Tải bản đầy đủ (.docx) (88 trang)

THỰC TRẠNG KHỚP cắn và CHỈ số BOLTON ở NGƯỜI dân tộc tày 18 25 TUỔI tại LẠNG sơn năm 2017 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 88 trang )

B GIO DC V O TO

B Y T

TRNG I HC Y H NI

VNG NGC THèN

ThựC TRạNG KHớP CắN Và chỉ số
Bolton
ở NGƯờI DÂN TộC TàY 18-25 tuổi
TạILạNG SƠN Năm 2017-2018

LUN VN THC S Y HC


H NI - 2018
B GIO DC V O TO

B Y T

TRNG I HC Y H NI

VNG NGC THèN

ThựC TRạNG KHớP CắN Và chỉ số
Bolton
ở NGƯờI DÂN TộC TàY 18-25 tuổi
TạI LạNG SƠN Năm 2017-2018
Chuyờn ngnh : Rng Hm Mt
Mó s



: 60720601

LUN VN THC S Y HC
Ngi hng dn khoa hc:
PGS. TS. o Th Dung


HÀ NỘI - 2018
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn này, tôi xin được bày tỏ lòng cảm ơn
chân thành và sâu sắc tới:
PGS. TS. Đào Thi Dung - người thầy đã luôn tận tình dành nhiều thời
gian hướng dẫn chỉ bảo, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn
thành luận văn.
PGS.TS. Võ Trương Như Ngọc - người thầy đã cùng chúng tôi đồng
hành trên khắp các nẻo đường làm đề tài. Sự tận tâm, nhiệt huyết, gần gũi và
quan tâm của thầy đã động viên chúng tôi rất nhiều.
Ban giám hiệu, Phòng Sau Đại học - Trường Đại học Y Hà Nội; Ban
lãnh đạo, Phòng Đào tạo và Quản lý Khoa học - Viện Đào tạo Răng Hàm Mặt
đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu để
tôi có thể hoàn thành luận văn này.
Các cô chú, anh chị em ở Khoa Răng Hàm Mặt- Bệnh viện Đa khoa tỉnh
Tuyên Quang đã tạo mọi điều kiện tốt nhất để tôi được đi họcvà nghiên cứu.
Các bạn lớp Cao học Răng Hàm Mặt khóa 24 và 25, các anh chị
Nghiên cứu sinh Răng hàm mặt khóa 35 vàcác anh chị chuyên khoa 2 Răng
hàm mặt khóa 30 đã giúp đỡ tôi rất nhiều khi làm đề tài.
Cuối cùng tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến bố mẹ kính yêu
cũng như người thân đã luôn động viên, ủng hộ và dõi theo từng bước trên
con đường sự nghiệp của tôi.

Hà Nội, ngày

tháng

năm 2018


Vương Ngọc Thìn

LỜI CAM ĐOAN

Tôi là Vương Ngọc Thìn, học viên lớp Cao học khoá 25, chuyên ngành
Răng Hàm Mặt, Trường Đại học Y Hà Nội, xin cam đoan:
1.

Đây là công trình nghiên cứu do bản thân tôi trực tiếpthực hiện dưới

2.

sự hướng dẫn của PGS.TS. Đào Thị Dung.
Công trình này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã

3.

được công bố tại Việt Nam.
Các số liệu và thông tin trong nghiên cứu là hoàn toàn chính xác,
trung thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của cơ sở
nơi nghiên cứu.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.

Hà Nội, ngày

tháng

năm 2018

Người viết cam đoan

Vương Ngọc Thìn


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
AR (Anterior ratio)
ĐTNC
HD
HT
KTGX
ClI
ClII
ClII/1
ClII/2
ClIII
ClIV
Max
Min
R
RHL
SD (Standard deviation)
SKC


: Chỉ số nhóm các răng trước
: Đối tượng nghiên cứu
: Hàm dưới
: Hàm trên
: Kích thước gần-xa
: Sai khớp cắn loại I
: Sai khớp cắn loại II
: Sai khớp cắn loại II tiểu loại 1
: Sai khớp cắn loại II tiểu loại 2
: Sai khớp cắn loại III
: Sai khớp cắn loại IV
: Giá trị lớn nhất
: Giá trị nhỏ nhất
: Răng
: Răng hàm lớn
: Độ lệch chuẩn
: Sai khớp cắn

