngôn ngữ, theo Đại từ điển
tiếng Việt năm 1998 thì tranh tụng có nghĩa là “kiện tụng”; theo Hán - Việt tự điển
thì tranh tụng có nghĩa là “cãi lẽ, cãi nhau để tranh lấy phải”7. Còn theo Từ điển
Luật học năm 2006, khái niệm tranh tụng được hiểu như sau: “Tranh tụng là hoạt
động tố tụng được thực hiện bởi các bên tham gia tố tụng, có quyền bình đẳng với
nhau trong việc thu thập, đưa ra chứng cứ để bảo vệ các quan điểm và lợi ích của
mình, phản bác lại các quan điểm và lợi ích của phía đối lập”8. Như vậy, dưới góc
độ ngôn ngữ học, có thể hiểu tranh tụng chính là quá trình kiện tụng bao gồm quá
trình khởi kiện và giải quyết vụ kiện, theo đó các đương sự được tranh luận về các
yêu cầu, các chứng cứ và chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình. Còn theo cách giải nghĩa của từ điển Hán Việt, tranh tụng dường như đồng
nhất với tranh luận. Tuy nhiên, tranh tụng và tranh luận là hai khái niệm khác nhau.
Tranh tụng là một quá trình liên tục từ khi khởi kiện VADS cho đến khi có phán
3

Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ chính trị ngày 24/5/2005 về Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
4
Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ chính trị ngày 02/6/2005 của Bộ chính
trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
5

Xem khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013.
6
Xem Điều 24 BLTTDS năm 2015.
7
Thiều Chửu (1993), Hán- Việt tự điển, Nxb TP.HCM, tr. 621.
8
Viện Khoa học pháp lý - Bộ tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr. 807, 808.


8

quyết cuối cùng về việc giải quyết vụ án đó, còn tranh luận chỉ là một phần của
phiên toà dân sự, nó là sự biểu hiện tập trung nhất của tranh tụng.
Dưới góc độ khoa học pháp lý, xung quanh thuật ngữ “tranh tụng” có nhiều
quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng: “Tranh tụng trong TTDS là phương
pháp giải quyết tranh chấp dân sự tại Tòa án, diễn ra trong quá trình tố tụng, theo
đó các bên đương sự xuất trình, trao đổi chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để chứng
minh, biện luận cho yêu cầu của mình; phản bác yêu cầu đối lập trước Tòa án và
kết quả của quá trình này được Tòa án sử dụng làm căn cứ để giải quyết vụ án”9.
Quan điểm khác lại cho rằng: “Tranh tụng trong TTDS là việc các bên đương sự
đưa ra, trao đổi về chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý, lập luận đối lập, tranh luận với
nhau dựa trên những thủ tục do pháp luật quy định nhằm bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của mình trước sự giám sát của Tòa án. Sự tranh tụng chứa đựng trong chính
hành vi khởi kiện”10. Các quan điểm này nghiên cứu tranh tụng dưới các góc độ
khác nhau. Tuy nhiên, theo tác giả, khái niệm tranh tụng thể hiện đầy đủ bản chất và
nội hàm của tranh tụng được hiểu như sau: Tranh tụng là quá trình làm rõ sự thật
khách quan của vụ án. Quá trình này phải được diễn ra liên tục từ khi nguyên đơn
khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình cho đến khi tòa án ra
quyết định giải quyết VADS. Theo đó các bên chủ thể tranh tụng dưới sự điều khiển
của tòa án được đưa ra chứng cứ, trao đổi chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để chứng

minh cho quyền lợi hợp pháp của mình trước Tòa án theo những trình tự, thủ tục do
pháp luật TTDS quy định. Tòa án ra phán quyết VADS căn cứ vào kết quả tranh
tụng của các chủ thể tranh tụng11.
Như vậy, tranh tụng trong TTDS về bản chất là quá trình tố tụng đi tìm sự
thật khách quan của VADS. Khi tham gia vào tranh tụng, có rất nhiều chủ thể nhưng
đương sự là những chủ thể tranh tụng giữ vai trò chủ động, quyết định kết quả tranh
tụng. Bởi vì, họ tham gia tranh tụng xuất phát từ chính yêu cầu bảo vệ quyền và lợi
ích của họ trong vụ án, kết quả tranh tụng ảnh hưởng trực tiếp tới quyền và lợi ích
9

