Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

Nghiên cứu hiệu quả điều trị dọa đẻ non của atosiban tại bệnh viện phụ sản trung ương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 50 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Đẻ non là vấn đề quan tâm hàng đầu của gia đình, xã hội và các cơ
quan y tế trên thế giới đặc biệt là ở các nước đang phát triển. §Î non nh×n
chung chiÕm kho¶ng 5 – 15% tæng sè nh÷ng trêng hîp sinh
[23]. Theo nghiên cứu của tổ chức Y tế thế giới, 50% tử vong sơ sinh và

70% tổn thương di chứng thần kinh là do non tháng [1]. Cũng theo tác giả
Monika – 2010, đẻ non không những để lại hậu quả khá nghiêm trọng về sau
cho trẻ mà còn gây tốn kém cho việc chăm sóc đặc biệt một trẻ sơ sinh non
tháng [1]. Trẻ sinh non đối diện với các bệnh lý nghiêm trọng như hội chứng
suy hô hấp, xuất huyết não thất, viêm ruột hoại tử, chậm phát triển tâm thần
kinh, bại não, bệnh lý phối hợp mạn tính, các rối loạn bệnh lý dạ dày ruột, thị
lực và điếc bẩm sinh [2]. Việc phát hiện, điều trị chuyển dạ đẻ non nhằm làm
giảm tỷ lệ tử vong, mắc bệnh ở trẻ sơ sinh, giảm gánh nặng cho gia đình và xã
hội [3].
Tại Việt Nam, tỷ lệ đẻ non gia tăng nhanh trong nhiều năm trở lại đây.
Theo báo cáo của Bộ Y tế năm 2011, tỷ lệ trẻ đẻ non / nhẹ cân chiếm 19%
trong mô hình bệnh tật của trẻ sơ sinh; tỷ lệ tử vong sơ sinh chiếm 59% số tử
vong trẻ dưới 5 tuổi và 70,4% tử vong ở trẻ dưới 1 tuổi, theo Hôi Phụ sản Việt
Nam 2016.
Cơn co tử cung là động lực của cuộc chuyển dạ. Vì vậy, trong điều trị
chuyển dạ đẻ non, việc cắt cơn co tử cung được xem là một biện pháp có thể
giúp kéo dài thai kỳ, nhất là trong vòng 48 giờ đầu tiên [2]. Mục tiêu là để có
thời gian cho mũi tiêm corticoid có tác dụng và / hoặc có đủ thời gian để
chuyển thai phụ đến các cơ sở y tế có các phương tiện hồi sức sơ sinh chuyển
sấu [3], [4]. Việc sử dụng các thuốc giảm co để ức chế sự co bóp của tử cung
là phương pháp được áp dụng rộng rãi hiện nay trong điều trị dọa đẻ non. Các
loại thuốc phổ biến bao gồm: Spasfon, Magnesium sulfate, Béta – mimetics



2

(Salbutamol)…tuy có hiệu quả nhưng lại nhiều tác dụng phụ làm cho việc
điều trị có thể gián đoạn hoặc không có kết quả. Theo các nghiên cứu lâm
sàng có đồi chứng, thuốc chẹn kênh canxi (Nifedipin) và thuốc đối kháng với
oxytocin (Atosiban) hiện nay được xem là lựa chọn đầu tay đối với các nhà
lâm sàng trong điều trị dọa đẻ non và chuyển dạ đẻ non [5], [6]. Chất đối
kháng với oxytocin vẫn được ưu tiên sử dụng vì tính hiệu quả, an toàn đối với
sản phụ và thai nhi khi dùng kéo dài, đặc biệt trên các trường hợp song thai
[6], [7], [8].
Tại Việt Nam thời gian gần đây Atosiban, biệt dược là Tractocile, đã
được sử dụng rộng rãi tại các bệnh viện trong điều trị chuyển dạ đẻ non. Tuy
nhiên mới có rất ít nghiên cứu được tiến hành để đánh giá hiệu quả của thuốc.
Theo Phan Hà Minh Hạnh, atosiban giúp trì hoãn chuyển dạ đẻ non ở 94,5%
trường hợp sau 48h và 89,2% trường hợp sau 7 ngày điều trị. Atosiban bắt
đầu được đưa vào phác đồ điều trị dọa đẻ non tại bệnh viện phụ sản trung
ương từ năm 20?. Từ đó tới nay vẫn chưa có nghiên cứu nào đánh giá tác
dụng của thuốc được tiên hành tại bệnh viện. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn
trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu hiệu quả điều trị
dọa đẻ non của atosiban tại bệnh viện Phụ sản Trung ương”
Với hai mục tiêu:
1. Đánh giá hiệu quả của Atosiban trong điều trị dọa đẻ non.
2. Nhận xét về các tác dụng phụ của thuốc.


3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. Đặc điểm của đẻ non
1.1.1. Định nghĩa đẻ non
Từ trước tới nay đã có nhiều tác giả đưa ra các định nghĩa khác nhau về
đẻ non. Đa số các tác giả đều dựa vào ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối cùng và/
hoặc trọng lượng của thai sau khi sinh.
Theo Copper: đẻ non là cuộc đẻ diễn ra từ 20 tuần đến dưới 37 tuần [32].
Theo Cnattingius: đẻ non là cuộc đẻ diễn ra trước khi hết 36 tuần [31].
Năm 1961 WHO định nghĩa: đẻ non là trẻ đẻ ra có trọng lượng dưới
2500 gr và có tuổi thai dưới 37 tuần [57], hiện nay là trẻ đẻ ra có tuổi thai từ
22 đến dưới 37 tuần.
Ở Việt Nam trước đây đẻ non được tính từ 28 đến 37 tuần, hiện nay
theo “Hướng dẫn chuẩn quốc gia về các dịch vụ Chăm sóc Sức khoẻ Sinh
sản” của Bộ Y tế đẻ non được tính từ tuổi thai từ 22 tuần đến dưới tuần 37 [4].
1.1.2. Tỷ lệ đẻ non ở Việt Nam và một số nước.
Tỷ lệ đẻ non phụ thuộc vào trình độ dân trí, cơ sở vật chất và các trang
thiết bị y tế, trình độ của thầy thuốc của từng vùng, từng quốc gia và tuỳ từng
điều kiện kinh tế xã hội. Nói chung đẻ non vẫn là một vấn đề phức tạp.
Theo tác giả Cnattingius và cộng sự nghiên cứu tại Thụy Điển từ năm
1983 – 1988 tỷ lệ đẻ non là 5,6% [31].
Theo Michael T. Parson và cộng sự thì đẻ non chiếm khoảng 7% - 10%
và chiếm 75% tỷ lệ mắc bệnh và tử vong trẻ sơ sinh [52].
Theo Ancel P.Y. đẻ non chiếm tỷ lệ khoảng7% trong năm 1998 [69].
Theo Moor và cộng sự nghiên cứu từ năm 1980 - 1984 tỷ lệ đẻ non từ
6,9% - 10,4% [53].
Ở Châu Âu nói chung tỷ lệ đẻ non chiếm khoảng 5,8% [42].