MỤC LỤC

PHỤ LỤC


DANH MỤC BẢNG


DANH MỤC BIỂU ĐỒ


DANH MỤC HÌNH



9

ĐẶT VẤN ĐỀ

Tổ chức Y Tế Thế Giới khẳng định "Sức khỏe là trạng thái thoải mái
toàn diện cả về thể chất, tinh thần và xã hội và không phải chỉ bao gồm có
tình trạng không mắc bệnh hay thương tật". Do đó, một người không thể được
coi là khỏe mạnh hoàn toàn nếu tình trạng sai khớp cắn (SKC) ngăn cản họ
đạt được trạng thái tốt nhất trong các mối quan hệ xã hội mặc dù tình trạng
thể chất hay tâm lý không suy giảm. Trong những năm gần đây, việc đánh giá,
đo lường mức độ nghiêm trọng và sự phổ biến của SKC đã nhận được nhiều
sự quan tâm. Một số nghiên cứu sử dụng các chỉ số hoặc phương pháp đánh
giá lâm sàng để nhận xét sự phổ biến cũng như đặc điểm của SKC liên quan
đến tuổi, giới tính, dân tộc [1],phân tích đặc điểm và nguyên nhân dẫn tới tình
trạng SKC. Các kết quả nghiên cứu đã cho thấy có rất nhiều nguyên nhân dẫn
đến tình trạng trên, một trong số những nguyên nhân phổ biến là do sự bất cân
xứng giữa kích thước giữa các răng ở hai hàm đã gây ra nhiều ảnh hưởng tiêu
cực tới chức năng, thẩm mỹ bộ răng và khuôn mặt [2].
Phân tích của Bolton là một trong những phương pháp phổ biến nhất để
xác định sự bất hài hòa về kích thước răng. Nó rất hữu ích trong việc hỗ trợ
chẩn đoán cũng như lập kế hoạch điều trị chỉnh nha. Phân tích ban đầu được
thực hiện trên 55 bệnh nhân có khớp cắn lý tưởng, trong đó có 44 bệnh nhân
đã được điều trị chỉnh nha (không nhổ răng) và 11 đối tượng không cần điều
trị. Chỉ sốBolton toàn bộlà tỷ lệ phần trăm thu được bằng cách tính tổng kích
thước gần-xa của 12 răng hàm dưới (R6 - R6) chia cho tổng kích thước gầnxa của 12 răng hàm trên (R6 - R6). Chỉ số Bolton răng trước là tỷ lệ phần
trăm thu được bằng cách tính tổng kích thước gần-xa của 6 răng hàm dưới
(R3 - R3) chia cho tổng kích thước gần-xa của 6 răng hàm trên (R3 - R3)[3].
Các nghiên cứu nhận xét về chỉ số Bolton đã được thực hiện bởi nhiều



10

tác giả khác nhau trên những nhóm đối tượng khác nhau như Lundstrom
(1954) [4], Ebeling et al (1973) [5], Crosby và Alexander (1989) [6],
Redaham và Lagerstrom (2003) [7]. Các nghiên cứu đã đưa ra những giá trị
khác nhau về chỉ số răng trước, chỉ số toàn bộ cung răng và khác với giá trị
trung bình của Bolton. Điều đó đã khiến nhiều tác giả nghi ngờ rằng liệu có
thể áp dụng chỉ số đề nghị bởi Bolton để lập kế hoạch điều trị chỉnh nha cho
tất cả các đối tượng hay không vì có thể chỉ số Bolton ở những dân tộc khác
nhau sẽ có giá trị khác nhau.
Ở Việt Nam, một số nghiên cứu về thực trạng SKC nhằm xây dựng chỉ
số Bolton cho người Việt Nam đã được thực hiện như Nguyễn Thị Phòng [8],
Hoàng Minh Huy [9] và Nguyễn Thị Hải Yến [10], Lưu Phước Hải [2]. Tuy
nhiên, số lượng nghiên cứu về chỉ số này vẫn còn ít, tất cả các nghiên cứu chỉ
thực hiện trên một nhóm đối tượng người dân tộc Kinh. Vậy còn những nhóm
đối tượng không phải người dân tộc Kinh thì chỉ số này như thế nào?
Năm 2017 - 2018, Viện đào tạo Răng HàmMặt- Trường Đại Học Y Hà
Nội đang triển khai đề tài cấp Nhà nước về “Nghiên cứu đặc điểm, chỉ số
nhân trắc đầu mặt ở người Việt Nam để ứng dụng trong y học” trong đó có
nghiên cứu chỉ số Bolton của các dân tộc khác nhau. Vì thế với mong muốn
góp phần tìm hiểu việc sử dụng phân tích Bolton và các giá trị đề nghị bởi
Bolton có thực sự phù hợp với người Việt nói chung và so sánh các giá trị của
phân tích Bolton trong các dân tộc ở Việt Nam nên chúng tôi thực hiện đề
tài:“Thực trạng khớp cắn và chỉ số Boltonở người dân tộc Tày 18-25 tuổi
tại Lạng Sơn năm 2017- 2018” với 2 mục tiêu:
1.

