Tải bản đầy đủ (.docx) (72 trang)

VẬN DỤNG mô HÌNH KIM CƯƠNG của MICHAEL PORTER để PHÂN TÍCH NĂNG lực CẠNH TRANH của NGÀNH dệt MAY VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (794.1 KB, 72 trang )

BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI VIỆT NAM

CAO KHẢI TÚ
NGUYỄN ĐỨC TÂM
NGUYỄN ANH TUẤN

ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP

VẬN DỤNG MÔ HÌNH KIM CƯƠNG CỦA MICHAEL
PORTER ĐỂ PHÂN TÍCH NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM

HẢI PHÒNG - 2019


BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÀNG HẢI VIỆT NAM

CAO KHẢI TÚ
NGUYỄN ĐỨC TÂM
NGUYỄN ANH TUẤN

ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP
VẬN DỤNG MÔ HÌNH KIM CƯƠNG CỦA MICHAEL


PORTER ĐỂ PHÂN TÍCH NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM
NGÀNH: KINH DOANH QUỐC TẾ

; MÃ SỐ: 7340120

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
Người hướng dẫn: Th.s Đoàn Thị Thu Hằng

HẢI PHÒNG – 2019



LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, chúng em xin chân thành gửi lời cảm ơn đến giảng viên hướng
dẫn cô Đoàn Thị Thu Hằng, người đã tận tình hướng dẫn, đưa ra những lời gợi ý
và giúp đỡ hết sức quý giá cho nhóm của chúng em, để chúng em có thể hoàn
thành được bài luận văn này.
Trong quá trình làm bài luận văn này, dù đã cố gắng hết sức nhưng chúng
em chắc hẳn vẫn mắc một số sai sót nhất định. Chúng em mong muốn các thầy
cô có thể giúp chúng em đưa ra những đóng góp, ý kiến để bài luận văn này
được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!

i


LỜI CAM ĐOAN
Chúng em xin cam kết rằng, tất cả những nghiên cứu và số liệu có trong bài
là chính xác, trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một bài học vị nào.

Mọi thông tin trong đồ án đều có ghi rõ nguồn gốc.

5


MỤC LỤC

6


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT VÀ KÍ HIỆU

7


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số bảng

Tên bảng

Số trang

2.1

Xuất khẩu ngành dệt may từ Việt Nam sang các thị
trường năm 2016 - 2017

22

2.2


Tổng quan ngành dệt may Việt Nam năm 2018

40

2.3

Mục tiêu cụ thể của ngành dệt may Việt Nam đến năm
2030

46

8


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Số biểu đồ

Tên biểu đồ

Số trang

1.1

Mô hình kim cương của Michael Porter

9

2.1


Tổng kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may Việt Nam

21

2.2
2.3

Thị trường xuất khẩu chủ lực hàng dệt may Việt
Nam năm 2018
Cơ cấu nhập khẩu đầu vào các loại nguyên liệu dệt
may năm 2018

21
24

2.4

Tháp chi tiêu cá nhân của người Việt Nam

33

2.5

Doanh thu cung cấp đồng phục của Vinatex năm
2016 – 2018

34

9



LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời đại hiện nay, thông qua công cuộc đẩy mạnh việc hội nhập với
thị trường quốc tế, qua đó thúc đẩy nền kinh tế trong nước, hợp tác cùng có lợi
với nền kinh tế nước ngoài. Bằng những nỗ lực đó, Việt Nam đang không ngừng
cố gắng, mong muốn đưa đất nước phát triển trong tương lai. Năm 2007, Việt
Nam gia nhập vào diễn đàn WTO là một bước tiến lớn cho sự hội nhập của đất
nước, tuy nhiên đây cũng là một thách thức lớn đối với chúng ta. Điều này đòi
hỏi đất nước ta phải nỗ lực và cố gắng hơn nữa trong từng khía cạnh, từng ngành
và cả từng lĩnh vực.
Trong số các ngành công nghiệp thế mạnh hàng đầu của nước ta, dệt may là
ngành đặc biệt quan trọng. Trong năm 2018, tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu
ngành may mặc Việt Nam sang EU là 4,17 tỷ USD, thị trường Hoa Kỳ đạt 12,7
tỷ USD, thị trường Nhật Bản đạt 3,7 tỷ USD. Ngành công nghiệp này không chỉ
thỏa mãn được những thị hiếu tiêu dùng của người Việt mà còn đóng góp vào sự
tăng trưởng của nền kinh tế và các hoạt động liên quan đến xuất nhập khẩu với
nước ngoài, thu về một khoản ngoại tệ không nhỏ cho quốc gia. Tính đến thời
điểm hiện tại, nước ta đã có các chính sách và ưu đãi khác nhau, với mong muốn
cải thiện tình hình xuất nhập khẩu của ngành hàng này.
Trước tình hình đó, chúng ta phải đưa ra những nhận định chính xác về
năng lực cạnh tranh của ngành nhằm có được những đề xuất cần thiết cho việc
khắc phục những điểm yếu còn tồn đọng và phát huy được thế mạnh vốn có,
đồng thời tận dụng được những chính sách ưu đãi để nâng cao hiệu quả hoạt
động kinh tế. Qua đó, giúp cho doanh nghiệp trong nước cải thiện được khả
năng cạnh tranh của mình.
Mô hình kim cương là mô hình kinh tế do Michael Porter thiết kế nhằm tìm
hiểu về khả năng cạnh tranh của một quốc gia hoặc các nhóm lợi thế cạnh tranh
do các yếu tố có sẵn. Mô hình này được ứng dụng rộng rãi trên nhiều quốc gia
10