4

Theo Nguyễn Viết Tiến và Phạm Thị Thanh Hiền tại Viện BMTSS năm

1985 tỷ lệ đẻ non là 17,6%, năm 1986 là 16,9% [9].
Theo Trần Thị Tuất nghiên cứu trong 4 năm từ năm 1990 - 1993 tại
Thái Bình thấy tỷ lệ đẻ non là 6,55% - 16,01% [25].
Theo Trần Quang Hiệp tỷ lệ đẻ non tại bệnh viện Phụ sản Trung ương
năm 1998 - 2000 là 10,32% [10].
Theo Nguyễn Văn Phong tỷ lệ đẻ non tại bệnh viện Phụ sản Trung
ương năm 2000 – 2002 là 6,8% [21].
Theo Mai Trọng Dũng tỷ lệ đẻ non năm 2003 - 2004 là 8,6% [6].
1.1.3. Nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ.
Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu nhưng chúng ta vẫn chưa biết rõ về
nguyên nhân của đẻ non. Nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ gây đẻ non
thường đề cập đến là:
1.1.3.1. Nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ về phía mẹ.
- Tuổi của mẹ: tuổi của mẹ không phải là nguyên nhân chính gây đẻ
non, tuy nhiên nếu tuổi của mẹ dưới 20 tuổi hoặc trên 35 tuổi thì nguy cơ đẻ
non tăng lên [10], [21], [25].
Theo nghiên cứu của Trần Thị Tuất tỷ lệ đẻ non ở nhóm tuổi dưới 20 là
35,48% và tỷ lệ ở nhóm tuổi trên 35 là 13,19% [25].
Trong nghiên cứu của Trần Quang Hiệp thì tỷ lệ ĐN ở nhóm tuổi dưới
20 là 13,43%, nhóm trên 35 là 27,63% [10].
Theo Meis và cộng sự, những bà mẹ có độ tuổi dưới 18 có nguy cơ đẻ
non gấp 1,98 lần và những bà mẹ trên 35 tuổi có nguy cơ đẻ non gấp 1,44 lần
so với bình thường [51].
- Tình trạng bệnh lý của mẹ: nguy cơ đẻ non tăng lên trong trường hợp
mẹ bị mắc một số bệnh lý:


5

Các bệnh nhiễm khuẩn cấp tính gây sốt như nhiễm vius, vi khuẩn, ký sinh

trùng... dễ gây kích thích tử cung co bóp do sự tăng cao của prostaglandin [25], [36].
Các bệnh nội khoa mãn tính hoặc các bệnh lý do thai nghén gây ra như
tăng huyết áp, bệnh tim, thiếu máu, tiền sản giật... cũng là nguy cơ gây đẻ non
do bất ổn về phía mẹ hoặc về phía thai. Theo nghiên cứu của Gracia tỷ lệ đẻ
non ở thai phụ có tăng huyết áp chiếm tới 59,7% [38]. Ngoài ra tử cung cũng
dễ bị kích thích do những viêm nhiễm tại chỗ như viêm ruột thừa, absces
thành bụng...
Các sang chấn về tinh thần hay cơ học [10], [11], các sang chấn trực
tiếp hay gián tiếp trong phẫu thuật đặc biệt là phẫu thuật tại ổ bụng đều làm
tăng nguy cơ đẻ non [36].
- Nguyên nhân về sản khoa:
Những phụ nữ có tiền sử đẻ non thì nguy cơ đẻ non ở những lần có thai
tiếp theo cao hơn [10]. Có nhiều nguyên nhân để lý giải điều này trong đó có
những bất thường về giải phẫu và chức năng của hệ sinh dục: tử cung nhi tính,
tử cung có u xơ, tử cung dị dạng, hở eo tử cung, rối loạn chức năng buồng
trứng làm giảm tiết progesteron...
Sảy thai muộn hay thai chết lưu cũng là một trong những yếu tố nguy
cơ làm tăng sảy thai và đẻ non cho những lần thai sau [7].
Theo nghiên cứu của Trần Quang Hiệp những phụ nữ có tiền sử ĐN
một lần thì nguy cơ ĐN tăng gấp 2,34 lần so với những người không có tiền sử
ĐN [10]. Còn theo Meis và cộng sự những phụ nữ có tiền sử ĐN thì nguy cơ ĐN
ở lần tiếp theo là 1,84 lần so với những người không có tiền sử ĐN [51].
- Tình trạng kinh tế - xã hội: những phụ nữ có điều kiện kinh tế thấp
không được chăm sóc trước sinh đầy đủ, những người có trình độ văn hoá
thấp, hoạt động hoặc làm việc nặng nhọc thường xuyên thì có nguy cơ cao
hơn các đối tượng khác. Tình trạng thất nghiệp, nghề nghiệp không ổn định,


6


những phụ nữ không có chồng hay không có sự quan tâm của gia đình thì
nguy cơ ĐN cũng tăng lên [15], [36].
Theo Simpson những người lao động chân tay có nguy cơ ĐN cao gấp
2 đến 3 lần so với những người làm việc văn phòng. Những người có cường
độ làm việc trên 40 giờ một tuần có nguy có ĐN cao gấp 1,7 lần so với những
người có số giờ lao động ít hơn [62].
Thói quen hút thuốc và lạm dụng thuốc: chất nicotin có trong khói
thuốc lá kích thích các hạch giao cảm, trung tâm vận mạch và các cơ trơn làm
cho các cơ trơn tăng nhu động trong đó có cơ tử cung làm tử cung bị kích
thích gây cơn co [14]. Theo nghiên cứu của Cnattingius và cộng sự thấy rằng
tỷ lệ ĐN ở những bà mẹ hút thuốc hàng ngày tăng gấp 1,6 lần so với những bà
mẹ không hút thuốc. Đồng thời tỷ lệ sinh ra những đứa trẻ cân nặng thấp cũng
tăng gấp 2,4 lần ở những bà mẹ hút thuốc hàng ngày so với những bà mẹ
không hút thuốc [31].
1.1.3.2. Nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ về phía thai.
- Đa thai: làm cho tử cung căng dãn quá mức dẫn đến chuyển dạ ĐN
[1], [36].
Trong nghiên cứu của Nguyễn Văn Phong tỷ lệ ĐN của những thai phụ
đa thai là 24,25% lớn hơn nhiều so với tỷ lệ đẻ non của những thai phụ có một
thai là 6,32% [21].
- Thai dị dạng: thai vô sọ, não úng thuỷ, bụng cóc, tam bội thể 18…
thường kèm theo đa ối gây ĐN [1], [11], [36].
- Có thai sau thụ tinh nhân tạo, có thai sau chuyển giao tử vào vòi tử
cung: tuy nhiên người ta chưa giải thích được nguyên nhân tại sao trong
những trường hợp này lại có tỷ lệ ĐN cao hơn. Theo Creasy, tỷ lệ ĐN của thai
IVF là 27,8% trong đó IVF đa thai có tỷ lệ ĐN là 61,1% cao hơn rất nhiều so


