SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐÔNG SƠN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
KINH NGHIỆM TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC
KỸ NĂNG VỆ SINH CÁ NHÂN CHO TRẺ 5-6 TUỔI
Ở TRƯỜNG MẦM NON TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN ĐÔNG SƠN,
TỈNH THANH HÓA
Người thực hiện:
Chức vụ:
Đơn vị công tác:
Lê Thị Tình
Chuyên viên
Phòng Giáo dục và Đào tạo,
huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa
SKKN thuộc lĩnh vực: Quản lý
1
THANH HÓA, NĂM 2019
MỤC LỤC
NỘI DUNG
TT
1.
1.1.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
TRANG
1
2
3
1.2.
Mục đích nghiên cứu
3
1.3.
Đối tượng nghiên cứu
3
Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Cơ sở lý luận
Thực trạng của vấn đề.
Thực trạng chung
Thuận lợi
Khó khăn
Khảo sát chất lượng đầu năm học
Các biện pháp thực hiện
Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch chỉ đạo
Biện pháp 2: Coi trọng công tác bồi dưỡng chuyên môn
cho đội ngũ CBQL, GV các nhà trường trên địa bàn
huyện.
Biện pháp 3: Giáo dục vệ sinh thông qua hoạt động học
và lồng ghép qua hoạt động khác.
Biện pháp 4: Giáo dục thói quen vệ sinh thông qua hoạt
động vui chơi.
Biện pháp 5: Giáo dục thói quen vệ sinh cho trẻ thông
qua mọi lúc, mọi nơi.
Biện pháp 6: Chỉ đạo các nhà trường làm tốt công tác
phối hợp với phụ huynh.
Biện pháp 7: Tăng cường công tác kiểm tra đánh giá.
4. Kết quả đạt được:
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
Kiển nghị
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC SKKN ĐÃ ĐƯỢC XẾP LOẠI
HÌNH ẢNH MINH HỌA SKKN
3
3
3
4
4
4
5
5
6
6
1.4.
2.
2.1.
2.2.
2.2.1.
2.2.2.
2.2.3.
2.2.4.
2.3.
2.3.1.
2.3.2.
2.3.3.
2.3.4.
2.3.5.
2.3.6.
2.3.7.
2.4.
3.
3.1.
3.2.
8
10
13
14
15
16
18
19
19
19
20
21
23
2
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Trong công cuộc đổi mới giáo dục hiện nay nói chung, giáo dục mầm non
nói riêng, việc chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non ngày càng được quan tâm chú
trọng. Bởi giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc
dân, đặt nền móng ban đầu cho sự phát triển thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm mỹ
của trẻ em. Chất lượng chăm sóc - giáo dục trẻ ở trường mần non tốt có tác dụng
rất lớn đến chất lượng giáo dục các bậc học tiếp theo. Như Bác Hồ kính yêu đã
từng nói “Giáo dục mầm non tốt sẽ mở đầu cho một nền giáo dục tốt ”{7}.
Năm học 2018 - 2019 ngành Giáo dục huyện Đông Sơn tiếp tục thực hiện
thắng lợi Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Nghị
quyết số 44/NQ-CP của Chính phủ về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo. Phương hướng chung của giáo dục mầm non năm học 2018 - 2019 là
tiếp tục đổi mới hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non theo quan điểm giáo
dục lấy trẻ làm trung tâm. Với quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm được
coi là cơ hội, mà những người làm công tác giáo dục tạo ra cơ hội cho trẻ phát
triển một cách hợp lý giữa việc chăm sóc và giáo dục trẻ {1}. Vì vậy việc giáo
dục thói quen vệ sinh, chăm sóc sức khỏe cho trẻ chiếm vị trí vô cùng quan trọng
trong chương trình chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non.