nhằm nâng cao lợi thế cạnh tranh của mình. Đây còn là mô hình được sử dụng
để phân tích cụ thể lợi thế cạnh tranh của từng mặt hàng, từng ngành. Do vậy,
tên đề tài đồ án của chúng em là:
“Vận dụng mô hình kim cương của Michael Porter để phân tích năng
lực cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam.”
Bài luận văn được chia làm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về cạnh tranh
Chương II: Phân tích năng lực cạnh tranh của ngành dệt may tại Việt Nam
thông qua mô hình kim cương của Michael Porter
Chương III: Đề xuất giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành
công nghiệp dệt may tại Việt Nam

11


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Cơ sở lý luận về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
1.1.1 Tổng quan về cạnh tranh
1.1.1.1 Khái niệm
Hiện nay, trong mọi mặt của đời sống hiện đại, các học thuyết về “cạnh
tranh” đang được nhắc đến và sử dụng trong hầu như tất cả các lĩnh vực mà
chúng ta quan tâm. Có thể thấy chính vì vậy, các nhà khoa học và học giả nổi
tiếng trên thế giới đã và đang hiểu, nhìn nhận các học thuyết này từ các góc độ,
quan điểm khác nhau. Cho đến nay, chính họ cũng chưa thỏa mãn bất cứ khái
niệm thống nhất nào về cạnh tranh. Theo đó, cạnh tranh có thể được tóm tắt như
là: “Một mối quan hệ kinh tế được sinh ra trong nền kinh tế thị trường mà tại đó
các chủ thể kinh tế áp dụng mọi phương thức, thủ đoạn để tranh đua với nhau
với mục đích nhằm giành lấy lợi thế tốt nhất về yếu tố sản xuất cũng như khách
hàng và thị phần cho mình.”

1.1.1.2 Các loại cạnh tranh
- Theo phạm vi ngành kinh tế: cạnh tranh trong cùng một ngành, cạnh tranh
của ngành này với ngành khác.


Cạnh tranh trong cùng một ngành: là sự cạnh tranh của các đối thủ trong cùng
một ngành nghề hoạt động. Các đối thủ sẽ luôn phải tìm cách chiếm lĩnh thị



phần, khách hàng, thậm chí là cả thôn tính, sáp nhập lẫn nhau.
Cạnh tranh của ngành này với ngành khác: là sự cạnh tranh giữa các đối thủ
hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau nhằm mục đích mở rộng các ngành đầu
tư, gia tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp một cách chắc chắn và an toàn hơn.
Trong hình thức này, các doanh nghiệp thường chuyển một số nguồn tài chính
được đầu tư từ ngành thu được ít lợi nhuận sang ngành khác thu được lợi nhuận
cao hơn với một sự phân phối hợp lí vốn đầu tư giữa các ngành.

12


- Theo trạng thái cạnh tranh: cạnh trạnh trạng thái không hoàn hảo, cạnh
tranh trạng thái hoàn hảo và cạnh tranh độc quyền.


Cạnh tranh trạng thái hoàn hảo: Trong thị trường này bao gồm nhiều người bán
loại hàng hóa tương tự như nhau. Giá cả của từng loại sản phẩm sẽ được quyết
định dựa trên yếu tố duy nhất là cung – cầu trong thị trường. Tuy nhiên, đây chỉ




là thị trường cạnh tranh lý tưởng chỉ có trên lí thuyết.
Cạnh tranh trạng thái không hoàn hảo: Đây là thị trường cạnh tranh trên thực tế
và phổ biến nhất trên thế giới hiện nay. Theo đó sự khác biệt giữa các doanh
nghiệp nắm giữ thị trường đối với các đối thủ khác không chỉ ở các loại hàng
hóa, dịch vụ đa dạng, cùng với chất lượng vượt trội đi kèm ở các sản phẩm do
mình tạo ra mà còn ở tên tuổi của doanh nghiệp sản xuất cũng như nhãn hiệu sản
phẩm. Những người bán thường đem đến các hoạt động tiếp thị tới khách hàng
như khuyến mãi, quảng cáo, đưa ra các chính sách ưu đãi giảm giá mua sản



