Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Thực trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan của trẻ em từ 0 – 24 tháng tuổi tại Phường Khương Mai, Thanh Xuân, Hà Nội năm 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.74 KB, 24 trang )

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Dinh dưỡng đóng vai trò quan trọng đối với cơ thể con người,
đặc biệt đối với trẻ em – một cơ thể đang lớn và phát triển. Ở lứa tuổi
từ lúc sơ sinh cho tới 5 tuổi là thời kỳ phát triển quan trọng của cuộc
đời, đây là thời kỳ tăng trọng lượng cơ thể nhanh nhất trong cuộc đời
trẻ, nhiều hệ thống cơ quan trong cơ thể được hoàn chỉnh đặc biệt là
hệ thống thần kinh trung ương và hệ vận động của trẻ. Do vậy, việc
đảm bảo cung cấp đầy đủ dinh dưỡng cho trẻ trong giai đoạn này là
vấn đề hết sức quan trọng và nhu cầu dinh dưỡng của giai đoạn này
cũng là cao nhất..
Dinh dưỡng không đầy đủ sẽ dẫn đến hậu quả trẻ bị suy dinh
dưỡng. Suy dinh dưỡng là tình trạng cơ thể thiếu protein – năng
lượng và các vi chất dinh dưỡng. Bệnh thường gặp nhiều nhất ở trẻ
em dưới 5 tuổi, biểu hiện ở các mức độ khác nhau.
Ở Việt Nam, tỷ lệ suy dinh dưỡng đã có chiều hướng giảm xuống
rõ rệt. Theo khảo sát của Viện Dinh dưỡng Quốc gia (2000 – 2015),
tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân ở trẻ em đã giảm từ 33,8% xuống
còn 11,4%. Tỷ lệ thấp còi giảm từ 36,5% xuống còn 24,6%.
Tuy nhiên, tỷ lệ suy dinh dưỡng của trẻ em dưới 5 tuổi ở nước ta
so với thế giới và các nước trong khu vực còn cao. Mục tiêu của
chương trình phòng chống suy dinh dưỡng của nước ta là giảm tỷ lệ
suy dinh dưỡng thể nhẹ cân còn 12,5%; suy dinh dưỡng thể thấp còi
còn 23% vào năm 2020. Để thực hiện được mục tiêu đó, suy dinh
dưỡng cần được coi là một vấn đề sức khỏe có ý nghĩa cộng đồng,
đòi hỏi sự quan tâm và tham gia của toàn xã hội.
Để góp phần cải thiện tình trạng dinh dưỡng và giảm tỷ lệ suy
dinh dưỡng (SDD) của trẻ em trên địa bàn nghiên cứu nói riêng và
thành phố Hà Nội nói chung, chúng tôi thực hiện nghiên cứu về:
“Thực trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan của trẻ em từ 0 –
24 tháng tuổi tại Phường Khương Mai, Thanh Xuân, Hà Nội năm


2018”, với 2 mục tiêu sau:
1. Mô tả thực trạng dinh dưỡng của trẻ em từ 0 – 24 tháng tuổi
tại Phường Khương Mai, Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội năm
2018.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan tới thực trạng dinh dưỡng
của đối tượng nghiên cứu.


2
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1. CÁC THỜI KỲ PHÁT TRIỂN VÀ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC
CƠ BẢN, NHU CẦU DINH DƯỠNG CỦA TRẺ EM TỪ 0-24
THÁNG TUỔI
1.1.1. Cách phân chia các thời kỳ của trẻ em
Theo WHO trẻ em bao gồm từ 0 đến 18 tuổi, cụ thể như sau:
- Sơ sinh (Newborn): từ lúc sinh đến 1 tháng;
- Trẻ bú mẹ (Infant): 1 đến 23 tháng;
- Trẻ tiền học đường (Preschool child): 2 đến 5 tuổi;
- Trẻ em nhi đồng (Child): 6 đến 12 tuổi;
- Trẻ vị thành niên (Adolescent): 13 đến 18 tuổi.
Tại Việt Nam, theo Giáo trình Nhi khoa, Bộ môn Nhi,
Đại học Y Dược Huế:
- Thời kỳ sơ sinh: Bắt đầu từ lúc sinh (cắt rốn) cho đến
4 tuần lễ đầu;
- Thời kỳ bú mẹ (nhũ nhi): Từ 1 tháng đến 12 tháng
tuổi;
- Thời kỳ răng sữa (Thời kỳ trước khi đi học):Từ 1 đến
6 tuổi. Có thể chia làm 2 thời kỳ nhỏ:
+ Tuổi nhà trẻ: 1 - 3 tuổi;

+ Tuổi mẫu giáo: 4 - 6 tuổi.
1.1.2. Đặc điểm sinh học cơ bản của trẻ từ 0 – 24 tháng tuổi
Trẻ từ lúc sinh (cắt rốn) cho đến 4 tuần lễ đầu, sự chuyển tiếp từ
đời sống trong tử cung sang ngoài tử cung buộc đứa bé phải có sự
thay đổi chức năng của một số cơ quan để thích nghi với cuộc sống
mới như hoạt động của bộ máy hô hấp, bộ máy tuần hoàn. Vì vậy
thức ăn tốt nhất là sữa mẹ. Chức năng các bộ phận phát triển nhanh
nhưng chưa hoàn thiện đặc biệt là chức năng tiêu hóa, tình trạng miễn
dịch thụ động (IgG từ mẹ truyền sang giảm nhanh trong khi khả năng
tạo Globulin miễn dịch còn yếu).
- Hệ xương phát triển nhanh.
- Về đặc điểm bệnh lý thời kỳ này hay gặp là các bệnh dinh
dưỡng và chuyển hóa (suy dinh dưỡng, thiếu máu, còi xương, tiêu
chảy cấp) và các bệnh nhiễm khuẩn mắc phải (viêm phổi, viêm


3
nhiễm đường hô hấp trên, viêm màng não mủ). Nói chung các bệnh
nhiễm khuẩn dễ có xu hướng lan toả.
1.1.3. Nhu cầu dinh dưỡng của trẻ từ 0 – 24 tháng tuổi
Trong khoảng thời gian này, nhu cầu năng lượng và dinh dưỡng
của trẻ rất cao nên cần phải quan tâm chăm sóc, nuôi dưỡng, đảm bảo
cho trẻ về các chất đạm, chất khoáng và vi chất dinh dưỡng.
Trong năm đầu tiên trẻ phát triển nhanh. Đặc biệt, sau sinh 6
tháng trung bình cân nặng trẻ tăng lên gấp đôi, đến 12 tháng cân
nặng của trẻ tăng lên gấp 3 so với cân nặng lúc sinh, để đáp ứng
tốc độ phát triển trong năm đầu của trẻ nhu cầu các chất dinh
dưỡng cũng như năng lượng đều cao.
Bắt đầu cho trẻ ăn bổ sung từ tháng thứ 7 nghĩa là từ khi trẻ
được vừa tròn 180 ngày tuổi trở đi.