Trịnh Văn Chung (2016), Nguyên tắc tranh tụng trong TTDS Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Hà Nội,
tr. 7.
10
Đoàn Thị Xuân Sơn (2015), Bảo đảm tranh tụng trong TTDS Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Hà Nội,
tr. 6.
11
Nguyễn Thị Thu Hà (Chủ nhiệm đề tài) (2011), Tranh tụng trong TTDS Việt Nam trước yêu cầu của cải
cách tư pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Mã số: LH - 2010 - 09/ĐHL - HN, Hà Nội, tr. 8.


9

của bản thân các đương sự. Hơn nữa, các VADS chủ yếu phát sinh là do có sự tranh
chấp về quyền và lợi ích giữa các đương sự. Do đó, việc xác định quyền và nghĩa vụ
đó có tồn tại hay không phải thuộc về các đương sự - người biết rõ nguyên nhân,
điều kiện phát sinh ra tranh chấp vì nó không chỉ là con đường ngắn nhất để biết rõ
sự thật, mà còn làm các bên thoả mãn hơn với kết quả được xác lập lại theo đúng
quy định của pháp luật12. Tuy nhiên, TTDS là một quá trình phức tạp, cho nên
không phải trong mọi trường hợp các bên đương sự đều có thể dễ dàng thực hiện
được đúng và đầy đủ các quyền của mình. Trên thực tế, việc thực hiện các quyền

này mà gọi chung lại là quyền tranh tụng của đương sự phụ thuộc vào rất nhiều yếu
tố như khả năng tham gia TTDS của đương sự, sự hỗ trợ từ những người khác đối
với việc tham gia tố tụng của đương sự, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố
tụng... Thông thường, để thực hiện được quyền tranh tụng của mình thì đương sự
phải có kiến thức pháp luật nhất định, có năng lực hành vi TTDS và trong trường
hợp cần thiết họ còn nhận được sự giúp đỡ pháp lý từ phía luật sư hay người khác.
Mặt khác, việc thực hiện quyền tranh tụng của đương sự phải thông qua Toà án là
cơ quan xét xử chịu trách nhiệm chính trong việc giải quyết VADS. Do đó, để
đương sự thực hiện được quyền tranh tụng của họ thì Toà án phải thực hiện đúng
các quy định của pháp luật TTDS khi giải quyết VADS. Đồng thời, Tòa án phải có
trách nhiệm giúp đỡ, tạo điều kiện cho đương sự thực hiện được quyền tranh tụng
của họ. Vì vậy, để đương sự bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp trước Toà án thì
việc bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền tranh tụng là rất cần thiết. Trước hết, ta
cần luận giải thế nào là quyền tranh tụng của đương sự trong TTDS.
Trong VADS, đương sự là cơ quan, tổ chức, cá nhân bao gồm nguyên đơn, bị
đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trong đó, nguyên đơn trong VADS là
người khởi kiện, người được cơ quan, tổ chức, cá nhân khác do pháp luật quy định
khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết VADS khi cho rằng quyền và lợi ích hợp
pháp của người đó bị xâm phạm. Ngoài ra, cơ quan, tổ chức do pháp luật quy định
khởi kiện VADS để yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước
thuộc lĩnh vực mình phụ trách cũng là nguyên đơn.

12

Nguyễn Thị Thu Hà (Chủ nhiệm đề tài) (2011), Tlđd, tr. 10.