7


với thai nghén thường hay thai nghén do các biện pháp hỗ trợ sinh sản khác
[9], [33].
1.1.3.3. Nguyên nhân và các yếu tố nguy cơ về phía phần phụ của thai.
- Đa ối: đa ối làm tử cung căng dãn quá mức làm tăng nguy cơ ĐN
[36]. Đặc biệt là đa ối cấp chiếm 0,4 - 1,6% thai nghén và 1/3 các trường hợp
đa ối cấp có chuyển dạ ĐN.
- Ối vỡ non, ối vỡ sớm, rỉ ối: là nguyên nhân hay được đề cập đến gần
đây. Ối vỡ non chiếm 30% các cuộc chuyển dạ [1], [30]. Ối vỡ non làm tăng
nguy cơ đẻ non gấp 3,46 lần.
- Nhiễm khuẩn ối: tuy chưa biết chính xác được tỷ lệ của nhiễm khuẩn
ối trong các trường hợp phát sinh chuyển dạ đẻ non nhưng khoảng 1/3 các
trường hợp ĐN phối hợp với nhiểm trùng ối mãn tính [57], [30].
- Rau tiền đạo: gây chảy máu trong ba tháng cuối của thai kỳ đặc biệt là
những trường hợp chảy máu nhiều phải chấm dứt thai kỳ sớm [9], [11].
1.1.3.4. Không rõ nguyên nhân.
Có trên 50% các cuộc chuyển dạ ĐN là không tìm thấy nguyên nhân [1].
Chính vì vậy mà việc phòng và điều trị đẻ non là một việc làm cấp bách và là
vấn đề hết sức nan giải.
1.1.4. Cơ chế bệnh sinh của chuyển dạ đẻ non.
Cơ chế bệnh sinh của chuyển dạ đẻ non rất phức tạp, cho tới nay chưa có
một cơ chế nào có thể giải thích một cách chuẩn xác nhất về ĐN. Có nhiều giả
thuyết được đưa ra và trong số đó có một số giả thuyết thường được đề cập tới là:
1.1.4.1. Thuyết cơ học.
Người ta cho rằng chuyển dạ đẻ xảy ra là do sự căng dãn quá mức của
tử cung. Các trường hợp như đa ối, song thai, tử cung nhi tính đều dễ phát
sinh chuyển dạ ĐN và thực tế cũng đã chứng minh điều này.


8


1.1.4.2. Thuyết Prostaglandin (PG).
PG được tổng hợp ngay tại màng của tế bào [25]. PG có hai tác động
lên cơ tử cung:
- Chúng có tác dụng tăng cường mối liên kết giữa các sợi cơ ở các vị trí nối.
- Chúng kích thích dòng calci đi vào trong tế bào và kích thích giải
phóng calci từ các lưới tương tự.
Các prostaglandin những chất có thể thay đổi hoạt tính co bóp của cơ tử
cung. Sự sản xuất PGE2 và PGE2ỏ tăng dần trong quá trình thai nghén và đạt
tới giá trị cao trong nước ối và màng rụng trong cơ tử cung vào lúc bắt đầu
chuyển dạ. Đẻ non xuất hiện khi nồng độ PG tăng cao. Có nhiều nguyên nhân
làm cho PG tăng cao như hậu quả của các phản ứng viêm, hoặc do dùng
thuốc... Người ta có thể gây chuyển dạ ở bất kỳ tuổi thai nào bằng cách tiêm
PG. PG làm chín muồi cổ tử cung do tác dụng lên chất collagen của cổ tử
cung. Mặt khác người ta cũng có thể ức chế chuyển dạ bằng cách sử dụng các
thuốc ức chế tổng hợp các PG trong điều trị doạ đẻ non [11], [30].
1.1.4.3. Thuyết estrogen và progesteron.
Estrogen là một hormon có tác dụng làm phát triển cơ tử cung, đồng
thời nó cũng có tác dụng làm tăng đáp ứng của cơ TC với oxytocin. Trong khi
đó progesteron có tác dụng làm giảm đáp ứng của oxytocin lên cơ TC.
Trong quá trình thai nghén estrogen và progesteron tăng dần theo một
tỷ lệ nhất định. Progesteron giảm đột ngột trước khi chuyển dạ vài ngày làm
thay đổi tỷ lệ giữa estrogen và progesteron điều này được coi như là tác nhân
gây chuyển dạ [12], [30].
1.1.4.4. Vai trò của oxytocin.
Oxytocin là một hormon của vùng dưới đồi có tác dụng co cơ tử cung.
Người ta đã xác định được sự tăng tiết oxytocin ở thuỳ sau tuyến yên của
người mẹ trong chuyển dạ đẻ và đạt mức tối đa khi rặn đẻ.


9


Theo Reece E.A và cộng sự, truyền oxytocin có thể gây chuyển dạ khi
thai nghén gần đủ tháng. Mức oxytocin trong máu mẹ tăng ít ở trước và trong
giai đoạn I của chuyển dạ, nó chỉ tăng nhiều ở giai đoạn II và sau đẻ.
Oxytocin không có mặt ở những chỗ nối giữa những tế bào cơ TC để gây cơn
co TC, như vậy oxytocin không phải là chất đầu tiên để khởi phát chuyển dạ,
nó có thể là chất tạo lực cơn co tử cung. Mức oxytocin ở động mạch rốn cao
hơn tĩnh mạch rốn và máu mẹ, điều này gợi ý rằng nguồn oxytocin đầu
chuyển dạ có thể có nguồn gốc từ thai. Số các thụ cảm thể oxytocin ở màng tế
bào cơ TC tăng lên theo tuổi thai và tăng nhiều hơn khi chuyển dạ làm cho cơ
tử cung nhạy cảm hơn với oxytocin vì thế làm co cơ TC gây chuyển dạ. Tóm
lại oxytocin không đóng vai trò quan trọng trong gây chuyển dạ đẻ mà chủ
yếu thúc đẩy quá trình chuyển dạ đang diễn ra [59].
1.1.4.5. Thuyết thần kinh.
Tử cung là một cơ quan chịu sự chi phối của hệ thần kinh thực vật.
Người ta cũng cho rằng TC còn có một hệ thần kinh tự động, cơ tử cung
giống cơ tim và nó có thể tự hoạt động để điều khiển cơn co của nó.
Chuyển dạ ĐN có thể phát sinh từ các phản xạ thần kinh sau những
kích thích trực tiếp hoặc gián tiếp, đặc biệt là các stress về tâm lý,
1.1.4.6. Thuyết nhiễm khuẩn.
Các sản phẩm của nhiễm khuẩn có thể kích thích tế bào sản xuất ra các
PG từ các phospholipid A2 (các chất này có trong lysosom, màng tế bào). Khi
được tổng hợp các PG gây ra cơn co tử cung và gây chuyển dạ [52]. Nói
chung các vi khuẩn gây ra viêm âm đạo, cổ tử cung đều có khả năng sinh ra
phospholipid A2 để tổng hợp ra PG từ màng rau.
Cơ chế chuyển hoá acid amin tổng hợp thàh PGE 2 bởi tế bào ối và
chuyển hoá bạch cầu từ acid amin ở nội sản mạc thành PGE 2ỏ, chất trung gian
cytokin là chất bài tiết từ hệ thống miễn dịch của vật chủ với nhiễm khuẩn. Ở