1.2. ĐẠI CƯƠNG SDD
1.2.1. Khái niệm SDD:
SDD: Là tình trạng cơ thể thiếu protein, năng lượng và các vi
chất dinh dưỡng. Bệnh hay gặp ở trẻ dưới 5 tuổi, biểu hiện ở nhiều
mức độ khác nhau, nhưng ít nhiều ảnh hưởng đến thể chất, tinh thần
và vận động của trẻ.
1.2.2. Sơ lược về lịch sử SDD
- Giữa thế kỷ XIX đến thế kỷ XX, nhiều tác giả trên thế giới đã mô
tả những trạng thái lâm sàng dưới nhiều tên gọi khác nhau.
- Năm 1908 Cotrea gọi SDD là bệnh “rắn nhỏ” vì trẻ em mắc bệnh
cơ thể nhỏ bé, da có lằn màu sẫm lẫn màu nhạt như da rắn.
- Năm 1926, Mormet người Pháp đã mô tả căn bệnh này với tên gọi
Bouffissure (mặt trẻ bị phù trông bạnh ra) gặp nhiều ở Trung Nam Bộ
Việt Nam.
- Năm 1959, Jellife đề nghị tên gọi “SDD protein – năng lượng”
(Protein Energy Malnutrition – PEM) vì thấy có mối liên quan
chặt chẽ giữa thể phù và thể teo đét. Từ đó SDD protein - năng
lượng được thay thế cho các thuật ngữ trước.
1.2.3. Tình hình SDD trên thế giới và ở Việt Nam:
1.2.3.1. Tình hình SDD trên thế giới
Mặc dù đã có những chuyển biến tích cực trong những năm gần
đây nhưng SDD vẫn là một trong những vấn đề y tế công cộng hàng
đầu ở các nước đang phát triển. Trên toàn thế giới SDD thấp còi vẫn
tăng, ảnh hưởng hơn 186 triệu trẻ dưới 5 tuổi.


4
SDD ảnh hưởng tới tất cả các nhóm tuổi, nhưng phổ biến ở
nhóm người nghèo và những người không tiếp cận được đầy đủ với
giáo dục y tế, nước sạch và hệ thống xử lý chất thải tốt. Không bú mẹ

hoàn toàn đã được ước tính chịu trách nhiệm cho 1-4 triệu tử vong trẻ
và 44 triệu DALYs (Một DALY (Disability-Adjusted Life Year) được
xem là một năm sống khỏe mạnh bị mất đi) trong đó 10% DALYs ở
trẻ em <5 tuổi.
1.2.3.2. Tình hình SDD ở Việt Nam
Tại Việt Nam, vào thập kỷ 80 của thế kỷ XX, tỷ lệ SDD rất cao
trên 50%, năm 1995 là 44,9%. Tuy nhiên, theo số liệu điều tra của
Viện Dinh dưỡng quốc gia từ năm 1999 đến năm 2010, tỷ lệ SDD trẻ
em đã giảm đi một cách rõ rệt. Tỷ lệ SDD thể nhẹ cân ở trẻ em dưới
5 tuổi đã giảm từ 30,1% năm 2002 xuống còn 17,5 % năm 2010. Tỷ
lệ SDD thể thấp còi đã giảm từ 33,0% năm 2002 xuống còn 29,3%
năm 2010.
SDD ở trẻ em xuất hiện sớm ngay sau khi sinh, tuy nhiên tỷ lệ SDD
ở nhóm trẻ dưới 6 tháng là thấp nhất. Sau đó, tỷ lệ SDD tăng nhanh vào
lúc trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi, do vấn đề nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ
sung chưa hợp lý. SDD thể nhẹ cân tăng nhanh trong năm đầu tiên, tiếp
tục tăng trong năm thứ 2 và đạt tỷ lệ cao nhất lúc trẻ được 36 - 41 tháng
tuổi.
1.3. NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ CỦA SUY DINH DƯỠNG
TRẺ EM
1.3.1. Nguyên nhân suy dinh dưỡng trẻ em
- Thiếu dinh dưỡng:
Thiếu dinh dưỡng có thể xảy ra do giảm cung cấp chất dinh
dưỡng, tăng tiêu thụ dưỡng chất hoặc cả hai. Giảm cung cấp chủ yếu
là do chế độ ăn của trẻ không đủ cả về số lượng lẫn chất lượng, thiếu
năng lượng, protein cùng các vi chất dinh dưỡng, trong đó có sắt, axit
folic, kẽm; trẻ biếng ăn, ăn không đủ nhu cầu và thức ăn chế biến
không phù hợp, năng lượng thấp. Tăng tiêu thụ khi trẻ ốm, thất thoát
chất dinh dưỡng do bệnh lý.
- Nhiễm trùng:

Từ lâu, người ta đã thừa nhận các bệnh nhiễm khuẩn và ký sinh
trùng là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến SDD trẻ em, đặc biệt là tiêu
chảy, nhiễm giun, nhiễm khuẩn hô hấp cấp là các bệnh thường gặp ở
trẻ nhỏ.


5
- Vấn đề về thực phẩm, sử dụng sữa mẹ, chăm sóc trẻ khi bị
bệnh, tập quán nuôi dưỡng trẻ... cũng ảnh hưởng tới thiện TTDD của
trẻ. Sữa mẹ đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của
trẻ, đặc biệt sữa mẹ làm giảm khả năng mắc bệnh của trẻ, nhất là các
bệnh NKHHCT và tiêu chảy.
1.3.2. Hậu quả của suy dinh dưỡng trẻ em
- Ảnh hưởng đến vóc dáng/chiều cao khi trưởng thành
- Ảnh hưởng đến nhận thức, phát triển trí tuệ và khả năng lao
động khi trưởng thành
- Tăng gánh nặng bệnh tật và tử vong
1.3.3. Phương pháp đánh giá tình trạng dinh dưỡng của trẻ em
Tình trạng dinh dưỡng (TTDD) là tình trạng sức khỏe của cá
nhân hay cộng đồng ảnh hưởng bởi chế độ ăn và việc sử dụng các
chất dinh dưỡng trong cơ thể. Hiện nay có bốn phương pháp được
dùng để đánh giá TTDD của trẻ em:
WHO đã khuyến cáo có 3 chỉ tiêu nhân trắc nên dùng là cân
nặng theo tuổi, cân nặng theo chiều cao và chiều cao theo tuổi [64].
Cụ thể như sau:
- Cân nặng theo tuổi
- Chiều cao theo tuổi
- Cân nặng theo chiều cao
1.4. PHÂN LOẠI SUY DINH DƯỠNG TRẺ EM
1.4.1. Phân loại theo Gomez (1956)

Gomez là người đầu tiên đưa ra phân loại SDD: Là phương
pháp phân loại được dùng sớm nhất nó dựa trên chỉ số cân nặng theo
tuổi và sử dụng quần thể tham khảo. Cách phân loại này đơn giản
nhưng không phân biệt được SDD cấp hay SDD đã lâu.
1.4.2. Phân loại theo Wellcome (1970)
- Dùng cho các thể SDD nặng để phân biệt giữa Marasmus và
Kwashiorko.
- Phân loại dựa vào cân nặng theo tuổi và triệu chứng phù.
1.4.3. Phân loại theo Waterlow (1972)
- Ưu điểm:
+ Dễ thực hiện tại cộng đồng
+ Cho biết SDD cấp tính hay mạn tính
+ Phân loại dựa vào CC/T so với chuẩn và CN/CC.