10

Bị đơn trong VADS là người bị nguyên đơn khởi kiện hoặc bị cơ quan, tổ

chức, cá nhân khác do pháp luật quy định khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết
VADS khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm
phạm.
Còn người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong VADS là người tuy không
khởi kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết VADS có liên quan đến quyền lợi,
nghĩa vụ của họ nên họ được tự mình đề nghị hoặc các đương sự khác đề nghị và
được Tòa án chấp nhận đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan. Trường hợp việc giải quyết VADS có liên quan đến quyền
lợi, nghĩa vụ của một người nào đó mà không có ai đề nghị đưa họ vào tham gia tố
tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thì Tòa án phải đưa họ
vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan13.
Theo lý luận về nhà nước và pháp luật, quyền “là khả năng của chủ thể xử sự
theo cách thức nhất định được pháp luật cho phép”14. Do đó, trong TTDS, có thể
hiểu, quyền tranh tụng của đương sự là khả năng tham gia vào việc tranh tụng tại
Tòa án của nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo quy
định của pháp luật.
Theo từ điển Tiếng Việt, “bảo đảm” có nghĩa là “làm cho chắc chắn thực
hiện được, giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết”15.
Trong TTDS, việc bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự bao gồm nhiều
nội dung khác nhau như bảo đảm pháp lý, bảo đảm thông qua sự phối hợp của cá
nhân, cơ quan, tổ chức, bảo đảm thông qua sự giám sát, kiểm sát của cơ quan có
thẩm quyền, bảo đảm trong việc tổ chức thực hiện quyền tranh tụng của đương sự.
Tuy nhiên, do giới hạn của luận văn nên tác giả tập trung nghiên cứu về bảo đảm
pháp lý. Hơn nữa, trong các biện pháp bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự
trong TTDS thì bảo đảm pháp lý là quan trọng nhất. Đó là tiền đề cho việc thực hiện
các bảo đảm khác cũng như tạo điều kiện cho các bảo đảm khác phát huy được vai
13

Xem thêm Điều 68 BLTTDS năm 2015.
Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Lý luận Nhà nước và Pháp luật, Nxb. Công an nhân dân,

Hà Nội, tr. 454.
15
Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Hà Nội - Đà Nẵng, tr. 38.
14


11

trò và hiệu quả của chúng trong việc bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự trong
TTDS. Theo đó, bảo đảm pháp lý quyền tranh tụng của đương sự trong TTDS là
bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền tranh tụng bằng các quy định của pháp luật.
Hệ thống pháp luật cần quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của đương sự để đương
sự thực hiện việc tranh tụng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Tòa án, VKS
và những người tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm thực hiện quyền tranh tụng
của đương sự, về trách nhiệm phối hợp của cá nhân, cơ quan, tổ chức khác trong
việc hỗ trợ cho đương sự thực hiện quyền tranh tụng, về trình tự, thủ tục tố tụng
tranh tụng cụ thể, công khai, minh bạch. Tiếp đó, để các quy định của pháp luật
TTDS về bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự được thực hiện trên thực tế thì
cần phải có cơ chế tổ chức thực hiện. Theo đó, các phương tiện thông tin đại chúng,
cả hệ thống chính trị và xã hội phải thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến rộng rãi
pháp luật TTDS về bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự, thực hiện cơ chế phối
hợp, hỗ trợ của cá nhân, cơ quan, tổ chức, thực hiện cơ chế giám sát hoạt động
TTDS của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, thực hiện nâng cao
trình độ, chuyên môn nghiệp vụ cho những người tiến hành TTDS và kiện toàn hệ
thống tổ chức Tòa án.
Bởi vậy, bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự trong TTDS là tổng hợp
các biện pháp, cách thức để cho các đương sự gồm nguyên đơn, bị đơn và người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thực hiện được trên thực tế quyền tranh tụng mà pháp
luật TTDS quy định để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Toà án.
Bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự trong TTDS có những đặc điểm cơ

bản sau đây:
- Bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự trong TTDS là hệ thống các biện
pháp, cách thức để quyền tranh tụng của các đương sự được thực hiện trên thực tế
Quyền tranh tụng của đương sự được pháp luật TTDS ghi nhận nhưng để
quyền tranh tụng đó của đương sự được “hiện thực hóa” thì cần phải tiến hành đồng
bộ các biện pháp, cách thức để đảm bảo quyền tranh tụng của đương sự được thực
hiện trên thực tế. Đó là, trước tiên các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội phải
thực hiện các biện pháp tuyên truyền, phổ biến pháp luật TTDS về tranh tụng để