phẩm,...
Cạnh tranh độc quyền: Trong thị trường này, cùng một loại sản phẩm sẽ có số ít
người có khả năng cung ứng, kiểm soát số lượng sản phẩm hàng hóa, thậm chí là
giá cả của loại hàng hóa đó khi bán ra thị trường. Thông thường ở thị trường này



thường chỉ xảy ra sự cạnh tranh giữa các nhà độc quyền với nhau.
- Theo chủ thể của thị trường:
Cạnh tranh giữa hai bên mua và bán: do sự khác nhau về mục đích của hai bên
mua, bán khi tham gia giao dịch, đây là sự canh tranh của cả hai bên mang tính
chất mua rẻ bán đắt. Tính cạnh tranh giữa 2 bên được thể hiện rõ ràng nhất trong
quá trình mặc cả. Giá cả của sản phẩm được hình thành sau quyết định thống



nhất của cả 2 bên khi kết thúc sự mặc cả đó, dẫn đến việc mua bán.
Cạnh tranh trong nội bộ bên mua: Cuộc cạnh tranh này dựa trên định luật cung

– cầu, cụ thể hơn là khi nhu cầu của một loại hàng hóa có chất lượng cao nào đó
vượt quá lượng cung của chúng trên thị trường. Khi đó, sự cạnh tranh trong nội
bộ bên mua sẽ dần trở nên khốc liệt hơn bao giờ hết nhằm mục đích mua được
hàng hóa mà mình cần.

13




Cạnh tranh trong nội bộ bên bán: Cuộc cạnh tranh trong nội bộ bên bán diễn ra
khi số lượng người bán một loại sản phẩm nào đó tăng nhanh dẫn đến việc các
doanh nghiệp phải cạnh tranh khốc liệt với nhau nhằm tăng doanh số bán hàng,
gia tăng lợi nhuận và tồn tại trên thị trường.
1.1.2 Tổng quan về năng lực cạnh tranh
1.1.2.1 Khái niệm
Giống như với thuật ngữ cạnh tranh, khái niệm về năng lực cạnh tranh cũng
đang được sử dụng rất phổ biến trên thế giới. Dù cho đã có nhiều khái niệm do
các học giả và các tổ chức đưa ra nhằm cố gắng định nghĩa thuật ngữ này tuy
nhiên chưa có khái niệm thống nhất nào được công nhận.
Mặc dù những định nghĩa về cạnh tranh đã được nghiên cứu từ buổi sơ khai
của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa thì định nghĩa về năng lực cạnh tranh lại chỉ
được bắt đầu xem xét và nghiên cứu lần đầu từ những năm 1980. Khái niệm này
lần đầu tiên được đề cập đến trong cuốn sách nghiên cứu về thương mại quốc tế
được xuất bản năm 1985 ở Mỹ của Aldington Report. Theo đó: “Một doanh
nghiệp có năng lực cạnh tranh là doanh nghiệp có thể cung cấp các sản phẩm,
hàng hóa vượt trội đi kèm với giá cả hợp lý hơn một cách tương đối so với các
đối thủ cạnh tranh trong nước cũng như quốc tế. Năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp đảm bảo cho doanh nghiệp đạt được lợi ích lâu dài về mọi mặt cũng như
đảm bảo và làm tăng thu nhập của chủ doanh nghiệp và người lao động.”

Tại Mỹ, Hội đồng Năng lực cạnh tranh thì lại cho rằng: “Năng lực cạnh
tranh là năng lực của một quốc gia, doanh nghiệp hay một ngành nghề có thể tạo
ra các sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ đáp ứng được các nhu cầu trong nước
cũng như quốc tế, trong điều kiện thị trường tự do.”
Theo UNCTAD: “Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng của
doanh nghiệp trong việc đảm bảo và gia tăng thị phần của mình một cách chắc
chắn.”
14


Tóm lại, có thể thấy các định nghĩa trên đều là các định nghĩa nói về khả
năng duy trì, đảm bảo và nâng cao sức ảnh hưởng của mình trên thị trường của
các chủ thể (như doanh nghiệp, quốc gia, ngành nghề) nhằm đạt được các lợi ích
kinh tế - xã hội cao và bền vững.
1.1.2.2 Các loại năng lực cạnh tranh
a)

Năng lực cạnh tranh quốc gia
Định nghĩa về năng lực cạnh tranh quốc gia cũng có thể được tiếp cận theo

nhiều cách khác nhau. Dựa trên các định nghĩa do các tổ chức kinh tế, tài chính
quốc tế nêu ra, có thể hiểu rằng: “Năng lực cạnh tranh của một quốc gia là khả
năng của nước đó trong việc đạt được những thành quả nhanh chóng và vững
chắc về kinh tế cũng như mức sống của người dân trong điều kiện các chính
sách của Chính phủ, thể chế nhà nước ổn định và bền vững”.
Do đó, có thể hiểu năng lực cạnh tranh là việc nâng cao năng lực kinh tế
cũng như làm cho người dân có đời sống cao hơn một cách nhanh chóng, vững
chắc. Năng lực cạnh tranh quốc gia có thể được tính đến và xem xét thông qua
nhiều yếu tố, có thể kể đến như: mức độ và sự tăng trưởng của mức sống người
dân cũng như năng suất lao động, khả năng thâm nhập các thị trường quốc tế

của các doanh nghiệp trong nước qua việc xuất khẩu sản phẩm và các khoản đầu
tư đến từ nước ngoài.
b)