6
1.4.4. Phân loại theo WHO (2006)
Năm 2006 WHO đưa ra “chuẩn tăng trưởng mới ở trẻ em” và
đề nghị áp dụng trên toàn thế giới [66]. WHO đề nghị lấy điểm
ngưỡng < 2 độ lệch chuẩn (< -2SD) so với quần thể WHO 2005 để
đánh giá trẻ bị suy dinh dưỡng.
1.5. MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN THỰC TRẠNG DINH
DƯỠNG TRẺ EM
1.4.1. Chăm sóc dinh dưỡng bà mẹ khi có thai và cho con bú
* Nuôi con bằng sữa mẹ:
- Nuôi con bằng sữa mẹ (NCBSM) là đứa trẻ được nuôi
dưỡng trực tiếp bằng bú mẹ hoặc gián tiếp do sữa mẹ vắt ra.
- Lợi ích của sữa mẹ:
+ Sữa mẹ là chất dinh dưỡng hoàn hảo nhất, dễ tiêu hóa, dễ
hấp thu (đủ acid amin cần thiết với tỉ lệ cân đối, acid béo cần

thiết như acid linoleic, acid linolenic và dễ tiêu hóa hơn vì có
men lipase, đường lactose, hàm lượng vitamin A cao và muối
khoáng dễ hấp thu).
+ Sữa mẹ có chất kháng khuẩn (chứa nhiều IgA tiết đặc biệt
là trong sữa non, lactoferin, tế bào miễn dịch lympho, yếu tố kích
thích sự phát triển của lacto bacillus bifilus).
+ Sữa mẹ có khả năng chống bệnh dị ứng.
+ Tăng tình cảm mẹ con.
+ Giúp mẹ sớm lấy lại vóc dáng sau sinh.
+ Giúp mẹ chống được bệnh tật (giúp co hồi tử cung tốt
giảm mất máu sau đẻ, giảm nguy cơ ung thư tử cung và ung thư
vú, giúp mẹ kế hoạch hóa gia đình).
+ Rẻ tiền. Nhiều công trình nghiên cứu đã chứng tỏ NCBSM
tốt hơn hẳn và rẻ hơn nhiều so với nuôi nhân tạo bằng sữa bò.
- Cách cho trẻ bú:
1) Thời gian bắt đầu cho trẻ bú:
+ Bú càng sớm càng tốt sau khi sinh, tốt nhất trong vòng 30
phút một giờ đầu sau sinh.
+ Bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, không ăn thêm bất cứ
các thức ăn khác.
2) Số lần bú:
+ Trẻ càng bú nhiều thì sữa mẹ càng được bài tiết nhiều.
+ Bú theo nhu cầu của trẻ, ít nhất 8 lần trong một ngày, bú


7
cả ngày và đêm.
+ Thời gian cho trẻ bú kéo dài trung bình 18–24 tháng hoặc
lâu hơn nếu có thể.
+ Trẻ cần được bú hết cả sữa đầu và sữa cuối.

3) Tư thế bú đúng:
+ Đầu và thân trẻ nằm trên một đường thẳng.
+ Trẻ được bế áp sát vào lòng mẹ.
+ Đầu trẻ đối diện với vú mẹ.
+ Mẹ đỡ toàn thân trẻ
4) Tư thế ngậm bắt vú đúng:
Miệng trẻ mở rộng.
Môi dưới hướng ra ngoài.
Trẻ ngậm miệng sâu hết quầng đen của vú.
Cằm trẻ tì vào vú mẹ.
5) Thời gian mỗi bữa bú: tùy theo từng trẻ. Cho trẻ bú kiệt một
bên vú rồi mới chuyển sang vú khác để trẻ nhận được sữa cuối giàu
chất béo.
6) Cho trẻ bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu sau đẻ.
NCBSM hoàn toàn có nghĩa là chỉ cho trẻ bú mẹ mà không
cho ăn/uống bất cứ thức ăn, đồ uống nào khác kể cả nước trắng,
trừ các trường hợp phải uống bổ sung các vitamin, khoáng chất
hoặc thuốc.
7) Khi mẹ bị bệnh hoặc trẻ ốm, trẻ đẻ thấp cân thì nên vắt sữa
cho ăn bằng thìa.
8) Thời gian cai sữa
+ Không nên cai sữa trước 12 tháng, nên cho trẻ bú mẹ kéo
dài từ 18-24 tháng.
* Nuôi con ăn bổ sung:
- Ăn bổ sung là cho trẻ ăn các thức ăn khác bổ sung cho sữa mẹ, đó
là các thực phẩm cung cấp năng lượng và các chất dinh dưỡng khác nhau.
* Cách chăm sóc trẻ:
Trẻ em cần được chăm sóc chu đáo về vệ sinh; tiêm chủng
mở rộng; theo dõi tăng trưởng; tình thương yêu; học hành và
được chăm sóc dinh dưỡng đúng khi ốm như tiêu chảy, nhiễm

khuẩn hô hấp.
1.5.2. Một số yếu tố khác
Ngoài ra còn một số yếu tố khác tác động đến thực trạng dinh


8
dưỡng của trẻ em như điều kiện kinh tế của gia đình, tình trạng
thiếu ăn, trình độ văn hoá của bà mẹ, các yếu tố về vệ sinh môi
trường, đặc biệt là tình trạng bệnh tật của trẻ.
Trẻ đẻ non, đẻ thấp cân.
Dị tật bẩm sinh, bệnh di truyền.
Tình trạng bệnh tật của trẻ: các bệnh xếp hàng đầu thường gặp là
ỉa chảy và nhiễm khuẩn hô hấp.
Tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp, dân tộc của bà mẹ, số trẻ
trong gia đình…
Yếu tố môi trường, xã hội: ô nhiễm môi trường, dịch vụ y tế
chưa phát triển, thiếu cơ sở hạ tầng, cơ cấu kinh tế xã hội, đường lối
chính sách của quốc gia…
1.6. MỘT SỐ NGHIÊN CỨU VỀ THỰC TRẠNG SUY DINH
DƯỠNG TRẺ EM TRÊN THẾ GIỚI VÀ TẠI VIỆT NAM
1.6.1. Các nghiên cứu về suy dinh dưỡng trẻ em trên thế giới
Trong vòng 15 năm trở lại đây, SDD trẻ em có xu hướng giảm
trên phạm vi toàn cầu.
Hiện nay, theo kết quả nghiên cứu trẻ em dưới 5 tuổi của tổ chức
Cứu trợ trẻ em Mỹ năm 2012, trên thế giới còn hơn 100 triệu (15,7%)
nhẹ cân, 171,0 triệu (27,0%) thấp còi và hơn 60 triệu (10,0%) gầy
còm. Các khu vực Nam Á, cận hoang mạc Sahara có tỷ lệ SDD trẻ
em cao nhất.
Các số liệu SDD trẻ em trên toàn cầu chủ yếu phân theo các châu
lục, vùng lãnh thổ và theo từng quốc gia; chưa chú trọng đúng mức

việc xác định SDD trẻ em theo từng từng chủng tộc, tộc người trong
các báo cáo thường niên của WHO và UNICEF.
Tác giả Silvia và cộng sự cho thấy thời gian trung bình cho trẻ
ăn thức ăn đặc là 22,2 tuần sau sinh; 60,9% trẻ thôi bú mẹ trước 4
tháng; 18,0% trẻ sơ sinh cân nặng dưới 5 kg vào thời điểm dừng bú
mẹ.
Nghiên cứu tại nước láng giềng Trung Quốc chỉ ra sự khác biệt
về thực hành nuôi con là rất khác nhau giữa các vùng, các dân tộc,
các nền văn hóa và phụ thuộc vào nguồn thực phẩm.