12

đảm bảo các đương sự có đầy đủ hiểu biết pháp luật TTDS về tranh tụng. Có như
vậy thì đương sự mới biết bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, thực hiện
đúng quyền tranh tụng của mình, không được lạm dụng quyền tranh tụng để gây
khó khăn cho đương sự khác cũng như Tòa án trong quá trình giải quyết VADS. Các
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có trách nhiệm tôn trọng, bảo vệ,
bảo đảm cho các đương sự thực hiện được quyền tranh tụng, phải tạo điều kiện và
không được cản trở các đương sự thực hiện quyền này. Các cơ quan, tổ chức, cá
nhân thực hiện trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ, tạo điều kiện cho đương sự, người đại
diện hợp pháp của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
thực hiện quyền tranh tụng. VKS thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tranh tụng
của đương sự và Tòa án.
- Tòa án là chủ thể chính có trách nhiệm trong việc bảo đảm quyền tranh
tụng của đương sự trong TTDS
Tòa án là cơ quan xét xử, giải quyết VADS để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của cá nhân, cơ quan, tổ chức, bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng. Các
quyết định của Toà án có giá trị bắt buộc các chủ thể khác phải thực hiện. Do đó,
nếu Tòa án không vô tư, khách quan, không tuân thủ đúng nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm trong giải quyết VADS, không thực hiện đúng trình tự, thủ tục do pháp

luật quy định thì chắc chắn quyền tranh tụng của đương sự sẽ không được thực hiện
trên thực tế.
- Các biện pháp, cách thức bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự trong
TTDS do pháp luật quy định
Để có cơ sở pháp lý cho các chủ thể có trách nhiệm thực hiện các biện pháp,
cách thức bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự trong TTDS thì các biện pháp,
cách thức này phải được pháp luật quy định. Có như vậy, việc thực hiện các biện
pháp, cách thức bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự trong TTDS mới hợp pháp.


13

1.2. Các yếu tố bảo đảm thực hiện quyền tranh tụng của đƣơng sự trong
tố tụng dân sự
1.2.1. Các quy định của pháp luật về bảo đảm quyền tranh tụng của đương
sự trong tố tụng dân sự
Pháp luật là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội và bảo đảm các quyền con
người, quyền công dân được thực hiện. Với mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Nhà nước ta không
ngừng xây dựng và hoàn thiện pháp luật, hướng đến việc bảo đảm tốt nhất quyền tố
tụng cho đương sự, trong đó có quyền tranh tụng khi tham gia vào TTDS, bảo đảm
người dân có quyền sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình.
Hoạt động tranh tụng của đương sự trong TTDS muốn thực hiện có hiệu quả
phải được điều chỉnh bằng quy định của pháp luật. Điều này là tất yếu khách quan.
Pháp luật quy định trình tự, thủ tục, nội dung, cách thức thực hiện hoạt động tranh
tụng, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia tranh tụng trong TTDS. Nói cách
khác, các quy định của pháp luật tạo ra hành lang pháp lý xác định rõ quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể tham gia tranh tụng. Pháp luật chính là bảo đảm pháp lý
giữ vai trò quan trọng nhất trong việc bảo vệ, bảo đảm quyền tranh tụng của đương