Năng lực cạnh tranh trong ngành
Trong một ngành nghề nhất định, năng lực cạnh tranh ngành là việc đạt

được những thành tựu ổn định của các công ty (thuộc quốc gia nào đó) hoạt
động trong ngành so với các đối thủ khác trong một điều kiện công bằng cho tất
cả các bên.
Theo UNCTAD thuộc Liên Hiệp Quốc, năng lực cạnh tranh ngành của một
quốc gia có thể được đo lường và đánh giá qua các chỉ tiêu khác nhau: “Khả
năng kinh doanh cũng như sinh lời của các doanh nghiệp hoạt động trong ngành,
15


cán cân ngoại thương và đầu tư nước ngoài trong ngành, những đánh giá trực
tiếp về chất lượng ngành nghề trong nước”. Các nhân tố thông thường quyết
định đến năng lực cạnh tranh của ngành bao gồm: Điều kiện tự nhiên, tài nguyên
trong nước, khoa học kĩ thuật, thể chế chính trị - kinh tế - xã hội, thể chế quản lý
ngành,…
c)

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là lợi thế trong việc cung ứng các

dịch vụ, hàng hóa hiệu quả hơn đối thủ cạnh tranh nhằm đem đến sự hài lòng
cho khách hàng. Từ đó đem lại sự phát triển nhanh chóng, bền vững cho doanh
nghiệp và thu về lợi nhuận cao nhất có thể.
Đối với các doanh nghiệp có tham gia các hoạt động liên quan đến ngoại

thương, năng lực cạnh tranh có thể được đánh giá thông qua các chỉ tiêu khác
như tỷ suất lợi nhuận, tỷ lệ doanh thu xuất khẩu, thị phần trong khu vực và trên
thế giới, thậm chí là vị thế của doanh nghiệp trên thị trường trong nước cũng
như quốc tế.
Năng lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp thường được xem xét từ các
tiêu chí bên trong doanh nghiệp đó như về nguồn nhân lực, khả năng quản lí,
khả năng tài chính và công nghệ. Bên cạnh đó, cũng cần thiết phải bắt buộc so
sánh, đối chiếu các tiêu chí này với các doanh nghiệp cạnh tranh khác trong
cùng một ngành nghề, cùng một thị trường nhằm tìm ra những điểm mạnh, điểm
yếu của mình.
d)

Năng lực cạnh tranh của sản phẩm
Năng lực cạnh tranh của một loại sản phẩm là sự thể hiện ưu thế tương đối

của nó đối với nhiều mặt so với với các loại các hàng hóa, dịch vụ tương tự khác
của đối thủ cạnh tranh. Sự tiếp nhận sản phẩm của người tiêu dùng đóng một vai
trò lớn, thể hiện qua việc quyết định mua hay không mua hàng hóa đó.
16


Một số các tiêu chí có thể dùng để nhận biết năng lực cạnh tranh của sản
phẩm như: sự đánh giá trực tiếp từ phía thị trường (thể hiện ở các con số về
doanh thu, lợi nhuận, thị phần,...), sự đánh giá trực tiếp về sản phẩm (công dụng,
mẫu mã, kiểu dáng, chất lượng,...) và phản hồi trực tiếp từ phía khách hàng
(mức độ nhu cầu được thỏa mãn, độ phổ biến của sản phẩm, các đánh giá về
phía nhãn hiệu,...).
1.2 Mô hình kim cương Michael Porter
Lý thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia được Michael Porter đưa ra vào năm
1990 trong cuốn sách “Lợi thế cạnh tranh quốc gia”. Theo M.Porter: “Không

một quốc gia nào có lợi thế cạnh tranh ở tất cả các ngành hoặc hầu hết các
ngành. Các quốc gia chỉ trong hoạt động kinh doanh quốc tế khi họ có lợi thế
cạnh tranh bền vững trong một số ngành nào đó”. Ông không đồng tình với
quan điểm tiến hành hoạt động kinh doanh chỉ dựa vào lợi thế cạnh tranh tuyệt
đối và lợi thế so sánh. Đồng thời, ông cũng cho rằng: “Lợi thế cạnh tranh là
những nguồn lực, lợi thế của ngành, quốc gia mà nhờ có chúng các doanh
nghiệp kinh doanh trên thương trường quốc tế tạo ra một số ưu thế vượt trội so
với đối thủ cạnh tranh trực tiếp khác”. Để làm rõ hơn về lợi thế cạnh tranh quốc
gia, ông đưa ra mô hình kim cương với các nhân tố có tác động trực tiếp đến
việc tạo ra lợi thế cạnh tranh. Mô hình đưa ra 4 nhân tố tác động và quyết định
lợi thế cạnh tranh của một quốc gia.
Bốn nhân tố được đưa ra trong mô hình kim cương bao gồm:

17


Thứ nhất, các điều kiện về yếu tố sản xuất đầu vào. Các yếu tố đầu vào
được nêu ra như lao động, vốn, điều kiện tự nhiên, hay nguyên vật liệu đầu vào
phục vụ sản xuất…
Thứ hai, cầu trong nước. Là nhu cầu của thị trường trong nước tác động
đến lợi thế cạnh tranh quốc gia.
Thứ ba, các ngành công nghiệp phụ trợ có liên quan. Để tạo ra lợi thế cạnh
tranh của một ngành nghề của một quốc gia cần có sự hỗ trợ của nhiều ngành
nghề hỗ trợ khác có liên quan.
Thứ tư, chiến lược, cấu trúc và cạnh tranh trong nước của công ty. Là các
hoạt động với mục đích nhằm đưa ra phương hướng, đường lối đối với công ty,
qua đó giúp cho công ty tạo ra những bước đột phá mới, từ đó cải tạo được cơ
chế và hệ thống quản lý giám sát hoạt động trong công ty.
Ngoài bốn yếu tố chính ảnh hưởng trực tiếp đến lợi thế cạnh tranh quốc gia
của một ngành nghề cụ thể thì còn hai yếu tố khác có tác động đến lợi thế cạnh

18


tranh là Chính phủ và cơ hội. Yếu tố cơ hội tác động là các sự kiện phát sinh
nằm ngoài tầm kiểm soát như sự phát triển của khoa học công nghệ, biến động
giá… Yếu tố Chính phủ là các tác động trực tiếp hay gián tiếp đến lợi thế cạnh
tranh thông qua các chính sách của Chính phủ.
1.2.1 Các điều kiện về yếu tố sản xuất đầu vào
Đối với vai trò của yếu tố sản xuất đầu vào thì chúng ta có thể chia thành 2
yếu tố phụ là yếu tố sản xuất cơ bản: điều kiện về khí hậu, tài nguyên tự nhiên,
lao động, nguồn tài chính,…và yếu tố sản xuất cấp cao: cơ sở hạ tầng – nhà
xưởng, hệ thống công nghệ thông tin, máy móc – thiết bị, đội ngũ lao động,…
Trong đó các yếu tố sản xuất cơ bản thường là các điều kiện sẵn có của một
quốc gia hoặc là các yếu tố mà quá trình tạo ra chúng không đòi hỏi phài đầu tư
quá lớn, các yếu tố sản xuất cơ bản có vai trò rất quan trọng đối với các ngành
khai khoáng, nông lâm ngư nghiệp. Bên cạnh đó, yếu tố sản xuất cấp cao là
điểm quyết định xem khả năng cạnh trạnh vượt trội của một ngành nghề sản
xuất. Đây cũng chính là các yếu tố có sự ảnh hưởng trực tiếp để qua đó giúp
giảm các nguồn chi phí, nâng cao năng suất chất lượng lao động. Không chỉ vậy,
để sản phẩm sản xuất ra có tính chất riêng biệt thu hút người tiêu dùng thì cần
cần phải tận dụng và phát huy tối đa được các yếu tố cấp cao đó.
Bên cạnh vai trò của yếu tố thì chúng ta có thể xét về khía cạnh đặc trưng
của yếu tố sản xuất để chia thành 2 yếu tố riêng biệt là yếu tố phổ thông: hệ
thống giao thông, tín dụng, lao động lành nghề,…và yếu tố chuyên môn hóa:
trang thiết bị hạ tầng đặc biệt, kĩ sư - lao động có chuyên môn tay nghề cao,…
Nếu nói, bước đầu để tạo nên lợi thế về cạnh tranh cho sản phẩm cần phải dựa
vào yếu tố phổ thông thì yếu tố chuyên môn hóa chính là nền tảng và là đòn bảy
để quyết định khả năng cạnh tranh của chính loại sản phẩm đó.
Nói tóm lại, 2 yếu tố sản xuất đầu vào là yếu tố sản xuất cơ bản và phổ
thông sẽ quyết định tới việc hình thành nên lợi thế cạnh tranh vốn có có một