10

thai phụ chuyển dạ đẻ, cytokin là interleukine - 1õ (11 - 1). 11 - 6.TNF - ỏ
PAF. Sản phẩm của vi khuẩn là các enzym như protease, mucinase và
collagenase có thể xâm nhập vào màng rụng, màng ối và cổ tử cung làm suy
yếu mô liên kết ở đây gây xoá mở sớm CTC, chuyển dạ đẻ non và ối vỡ sớm
[30], [52].
1.2. Chẩn đoán doạ đẻ non.
Chẩn đoán dọa ĐN là một vấn đề rắc rối và khá phức tạp, từ việc đánh
giá các triệu chứng trong giai đoạn sớm đến khả năng kìm hãm cuộc chuyển
dạ khi nó đã xảy ra. Vấn đề quan trọng là phải chẩn đoán sớm khi còn ở trong
giai đoạn tiềm tàng để việc điều trị đạt kết quả do vậy người ta không thể
tránh được một số các trường hợp điều trị không cần thiết do không thể phân
biệt được đâu là chuyển dạ thật, đâu là chuyển dạ giả [1].
Trong hầu hết các nghiên cứu, các dấu hiệu của doạ ĐN thông thường
là đau bụng, ra máu âm đạo, ra dịch âm đạo... Đánh giá bằng việc khám trực
tiếp thấy có xuất hiện cơn co tử cung và có sự thay đổi của CTC qua nhiều lần
thăm khám liên tiếp [9], [13], [33]. Theo Nghiên cứu của Iams và cộng sự có
40% - 60% các trường hợp doạ ĐN có triệu chứng: đau bụng, đau lưng, đau
vùng tiểu khung hoặc đau tức bụng; 13% có ra máu hoặc ra dịch hồng âm đạo
và 10% trường hợp xuất hiện từ khi thai được 34 tuần tuổi [41].
Sự xuất hiện của cơn co tử cung là một dấu hiệu và là động lực để cuộc
chuyển dạ xảy ra, còn trong nghiên cứu của Bergella thì chỉ có 31% bệnh
nhân điều trị có dấu hiệu này [28].
Phạm Thị Thanh Hiền, Nguyễn Viết Tiến nghiên cứu trong hai năm
1994 và 1995 tại BVPSTƯ thấy: số bệnh nhân có 2 triệu chứng cơ năng (đau
bụng kèm theo ra máu hoặc đau bụng kèm theo ra dịch hồng âm đạo) chiếm
14%, số bệnh nhân chỉ có một triệu chứng cơ năng như: đau bụng, ra máu, ra
dịch hồng âm đạo chiếm khoảng 86% [9].



11

Theo tài liệu hướng dẫn chuẩn Quốc gia về các dịch vụ chăm sóc sức
khoẻ sinh sản ban hành năm 2007 [4] chẩn đoán doạ đẻ non dựa vào:
- Tuổi thai từ 22 tuần đến dưới tuần 37.
- Tử cung phù hợp với tuổi thai.
- Có cơn co tử cung gây đau bụng.
- Cổ tử cung còn dài đóng kín.
- Có thể ra máu hay chất nhầy hồng âm đạo.
- Siêu âm thấy rau bám bình thường, tim thai đập đều.
Tình trạng doạ đẻ non xảy ra từ tuần 22 đến dưới 37 tuần, là sự khởi
đầu của chuyển dạ đẻ non và nó sẽ tiến triển tự nhiên theo hướng đẻ non nếu
không được điều trị.
Chẩn đoán tuổi thai dựa vào ngày đầu tiên của kỳ kinh nguyệt cuối
cùng, hoặc dựa vào kết quả siêu âm đặc biệt trong những tháng đầu của thời
kỳ thai nghén hoặc dựa vào đặc điểm của trẻ sơ sinh sau khi sinh. Các phương
pháp X-quang, phân tích thành phần nước ối, phân tích thành phần nước
tiểu... để đánh giá tuổi thai ít được áp dụng.
- Dựa vào ngày đầu của kỳ kinh nguyệt cuối cùng [3]: đó là thời điểm
mà các tác giả coi đó là ngày đầu tiên của thai kỳ mặc dù đó không phải là
ngày thụ thai, lý do là vì đặc điểm dễ nhớ của ngày này. Đánh giá tuổi thai
dựa vào ngày đầu tiên của kỳ kinh nguyệt cuối cùng chỉ được áp dụng cho
những thai phụ có chu kỳ kinh nguyệt đều và nhớ một cách chắc chắn.
- Dựa vào siêu âm ước lượng tuổi thai [8]: đây là phương pháp cận lâm
sàng đơn giản đang được sử dụng nhiều nhất để xác định tuổi thai. Siêu âm có
ưu điểm là không gây hại cho mẹ và thai, có kết quả ngay và có thể thực hiện
được nhiều lần.