sự khi tham gia TTDS. Dưới góc độ luật thực định, các quy định của pháp luật về
bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự trong TTDS tập trung nhất trong BLTTDS
và các văn bản hướng dẫn dưới luật do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao hoặc liên ngành Tư pháp trung ương ban hành. Hiện nay, BLTTDS năm 2015
với những quy định mới, tiến bộ chính là cơ sở pháp lý, yếu tố ảnh hưởng tiên quyết
đến việc bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự trong TTDS.
1.2.2. Trách nhiệm của Tòa án khi giải quyết vụ án dân sự
Nếu như pháp luật TTDS là bảo đảm pháp lý quan trọng nhất thì có thể
khẳng định rằng, Tòa án là thiết chế pháp lý thực tiễn - hữu hiệu, do Nhà nước và
bằng pháp luật định ra để bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự có hiệu quả trên
thực tế. Nếu như không có Tòa án thì dù pháp luật TTDS có hoàn thiện đến đâu
cũng chỉ như “con hổ giấy”. Vì lẽ đó, Nhà nước thông qua pháp luật TTDS giao


14

nhiệm vụ cho Tòa án có trách nhiệm bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự khi họ
tham gia TTDS.
Để bảo đảm sự công bằng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương
sự trong TTDS đòi hỏi Tòa án phải khách quan, có thái độ vô tư và công minh đối
với các bên đương sự tham gia tranh tụng. Đương sự có thể thực hiện đầy đủ các
quyền tranh tụng của mình hay không phụ thuộc rất nhiều vào Tòa án. Vì thế, Tòa
án phải bảo đảm cho đương sự, những người tham gia tố tụng khác biết và thực hiện
quyền tranh tụng của mình theo quy định của pháp luật. Tòa án phải tôn trọng
quyền tranh tụng của các đương sự, không được sinh định kiến với bất cứ đương sự
nào vì bất cứ lý do gì trong quá trình giải quyết vụ án. Mọi đương sự đều được Tòa
án triệu tập một cách hợp lệ để thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình.
Hơn nữa, Tòa án phải bảo đảm quyền bình đẳng cho các đương sự tham gia vào quá
trình tranh tụng. Điều đó đồng nghĩa với việc Tòa án phải bảo đảm cho đương sự
được bình đẳng trong việc đưa ra yêu cầu, đề nghị, cung cấp tài liệu, chứng cứ, căn

cứ pháp lý, được đề nghị Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ về những tình tiết của
vụ án mà tự mình không thể thực hiện được hoặc đề nghị Tòa án triệu tập người làm
chứng, được biết tài liệu, chứng cứ, căn cứ pháp lý, lý lẽ do bên kia cung cấp hoặc
chứng cứ do Tòa án thu thập, được tham gia phiên tòa, phát biểu ý kiến, tranh luận,
lập luận, đưa ra lý lẽ, chứng cứ công khai trước Tòa án...
Như vậy, Tòa án có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thực hiện quyền
tranh tụng của đương sự khi tham gia TTDS, tạo ra sự bình đẳng cho các chủ thể
tham gia tranh tụng, góp phần giải quyết đúng đắn vụ kiện. Tòa án nói chung và
Thẩm phán thụ lý vụ án nói riêng như người trọng tài “cầm cân nảy mực” phân xử
giữa các bên tham gia tranh tụng, duy trì trật tự phiên tòa và điều hành quá trình
tranh tụng, hướng quá trình tranh tụng vào việc giải quyết các yêu cầu của đương
sự, xem xét, đánh giá tính có căn cứ pháp lý và thực tiễn của các yêu cầu đó, cũng
như các tình tiết khác liên quan đến quan hệ pháp luật dân sự phát sinh tranh chấp
giữa các đương sự. Tòa án bảo đảm cho các đương sự thực hiện quyền tranh tụng
trong TTDS một cách bình đẳng, công khai và đúng pháp luật. Bản án, quyết định
của Tòa án được tuyên phải căn cứ vào kết quả tranh tụng dân chủ, công khai tại
phiên tòa. Đó là nhiệm vụ, quyền hạn, đồng thời cũng là trách nhiệm của Tòa án.