Mô tả thực trạng khớp cắnở một nhóm người dân tộc Tày 18-25 tuổi


2.

tại Lạng Sơn năm 2017 -2018.
Xác định chỉ số Bolton cho nhóm răng trước và phân tích chỉ số đó với
thực trạng khớp cắn của nhóm đối tượng nghiên cứu trên.


11

Chương 1
TỔNG QUAN
1.1.Phân loại khớp cắn
1.1.1.Khớp cắn lý tưởng
Khi hai cung răng ở vị trí khớp cắn trung tâm, có những quan hệ giữa
các răng theo 3 chiều: trước - sau, ngang, đứng.
1.1.1.1. Chiều trước - sau
- Đỉnh múi ngoài gần của răng hàm lớn (RHL) thứ nhất hàm trên nằm ở
rãnh giữa ngoài của RHL thứ nhất hàm dưới.
- Đỉnh răng nanh trên nằm ở đường giữa răng nanh và răng hàm nhỏ thứ
nhất hàm dưới (sườn gần răng nanh trên tiếp xúc với sườn xa răng nanh dưới).
- Rìa cắn răng cửa trên tiếp xúc với rìa cắn răng cửa dưới hoặc ở phía
trước 1 - 2 mm.
1.1.1.2. Chiều ngang
- Cung răng trên bao trùm ngoài cung răng dưới, sao cho núm ngoài
răng trên trùm ra ngoài núm ngoài răng dưới.
- Đỉnh núm ngoài răng dưới tiếp xúc với rãnh giữa hai núm của răng
hàm nhỏ và răng hàm lớn trên.
- Hai phanh môi trên và dưới tạo nên một đường thẳng và ở giữa mặt
trước của khớp cắn.

1.1.1.3. Chiều đứng
- Răng trên tiếp xúc với răng dưới vừa khít ở vùng răng hàm nhỏ và lớn
- Rìa cắn răng cửa trên vừa chạm rìa cắn răng cửa dưới, hoặc chùm sâu
1 - 2 mm.


12

- Trong những điều kiện này, mỗi răng của một cung răng sẽ tiếp xúc
với mặt nhai của hai răng đối diện trừ răng cửa giữa hàm dưới và răng số 8
hàm trên.
1.1.2. Phân loại khớp cắn theo Angle
Phân loại khớp cắn của Edward H. Angle năm 1899 là một mốc quan
trọng trong sự phát triển của chỉnh nha nói riêng và răng hàm mặt nói chung.
Đây là cách phân loại có tính hữu dụng đầu tiên và ngày nay vẫn được ứng
dụng nhiều.Nó không chỉ phân loại sai khớp cắn quan trọng, mà còn định
nghĩa đơn giản và rõ ràng về khớp cắn bình thường[11],[12].Angle coi răng
hàm lớn thứ nhất hàm trên là một mốc giải phẫu cố định và là chìa khóa của
khớp cắn.
Cơ sở của phân loại SKC theo Angle là mối tương quan của RHL vĩnh
viễn thứ nhất hàm trên và RHL vĩnh viễn thứ nhất hàm dưới và sự sắp xếp của
các răng liên quan tới đường cắn. Dựa trên sự liên quan trước sau của RHL
vĩnh viễn thứ nhất, vị trí của RHL vĩnh viễn trên là không đổi và sự sắp xếp
của các răng liên quan đến đường cắn.
Theo Angle, đường cắn ở hàm trên là một đường cong liên tục đi qua
hố trung tâm của mỗi răng hàm và ngang qua gót răng nanh, răng cửa hàm
trên. Đường cắn của hàm dưới là một đường cong liên tục đi qua đỉnh múi
ngoài của răng hàm, đỉnh răng nanh và rìa cắn của răng cửa hàm dưới.