Thực tế hiện nay, sức khỏe, sự an toàn của con người phụ thuộc vào nhiều
yếu tố, từ chủ quan đến khách quan đòi hỏi mỗi người phải có kiến thức, hành vi
tự bảo vệ sức khỏe cho mình. Những kiến thức đó cần được học từ tuổi mầm non
thông qua gia đình, nhà trường và cộng đồng từ những việc đơn giản nhất như:
Thói quen vệ sinh, hành vi văn minh, kỹ năng sống... Qua đó tạo cơ hội cho trẻ
sống và phát triển một cách khỏe mạnh về trí tuệ, thể chất.
Giáo dục thói quen vệ sinh cho trẻ ảnh hưởng đến quá trình phát triển sức
khỏe của trẻ em. Tuy nhiên, đối với trẻ ở lứa tuổi mầm non hệ thần kinh nói
riêng, các hệ cơ quan trong cơ thể nói chung chưa hoàn thiện về cấu tạo và chức
năng. Do vậy, khả năng hoạt động của hệ thần kinh trẻ còn kém. Những tác động
của môi trường bên ngoài không thích hợp có thể ảnh hưởng đến hoạt động của
hệ thần kinh ở trẻ, làm kìm hãm sự phát triển hoặc làm rối loạn chức năng của
nó. Mặt khác do kinh nghiệm sống của trẻ còn ít, cho nên trẻ cần được giáo dục,
rèn luyện thói quen vệ sinh, để trẻ thích nghi với môi trường và phù hợp với lứa
tuổi {7}.
Trẻ lứa tuổi mầm non khi bắt đầu làm quen với trường lớp do chuyển từ
môi trường gia đình sang môi trường tập thể vì thế đòi hỏi trẻ phải có kỹ năng
nhất định để hòa nhập. Phần lớn trẻ đến trường thiếu thói quen và kỹ năng thực
hành vệ sinh cá nhân như: Chải răng, rửa tay, rửa mặt… như thế nào cho sạch và
đúng cách. Chính vì vậy việc giáo dục thói quen vệ sinh cho trẻ ngay từ khi trẻ
còn bé là điều vô cùng quan trọng. Song có nhiều phụ huynh lại cho rằng trẻ còn
quá nhỏ để nhận thức được, nên trẻ cần sự bao bọc của người lớn, điều đó hoàn
toàn sai lầm.
3
Trước thực trạng trên, ngoài việc chăm sóc giáo dục trường mầm non cần
tập trung vào việc giáo dục, rèn luyện, hình thành những thói quen, kỹ năng vệ
sinh cần thiết cho trẻ trong cuộc sống hàng ngày. Với vai trò là người quản lý, tôi
luôn suy nghĩ những biện pháp chỉ đạo các trường mầm non trên địa bàn huyện
về giáo dục trẻ có thói quen vệ sinh thường xuyên? Để phụ huynh hiểu được trẻ
mầm non cần phải giáo dục vệ sinh ngay từ khi đến trường lớp mầm non. Vì thế
tôi chọn đề tài “Kinh nghiệm tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng vệ sinh
cá nhân cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non trên địa bàn huyện Đông Sơn,
tỉnh Thanh Hóa” làm đề tài nghiên cứu của mình.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc giáo dục thói quen
vệ sinh cho trẻ trong trường mầm non, nhằm tìm ra những biện pháp giáo dục tốt
nhất, giúp trẻ có những kỹ năng, thói quen vệ sinh. Từ đó nâng cao chất lượng
chăm sóc sức khỏe trẻ ở trường mầm non trên địa bàn huyện Đông Sơn, tỉnh
Thanh Hóa.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Kinh nghiệm tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng vệ sinh cá nhân cho
trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non trên địa bàn huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu áp dụng một số phương pháp sau:
* Phương pháp nghiên cứu lý luận
+ Phương pháp khái quát hóa
+ Phương pháp phân tích tổng hợp
Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin lý luận để xây dựng
cơ sở lý luận của đề tài.
* Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Phương pháp điều tra; quann sát
+ Phương pháp đàm thoại, phỏng vấn
+ Phương pháp nêu gương
+ Phương pháp thực nghiệm sự phạm
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
+ Phương pháp thống kê
Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin thực tiễn để xây
dựng cơ sở thực tiễn của đề tài.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận
Vệ sinh có thể hiểu là các thao tác, liên quan đến việc duy trì sức khỏe và
sự sống được áp dụng để giảm tỷ lệ nhiễm và lây lan dịch bệnh. Thói quen vệ
sinh là biểu hiện của nếp sống văn minh, một biện pháp khoa học nhằm mục
đích bảo vệ, nâng cao sức khỏe của con người. Để vệ sinh trở thành thói quen
văn hóa mỗi đứa trẻ cần phải có một quá trình tập luyện {2}.
Giáo dục thói quen vệ sinh cho trẻ ngay từ lứa tuổi mầm non là một trong
những nhiệm vụ giáo dục quan trọng, có ý nghĩa lớn đối với sự hình hành và
phát triển nhân cách của trẻ sau này. Bởi đây là giai đoạn đánh dấu sự tự lập dần
dần trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ, giai đoạn định hình nhân cách. Giáo dục
4
thói quen vệ sinh là rèn luyện cho trẻ những thói quen của nếp sống văn minh
như: Tính sạch sẽ, ngăn nắp, gọn gàng. Đồng thời cung cấp cho trẻ những kiến
thức cơ bản, khoa học về vệ sinh. Giáo dục rèn luyện cho trẻ các kỹ năng thói
quen vệ sinh trong sinh hoạt hàng ngày giúp trẻ biết tự kiểm tra, đánh giá hành
động vệ sinh của mình, của bạn. Từ đó hình thành cho trẻ thói quen thực hiện
hành vi, vệ sinh văn minh để trẻ có thể tự bảo vệ bản thân.
Chăm sóc giáo dục vệ sinh cho trẻ mầm non là việc làm thiết thực, nhằm
giúp trẻ có thói quen nề nếp vệ sinh, phòng tránh bệnh tật, tăng cường sức khỏe,
hình thành và phát triển các kỹ năng sống cơ bản.
Trẻ có thói quen vệ sinh tốt là một trong những cách phòng tránh dịch
bệnh đơn giản và ít tốn kém nhất, những công việc vệ sinh hàng ngày tưởng như
rất đơn giản như: Chải răng, rửa mặt, rửa tay, rửa chân, đi giày dép... nhưng lại
rất cần thiết trong đời sống hàng ngày của trẻ. Làm tốt công việc vệ sinh không
chỉ giúp trẻ phòng bệnh, duy trì sức khỏe tốt mà còn giúp trẻ tạo ấn tượng tốt với
những người xung quanh {5}.
Giáo dục thói quen vệ sinh cá nhân cho trẻ mầm non là giúp trẻ hiểu được
tại sao cần phải thực hiện vệ sinh sạch sẽ. Thông qua giáo dục hình thành cho trẻ
những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nhất định về các thói quen cá nhân, vì ở lứa tuổi
này rất dễ uốn nắn. Tuy nhiên, trẻ chưa tự giác phục vụ bản thân, vì vậy cần có
những biện pháp giáo dục, chăm sóc phù hợp và khoa học để hình thành cho trẻ
thói quen vệ sinh tốt trong cuộc sống hàng ngày của trẻ.
2.2. Thực trạng chung
Đông Sơn là một huyện đồng bằng, thuần nông, có 15 xã, thị trấn với 16
trường mầm non. Toàn huyện có 21.047 hộ dân, dân số 75.696 người, diện tích
tự nhiên 82.406 km2.