15

1.2.3. Cơ chế kiểm sát, giám sát hoạt động tranh tụng
Về nguyên tắc, để đảm bảo việc giải quyết tranh chấp của Tòa án không mắc
phải những sai lầm, tránh việc lạm quyền, thiếu công bằng, xâm phạm quyền tranh
tụng của đương sự thì cần có một cơ chế kiểm sát, giám sát hoạt động của Tòa án.
Nguyên lý chung trong tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước là ở đâu có quyền
lực nhà nước, có tổ chức, thực thi quyền lực nhà nước thì phải có kiểm soát quyền
lực. Đó là đòi hỏi tất yếu khách quan.
Trong TTDS, Tòa án là cơ quan “toàn quyền” trong việc thụ lý, giải quyết
VADS, đồng thời, là “đầu mối” chịu trách nhiệm chính trong việc bảo đảm quyền

tranh tụng cho đương sự khi tham gia vào TTDS. Vì vậy, sự tham gia của VKS
trong TTDS với tư cách là một thiết chế độc lập bên ngoài Tòa án là cần thiết. VKS
kiểm sát hoạt động TTDS nhằm phát hiện những hành vi xâm phạm quyền tranh
tụng của đương sự để có biện pháp ngăn chặn kịp thời, góp phần tạo môi trường tố
tụng an toàn, bảo đảm quyền tranh tụng cho các đương sự. Tuy nhiên, kiểm sát hoạt
động xét xử của Tòa án và những người tham gia tố tụng là để “hỗ trợ cho việc thực
hiện chức năng xét xử của Toà án”16, bảo đảm Tòa án giải quyết VADS khách quan,
công bằng, chính xác, đúng pháp luật, bảo đảm đương sự thực hiện hiệu quả quyền
tranh tụng theo đúng quy định của pháp luật, chứ không phải kiểm sát là can thiệp
vào hoạt động xét xử của Tòa án.
Bên cạnh đó, sự giám sát của công luận như người dân, nhà báo tham dự
phiên tòa... với các hoạt động TTDS của Tòa án có ý nghĩa quan trọng trong việc
bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự trong TTDS. Bởi kết quả của cơ chế giám
sát này chính là sự lên án kịp thời những sai sót, lệch lạc, vi phạm của bất kỳ chủ
thể nào trong hoạt động TTDS. Cùng với đó, sự giám sát của các cơ quan đại diện
nhân dân như Hội đồng nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc..., thậm chí là Hội thẩm
nhân dân trong thành phần Hội đồng xét xử cũng là một trong những yếu tố tác
động tích cực đến việc bảo đảm các chủ thể tiến hành và tham gia TTDS đều phải
tuân thủ pháp luật, bảo đảm tốt nhất quyền tranh tụng của đương sự.
16

Nguyễn Thái Phúc (2005), “Những chức năng cơ bản trong TTDS”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (12), tr.
48.


16

1.2.4. Sự hiểu biết pháp luật của đương sự về tranh tụng trong tố tụng dân
sự
Như đã biết, bản chất của các tranh chấp, yêu cầu của các bên đương sự