9
1.6.2. Các nghiên cứu về suy dinh dưỡng trẻ em tại Việt Nam
Tại Việt Nam, vào thập kỷ 80 của thế kỷ XX, tỷ lệ suy dinh
dưỡng là trên 50%, năm 1995 là 44,9%. Theo kết quả điều tra
của Viện Dinh Dưỡng từ năm 1999 tới năm 2010, tỷ lệ SDD trẻ
em đã giảm đi một cách rõ rệt, tốc độ giảm SDD trong những
năm qua khoảng 2% một năm và Việt Nam được coi là một
quốc gia duy nhất trong khu vực đạt tốc độ giảm SDD nhanh
theo tiến độ của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và UNICEF.
Nước ta là một trong những nước có tỷ lệ SDD trẻ em dưới 5
tuổi thể nhẹ cân giảm liên tục từ mức rất cao 51,5% năm 1985 xuống
44,9% năm 1995, mỗi năm giảm trung bình 0,66%.
Tác giả Dương Văn Đạt và cộng sự trong năm 2005 cho thấy tỷ
lệ cho trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn là rất cao tại tuần thứ nhất (83,6%)
nhưng cũng giảm nhanh chóng vào tuần 16 với 43,6% trường hợp và
đến tuần thứ 24 thì chỉ còn lại 2 bà mẹ.
Tác giả Lê Thị Hợp và cộng sự tiến hành nghiên cứu về liệu cho
ăn bổ sung sớm có liên quan đến sự kém phát triển của trẻ em Việt
Nam không? Tác giả cũng nhận thấy: Từ 1-3 tháng, trẻ nuôi bằng

sữa mẹ hoàn toàn sẽ phát triển tốt cả về cân nặng và chiều cao. Từ
3-6 tháng, trẻ nuôi sữa mẹ hoàn toàn cũng sẽ có sự phát triển về cân
nặng nhanh hơn và từ 6-12 tháng có sự phát triển về chiều cao nhanh
hơn so với nhóm bà mẹ không nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn
hoặc cai sữa sớm.
Nghiên cứu của Vũ Phương Hà và cộng sự tại hai huyện
Hướng Hóa và Đăkrong của tỉnh Quảng trị trong năm 2010 cho
thấy: Kiến thức của bà mẹ về nuôi con bú và ăn bổ sung còn
nhiều hạn chế. Có tới 27,0% bà mẹ không biết cho bú lần đầu
vào thời gian nào và bú hoàn toàn trong mấy tháng là phù hợp.
Chỉ có 46,8% bà mẹ cho rằng nên cho bú hoàn toàn đến 6 tháng.
1.7. GIỚI THIỆU TÓM TẮT VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
Ngày 26 tháng 11 năm 1996, thực hiện Nghị định 74/NĐ-CP
của Chính phủ thành lập Quận Thanh Xuân. Cũng từ đó, ngày 17
tháng 01 năm 1997 cơ quan Đảng, chính quyền và các đoàn thể của
Phường ra mắt nhân dân phường Khương Mai và chính thức có tên
và địa danh trên bản đồ hành chính Thủ đô Hà Nội. Năm 2015, diện
tích của phường là 105,11 ha trong đó đất an ninh, quốc phòng: 57,12


10
ha, đất ở cho dân cư: 32,29 ha còn lại là đất công trình giao thông, cơ
quan hành chính và trường học.
Dân số cũng tăng lên, ngày đầu thành lập có 2216 hộ với 9915
nhân khẩu, đến nay là 5683 hộ với 25086 nhân khẩu, hộ khẩu KLT
tăng từ 38% lên 52%, trên 85% các hộ là gia đình cán bộ công chức,
viên chức Nhà nước. Trong 18 năm qua Lãnh đạo, chính quyền
Phường đã vận dụng sáng tạo trong quá trình xây dựng và tổ chức
thực hiện nhiệm vụ chính trị của Phường.
CHƯƠNG 2

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG, ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
* Đối tượng nghiên cứu:
- Trẻ từ 0 tháng đến 24 tháng tuổi trên địa bàn Phường
Khương Mai, Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội tính đến hết
tháng 10/2018.
- Mẹ (cha) hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng của những trẻ đã
được chọn nghiên cứu.
- Cán bộ y tế công tác tại Trạm Y tế Phường Khương Mai,
Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.
* Địa điểm nghiên cứu:
- Phường Khương Mai, Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.
- Đặc điểm vị trí địa lý, kinh tế, xã hội và dân cư tại điểm
nghiên cứu.
* Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 05- 10/2018
2.2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích kết hợp
nghiên cứu định tính, định lượng.
2.2.2. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu
* Chọn mẫu toàn bộ.
* Phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu thuận tiện: Chọn tất cả trẻ em
từ 0 đến 24 tháng tuổi và mẹ (cha) hoặc người trực tiếp nuôi dưỡng
của các cháu trong thời gian nghiên cứu.
* Tiêu chuẩn chọn mẫu:
- Trẻ em từ 0-24 tháng tuổi có mặt tại thời điểm và trên địa bàn
nghiên cứu đó được lựa chọn tính đến hết tháng 10/2018.


11

- Trẻ không bị mắc các bệnh bẩm sinh, các bệnh mạn tính, tại
thời điểm nghiên cứu không mắc các bệnh cấp tính.
- Không phân biệt giới tính trẻ.
- Cha (mẹ) hoặc người nuôi dưỡng trực tiếp có tinh thần bình
thường, không bị rối loạn nhận thức hoặc các bệnh liên quan tâm
thần khác.
* Tiêu chuẩn loại trừ:
- Trẻ trên 24 tháng tuổi.
- Trẻ: Mắc các bệnh bẩm sinh, các bệnh mạn tính hoặc đang
mắc bệnh cấp tính.
- Cha (mẹ) hoặc người nuôi dưỡng trực tiếp bị bệnh tâm thần,
rối loạn trí nhớ.
* Cỡ mẫu nghiên cứu:
Áp dụng công thức tính cỡ mẫu:2

Ζ1− α / 2 .p.(1 − p)
2
Theo Viện dinh dưỡng quốc gia năm d
2015, tỷ lệ suy dinh dưỡng
n=

thấp còi (chiều cao theo tuổi) của trẻ em dưới 5 tuổi ở thành phố Hà
Nội là 14,9%. Chọn độ tin cậy 95%, độ sai lệch 5%; Zα/2 = 1,96; d =
0,05, n = 195.
2.2.3. Phương pháp thu thập số liệu
* Chỉ số nhân trắc và một số triệu chứng lâm sàng kèm theo:
- Cân nặng:
Dùng chiếc cân với độ chính xác 0,1kg
Kỹ thuật cân:
+ Khi cân cho trẻ mặc quần áo mỏng (mùa đông có trừ quần áo).