13

Hình 1.1. Đường cắn khớp [1]
Từ đó, Angle đưa ra tiêu chuẩn của khớp cắn bình thường và chia SKC
thành 3 loại:
1.1.2.1. Khớp cắn bình thường
Là khớp cắn có núm ngoài gần của RHL thứ nhất hàm trên khớp với
rãnh ngoài gần của RHL thứ nhất hàm dưới và các răng trên cung hàm sắp
xếp theo một đường cắn khớp đều đặn.

Hình 1.2. Khớp cắn bình thường [1]


14

1.1.2.2. Sai khớp cắn loại I
Là khớp cắn có núm ngoài gần của RHL thứ nhất hàm trên khớp với
rãnh ngoài gần của RHL thứ nhất hàm dưới nhưng đường cắn khớp không
đúng do các răng trước khấp khểnh, xoay…

Hình 1.3. Sai khớp cắn loại I [1]
1.1.2.3. Sai khớp cắn loại II
Là khớp cắn có núm ngoài gần của RHL thứ nhất hàm trên ở về phía
gần so với rãnh ngoài gần của RHL thứ nhất hàm dưới.
Có hai tiểu loại:
- Tiểu loại 1: Cung răng hàm trên hẹp, hình chữ V với răng cửa trên
nghiêng về phía môi (vẩu), độ cắn chìa tăng, môi dưới thường chạm vào mặt
trong của các răng cửa trên.
- Tiểu loại 2: Răng cửa giữa trên ngả vào phía trong nhiều, trong khi
các răng cửa bên nghiêng ra phía ngoài các răng cửa giữa, độ cắn phủ tăng,

cung răng hàm trên ở vùng răng nanh thường rộng hơn bình thường.

Hình 1.4. Sai khớp cắn loại II [1]


15

1.1.2.4. Sai khớp cắn loại III
Là khớp cắn có núm ngoài gần của RHL thứ 1 hàm trên ở về phía xa
so với rãnh ngoài gần của RHL thứ 1 hàm dưới. Các răng cửa dưới có thể ở
phía ngoài các răng cửa trên (cắn ngược vùng cửa).

Hình 1.5. Sai khớp cắn loại III [1]
1.2.Chỉ số Bolton của nhóm răng trước và ý nghĩa.
1.2.1. Kích thước gần-xa của nhóm răng trước vĩnh viễn
Kích thước gần - xa (KTGX) răng là khoảng cách lớn nhất giữa hai
điểm tiếp xúc gần và điểm tiếp xúc xa với các răng kế cận [13]. KTGX của
hai răng đối xứng trong cùng một hàm thì tương đương nhau.

Hình 1.6. Kích thước gần xa của răng [13]


16

Nhóm răng trước vĩnh viễn bao gồm: răng cửa giữa (R1), răng của bên
(R2) và răng nanh (R3).
Bảng 1.1. Kích thước gần-xa của nhóm răng trước [13]
Răng
KTG
X


Hàm trên

Hàm dưới

R1

R2

R3

R1

R2

R3

8,5

6,5

7,5

5,0

5,5

7,0

1.2.2.Các yếu tố ảnh hưởng tới kích thước gần-xa răng

Sự khác biệt về kích thước răng, trong đó bao gồm KTGX của răng
chịu ảnh hưởng bới nhiều yếu tố như: chủng tộc, di truyền, giới tính và các
yếu tố môi trường, trong đó yếu tố về chủng tộc đóng vai trò then chốt.
1.2.2.1. Ảnh hưởng của chủng tộc
Trước đây, nhiều nghiên cứu đã báo cáo về sự khác biệt kích thước này
giữa các nhóm chủng tộc khác nhau.
Fernandes và cộng sự [14] đã so sánh KTGX của các răng hàm trên và
răng hàm dưới của ba nhóm người da trắng, người da đen và người Nhật bản
có gốc Brazil và có khớp cắn bình thường. Tổng cộng có 100 mẫu hàm của
các đối tượng có khớp cắn bình thường, có khuôn mặt hài hòa và độ tuổi
trung bình là 15 - 16 tuổi đã được thu thập. Kết quả đã cho thấy KTGXcủa
các răng ở cả hàm trên và hàm dưới đều có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
giữa ba nhóm đối tượng nghiên cứu trên.
Trong nghiên cứu của mình, Khan và cộng sự [15] cũng quan sát thấy
có sự khác biệt đáng chú ý về kích thước răng theo chiều gần-xa ở người
Banglades và một số nhóm người thuộc các nhóm chủng tộc khácngười Mỹ
da trắng. Ông kết luận rằng kích thước răng của Mỹ da trắng nhỏ hơn người
Banglades trung bình là 0,42 mm.