trong quan hệ pháp luật TTDS đều xuất phát từ quan hệ riêng tư của các bên. Theo
logic, các bên đượng sự phải là người trực tiếp tự giải quyết, tự quyết định. Do đó,
khi “nhờ” đến Tòa án, Thẩm phán sẽ chỉ tham gia với tư cách là “trọng tài” phân xử
trên cơ sở tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự. Vì lẽ đó, đòi hỏi đương sự
phải có sự hiểu biết pháp luật nhất định mới có thể tranh tụng như đương sự đưa ra
yêu cầu gì, cần phải biết thu thập tài liệu, chứng cứ ở đâu, bằng những biện pháp
pháp lý nào, cung cấp những chứng cứ nào cho Tòa án, tranh tụng tại phiên tòa thì
đặt các câu hỏi như thế nào với đương sự phía bên kia, chuẩn bị bản luận cứ để
tranh luận, đối đáp với đương sự phía bên kia như thế nào… Tự trả lời được những
câu hỏi này, đương sự mới có thể bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình
cũng như giúp Tòa án ra phán quyết kịp thời, chính xác và đúng pháp luật.
1.2.5. Sự hỗ trợ đương sự thực hiện quyền tranh tụng từ các cá nhân, cơ
quan, tổ chức
Trong nhiều trường hợp, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong
tranh tụng, các đương sự cần có sự giúp đỡ từ người đại diện, người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình, đặc biệt là vai trò của Luật sư trong tư vấn, hướng
dẫn cho đương sự nên làm thế nào để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tốt nhất
trước Tòa án. Tại phiên tòa nói riêng và trong toàn bộ tiến trình tố tụng nói chung,
bằng sự am hiểu pháp luật và kinh nghiệm tham gia tố tụng, cùng khả năng hùng
biện, đưa ra lý lẽ, căn cứ pháp lý, lập luận sắc bén của các Luật sư sẽ giúp cho Tòa
án xem xét, đánh giá toàn diện vụ án từ đó bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp
cho các đương sự. Với sự trợ giúp từ người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp, các đương sự khi tham gia vào tranh tụng sẽ có được nhận thức đầy đủ
hơn về pháp luật, có sự tự tin, từ đó tạo ra sự cân bằng giữa các bên đối tụng và ở
khía cạnh nào đó, mang lại sự chế ước hữu hiệu đối với Tòa án. Còn trong trường
hợp các cá nhân, cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ tài liệu, chứng cứ thì sự hỗ
trợ, thái độ hợp tác của họ ảnh hưởng rất lớn đến việc đương sự có được đủ tài liệu,


17


chứng cứ để bảo đảm thực hiện được quyền tranh tụng của mình trước Tòa án.
1.3. Các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về
bảo đảm quyền tranh tụng của đƣơng sự
Thể chế hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp, Hiến
pháp năm 2013, tại khoản 5 Điều 103 đã lần đầu tiên hiến định “Nguyên tắc tranh
tụng trong xét xử được bảo đảm”. Đây là cơ sở pháp lý để BLTTDS năm 2015 tiếp
tục khẳng định “bảo đảm tranh tụng trong xét xử” là một trong những nguyên tắc cơ
bản của TTDS. Trước đây, Điều 23a BLTTDS năm 2004 sửa đổi, bổ sung năm 2011
quy định về nguyên tắc bảo đảm quyền tranh luận trong TTDS với nội dung: “Trong
quá trình giải quyết VADS, Tòa án bảo đảm để các bên đương sự, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh luận để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự”. Nếu như quy định này mới bước đầu
mang sắc thái của tranh tụng17, thì BLTTDS năm 2015 đã ghi nhận nguyên tắc bảo
đảm tranh tụng trong xét xử tại Điều 24, trên cơ sở kế thừa và phát triển quy định
bảo đảm quyền tranh luận trong TTDS.
Theo quy định tại Điều 24 BLTTDS năm 2015 thì bảo đảm quyền tranh tụng
của đương sự trong TTDS có một số nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, quyền tranh tụng của đương sự được bảo đảm thực hiện trong giai
đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm, tái thẩm, tức là quyền tranh tụng
không chỉ được thực hiện ở các phiên tòa mà là trong toàn quá trình tố tụng.
Thứ hai, khi thực hiện quyền tranh tụng, đương sự, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ kể từ
khi Tòa án thụ lý VADS; trình bày, đối đáp, phát biểu quan điểm, lập luận về đánh
giá chứng cứ và pháp luật áp dụng để bảo vệ yêu cầu, quyền, lợi ích hợp pháp của
mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác. Tuy nhiên, đương sự cũng phải thực hiện
các nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật, nếu không thực hiện các nghĩa
vụ đó thì phải chịu hậu quả pháp lý theo luật định.
Thứ ba, trách nhiệm của Tòa án trong TTDS là bảo đảm cho đương sự, người
17


Lê Thu Hà (2010), Tổ chức xét xử VADS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, tr. 295.