+ Cân được đặt ở vị trí bằng phẳng, chỉnh cân đến mức thăng bằng ở
số 0.
+ Thường thực hiện cân vào buổi sáng, sau khi đã đại, tiểu tiện.
+ Đọc kết quả với 01 hoặc 02 số lẻ tùy theo loại cân có độ nhạy
100g hay 10g.
- Chiều dài nằm của trẻ
WHO và được tính theo chuẩn WHO.
2.2.4. Các biến số và chỉ số nghiên cứu


12
2.2.5. Phương pháp xử lý số liệu
- WHO Anthro 2005: Tính toán các chỉ số nhân trắc với cơ sở
dữ liệu là chuẩn tăng trưởng mới của WHO.
- Nhập số liệu bằng phần mềm SPSS 20.0, OR (CI 95%) chỉ số
P để so sánh thống kê. Sử dụng phối hợp các phương pháp, thuật toán
thống kê y học;
- Làm sạch số liệu từ phiếu;
- Lập các bảng, biểu đồ để trình bày kết quả nghiên cứu;
2.2.6. Sai số và khống chế sai số
Các loại sai số có thể gặp:
- Sai số ngẫu nhiên nhớ lại trong quá trình thu thập thông tin
qua phỏng vấn;
- Sai số hệ thống trong quá trình cân, đo chiều dài cho trẻ.
Cách khống chế:
- Chọn lựa các điều tra viên có kinh nghiệm trong điều tra dinh
dưỡng, có kinh nghiệm làm việc với y tế thôn bản;
- Tổ chức tập huấn chi tiết về bảng hỏi và kỹ thuật cân đo
trước khi điều tra;
- Có bảng kiểm hướng dẫn cho điều tra viên;

- Trong quá trình điều tra có giám sát viên tham gia giám sát.
2.2.7. Đạo đức nghiên cứu
- Thông qua Hội đồng Đạo đức trường Đại học Thăng Long;
- Luận văn này chỉ phục vụ cho học tập, nghiên cứu, không vi
phạm các đạo đức nghề nghiệp cũng như thuần phong mĩ tục con
người.
2.2.8. Hạn chế của nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn còn hẹp, tính đại diện chưa
cao.
- Các số liệu chủ yếu là các số liệu sơ cấp, phỏng vấn các đối
tượng còn mang tính chủ quan, tính khách quan còn hạn chế.


13
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Thực trạng dinh dưỡng của trẻ từ 0-24 tháng tuổi tại phường
Khương Mai, Thanh Xuân, Hà Nội
3.1.1. Một số thông tin chung của đối tượng nghiên cứu
Nghề nghiệp chủ yếu của các bà mẹ là ngoài nhà nước (76,3%).
Nhìn chung, nguồn thu nhập chính của các bà mẹ là từ các doanh
nghiệp tư nhân, kinh doanh, tự do. Trình độ học vấn của các bà mẹ
chủ yếu là Cao đẳng và Đại học (60,9%), Trung cấp (18,1%), Sau đại
học (7,9%) và tốt nghiệp phổ thông trung học (13,2%).
Về tình trạng kinh tế, Không có hộ gia đình nghèo, tất cả hộ gia
đình đều có mức sống trung bình (100%).
Sự phân bố giới tính giữa các trẻ điều tra có sự chênh lệch ở tất
cả các nhóm tuổi, tỷ lệ chung là 54,9% và 45,1% nữ. Tỷ lệ trẻ nam
cao hơn tỷ lệ trẻ nữ là 9,8%.
Nhóm trẻ có cân nặng khi sinh từ 2500 gam trở xuống chiếm
10,5%, nhóm trẻ có cân nặng khi sinh trên 2500 gam là 98,5%.

- Nhóm trẻ sinh đủ tháng và thiếu tháng ngang bằng nhau với tỷ
lệ 50,0%.
- Nhóm trẻ được đẻ thường chiếm tỷ lệ (63,2%) cao hơn nhóm
trẻ đẻ mổ (36,8%).
3.1.2. Thực trạng dinh dưỡng của trẻ tham gia nghiên cứu
- Cân nặng trung bình ± SD của trẻ trong nhóm 0-5 tháng tuổi là
(7700 ± 1586), tương ứng với chiều cao trung bình ± SD (64 ± 1).
- Cân nặng trung bình ± SD của trẻ trong nhóm 6-11 tháng tuổi
là (9353 ± 2006), tương ứng với chiều cao trung bình ± SD (69,6 ±
4,1).
- Cân nặng trung bình ± SD của trẻ trong nhóm 12-17 tháng tuổi
là (10614 ± 2330), tương ứng với chiều cao trung bình ± SD (75,1 ±
5,3).
- Cân nặng trung bình ± SD của trẻ trong nhóm 18-24 tháng tuổi
là (11256 ± 2101), tương ứng với chiều cao trung bình ± SD (83,2 ±
6).
- Hoạt động của trẻ không có gì bất thường. Triệu chứng ngừng


14
tăng cân, biếng ăn của trẻ tham gia nghiên cứu chiếm trên 50%.
- Tỷ lệ triệu chứng thiếu máu là da xanh, niêm mạc nhợt ở trẻ
trong nhóm đối tượng nghiên cứu chiếm tỷ lệ thấp, chỉ chiếm 13,2%.
- Tỷ lệ SDD thể nhẹ cân (CN/T) chiếm 18,4%; SDD thể thấp còi
(CC/T) chiếm 28,2% và SDD thể gầy còm (CN/CC) chiếm 21,1%.
- Trẻ bị SDD chủ yếu là mức độ vừa (thể nhẹ cân là 13,2%; thể
thấp còi là 18,4%; thể gầy còm là 13,2%), SDD mức độ nặng ít (thể
nhẹ cân là 5,2%; thể thấp còi là 10,5%; thể gầy còm là 7,9%).
Những trẻ trong nhóm tuổi chiếm tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ
cân cao nhất là nhóm 18-24 tháng tuổi (33,3%). Ngược lại, những trẻ

nhóm tuổi 6-11 tháng tuổi lại gần như không có trẻ bị suy dinh
dưỡng, tỷ lệ chỉ chiếm 1,1%. Những trẻ trong nhóm 0-5 tháng tuổi và
12-17 tháng tuổi lần lượt chiếm tỷ lệ suy dinh dưỡng là 23,3% và
21,4%.
Tổng số 167 trẻ nam thì có 24 (14,4%) trẻ suy dinh dưỡng.
Trong tổng số 137 trẻ nữ thì có 32 (23,4%) trẻ bị suy dinh dưỡng. Trẻ
em nữ bị suy dinh dưỡng chiếm tỷ lệ cao hơn so với trẻ em nam.
Có 8 trẻ bị suy dinh dưỡng, chiếm 25% trong tổng số 32 trẻ có
cân nặng khi sinh từ 2500 gam trở xuống. Có 48 trẻ bị suy dinh
dưỡng, chiếm 17,6% trong tổng số 272 trẻ có cân nặng khi sinh trên
2500 gam.
3.2. Một số yếu tố liên quan đến thực trạng dinh dưỡng đối tượng
nghiên cứu
3.2.1. Kiến thức, thực hành về chăm sóc bà mẹ mang thai
Có 39,5% các bà mẹ không biết họ cần phải khám thai bao nhiêu
lần trong thời kỳ mang thai, khoảng 60,5% các bà mẹ đề cập họ nên
kiểm tra từ 3 lần trở lên. Việc thực hành đi khám thai của các bà mẹ
phù hợp với kiến thức của họ (81,6% bà mẹ đi khám thai trên 3 lần).
Có 52,6% bà mẹ có kiến thức đúng về cân nặng nên tăng khi
mang thai. Còn 36,8% bà mẹ cho rằng nên tăng dưới 10kg và có
10,5% bà mẹ cho rằng nên tăng trên 12kg trong thời kỳ mang thai để
trẻ không bị suy dinh dưỡng bào thai.
3.2.2. Kiến thức về chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ


15
Hiểu biết của bà mẹ về các lợi ích khác nhau của sữa mẹ không
giống nhau. Tất cả các bà mẹ biết về lợi ích đủ dưỡng chất và 78,9%
các bà mẹ biết về lợi ích tránh bệnh tật, tăng sức đề kháng cho con;
47,4% các bà mẹ biết về lợi ích tăng tình cảm mẹ con của sữa mẹ.

Những lợi ích khác chưa được biết tới nhiều.
Kiến thức của các bà mẹ được điều tra về vấn đề nuôi con bằng
sữa mẹ khá tốt. Về thời gian bú sữa mẹ có 81,6% cho rằng nên cho
con bú trong 1 giờ đầu sau khi sinh. Có 52,6% hiểu rằng họ nên cho
con bú hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu.
3.2.3. Thực hành về chăm sóc và nuôi dưỡng trẻ
- Có 71,1% trẻ sơ sinh được bú mẹ sau 1 giờ đầu. 50% các bà
mẹ cho con bú sữa non. Phần lớn các bà mẹ (94,7%) cho con uống
sữa bột trước khi bú sữa mẹ. Các bà mẹ khác (5,3%) cho con dùng
nước cháo/nước cơm.
+ Lý do trẻ bú mẹ sau sinh muộn là chủ yếu do bà mẹ đẻ mổ
(35,1%), do mẹ chưa có sữa (30,5%), do mẹ mệt không cho bú được
(15,2%). Còn lại là do trẻ ngủ không bú và các lý do khác
+ Lý do mẹ vắt sữa non chủ yếu là do mẹ sợ sữa lạnh, cũ (41%)
và sợ sữa không tốt (29,3%).
- Có 104 trẻ đã ngừng bú sữa mẹ, chiếm tỷ lệ 34,2% và Có 200
trẻ còn bú sữa mẹ, chiếm 65,8% trong tổng số 304 trẻ thuộc nhóm
đối tượng nghiên cứu.
3.2.4. Một số yếu tố liên quan đến thực trạng dinh dưỡng của trẻ
- Không thấy có sự khác biệt thống kê giữa tình trạng suy dinh
dưỡng của nhóm trẻ sơ sinh có cân nặng từ 2500 gam trở xuống và
nhóm trẻ sơ sinh có cân nặng từ 2500 gam trở lên (P > 0,05).
- Không tìm thấy mối tương quan giữa thời gian cho con bú sớm
sau sinh, thời gian bú sữa mẹ hoàn toàn, việc vắt sữa non và thời
điểm ăn bổ sung với suy dinh dưỡng (p >0,05).
- Không có mối liên quan giữa tỷ lệ trẻ SDD thể nhẹ cân (CN/T)


16
của trẻ ở các nhóm tuổi, dân tộc của các bà mẹ, p > 0,05.

- Có mối liên quan giữa số con trong gia đình với tỷ lệ suy dinh
dưỡng thể nhẹ cân (CN/T) của trẻ, p < 0,01.
- Có sự chênh lệnh về tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân giữa
2 nhóm bà mẹ tuy nhiên kết quả chỉ ra chưa có mối liên quan giữa
trình độ học vấn của bà mẹ và thực trạng dinh dưỡng của trẻ, p >
0,05.
- Có mối liên quan giữa yếu tố kiến thức của bà mẹ về thời gian
cho bú sau sinh và thực trạng dinh dưỡng của trẻ, p<0,01. Kết quả chỉ
ra những bà mẹ cho rằng thời gian cho bú sau sinh là sau 1h có con bị
suy dinh dưỡng thể nhẹ cân cao gấp 5 lần bà mẹ cho rằng thời gian
thích hợp cho trẻ bú sau sinh là 1 giờ.
- Kết quả chưa chỉ ra được mối liên quan giữa thực trạng dinh
dưỡng và kiến thức thời gian cai sữa của bà mẹ, p > 0,05.
CHƯƠNG 4
BÀN LUẬN
4.1. Thực trạng dinh dưỡng của trẻ từ 0 – 24 tháng tuổi tại
phường Khương Mai, Thanh Xuân, Hà Nội
4.1.1. SDD theo các thể
SDD thể nhẹ cân (theo chỉ số CN/T):
Theo số liệu của bảng 3.6, tỷ lệ SDD thể nhẹ cân ở trẻ từ 0 đến
24 tháng tuổi tại phường là 18,4%, thấp nhất trong các thể SDD. Kết
quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cao hơn nghiên cứu của Nguyễn
Thị Hoa và cộng sự tại Bệnh viện Nhi Đồng I năm 2006 là 13% và
nghiên cứu tại Bệnh viện Trung ương Huế năm 2005 là 20,9%.
SDD thể thấp còi (theo chỉ số CC/T):
Theo số liệu của bảng 3.6, tỷ lệ SDD thể thấp còi ở trẻ từ 0 đến
24 tháng tuổi tại phường là 28,9%, cao nhất trong 3 thể SDD. So với
số liệu điều tra toàn quốc năm 2015 của Viện Dinh dưỡng, tỷ lệ này
cao hơn hẳn so với mức SDD trung bình của thành phố Hà Nội



17
(14,9%) và của cả nước (24,6%). Chứng tỏ tình trạng SDD mạn tính
đang phổ biến tại địa bàn nghiên cứu và cũng phù hợp với xu thế
chung của quốc gia.
SDD thể gầy còm (theo chỉ số CN/CC):
Tỷ lệ SDD thể gầy còm trong nghiên cứu này là 21,1%, thấp
hơn thể SDD thấp còi (28,9%), cao hơn thể SDD nhẹ cân (18,4%).
SDD thể gầy còm thể hiện tình trạng SDD cấp tính. Điều này chứng
tỏ trẻ em trong nhóm đối tượng nghiên cứu dinh dưỡng không tốt
như trẻ biếng ăn, chậm tăng cân…Tuy nhiên, tỷ lệ SDD thể gầy còm
ở đây vẫn còn rất cao so với nghiên cứu của Viện Dinh dưỡng trên
phạm vi toàn quốc năm 2015 là 6,4%, trên phạm vi thành phố Hà Nội
năm 2015 là 3,8%
Như vậy, nghiên cứu của chúng tôi ở cả 3 thể SDD đều cho
kết quả cao hơn khá nhiều so với các nghiên cứu khác.
Sự chênh lệch về tỷ lệ các thể SDD trong kết quả nghiên cứu
này của chúng tôi so với các nghiên cứu khác có thể lý giải là do
chúng tôi tiến hành nghiên cứu ở nhóm 0-24 tháng tuổi. Đây là nhóm
có nguy cơ cao bị SDD. Mặt khác hệ miễn dịch của trẻ chưa hoàn
thiện trong giai đoạn này, cơ thể trẻ liên tục tiếp xúc với những yếu tố
môi trường trong khi kháng thể thụ động từ sữa mẹ giảm, làm cho trẻ
dễ mắc bệnh và rơi vào vòng xoắn bệnh lý nhiễm trùng và SDD (ăn
kém => SDD => mắc bệnh nhiễm trùng => SDD). Các nghiên cứu
cũng chỉ ra rằng sự phát triển về thể chất của trẻ trong 2 năm đầu đời
rất quan trọng, liên quan đến sự phát triển thể chất và khả năng làm
việc và nhận thức trong tương lai. Kết quả cho thấy cần tập trung can
thiệp vào nhóm tuổi này.
4.1.2. SDD theo các mức độ:



18
Trẻ bị SDD chủ yếu là mức độ vừa (thể nhẹ cân là 13,2%; thể
thấp còi là 18,4%; thể gầy còm là 13,2%). SDD mức độ nặng chiếm
tỷ lệ thấp (thể nhẹ cân là 5,2%; thể thấp còi là 10,5%; thể gầy còm là
7,9%). Số liệu điều tra của Viện Dinh dưỡng trong năm 2015 cũng
cho thấy trẻ SDD toàn quốc và riêng Hà Nội chủ yếu là mức độ vừa.
Như vậy, tỷ lệ SDD nặng trong cộng đồng cũng như trong bệnh
viện có xu hướng ngày càng giảm. Đây là một kết quả đáng mừng,
nhưng không vì thế chủ quan lơ là công tác phòng chống SDD bởi
nếu không quản lý và điều trị tốt thì SDD mức độ vừa có thể chuyển
thành SDD mức độ nặng.
4.1.3. SDD theo nhóm tuổi:
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ SDD ở cả 3 thể
có sự khác biệt rõ rệt giữa các nhóm tuổi. Nhóm tuổi có tỷ lệ SDD
cao nhất là 18 -24 tháng (33,3%) và nhóm tuổi 0-5 tháng (23,3%),
sau đó đến nhóm tuổi 0-5 tháng (21,4%), còn nhóm 6-11 tháng chỉ
1,1%. Kết quả này cũng tương tự như các nghiên cứu trong và ngoài
nước.
4.1.4. SDD theo giới:
Bảng 3.8 cho thấy tỷ lệ SDD ở trẻ nam thấp hơn tỷ lên SDD ở
nữ. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của một số tác giả như
Nguyễn Thị Hải Anh, Vũ Thị Bắc Hà không thấy có sự khác biệt tỷ lệ
SDD thể thấp còi ở trẻ nam và trẻ nữ cũng như phù hợp với tình hình
SDD trong cộng đồng (trẻ nam 49,98%, trẻ nữ 50,02%).


19
4.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng dinh dưỡng của trẻ
từ 0-24 tháng tuổi tại phường Khương Mai, Thanh Xuân, Hà

Nội
4.2.1. Liên quan giữa thực trạng dinh dưỡng của trẻ và tuổi của
mẹ:
Phần lớn các bà mẹ cho con bú tham gia nghiên cứu đều nằm
trong độ tuổi dưới 35 là 240 bà mẹ (chiếm 78,9%), chỉ có 62 bà mẹ
(20,4%) trên 35 tuổi. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy
tỷ lệ SDD thể nhẹ cân ở nhóm bà mẹ dưới 35 tuổi là 14,3% thấp hơn
ở nhóm bà mẹ dưới 35 tuổi (85,7%), nhưng sự khác biệt không có ý
nghĩa thống kê (p > 0,05).
4.2.2. Liên quan giữa thực trạng dinh dưỡng của trẻ và một số đặc
điểm khác của bà mẹ:
Trong nghiên cứu của chúng tôi, không có sự liên quan giữa
thực trạng dinh dưỡng của trẻ với dân tộc của bà mẹ với P> 0,05.
Trong nghiên cứu cũng chỉ ra, Không có mối liên hệ giữa tỷ lệ trẻ
SDD với dân tộc của bà mẹ (P> 0,05). Có thể do phần lớn các bà mẹ
ở đây đều có dân tộc Kinh chỉ có 5 bà mẹ có dân tộc khác nên không
có ý nghĩa thống kê.
Số con trong gia đình và thực trạng dinh dưỡng của trẻ có mối
liên hệ với p <0,01. Cụ thể như sau: Tỷ lệ SDD của gia đình có 1 con
(57,1%) cao hơn so với gia đình có ≥ 2 con (42,9%).
4.2.3. Liên quan giữa thực trạng dinh dưỡng của trẻ và trình độ học
vấn, nghề nghiệp của mẹ:
Tỷ lệ trẻ SDD có sự chênh lệnh về tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng thể
nhẹ cân giữa 2 nhóm bà mẹ tuy nhiên kết quả chỉ ra chưa có mối liên
quan giữa trình độ học vấn của bà mẹ và thực trạng dinh dưỡng của


20
trẻ, p > 0,05. Kết quả này phù hợp với nhiều nghiên cứu của các tác
giả khác.

4.2.4. Liên quan giữa TTDD của trẻ và kiến thức nuôi dưỡng trẻ
của bà mẹ
Nuôi con bằng sữa mẹ
Theo khuyến cáo của WHO, UNICEF các bà mẹ nên cho con
bú trong vòng một giờ đầu sau sinh và bú càng sớm càng tốt [72].
Bởi vì những giọt sữa non đầu tiên rất tốt, có hàm lượng chất dinh
dưỡng và kháng thể cao. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy trong
304 bà mẹ tham gia nghiên cứu có 248 bà mẹ (81,6%) biết được nên
cho con bú trong vòng 1 giờ đầu sau sinh, 48 bà mẹ (15,8%) cho rằng
nên cho con bú lần đầu trong khoảng 1-24 giờ sau sinh, 8 bà mẹ
(2,6%) cho rằng nên cho con bú sau 1 ngày, không có bà mẹ nào
không biết cho con bú lần đầu vào thời gian nào.
Cho trẻ ăn bổ sung
Nhiều nghiên cứu cho thấy kiến thức của bà mẹ về nuôi
dưỡng trẻ nói chung và cho trẻ ăn bổ sung nói riêng còn nhiều hạn
chế. Nghiên cứu của chúng tôi có kết quả cao hơn: có 37,5% bà mẹ
biết tên 4 nhóm thực phẩm cơ bản cần bổ sung cho trẻ. Tuy nhiên,
vẫn còn 31,3% bà mẹ không kể được tên một nhóm thực phẩm nào.
Trong đó, tỷ lệ này là 33,3% ở nhóm trẻ SDD thể nhẹ cân cao hơn so
với 30,0% ở nhóm trẻ không SDD, tuy nhiên sự khác biệt không có ý
nghĩa thống kê với p > 0,05. Qua nghiên cứu này chúng tôi nhận thấy
việc tuyên truyền cho các bà mẹ về kiến thức nuôi dưỡng trẻ nói
chung và cho trẻ ăn bổ sung nói riêng là hết sức quan trọng, cần được
coi là vấn đề trọng tâm trong các chương trình can thiệp phòng chống
SDD, nhằm làm giảm tỷ lệ SDD ở trẻ em.