19


quốc gia như thế nào, còn muốn tạo dựng nên sự bền vững trong khả năng cạnh
tranh thì cần phải có sự tìm hiểu, đầu tư và đột phá vào các yếu tố sản xuất cấp
cao và chuyên môn hóa. Tuy vậy, không tồn tại một quốc gia nào có thể đầu tư
vào toàn bộ các yếu tố sản xuất đầu vào do những nguồn tài nguyên sẵn có đó
chỉ có hạn và ngược lại việc chọn lựa đầu tư vào yếu tố nào sẽ phụ thuộc vào
chính điều kiện tự nhiên trong nước cũng như chính sách phát triển của Chính
phủ tại quốc gia đó.
1.2.2 Các điều kiện về cầu trong nước
1.2.2.1 Kết cấu cầu trong nước
Nếu nguồn tài nguyên của một quốc gia là có hạn, thì quốc gia đó sẽ cần
phải nghiên cứu sao cho nguồn tài nguyên đó được sử dụng một cách phù hợp.
Do vậy, công tác tìm hiểu thị hiếu của người tiêu dùng, điều kiện về nhu cầu
trong nước là vô cùng quan trọng, để làm sao có thể sản xuất ra lượng sản phẩm
vừa đủ, đảm bảo chất lượng tới tay người tiêu dùng, qua đó cũng phản ánh được
lợi thế cạnh tranh quốc gia. Cụ thể, những quốc gia nào có thể nắm bắt được nhu
cầu của người tiêu dùng một cách chính xác thì quốc gia đó sẽ có lợi thế cạnh
tranh hơn so với những quốc gia còn lại.
Cấu trúc của cung cầu, các đòi hỏi khắt khe từ khách hàng hay những dự
báo về nhu cầu của khách hàng trong tương lai là ba đặc tính một nước cần có
để tác động đến việc tạo ra lợi thế cạnh tranh quốc gia.
Cấu trúc của cầu trong nước là sự phân đoạn của thị trường đối với từng
mặt hàng. Qua đó các doanh nghiệp có những chính sách thích hợp với từng
phân đoạn thị trường. Ví dụ các doanh nghiệp thường có xu hướng tập trung vào
các thị trường có khu vực trung bình và lớn và ít quan tâm hoặc bỏ qua các thị
trường khu vực nhỏ.
Sự khắt khe của khách hàng trong yếu tố cầu thị trường tác động làm các
doanh nghiệp sản xuất bắt buộc phải thay đổi. Nó đòi hỏi các doanh nghiệp bên

20


cạnh việc cung ứng đủ lượng hàng hóa thì cần phải làm thỏa mãn và hải lòng
mong muốn của người tiêu dùng. Điều này giúp các doanh nghiệp có động lực
thay đổi về chất lượng và dịch vụ theo nhu cầu của thị trường từ đó tạo ra lợi thế
cạnh tranh cho các doanh nghiệp.
Đặc điểm cuối cùng của nhu cầu trong nước là tính dự báo trong nhu cầu
của khách hàng. Theo yêu cầu của đặc điểm này, các doanh nghiệp sẽ cần phải
đổi mới sản phẩm của mình theo xu thế mới của thị trường và cả khách hàng sao
cho sản phẩm của chính doanh nghiệp đó không được lỗi thời. Như vậy, khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp mới có thể được phát huy một cách tối đa.
1.2.2.2 Quy mô và tốc độ tăng trưởng của cầu trong nước
Ngoài kết cấu của cầu trong nước thì quy mô và tốc độ tăng trưởng của cầu
trong nước cũng có vai trò quan trọng trong việc tạo lợi thế cạnh tranh quốc gia.
Quy mô của cầu trong nước lớn có thể tạo lợi thế cạnh tranh trong các ngành
đào tạo và các ngành có lợi thế nhờ quy mô. Tuy nhiên, việc lượng cầu trong
nước quá lớn có thể tạo cản trở với doanh nghiệp do các doanh nghiệp quá tập
trung vào thị trường trong nước mà không quan tâm đến thị trường nước ngoài.
Việc nguồn cầu trong nước có tốc độ tăng trưởng nhanh cũng ảnh hưởng ít
nhiều đến lợi thế cạnh tranh do những đòi hỏi tới các doanh nghiệp cần phải sản
xuất liên tục nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất. Thông qua đó, việc tiếp cận tới
các công nghệ mới cũng được tiến hành và thích ứng một cách nhanh chóng và
dễ dàng hơn.
1.2.3 Các ngành phụ trợ liên quan
Ngoài các yếu tố nội tại của doanh nghiệp và ngành nghề một yếu tố bên
ngoài khác có sự tác động rất lớn tới việc tạo lợi thế cạnh tranh của một ngành
nghề là yếu tố về các ngành công nghiệp phụ trợ liên quan. Các ngành công
nghiệp phụ trợ chịu trách nhiệm cung ứng đầu vào cho chuỗi sản xuất và đóng
vai trò quan trọng đối với mọi ngành nghề sản xuất của một quốc gia. Một