12

1.3. Thái độ xử trí.
Một bằng chứng rõ ràng rằng không phải tất cả các cuộc chuyển dạ xảy
ra đều dẫn đến đẻ non nếu chúng ta điều trị phù hợp và theo dõi một cách chặt
chẽ. Việc kéo dài thời gian sống của thai nhi trong tử cung phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như: tần số cơn co tử cung, cường độ cơn co tử cung, hiện tượng
xoá mở cổ tử cung...
Điều trị giữ thai là biện pháp được nghiên cứu và áp dụng nhiều nhất.
Thuốc điều trị doạ ĐN thường tập trung vào việc cắt cơn co tử cung, và xu
huớng tiếp tục tìm kiếm các thuốc ngăn cản co cơ trơn theo cơ chế tác động
chọn lọc trên cơ trơn.
1.3.1. Chế độ sinh hoạt, nghỉ ngơi.
Đóng vai trò rất quan trọng trong việc điều trị, chỉ riêng việc nghỉ ngơi
tuyệt đối tại giường đối với sản phụ dọa ĐN cũng đã thành công trong việc ức
chế chuyển dạ tới 50% các trường hợp [5], [11]. Tư thế nằm tốt nhất là nằm
nghiêng trái để cải thiện tuần hoàn tử cung - rau.
Ngoài ra trong một số trường hợp bệnh nhân quá lo lắng về tình trạng
bệnh của mình thì có thể dùng thuốc an thần để giảm lo lắng. Thường dùng là
nhóm thuốc Diazepam với liều thấp và không được dùng kéo dài
1.3.2. Sử dụng thuốc giảm co.
Có rất nhiều thuốc đã và đang được áp dụng để làm giảm cơn co tử
cung theo các cơ chế khác nhau. Mỗi thuốc có liều lượng và cách sử dụng
khác nhau và đều có những ưu nhược điểm riêng. Người ta có thể sử dụng
đơn thuần một loại thuốc hoặc phối hợp nhiều loại thuốc để điều trị.
1.3.2.1. Giảm co thắt cơ trơn: Spasfon [2].

Thành phần gồm có phloroglucinol (benzentrinol 1 - 3 - 5) và dẫn chất
methyl hoá là trimethyl phloroglucinol (trimethoxy benzentrinol 1 - 3 - 5).
Thuốc có tác dụng trực tiếp lên màng tế bào cơ trơn bằng cách ức chế enzym



13

phosphodiesterase trên một trương lực cơ tăng thái quá, do đó làm giảm calci
trong tế bào và gây dãn cơ.
Trong điều trị dọa đẻ non thuốc được dùng với liều uống 80mg 320mg/ngày, đường tiêm dùng 40mg - 12mg/ngày, có thể dùng đường tiêm
tĩnh mạch hoặc tiêm bắp.
1.3.2.2. Các thuốc Betamimetic: là các thuốc β hướng giao cảm.
* Ritodrin: có tác dụng ưu thế trên thụ cảm õ 2 do đó thuốc có tác dụng
trực tiếp làm giãn cơ trơn của tử cung và của phổi.
Cách dùng: dùng đường truyền tĩnh mạch đến khi cắt được cơn co thì
dùng đường uống để duy trì.
* Terbutalin: là dẫn xuất của phenylethylamine có tác dụng chọn lọc trên
thụ cảm O2 nên ức chế cơn co tử cung. Thuốc được dùng bằng đường truyền tĩnh
mạch.
* Các loại Betamimetic khác gồm Orciprenaline, Nylidrine, Fenetrol,
Heroprenaline đang được sử dụng rộng rãi nhiều nơi trên thế giới.
* Salbutamol [5]:
- Tác dụng: kích thích chọn lọc lên thụ thể õ 2 (có ở cơ trơn phế quản, cơ
tử cung, cơ trơn mạch máu), tác dụng trên thụ thể õ1 (có ở cơ tim) kém hơn rất
nhiều. Do có tính chọn lọc đó mà với liều điều trị thông thường tác dụng của
salbutamol lên tim không nhiều. Với liều điều trị thông thường có tác dụng
kích thích chọn lọc lên thụ thể õ2 ở các sợi cơ trơn của tử cung do đó làm giảm
biên độ, tần số và thời gian co cơ tử cung.
- Tác dụng phụ:
+ Tuần hoàn: nhịp xoang nhanh ở mẹ hoặc ở thai, đánh trống ngực.
+ Toàn thân: đổ mồ hôi, chóng mặt, bồn chồn, mất ngủ.
+ Cơ xương: run (đặc biệt là run tay), chuột rút.
+ Tiêu hoá: buồn nôn, nôn.



14

+ Chuyển hoá: hạ kali máu, tăng đường huyết.
+ Phản ứng quá mẫn: nổi mày đay, phù, phù phổi.
1.3.2.3. Thuốc đối kháng calci
Nồng độ calci ngoài tế bào lớn gấp 10000 lần trong tế bào. Khi ở trạng
thái nghỉ ngơi màng tế bào hầu như không thấm với calci. Calci đi vào trong
tế bào qua các kênh nhờ vào quá trình vận chuyển tích cực. Khi nồng độ calci
trong tế bào tăng lên sẽ kích thích tế bào giải phóng các PG và gây ra sự co
cơ [40].
Thuốc ức chế kênh calci có tác dụng trên các kênh có điện thế phụ
thuộc, ức chế dòng calci đi vào trong tế bào khi màng tế bào khử cực do đó
làm giảm co cơ. Đối với hệ tim mạch và hô hấp thuốc được ghi nhận là có tác
dụng làm giãn mạch ở tuần hoàn ngoại biên và phổi. Người ta thấy có sự giảm
đáng kể sức cản động mạch trong khi hệ thống tĩnh mạch lại không thay đổi
và thuốc dường như chỉ có tác dụng ở bệnh nhân cao huyết áp. Với những
người có huyết áp bình thường và thể tích tưới máu bình thường thì thuốc
không có tác dụng thay đổi huyết áp. Trên tử cung, các thuốc này được ghi
nhận tác dụng làm duỗi các sợi cơ trơn tử cung, làm giảm tần số biên độ,
trương lực cơ bản của các cơn co tử cung. Tác dụng này còn được thấy ngay
cả khi các cơn co được gây ra bởi oxytocin hay các PG [39].
- Magiesi sulfat: có tác dụng bằng cách ngăn sự khuyếch tán của calci
vào cơ tử cung do đó nồng độ calci trong tế bào thấp và cơ tử cung ở trạng
thái nghỉ ngơi [2].
- Nifedipin.
Các thuốc chẹn kênh calci được sử dụng rộng rãi trong các bệnh lý về
tim mạch (tăng HA, đau thắt ngực đi kèm với bệnh xơ mỡ động mạch...), nó
cũng được dùng điều trị hạ áp trong các trường hợp tiền sản giật trong lĩnh

vực sản khoa [70].