17

Trong một nghiên cứu khác liên quan về vấn đề này, Smith [16] đã so
sánh KTGX và kích thước trong - ngoài của các răng vĩnh viễn ở 3 nhóm dân
cư khác nhau: da đen, da trắng và nhóm người nói tiếng Latin. Kết quả của
nghiên cứu này chỉ ra sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về KTGX của các răng
giữa 3 nhóm dân cư này.
Cơ sở để giải thích tốt nhất cho sự khác biệt này trên nền tảng di truyền
chính là các mẫu gen được thừa hưởng. Osborne và cộng sự [17] đã so sánh
KTGX nhóm răng trước hàm trên và hàm dưới của 54 cặp sinh đôi (33 cặp sinh

đôi cùng trứng và 21 cặp sinh đôi khác trứng, cùng giới tính), tuổi từ 18 - 55,
đều là người da trằng. Kết quả cho thấy có mối liên quan chặt chẽ về KTGX
của các răng thuộc nhóm răng trước của các cặp sinh đôi cùng trứng, đồng thời
cũng đưa ra giả thuyết cho sự liên quan của các yếu tố di truyền khác đến các
đặc điểm hình thái răng. Kết quả này cũng được chứng minh trong các nghiên
cứu khác của Lundstrom (1966) [18], Korkhaus (1930) [17] và một số tác giả
khác [19]
1.2.2.2. Ảnh hưởng của giới tính
Ngoài sự khác biệt về chủng tộc, giới tính cũng có liên quan đến sự
khác biệt kích thước răng. Yee Leung và cộng sự (2018) [20] nghiên cứu kích
thước răng của 200 trẻ (100 nam và 100 nữ) 12 tuổi có khớp cắn loại I đã
nhận thấy kích thước răng của nữ nhỏ hơn nam trừ răng cửa bên hàm trên và
hàm dưới bên trái, răng cửa giữa hàm dưới ở cả bên phải và trái.
Kết quả này cũng đã được chứng minh trong một số nghiên cứu của các
tác giả Santoro và cộng sự [21], Nguyễn Thị Phòng [8], Nguyễn Thị Hải Yến
[10] và một số tác giả khác [22], [23], [24].


18

1.2.2.3. Ảnh hưởng của yếu tố khác
Trong số những yếu tố khác, dinh dưỡng cũng được xem có vai trò
quan trọng trong sự khác biệt kích thước răng. Cơ chế hình thànhrăng liên
quan chặt chẽ với vị trí răng và thiếu hụt dinh dưỡng cho răng cũng
cótầmquan trọng rất lớn [25].
1.2.3. Ảnh hưởng của bất hài hòa kích thước gần-xa răng giữa hai hàm
lên khớp cắn
Muốn đạt được khớp cắn hài hòa thì mức độ hài hòa kích thước giữa
các răng hàm trên và răng hàm dưới giữ một vai trò rất quan trọng, vậy nên
đòi hỏi kích thước gần-xa các răng giữa hàm trên và hàm dưới phải có một tỷ

lệ cân đối, không được có một răng hay một nhóm các răng có kích thước to
hay bé hơn so với kích thước bình thường. Nếu mối tương quan về kích thước
răng thay đổi thì sẽ gây ra sai khớp cắn [1], [24],[26]. Đặc biệt là nhóm răng
trước, nếu có sự bất cân xứng kích thước răng sẽ gây nên tình trạng lệch lạc
răng, không những ảnh hưởng tới chức năng mà còn gây ảnh hưởng nhiều tới
thẩm mỹ, tạo nên tâm lý kém tự tin trong giao tiếp xã hội.
Cụ thể, khi kích thước các răng trên lớn quá mức bình thường có thể
làm tăng độ cắn phủ, tăng độ cắn chìa, chen chúc các răng hàm trên, có khe
thưaở vùng răng hàm dưới, các răng cửa trên ngả sau và các răng cửa dưới
ngả trước. Ngược lại, khi kích thước răng dưới lớn quá mức có thể làm giảm
độ cắn phủ, giảm độ cắn chìa, chen chúc các răng hàm dưới, có khe thưaở
vùng răng hàm trên,các răng cửa trêncó xu hướng trên ngả trước và các răng
cửa dướingả sau.
1.2.4. Chỉ số Bolton
Kích thước răng là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới
chẩn đoán và kế hoạch điều trị chỉnh nha. Nhiều tình trạng sai khớp cắn là kết