21
Thực hành của bà mẹ về nuôi con bằng sữa mẹ:
Trong số 304 bà mẹ tham gia nghiên cứu của chúng tôi có 296

bà mẹ cho con bú chiếm tỷ lệ 97,5%. 8 bà mẹ không cho con bú với
các lý do sau: 1 bà mẹ bị bệnh (HIV), 4 bà mẹ không có sữa, 1 bà mẹ
cho rằng sữa mẹ nóng, không tốt cho sự tăng cân của trẻ, 2 bà mẹ cho
rằng cho con bú sẽ làm ngực bị chảy sệ, không giữ được dáng.
4.2.5. Liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng của trẻ và thời gian
bú mẹ sau sinh.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với kết quả
nghiên cứu của một số tác giả: Nghiên cứu của Nguyễn Đình Quang
năm 1996 trên 425 cặp mẹ và con ở nội và ngoại thành Hà Nội thì chỉ
có 30,0% các bà mẹ ở nội thành cho trẻ bú sớm trong vòng 30 phút
ngay sau sinh; nghiên cứu những năm gần đây của Trương Thị Hoàng
Lan năm 2003 tỷ lệ cho con bú sớm trong nửa giờ đầu sau sinh là
28,7%. Tuy nhiên, tỷ lệ trong nghiên cứu của chúng tôi lại thấp hơn
trong các nghiên cứu của Lê Thị Hương ở huyện Cẩm Thủy tỉnh
Thanh Hóa năm 2007 (70,0%), ở huyện Hải Lăng tỉnh Quảng Trị
năm 2008 (88,0%) .
4.2.6. Liên quan giữa tình trạng dinh dưỡng của trẻ và thời gian
bú mẹ hoàn toàn.
Trong nghiên cứu này, khi được hỏi về cho bú hoàn toàn có tới
75,6% bà mẹ cho rằng nên cho bú hoàn toàn trong 6 tháng đầu nhưng
việc thực hành của họ lại không tốt như vậy. Chỉ có 23,7% số trẻ
được bú hoàn toàn đến 6 tháng, 43,8% số trẻ được bú mẹ hoàn toàn
đến 4 tháng. Điều này cho thấy không phải hoàn toàn là bà mẹ thiếu
kiến thức dẫn tới trẻ không được bú mẹ hoàn toàn đủ thời gian mà có
nhiều nguyên nhân ảnh hưởng tới việc thực hành của bà mẹ.Về lý do


22
không cho bú sữa mẹ hoàn toàn.
KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu 304 trẻ tại phường Khương Mai, quận Thanh
Xuân, Hà Nội trong khoảng thời gian 5 tháng, chúng tôi rút ra một số
kết luận sau:
1. Thực trạng dinh dưỡng của trẻ từ 0-24 tháng tuổi tại phường
Khương Mai, quận Thanh Xuân, Hà Nội
-

Tỷ lệ SDD thể nhẹ cân là 18,4%, SDD thể thấp còi là 28,9% và
SDD thể gầy còm là 20,1%.

-

Trẻ bị SDD chủ yếu là mức độ vừa ở cả 3 thể SDD nhẹ cân, thấp
còi và gầy còm. SDD mức độ nặng chiếm tỷ lệ thấp.

-

Tỷ lệ SDD ở cả 3 thể có sự khác biệt rõ rệt giữa các nhóm tuổi.
Nhóm tuổi có tỷ lệ SDD cao nhất là 12-17 tháng, sau đó đến
nhóm tuổi 6-11 tháng.

-

Tỷ lệ SDD ở trẻ nam và nữ không có sự khác biệt đáng kể ở cả 3
thể SDD.

2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng dinh dưỡng của trẻ từ
0-24 tháng tuổi
-


Có sự liên quan giữa trình độ học vấn và nghề nghiệp của bà mẹ
với TTDD của trẻ: Tỷ lệ trẻ SDD thể nhẹ cân ở nhóm bà mẹ có
trình độ dưới cấp 3 cao gần gấp 2 lần nhóm bà mẹ có trình độ từ
cấp 3 trở lên. Trẻ bị SDD thể nhẹ cân ở nhóm bà mẹ là công chức
chiếm tỷ lệ thấp nhất.

-

TTDD của trẻ có liên quan đến thời gian trẻ bú mẹ hoàn toàn: tỷ lệ trẻ
SDD thể nhẹ cân thấp nhất (21,6%) ở nhóm trẻ bú mẹ hoàn toàn đủ 6
tháng.


23
-

Tỷ lệ trẻ SDD thể nhẹ cân trong nhóm có cân nặng khi sinh thấp
cao hơn 2 lần so với nhóm có cân nặng khi sinh bình thường.

-

Có sự liên quan giữa số con trong gia đình với thực trạng dinh
dưỡng của trẻ. Tỷ lệ SDD của trẻ ở gia đình có 2 con trở lên
(42,9%) thấp hơn trẻ trong gia đình 1 con (57,1%).

-

Có sự liên quan giữa SDD trẻ em với kiến thức của bà mẹ về thời
gian cho con bú. Trẻ được bú sau sinh ngay trong 1 giờ đầu
chiếm 57,1%, trẻ bú mẹ sau 1 giờ đầu chiếm 42,9%.

KHUYẾN NGHỊ
Để góp phần cải thiện tình trạng SDD ở trẻ em đặc biệt từ 0-24

tháng tuổi, chúng tôi có một số khuyến nghị sau:
1. Tăng cường công tác thông tin giáo dục truyền thông để
tăng cường kiến thức giúp thay đổi thực hành của bà mẹ. Cần truyền
thông liên tục và tập trung nhiều hơn vào các vấn đề sau:
- Tập trung các hoạt động chăm sóc trẻ em dưới 2 tuổi, đặc biệt
chăm sóc y tế ngay trong năm đầu. Cần tập trung chăm sóc nhiều hơn
đến đối tượng bà mẹ có thai nhằm giảm tỷ lệ trẻ bị SDD bào thai và
đẻ non.
- Đẩy mạnh các hoạt động của Chương trình nuôi con bằng sữa
mẹ thông qua các hình thức tuyên truyền giáo dục phụ nữ, bà mẹ có
thai, bà mẹ cho con bú.
2. Tập trung vào thời điểm bắt đầu cho trẻ ăn bổ sung, các
nhóm thức ăn đảm bảo cung cấp đủ dinh dưỡng cho trẻ.
3. Cần tìm các giải pháp nâng cao đời sống kinh tế, văn hóa xã
hội cho nhân dân, nhất là đối tượng phụ nữ. Hướng dẫn người dân
biết tận dụng nguồn thực phẩm tại chỗ có giá trị dinh dưỡng để cải


24
thiện chất lượng bữa ăn bổ sung cho trẻ, đảm bảo mỗi bữa ăn của trẻ
đều có đầy đủ 4 nhóm thực phẩm cơ bản.
4. Thực hiện tốt chương trình kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc
trước sinh và các chương trình phòng chống SDD khác.




×