15

Cơ sở hoạt động của các thuốc ức chế calci trong điều trị doạ đẻ non:
Các thuốc dihydropyridin ở đây là Nifedipin (biệt dược là Adalat) làm giảm
dòng ion calci qua màng vào trong tế bào thông qua kênh calci chậm, có tác
dụng duỗi các sợi cơ trơn mạch máu, cơ trơn tử cung và bàng quang. Hiệu
quả dãn mạch của thuốc này đã được chỉ ra ở mức độ tuần hoàn ngoại biên và
tưới máu phổi, người ta thấy có sự giảm rõ rệt ở sức cản động mạch trong khi
hệ thống tĩnh mạch lại không thay đổi [63]. Điều này chứng minh cho việc sử
dụng các thuốc ức chế calci với thể tích máu bình thường thì không làm thay
đổi huyết áp một cách có ý nghĩa [64]. Đây chính là lý do để hiện nay người
ta có thể sử dụng thuốc ức chế calci với liều lượng lớn nhằm giảm co mà
không sợ tụt huyết áp [43].
1.3.2.4. Một số loại thuốc khác
► Ethanol: có tác dụng ức chế sự phóng thích oxytocin từ tuyến yên
nên ức chế cơn co tử cung. Tuy nhiên khi so sánh với thuốc nhóm
Betamimetic thì có hiệu quả kém hơn và lại có nhiều tác dụng phụ trên mẹ và
thai hơn nên ít được sử dụng [2].
► Thuốc ức chế tổng hợp PG: các thuốc ức chế tổng hợp PG ngăn cản
tổng hợp PG bằng cách ức chế enzym cyclooxygenase có tác dụng chuyển đổi
acid arachidonic thành PG do đó làm giảm co tử cung. Đây là nhóm thuốc họ
chống viêm non - steroid bao gồm: Asprin, Indomethacin, Naproxen. Thuốc
có nhiều tác dụng phụ cho mẹ và nguy hiểm nhất có thể gây đóng ống động
mạch sớm ở thai [2], [20].
1.3.2.5. Thuốc đối kháng với oxytocin.
 THUỐC TRACTÓILE
Oxytocin được biết là có tác dụng thông qua cơ chế thần kinh tác động

lên màng tế bào để giải phóng ra calci. Oxytocin cũng được hoạt động gián


16

tiếp để giải phóng ra Prostaglandin trong màng rụng và rau thai vì vậy nó
đóng góp vào việc hình thành cơn co tử cung và sự chín muồi cổ tử cung.
Atosiban là một peptide tổng hợp và là chất đối kháng cạnh tranh với
oxytocin ở người ở mức độ thụ thể.
Cấu trúc hóa học
Atosiban có công thức phân tử là C43H67N11O12S2, tên hóa học là (3 mercaptopropanoic acid) - 2 -(O- ethyl -D-tyrosine)- 4 - L - threonine - 8 - L ornithine – oxytocin và trọng lượng phân tử 993,5 Dalton.

Tính chất dược lực học
Ở chuột và chuột lang, atosiban đã được chứng minh là liên kết với các
thụ thể oxytocin, để giảm tần số các cơn co tử cung và trương lực của cơ tử
cung, dẫn đến ức chế co bóp tử cung. Atosiban cũng được chứng minh là liên
kết với thụ thể vasopressin, do đó ức chế tác dụng của vasopressin. Ở động
vật atosiban không thể hiện tác dụng tim mạch.
Trong chuyển dạ đẻ non ở người, dùng atosiban với liều lượng khuyến
cáo kháng lại sự co tử cung và làm bình ổn cho tử cung. Khởi phát giãn tử
cung sau khi dùng atosiban rất nhanh, các cơn co tử cung giảm đáng kể trong


17

vòng 10 phút để đạt được sự co bóp tử cung ổn định ( ≤ 4 cơn co / giờ) trong
12 giờ.
Tính chất dược động học
Ở người khỏe mạnh không mang thai được truyền atosiban (10 đến 300
microgam / phút trong 12 giờ), nồng độ trong huyết tương ở trạng thái ổn

định tăng tỷ lệ thuận với liều dùng.
Độ thanh thải, thể tích phân bố và thời gian bán hủy được thấy là không
phụ thuộc liều dùng.
Ở những phụ nữ chuyển dạ đẻ non được truyền atosiban (300
microgam / phút trong 6 đến 12 giờ), nồng độ trong huyết tương ở trạng thái
ổn định đạt được trong vòng một giờ sau khi bắt đầu truyền (có nghĩa là 438 ±
73 ng / ml, trong khoảng từ 298 đến 533 ng / ml).
Sau khi hoàn thành việc tiêm truyền, nồng độ trong huyết tương giảm
nhanh chóng với thời gian bán hủy ban đầu (t α ) và thời gian bán hủy cuối
(t β ) lần lượt là 0,21 ± 0,01 và 1,7 ± 0,3 giờ. Trị số trung bình đối với độ
thanh thải là 41,8 ± 8,2 lít / giờ. Trị số trung bình của thể tích phân bố là 18,3
± 6,8 lít.
Liên kết với protein huyết tương của atosiban ở phụ nữ mang thai là 46 đến
48%. Người ta không biết liệu phần tự do ở cơ thể người mẹ và thai có khác
nhau đáng kể hay không. Atosiban không phân bố vào các tế bào hồng cầu.
Atosiban đi qua rau thai. Sau khi truyền 300 microgam / phút ở phụ nữ
mang thai khỏe mạnh, tỷ lệ nồng độ atosiban của thai nhi / mẹ là 0,12.
 CHUYỂN HÓA VÀ THẢI TRỪ
- Hai chất chuyển hóa được xác định trong huyết tương và nước tiểu từ
những người tình nguyện. Tỷ số của chất chuyển hóa chính M1 (des- (Orn 8 ,
Gly-NH 2 9 ) - [Mpa 1 , D-Tyr (Et) 2 , Thr 4 ] -oxytocin) so với nồng độ
atosiban trong huyết tương là 1,4 sau 2 giờ và 2,8 khi kết thúc truyền. Người


18

ta không biết liệu chất M1 có tích lũy trong các mô hay không. Atosiban chỉ
được tìm thấy với số lượng nhỏ trong nước tiểu, nồng độ nước tiểu của nó
thấp hơn khoảng 50 lần so với M1. Tỷ lệ atosiban được loại bỏ trong phân
không được biết đến. Chất chuyển hóa chính M1 yếu hơn khoảng 10 lần so