19

quả của việc bất cân xứng về kích thước răng. Để tìm ra lời giải cho bài toán
trên, năm 1958Boltonđã công bố kết quả phân tích tỷ lệ về mối tương quan
giữa kích thước gần xa của nhóm răng hàm trên và hàm dưới sau khi phân tích
mẫu hàm của 55 đối tượng người Mỹ da trắng tại trường Đại học Washington
có khớp cắn lý tưởng, trong đó có 44 người đã được chỉnh nha không có nhổ
răng và 11 người không cần điều trị. Tuy nhiên, phân tích của Bolton chỉ áp
dụng cho răng vĩnh viễn, sau khi đã mọc đủ các răng từ RHL vĩnh viễn thứ nhất
từ bên phải sang bên trái (R6 - R6) và chỉ thực hiện trên mẫu hàm, không đo
trực tiếp trên miệng bệnh nhân [3]. Phân tích của Bolton gồm hai chỉ số: chỉ số
Bolton toàn bộ (OR: overall ratio) và chỉ số Bolton răng trước(AR: anterior

ratio)[27].
- Chỉ số Bolton toàn bộ (OR):
OR =

Tổng kích thước gần-xa 12 răng hàm dưới
x 100 = 91,3 ± 1,91%
Tổng kích thước gần-xa 12 răng hàm trên

Hình 1.7. Cách tính chỉ số Bolton toàn bộ [28]
- Chỉ số Bolton răng trước (AR):


20

AR =

Tổng kích thước gần-xa 6 răng trước hàm dưới
Tổng kích thước gần-xa 6 răng trước hàm trên

x 100 = 77,2 ± 1,65%

Hình 1.8. Cách tính chỉ số Bolton trước [28]
Bằng cách so sánh tỷ lệ này với giá trị chuẩn, Bolton xác định được sự
bất hài hòa kích thước răng nằm ở hàm răng nào. Đến năm 1962, để giảm việc
tính toán chỉ số Bolton, ông xây dựng 1 bảng chuẩn sử dụng để so sánh tổng
KTGXcác răng hàm trên so với hàm dưới. Các số liệu được xếp thành 2 cột,
cột đầu tiên thể hiện giá trị kích thước răng hàm trên ghi nhận được và cột thứ
hai thể hiện kích thước răng hàm dưới lý tưởng tương ứng. Việc so sánh có
thể được thực hiện nhanh và bác sĩ chỉnh nha có thể sớm dự đoán được kết
quả khớp cắn một cách chính xác [26].



21

Bảng 1.2. Liên quan về kích thước gần xa của 12 răng theo Bolton [26]
12 răng
HT

12 răng
HD

12 răng
HT

12 răng
HD

12 răng
HT

12 răng
HD

85

77,6

94

85,8


103

94,0

86

78,5

95

86,7

104

95,0

87

79,4

96

87,6

105

95,9

88


80,3

97

88,6

106

96,8

89

81,3

98

89,5

107

97,8

90

82,1

99

90,4


108

98,6

91

83,1

100

91,3

109

99,5

92

84,0

101

92,2

110

100,4

93


84,9

102

93,1

Bảng 1.3. Liên quan về kích thước gần xa của 6 răng
trước theo Bolton [26]
6 răng
6 răng
6 răng
6 răng
6 răng
6 răng
HT
HD
HT
HD
HT
HD
40,0
30,9
45,5
35,1
50,5
39,0
40,5
31,3
46,0

35,5
51,0
39,4
41,0
31,7
46,5
35,9
51,5
39,8
41,5
32,0
47,0
36,3
52,0
40,1
42,0
32,4
47,5
36,7
52,5
40,5
42,5
32,8
48,0
37,1
53,0
40,9
43,0
33,2
48,5