21


ngành sản xuất sẽ có khả năng cạnh tranh cao hơn nếu các ngành phụ trợ cho
ngành sản xuất đó phát triển. Ngoài ra, sự hỗ trợ từ nước ngoài cũng tạo tiền đề
để các ngành công nghiệp phụ trợ lớn mạnh hơn. Bên cạnh các ngành phụ trợ,
các ngành sản xuất liên quan cũng có tác động rất lớn tới việc tạo ra lợi thế cạnh
tranh cho một ngành sản xuất. Có các ngành sản xuất liên quan phát triển sẽ tạo
điều kiện cho sự đổi mới do sự phát triển của công nghệ, thông tin, dịch vụ…
liên quan đến ngành sản xuất cụ thể. Ví dụ một doanh nghiệp sản xuất trong
nước sẽ có lợi thế lớn nếu các nhà cung cấp của họ là các công ty toàn cầu, như
vậy doanh nghiệp sẽ nắm bắt tin tức thị trường và đối thủ cạnh tranh trực tiếp
khác.
Một quốc gia không nhất định phải có lợi thế trong tất cả các ngành phụ trợ
liên quan để có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh của một ngành nghề nhất định. Các
ngành sản xuất có thể tự tạo ra lợi thế cạnh tranh cho mình bằng các đầu vào
nhập khẩu hay tạo lợi thế tuyệt đối nhờ kiến thức chuyên sâu hay sản xuất các
sản phẩm có tính độc quyền về kỹ thuật… nhưng nhìn chung các ngành sản xuất
sẽ dễ dàng tạo ra lợi thế cạnh tranh hơn nếu có hệ thống các ngành phụ trợ liên
quan phát triển và gắn bó chặt chẽ
Trong một nước, một ngành nghề nhất định muốn lớn mạnh không nhất
thiết phải có sự tham gia từ các ngành phụ trợ khác nhau. Các ngành nghề đó có
thể tự tạo ra lợi thế cạnh tranh cho riêng mình bằng nhiều phương thức khác
nhau như các lợi thế tuyệt đối nhờ kiến thức chuyên sâu hay sản xuất ra những
sản phẩm mới mang tính chất độc quyền về kiểu dáng và kỹ thuật….Nhưng nhìn
chung, các ngành sản xuất sẽ dễ dàng tạo ra lợi thế cạnh tranh hơn nếu hệ thống
các ngành phụ trợ liên quan có sự gắn bó khăng khít với nhau, hỗ trợ cho nhau
cùng phát triển.
1.2.4 Chiến lược, cơ cấu và môi trường cạnh tranh
1.2.4.1 Chiến lược, cơ cấu của các doanh nghiệp trong nội địa

22


Theo quan niệm của các nước trên thế giới thì mục tiêu, cách thức quản lý
và chiến lược quản lý của các công ty là không giống nhau, nó có sự khác biệt rõ
rệt do tùy vào từng đặc tính, sự phát triển của mỗi quốc gia. Bằng cách diễn đạt
khác, không tồn tại một cơ chế quản lý nào được coi là hoản thiện hay phù hợp
nhất. Để có thể dẫn đến sự thành công về cơ chế giữa các công ty trong thị
trường nội địa cần phải tìm được điểm mấu chốt giữa mô hình, các cách thức
quản lý giữa các công ty và sự gắn liền của các mô hình đó với điều kiện môi
trường xem có phù hợp hay không.
Điều kiện vốn có của mỗi nước sẽ có những sự tác động không nhỏ đến các
cách thức tổ chức quản lý và chiến lược quản lý của các doanh nghiệp, công ty
trong đất nước đó. Tuy nhiên, điểm khác biệt quan trọng giữa các nước trong
việc tiếp cận tới các cách thức đó ở từng lĩnh vực khác nhau như đào tạo, tổ
chức định hướng, những ý kiến, sáng tạo của mỗi con người hay tập thể, phong
cách làm việc độc lập hay hay nhóm, mối quan hệ giữa lao động và quản lý,…
đã cấu thành nên được những thuận lợi và hạn chế nhất định trong các ngành
công nghiệp khác nhau. Những yếu tố đó đặc biệt quan trọng trong các ngành
công nghiệp vì chúng tạo ra được sự sáng tạo và thay đổi trong các doanh
nghiệp nội địa.
Giữa các ngành trong một đất nước, đặc biệt là những ngành công nghiệp
nắm vai trò chủ chốt của một quốc gia thì đều đòi hỏi phải có nhu cầu về tài
chính, vốn, lao động, mức độ rủi ro hay những khoảng thời hạn đầu tư, mức độ
thu nhập bình quân khác nhau. Do vậy, mục tiêu của các doanh nghiệp sẽ được
xác định dựa trên các yếu tố như cơ cấu sở hữu, kế hoạch định hướng phát triển,
đặc tính quản lý và các chương trình khuyến khích nhằm tạo ra động lực cho các
nhà quản trị.
1.2.4.2 Môi trường cạnh tranh trong một quốc gia