với atosiban trong việc ức chế co bóp tử cung do oxytocin gây ra trong ống
nghiệm. Chất chuyển hóa M1 được bài tiết qua sữa.
- Không có kinh nghiệm về điều trị atosiban ở bệnh nhân suy chức năng
gan hoặc thận.
- Không chắc atosiban ức chế các dạng tương tự (isoform) được chuyển
hóa qua cytochrom P450 ở gan ở người.
 CHỈ ĐỊNH VÀ CHỐNG CHỈ ĐỊNH
Chỉ định điều trị
Tractocile được chỉ định để trì hoãn đẻ non sắp xảy ra ở phụ nữ mang
thai có:
- co bóp tử cung đều đặn trong thời gian ít nhất 30 giây với tốc độ ≥ 4
mỗi 30 phút
- độ mở cổ tử cung từ 1 đến 3 cm (0-3 cm đối với con so) và xóa cổ tử
cung 50%
- tuổi thai từ 24 đến 33 tuần đủ
- nhịp tim thai bình thường
Chống chỉ định
Tractocile không được sử dụng trong các điều kiện sau:
- Tuổi thai dưới 24 hoặc trên 33 tuần đủ
- Vỡ ối sớm ở thai > 30 tuần
- Thai chậm phát triển trong tử cung và nhịp tim thai bất thường
- Xuất huyết tử cung trước sinh cần phải sinh ngay
- Sản giật và tiền sản giật nặng cần phải sinh
- Thai chết trong tử cung
- Nghi ngờ nhiễm khuẩn trong tử cung
- Rau tiền đạo
- Rau bong non
- Bất kỳ tình trạng nào khác của mẹ hoặc thai nhi mà việc tiếp tục mang
thai là nguy hiểm



19

- Quá mẫn cảm với (các) hoạt chất hoặc với bất kỳ thành phần nào của tá
dược.
 LIỀU LƯỢNG VÀ CÁCH DÙNG
- Tractocile được tiêm tĩnh mạch trong ba giai đoạn liên tiếp: liều bolus
ban đầu (6,75 mg), được thực hiện với dung dịch Tractocile 6,75 mg / 0,9 ml
để tiêm, ngay sau đó tiêm truyền liều cao liên tục (truyền liều nạp 300
microgam / phút) Tractocile 37,5 mg / 5 ml đậm đặc để truyền trong ba giờ,
sau đó dùng liều Tractocile thấp hơn 37,5 mg / 5 ml cho dung dịch tiêm
truyền (truyền kế tiếp 100 microgam / phút) cho đến 45 giờ. Thời gian điều trị
không quá 48 giờ. Tổng liều được đưa ra trong suốt quá trình điều trị bằng
Tractocile tốt nhất không được vượt quá 330mg hoạt chất atosiban.
- Trong trường hợp cơn co tử cung kéo dài trong khi điều trị bằng
Tractocile, nên xem xét liệu pháp thay thế.
- Bảng sau đây cho thấy liều tiêm bolus đầy đủ sau đó là liều truyền:
Bước Liều dùng
Tốc độ tiêm/truyền
1
Tiêm bolus tĩnh mạch 0,9 Trong vòng 1 phút
ml
Truyền tĩnh mạch liều nạp 24 ml / giờ
Truyền tĩnh mạch liều kế 8 ml / giờ

2
3

Liều Atosiban
6,75 mg

18 mg / giờ
6 mg / giờ

tiêp
 TƯƠNG TÁC THUỐC
- Không chắc là atosiban có liên quan đến tương tác giữa các thuốc được
chuyển hóa qua trung gian cytochrom P450 vì các nghiên cứu in vitro đã chỉ
ra rằng atosiban không phải là một cơ chất cho hệ thống cytochrom P450 và
không ức chế các enzyme của cytochrom P450 chuyển hóa thuốc.
- Các nghiên cứu về tương tác thuố đã được thực hiện ở những tình
nguyện viên nữ khỏe mạnh dùng labetalol và betamethasone. Không có tương


20

tác liên quan đến lâm sàng được tìm thấy giữa atosiban và bethamethasone
hoặc labetalol.
- Chưa có nghiên cứu nào về tương tác được thực hiện với các kháng
sinh, các alkaloid nấm cựa gà và các thuốc điều trị tăng huyết áp khác ngoài
labetalol.
Tác dụng không mong muốn
- Các tác dụng không mong muốn có thể có của atosiban đối với người
mẹ đang dùng atosiban đã được mô tả trong các thử nghiệm lâm sàng. Các tác
dụng không mong muốn đã được ghi nhận nói chung là ít nghiêm trọng. Tổng
số 48% trong số bệnh nhân được điều trị bằng atosiban có tác dụng không
mong muốn.
- Đối với trẻ sơ sinh, các thử nghiệm lâm sàng không cho thấy bất kỳ tác
dụng không mong muốn cụ thể nào của atosiban. Các tác dụng phụ ở trẻ sơ
sinh nằm trong phạm vi bình thường và tương đương với tỷ lệ tác dụng phụ ở
cả hai nhóm giả dược và nhóm dùng thuốc beta – mimetic.


- Các tác dụng không mong muốn ở phụ nữ như sau:
Rất
Phân loại cơ quan thường
theo MedDRA
gặp
(≥10%)
Rối loạn hệ thống
miễn dịch
Rối loạn chuyển
hóa

dinh

Thường gặp
(≥1 - <10%)

Tăng đường
huyết

Không
thường gặp
(≥0,1 <1%)

Hiếm
gặp
Rất hiếm
(≥0,01
gặp
(<0,01%)

<0,1%)
Phản ứng
quá mẫn


21

dưỡng
Rối loạn tâm thần
Rối loạn hệ thần
kinh
Rối loạn tim
Rối loạn mạch
máu
Rối loạn tiêu hóa Buồn
nôn
Rối loạn da và
mô dưới da
Rối loạn hệ sinh
dục và vú

Mất ngủ
Nhức
đầu,
chóng mặt
Nhịp
tim
nhanh
Hạ huyết áp
Nôn

Ngứa, phát
ban
Xuất
huyết
tử
cung,
đờ tử
cung

Rối loạn toàn
Phản ứng tại Sốt
thân và tại chỗ
chỗ tiêm
ùng thuốc
1.3.3. Sử dụng corticoide [2], [23].
Corticoide là hormon tuyến thượng thận và có nhiều tác dụng đối với
trẻ sơ sinh, sử dụng corticoide vào những tháng cuối của thai kỳ có tác dụng
làm giảm suy hô hấp đối với thai non tháng. Cơ chế tác dụng của corticoide là
tăng cường sản xuất surfactant thúc đẩy sự trưởng thành của các mô liên kết.
Những trẻ sơ sinh với phổi non yếu có khuynh hướng phát triển hội
chứng suy hô hấp. Bệnh lý này thường gặp ở trẻ thiếu tháng và hầu như hiếm
khi xảy ra ở thai trên 38 tuần. Đây là nguyên nhân tử vong thường gặp nhất
của trẻ thiếu tháng. Nguyên nhân chính gây suy hô hấp là do thiếu chất
surfactant trong phổi làm cho phổi giữ được thể tích khí dự trữ trong kỳ thở
ra, còn được gọi là bệnh màng trong. Thông thường phổi đạt được sự trưởng