37,4
53,5
41,3
43,5
33,6
49,0
37,8
54,0
41,7
44,0
34,0
49,5
38,2
54,5
42,1
44,5
34,4
50,0
38,6
55,0
42,5
45,0
34,7
Đồng thời, Bolton cũng đã chỉ ra khi chỉ số nhóm răng trước nằm ngoài
khoảng 77,2 ± 1,65 (1SD) thì sự bất hài hòa kích thước gần-xa của răng gây


22

ra biểu hiện trên lâm sàng và cần thiết phải can thiệp điều trị để đạt được một

khớp cắn tốt [26] và với chỉ số Bolton toàn bộ thì giá trị là 91,3 ± 1,91 (1SD).
Tuy nhiên, trong nhiều nghiên cứu khác, một số tác giả lại thấy rằng chỉ số
Bolton phải lớn hơn 2 độ lệch chuẩn (2SD) thì mới cần phải điều trị lâm sàng
do sai lệch về KTGXcủa răng gây nên. Theo Freeman (1996) [27] thì sự bất
hài hòa kích thước răng rất hay xảy ra ở nhóm răng trước và khi tỉ lệ AR <
77,2 – 3,3 (2SD) hoặc khi AR > 77,2 +3,3 (2SD). Hay trong nghiên cứu của
Heusdens (2000) [26] còn khẳng định tỉ lệ AR phải lớn hơn 3 độ lệch chuẩn
(3SD) thì mới gây ra tình trạng bất hài hòa về kích thước răng.
1.2.5. Ứng dụng lâm sàng của chỉ số Bolton
Nghiên cứu của Bolton rất có ý nghĩa trong việc chẩn đoán cũng như
lập kế hoạch điều trị chỉnh nha. Mối quan hệ KTGX giữarăng hàm trên và
răng hàm dưới giúp các bác sĩ chỉnh nha dự đoán tương quan răng giữa hai
hàm, độ cắn phủ, độ cắn chìa. Thông qua phân tích Bolton, tác giả phát hiện
khoảng chênh lệch về KTGX giữa hàm trên và hàm dưới, xác địnhnguyên
nhândo hàm trên hay hàm dưới để điều chỉnh.
- Chỉ số Bolton toàn bộ (OR):
Nếu OR > 91,3%: Tổng KTGX của 12 răng hàm dưới quá lớn so với
các răng hàm trên. Để xác định kích thước khoảng chênh lệch cần điều chỉnh,
ta thực hiện các bước sau [3]:
+ Bước 1: Xác định tổng KTGX của 12 răng hàm trên của bệnh nhân.
+ Bước 2: Thay tổng kích thước trên vào công thức OR để tìm ra tổng
KTGXlý tưởng của 12 răng hàm dưới.
+ Bước 3: Xác định khoảng kích thước chênh lệch cần điều chỉnh ở hàm
dưới bằng cách lấy tổng KTGX thực tế 12 răng hàm dưới trừ đi tổng KTGX lý
tưởng 12 răng hàm dưới mà ta mới tìm ra được.


23

Nếu OR < 91,3%: Tổng KTGX của 12 răng hàm trên quá lớn so với

các răng hàm dưới. Cách xác định tương tự như
- Chỉ số Bolton răng trước (AR) [3]:
Nếu AR > 77,2%: Tổng KTGX của nhóm răng trước hàm dưới quá lớn
so với các răng hàm trên. Để xác định kích thước khoảng chênh lệch cần điều
chỉnh, ta làm các bước sau:
+ Bước 1: Xác định tổng KTGX của 6 răng nhóm trước hàm trên của
bệnh nhân
+ Bước 2: Thay tổng kích thước trên vào công thức chỉ số nhóm răng
trước để tìm ra tổng KTGX tưởng cần có của 6 răng nhóm trước hàm dưới.
+ Bước 3: Xác định khoảng chênh lệch kích thước cần điều chỉnh ở hàm
dưới bằng cách lấy tổng KTGX thực tế của 6 răng nhóm trước hàm dưới trừ đi
tổng KTGX lý tưởng của 6 răng nhóm trước hàm dưới mà ta mới tìm ra được.
Nếu AR < 77,2%: Tổng KTGX của nhóm răng trước hàm trên quá lớn
so với các răng hàm dưới. Cách xác định tương tự như trên.
1.2.6. Tình hình nghiên cứu chỉ số Bolton trên thế giới và ở Việt Nam
Năm 1958, Bolton [3] đã đưa ra chỉ số tương quan về KTGX của răng
giữa hai hàm, góp phần vào chẩn đoán và lập kế hoạch điều trị trong các
trường hợp sai khớp cắn. Thành tựu của ông thực sự là cuộc cách mạng trong
lĩnh vực chỉnh nha. Từ đó đến nay, trên thế giới đã có rất nhiều tác giả nghiên
cứu về phân tích của ông.
Năm 1977, Sperry và cộng sự [29] đã phân tích chỉ số Bolton trên 130
đối tượng sai khớp cắn loại I (ClI), sai khớp cắn loại II (ClII) và sai khớp cắn
loại III (ClIII). Tác giả nhận thấy KTGX răng hàm dưới ở nhóm đối tượng sai
ClIII lớn hơn so với nhóm đối tượng Cl I và ClII. Ông đề nghị đưa phân tích