2.2.1. Thuận lợi
- Tính đến năm học 2018 - 2019 toàn huyện có 14/16 trường đạt 87,5% đã
đạt chuẩn Quốc gia. Vì vậy, môi trường giáo dục trong lớp, ngoài trời cũng đã
được các nhà trường cải thiện đáng kể;
- Mạng lưới trường, lớp mầm non được quy hoạch tương đối tốt, đảm bảo
15 xã, thị trấn có 16 trường mầm non, mỗi trường tập trung ở 01 điểm, dân số ít
nên quy mô các trường vừa và nhỏ, nhu cầu đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị....
không quá lớn;
- Trình độ đội ngũ giáo viên hàng năm được nâng lên rõ rệt (92.4% trên
chuẩn), chất lượng đội ngũ có nhiều chuyển biến tích cực, ứng dụng CNTT được
triển khai rộng rãi, có nhiều kinh nghiệm trong chỉ đạo thực hiện nâng cao chất
lượng chăm sóc, giáo dục trẻ và đổi mới việc xây dựng môi trường giáo dục
trong trường mầm non;
- Công tác bồi dưỡng cán bộ giáo viên luôn được chú trọng, các chuyên đề
được cập nhật kịp thời và đầy đủ. Cán bộ giáo viên được trẻ hóa nhiều nên rất
năng động, sáng tạo, tiếp cận nhanh với những vấn đề chuyên môn mới, nắm bắt
nhanh những vấn đề mới trong việc xây dựng môi trường;
- Đồ dùng, trang thiết bị phục vụ cho công tác chăm sóc vệ sinh cá nhân
cho trẻ đầy đủ (ca cốc, khăn mặt, bàn trải đánh răng, bát thìa...) các đồ dùng
thường xuyên được vệ sinh, khử trùng hàng ngày, khu vực vệ sinh luôn khô ráo
5
sạch sẽ. Phụ huynh đã hiểu được mục đích giáo dục vệ sinh cho trẻ và cùng phối
hợp tốt với giáo viên và nhà trường về cách chăm sóc sức khỏe, giáo dục vệ sinh
cho trẻ đúng cách và khoa học.
- Công tác xã hội hóa giáo dục hàng năm luôn được lãnh đạo các cấp và
nhân dân quan tâm chăm lo đầu tư cho sự nghiệp giáo dục, nhân dân tích cực đóng
góp xây dựng trường lớp, mua sắm trang thiết bị dạy học.
2.2.2. Khó khăn
- Toàn huyện có 15 xã, thị trấn, là một huyện nhỏ, thuần nông, điều kiện
kinh tế-xã hội còn gặp nhiều khó khăn.
- Môi trường giáo dục ở các trường mầm non đã được quan tâm chỉ đạo thực hiện
đồng đều ở tất cả các trường song một số trường còn nặng tính hình thức mà chưa mang
lại hiệu quả thiết thực trong giáo dục. Đặc biệt là khai thác sử dụng môi trường giáo dục
chưa linh hoạt, sáng tạo, chưa thực sự phát huy được tính tích cực tham gia hoạt động của
trẻ.
- Hiện nay việc giáo dục thói quen vệ sinh cho trẻ cũng được giáo viên
thực hiện. Song chưa được quan tâm chú trọng nên hiệu quả chưa cao. Giáo viên
thực hiện chưa đúng thao tác, chưa đúng quy trình, các nội dung thực hiện
thường bị cắt xén, hoặc có thực hiện thì cũng đại khái qua loa. Trong khi đó trẻ
mầm non còn rất nhỏ trẻ chưa có ý thức để giữ gìn vệ sinh sạch sẽ. Trường lớp
mầm non là nơi tập trung đông người, nếu cô giáo không giáo dục vệ sinh cho
trẻ hoặc giáo dục kém trẻ sẽ không có ý thức giữ gìn vệ sinh. Như vậy ảnh
hưởng rất lớn đến cuộc sống sinh hoạt của trẻ và có nguy cơ phát sinh, lây lan
các dịch bệnh làm ảnh hưởng tới sức khỏe của trẻ. Chính vì thế cô giáo cần có
những hiểu biết cơ bản để giáo dục vệ sinh cho trẻ, thông qua hoạt động chăm
sóc và giáo dục trẻ hàng ngày ở trường mầm non, cũng như phối hợp với phụ
huynh ở nhà.