22

thành khi thai được 35 tuần. Sử dụng corticoide giúp cho phổi thai nhi được

trưởng thành tránh được bệnh màng trong, chỉ dùng cho những trường hợp
tuổi thai dưới 35 tuần.
Hiệu quả tối đa của corticoide đạt được trong vòng 24 - 48 giờ, do đó
cần cố gắng trì hoãn cuộc chuyển dạ ít nhất 24 giờ sau khi sử dụng thuốc này.
1.4. Nguy cơ của trẻ sơ sinh non tháng.
- Bệnh lý hô hấp: là bệnh lý hay gặp đối với sơ sinh non tháng gây suy
hô hấp ở trẻ sơ sinh. Nguyên nhân chính gây suy hô hấp là do thiếu chất
surfactant trong phổi nên nhu phổi không giãn nở được, các phế nang tăng
tính thấm, tổ chức kẽ dễ phù, các fibrin huyết tương dễ thoát mạch tràn vào
trong lòng phế nang. Sau khi huyết tương rút đi, hồng cầu và fibrin đọng lại
trong lòng phế nang tạo ra màng trong.
Tổ chức phổi quá non với đặc điểm là thành phế nang hẹp, mao mạch
ít, tổ chức liên kết nhiều cũng là một trong những nguyên nhân chính gây suy
hô hấp sơ sinh. Đặc điểm của cơ quan hô hấp chưa trưởng thành làm cho phổi
khó giãn nở, sự trao đổi khí bị hạn chế.
Ở tuổi thai càng nhỏ, trọng lượng thai càng thấp tỷ lệ mắc bệnh càng
cao. Bệnh thường xuất hiện vài giờ đến vài ngày sau đẻ. Trước đây bệnh
thường gây tử vong 100%, nhưng ngày nay nhờ những tiến bộ về hồi sức sơ
sinh, máy thở giúp thở với áp lực dương tính và surfactant nhân tạo cũng như
việc vận chuyển nhanh chóng đến các trung tâm chuyên khoa nên tỷ lệ tử
vong do bệnh lý này đã giảm bớt ở một số nước đã phát triển. Riêng tại Việt
Nam, tử vong cho bệnh này còn rất cao vì phương tiện còn nhiều thiếu thốn.
Vì vậy sử dụng corticoide trước sinh nhằm tăng khả năng tổng hợp surfactant
giúp cho phổi thai nhi được trưởng thành để tránh được bệnh màng trong.
- Nhiễm khuẩn: do chức năng miễn dịch kém nên trẻ non tháng dễ bị
nhiễm trùng như: viêm phổi, nhiễm trùng huyết, viêm màng não nhất là viêm


23


ruột hoại tử. Nguy cơ nhiễm khuẩn càng cao đối với những trẻ non tháng mà
trong quá trình chuyển dạ có ối vỡ non, ối vỡ sớm. Khi bị nhiễm trùng các
triệu chứng lâm sàng thường không đặc hiệu, khó chẩn đoán, tử vong cao vì
trẻ dễ kháng thuốc.
- Xuất huyết: ở trẻ sơ sinh non tháng có sự thiếu hụt các yếu tố V, VII
đồng thời lượng prothrombin thấp do tổng hợp ở gan kém. Nếu nồng độ
prothrombin giảm dưới mức bình thường 15% sẽ có xuất huyết ở nhiều cơ
quan phủ tạng như mắt, dạ dày, phổi, đường tiết niệu, biểu hiện bởi các triệu
chứng đái máu, nôn ra máu... gây thiếu máu cấp tính. Trường hợp nặng gây
xuất huyết não khiến trẻ bị co giật, hôn mê và tử vong.
- Rối loạn chuyển hoá: hạ calci huyết, hạ đường huyết: khi lượng
glucose máu < 0,3 g/l. Nguyên nhân là do sơ sinh non tháng ít dự trữ
glycogen ở gan, hệ thống enzym chuyển hoá chưa hoàn chỉnh làm cho sơ sinh
khó thích nghi với đời sống độc lập. Nếu đã có triệu chứng lâm sàng rõ như
co giật, tím tái... thì dễ để lại những di chứng thần kinh.
- Vàng da: là bệnh lý hay gặp đối với sơ sinh non tháng, thiếu hoặc rối
loạn các enzym kết hợp. Thường là vàng da do tăng bilirubin gián tiếp.
1.5. Một số nghiên cứu về Atosiban trong điều trị doạ đẻ non.


24

CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu.
Các sản phụ được chẩn đoán và điều trị doạ ĐN tại BVPSTƯ từ tháng
7/2019 đến tháng 12/2019
2.1.1. Tiêu chuẩn chọn mẫu nghiên cứu.
- Sản phụ từ 18 tuổi.
- Đơn thai hoặc đa thai.

- Tuổi thai từ 24 0/7 tuần – 33 6/7 tuần
- Được chẩn đoán dọa đẻ non với các tiêu chuẩn sau:
+ Có ≥ 1 cơn co tử cung / 10 phút, cường độ ≥ 30 mmHg và kéo dài ít
nhất 30 giây.
+ Cổ tử cung xóa ≥ 50%.
+ Cổ tử cung mở ≤ 3 cm
- Nhịp tim thai bình thường
2.1.2. Các tiêu chuẩn loại trừ.
- Không tính chính xác được tuổi thai do:
+ Không nhớ chính xác kỳ kinh cuối cùng.
+ Không được siêu âm trong 12 tuần đầu.
- Chuyển dạ đẻ non thực sự: cổ tử cung mở > 3cm
- Thai chết lưu, thai có dị tật bẩm sinh…
- Bất thường về phần phụ của thai: ối vỡ, rau bong non, rau tiền đạo.
- Nghi ngờ nhiễm khuẩn trong tử cung
- Các trường hợp thai kỳ cần chấm dứt : thai suy, tiền sản giật nặng, sản
giật, bệnhnlý nặng của mẹ mà việc tiếp tục mang thai là nguy hiểm


25

2.2. Phương pháp nghiên cứu.
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu.
Nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp nghiên cứu tiến cứu mô
tả cắt ngang.
2.2.2. Cỡ mẫu.
Công thức tính cỡ mẫu [18]:

N = Z12−α / 2


p.q
( p.ε ) 2

Trong đó :
N: là số bệnh nhân cần nghiên cứu.
p: là tỷ lệ thành công điều trị doạ đẻ non theo nghiên cứu của Phan Hà
Minh Hạnh
p = 0,9
q = 1- p = 0,1
Z: là độ tin cậy của xác suất với ỏ = 0,05 thì Z = 1,96
ε: là sai số. Ta lấy ε = 10%
Thay vào công thức ta có

N = 1,96 2
N= 43 bệnh nhân.

0,9 x0,1
= 43
(0,9 x0,1) 2


×