24

sự chênh lệch KTGX răng thành một bước bắt buộc trong quy trình chẩn đoán
cho bệnh nhân điều trị chỉnh nha, đặc biệt với nhóm ClIII.

Năm 1996, Freeman và cộng sự [27] đã nghiên cứu 157 mẫu hàm của
các bệnh nhân chỉnh nha, gồm 115 người da trắng, 27 người da đen và 15
người thuộc các nhóm chủng tộc khác. Qua nghiên cứu, ông thấy rằng chỉ số
nhóm răng trước của mình là 77,8 khá tương đồng với chỉ số của Bolton là
77,2. Tuy nhiên, độ lệch chuẩn lại lớn hơn (3,07 so với 1,65). Đồng thời, ông
cũng phát hiện sự bất tương quan KTGX của nhóm răng trước xảy ra ở 48
người, chiếm tỷ lệ 30,6 % và những trường hợp này đều có chỉ số Bolton
nhóm răng trước vượt quá 2SD.
Năm 2000, Santoro [21] khi phân tích 54 mẫu hàm của bệnh nhân
chỉnh nha người Mỹ đã đưa ra kết luận chỉ số nhóm răng trước và độ lệch
chuẩn trong nghiên cứu đều lớn hơn trong nghiên cứu của Bolton. Ông lý giải
cho việc này có thể là do đối tượng nghiên cứu của ông là những bệnh nhân
chỉnh nha có các vấn đề về khớp cắn khác nhau, trong khi đótác giả Bolton
nghiên cứu trên những người có khớp cắn lý tưởng.
Năm 2005, Uysal và Sari [30] khi phân tích mẫu hàm của 150 người
Thổ Nhĩ Kì đã đưa ra chỉ số AR là 78,26 ± 2,61. Ông cho rằng với dữ liệu trên
thì chỉ số Bolton không thể áp dụng cho người dân của mình và cần phải có
một chỉ số mới.
Năm 2008, Toshiya và cộng sự [31] trong nghiên cứu của mình trên 60
người Nhật Bản lại cho rằng chỉ số Bolton có thể áp dụng chỉnh nha cho
những đối tượng người Nhật Bản.
Năm 2009, Nguyễn Thị Phòng [10] áp dụng phân tích của Bolton trong
nghiên cứu của mình trên 60 sinh viên Trường Đạo học Răng Hàm Mặt, nhận
thấy rằng giá trị trung bình chỉ số trước ở nhóm khớp cắn bình thường là


25

78,04 ± 1,58, giá trị này tương đương với giá trị trung bình trong nghiên cứu
của Bolton. Còn ở nhóm SKC, có 34,7% mẫu nghiên cứu có bất tương quan

KTGX các răng phía trước.
Năm 2014, Hasija và cộng sự [32] thực hiện phân tích Bolton trên 100
đối tượng thuộc ba nhóm ClI, ClII và ClIII, cho thấy chỉ số Bolton răng trước
và chỉ số Bolton toàn bộ gần giống với kết quả của Bolton: AR là 77,85 và
OR là 90,53; tuy nhiên độ lệch chuẩn thì lớn hơn giá trị của Bolton. Tác giả
đề nghị phân tích Bolton có thể sử dụng trong mọi trường hợp, đó là một
bước cần thiết trước khi thực hiện điều trị chỉnh nha.


×