23


Các công ty, xí nghiệp trong một đất nước muốn có sự đột phá thì họ cần
phải duy trì được sự đổi mới không ngừng nghỉ để có thể theo kịp được nhịp độ
của thị trường. Trong toàn bộ quá trình đó, các công ty cần không ngừng cạnh
tranh lẫn nhau, đồng thời gây áp lực lẫn nhau để có thể tạo ra được những bước
đột phá và nâng cao được chất lương của sản phẩm – dịch vụ mà họ đã cung
cấp. Việc cạnh tranh gay gắt đã hình thành nên một môi trường cạnh tranh hoàn
hảo dành cho các doanh nghiệp.
Để có thể nâng cao được hiệu quả của các hoạt động sản xuất và tăng được
năng suất lao động thì các công ty, doanh nghiệp trong nước cần phải không
ngừng tìm tòi, đưa ra, đóng góp các ý kiến, phát huy tính sáng tạo của mình, tìm
cách cải tiến và áp dụng được các trang máy móc thiết bị hiện đại. Đây chính là
điểm lợi của môi trường cạnh tranh nội địa, buộc các công ty trong nước có thể
đột phá nhằm đương đầu với các đối thủ cạnh tranh trên trường quốc tế. Chẳng
hạn, một công ty khi sản phẩm của họ đã đến giai đoạn suy giảm thì công ty đó
cần phải tìm cách để cải tiến sản phẩm đó hoặc phải thay thế bằng một sản phẩm
mới hoàn toàn để có thể phù hợp với thị trường nhằm duy trì khả năng cạnh
tranh của mình. Có nhiều phương thức cạnh tranh khác nhau: hoạt động ưu đãi,
hoạt động Marketing,… Ngoài ra còn có các hình thức cạnh tranh khác như
khoa học công nghệ. Thành công trong quá trình đổi mới là dấu hiệu và minh
chứng sự phát triển của một ngành, thu hút thêm sự gia nhập của các doanh
nghiệp mới.
Trong điều kiện sản xuất giữa các nước trên thế giới là như nhau, thì việc
cạnh tranh nội địa sẽ làm mất đi tính ỷ lại của các doanh nghiệp dựa vào các
điều kiện đó. Việc các doanh nghiệp trong nước ganh đua với nhau sẽ giúp cho
các doanh nghiệp đó không chỉ có nền tảng bền vững và kinh nghiệm sẵn có khi
đối đầu với các đối thủ quốc tế mà đồng thời còn có thể khai thác và phát huy tối
đa hiệu quả của các nguồn tài nguyên. Ngược lại, nếu không có sự tồn tại của


24


cạnh tranh nội địa, các doanh nghiệp đó chỉ có thể hoạt động và tồn tại một cách
trì trệ dựa trên những nguồn tài nguyên mà quốc gia đem lại.
Tóm lại, cạnh tranh nội địa là yếu tố thiết yếu đối với sự phát triển của các
doanh nghiệp, cũng như đối với các ngành nghề của một quốc gia. Nếu không
có môi trường cạnh tranh, chỉ tồn tại biểu hiện độc quyền sản phẩm thì các
doanh nghiệp, các ngành và quốc gia đó sẽ trì trệ, kém phát triển. Ngoài ra, tất
cả các quốc gia cũng cần chủ trọng đến các lợi thế các trong mô hình, nếu không
sẽ không thể phát huy và đạt được hiệu quả một cách tối đa.
1.2.5 Vai trò của Chính phủ
Vai trò chủ yếu của Chính phủ thực chất chỉ là tác động, ảnh hưởng tới 4
yếu tố chính của mô hình bao gồm: Điều kiện sản xuất đầu vào; các điều kiện
nhu cầu trong nước; các ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan; chiến lược,
cơ cấu và sự cạnh tranh giữa các công ty.
Sự tác động của Chính phủ đến các điều kiện, yếu tố sản xuất đầu vào
thông qua các trang thiết bị trợ cấp, chính sách trợ cấp vốn cho các doanh
nghiệp, chính sách y tế,…
Việc xác định ảnh hưởng của Chính phủ đến nhóm các yếu tố nhu cầu trong
nước khó khăn hơn, tác động tích cực hay tiêu cực tới lợi thế cạnh tranh của các
doanh nghiệp trong nước, của toàn ngành. Chính phủ có thể tác động tới nhu cầu
thông qua việc điều chỉnh các chính sách sản xuất hàng hóa, kích cầu của loại
mặt hàng này thông qua các mặt hàng khác hay tác động trực tiếp đến nhu cầu
của người dân trong nước. Tuy nhiên, Chính phủ có thể mua sắm hay hỗ trợ, đặt
mua các thiết bị, sản phẩm của các doanh nghiệp đó như các thiết bị điện tử
radio, thiết bị an ninh, thiết bị lắp ráp máy bay cho hãng hàng không quốc gia,…
Chính phủ cũng có thể thúc đẩy lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp
thông qua các ngành phụ trợ liên quan bằng nhiều phương thức khác nhau như

xây dựng các cơ sở hạ tầng hay liên kết giữa các công ty, doanh nghiệp, tài
25


×