18

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong xét
xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm. Tòa án điều hành việc tranh
tụng, chỉ hỏi những vấn đề còn chưa rõ và căn cứ vào kết quả tranh tụng của các
bên đương sự để ra bản án, quyết định. Mọi phán quyết Tòa án đưa ra phải dựa trên
cơ sở bảo đảm mọi tài liệu, chứng cứ phải được xem xét đầy đủ, khách quan, toàn
diện, công khai, trừ trường hợp không được công khai theo quy định của pháp luật.
Như vậy, có thể thấy Điều 24 BLTTDS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung và
hoàn thiện nguyên tắc bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự trong TTDS về
phạm vi thời gian, nội dung nguyên tắc và trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo
đảm quyền tranh tụng cho đương sự.
1.3.1. Bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự trong thủ tục sơ thẩm
1.3.1.1. Bảo đảm quyền đưa ra yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố và yêu
cầu độc lập
Khoản 1 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 đã tuyên bố rất rõ ràng: “Ở nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về
chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo
đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Hiểu rộng ra, mọi tổ chức, cá nhân đều được
Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, không phân biệt tôn giáo,
dân tộc, giới tính, quốc tịch… Khi các quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm
hại thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước bảo vệ mình.
Một trong những phương thức để các chủ thể này tự bảo vệ khi quyền và lợi ích hợp
pháp bị xâm hại là khởi kiện vụ án tại TAND theo thủ tục TTDS18. Quyền khởi kiện
vụ án là cơ sở đầu tiên để đương sự thực hiện quyền tranh tụng trong TTDS. Để bảo

đảm quyền này cho đương sự, pháp luật TTDS quy định rất rõ ràng các chủ thể có
quyền khởi kiện; điều kiện khởi kiện; hình thức và phạm vi khởi kiện; điều kiện để
thụ lý vụ án và những trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện. Trong trường hợp
việc trả lại đơn khởi kiện không đúng thì đương sự có quyền khiếu nại việc trả lại
đơn khởi kiện19.
18
19

Xem Điều 4, Điều 186 BLTTDS năm 2015.
Xem thêm các điều từ Điều 186 đến Điều 196 BLTTDS năm 2015.


19

Sau khi thụ lý vụ án, quyền khởi kiện chính là căn cứ để xác định tư cách
đương sự tham gia tố tụng. Theo đó, người thực hiện quyền khởi kiện sẽ là nguyên
đơn, trừ một số trường hợp. Còn người bị kiện sẽ tham gia tố tụng với tư cách bị
đơn20. Lúc này, đặt trong mối tương quan lợi ích, có sự đối kháng nhau về quyền lợi
giữa nguyên đơn và bị đơn. Để bảo đảm công bằng khi nguyên đơn đã thực hiện
quyền khởi kiện, pháp luật TTDS quy định bị đơn có quyền yêu cầu phản tố. Khoản
1 Điều 200 BLTTDS năm 2015 quy định: “Cùng với việc phải nộp cho Tòa án văn
bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn có quyền yêu cầu
phản tố đối với nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc
lập”. Theo đó, việc phản tố của bị đơn chỉ được thực hiện sau khi đã có việc khởi
kiện của nguyên đơn và Tòa án đã thụ lý vụ án. Tuy nhiên, để yêu cầu phản tố này
không gây khó khăn cho việc thực hiện tranh tụng, pháp luật đã quy định giới hạn
quyền yêu cầu phản tố trong một số trường hợp nhất định. Theo khoản 2 Điều 200
BLTTDS năm 2015 thì yêu cầu phản tố của bị đơn với nguyên đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập được chấp nhận khi thuộc một trong các
trường hợp sau:

Một là, yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập.
Hai là, yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một
phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
có yêu cầu độc lập.
Ba là, giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có sự liên quan với nhau và nếu được giải
quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và
nhanh hơn.
Ngoài việc giới hạn về mặt nội dung, pháp luật TTDS đã quy định rõ giới
hạn về thời điểm mà bị đơn có thể thực hiện quyền yêu cầu phản tố là trước thời
điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải
theo khoản 3 Điều 200 BLTTDS năm 2015.
20

Xem thêm Điều 68 BLTTDS năm 2015.


×