2.2.3. Kết quả khảo sát thực trạng
Kết quả khảo sát thực trạng vào thời điểm tháng 9/2018 ở 16 trường mầm
non, 48 lớp mẫu giáo; 240 trẻ/48 lớp mẫu giáo và 48 giáo viên như sau:
* Môi trường giáo dục trong lớp: Khảo sát 48 lớp mẫu giáo/3 độ tuổi
Số lớp đạt
TT
Nội dung đánh giá
yêu cầu
1 Lớp có số lượng góc chơi phù hợp độ tuổi (4-5 góc/lớp).
48
2 Lớp có tên các góc phù hợp, phân chia không gian hợp
22
lý, màu sắc hài hòa, gọn mảng khối, vừa tầm trẻ. có nội
dung chơi rõ ràng, thiết kế theo hướng mở, linh hoạt,
sáng tạo.
3 Học liệu chơi phong phú, đa dạng, vệ sinh, an toàn.
30
4 Hệ thống giá, hộp học liệu sắp xếp khoa học, đẹp mắt,
22
thuận tiện cho sử dụng và phù hợp với từng góc chơi.
5 Đồ dùng, đồ chơi tự làm từ nguyên vật liệu sẵn có, sản
16
phẩm mang mầu sắc riêng của địa phương.
6 Có đủ đồ dùng, trang thiết bị cho trẻ sử dụng khi chơi.
35
7 Lớp có kho, có khu vệ sinh riêng, hiên trước, hiên sau
40
Tỉ lệ
(%)
100
45,8
62,5
45,8
33,3
72,9
83,3
6
đảm bảo yêu cầu
Số lớp được đánh giá chung đạt yêu
22
45,8
cầu:
* Môi trường giáo dục ngoài lớp: Khảo sát 16 trường mầm non
Số trường Tỉ lệ
TT
Nội dung đánh giá
đạt yêu cầu (%)
1 Trường có đủ diện tích sân chơi và các khu vực chơi theo
9
56,2
quy định
1.1 Có sân chơi cứng với ít nhất 5-6 loại đồ chơi ngoài trời
15
93,7
thường xuyên được tu sửa, an toàn cho trẻ hoạt động.
1.2 Có sân chơi mềm đa dạng các loại đồ chơi, thiết bị phát
3
18,7
triển vận động cho trẻ.
1.3 Có vườn cổ tích đảm bảo yêu cầu
9
56,2
1.4 Có vườn rau của bé đảm bảo yêu cầu
12
75,0
2 Trường có các khu vực chơi khác như: trải nghiệm kỹ
8
50,0
năng xã hội, trải nghiệm các giác quan, khu chơi cát
nước, trò chơi dân gian...
3 Mỗi khu vực có đủ thiết bị, đồ chơi phù hợp tính chất
8
50,0
hoạt động của trẻ.
4 Có sử dụng học liệu tự nhiên, sẵn có ở địa phương, an
10
62,5
toàn trong quá trình hoạt động.
Số trường được đánh giá chung đạt yêu cầu:
8
50,0
* Đối với trẻ: Khảo sát 240 trẻ mẫu giáo/48 lớp qua việc trò chuyện,
quan sát khi trẻ tham gia các hoạt động.
Số trẻ đạt Tỉ lệ
TT
Nội dung đánh giá
yêu cầu
(%)
1 Trẻ mạnh dạn, tự tin, thân thiện và tích cực trong giao
125
52,0
tiếp và trong các hoạt động tập thể.
2 Hiểu nội dung chơi, cách chơi; Có kỹ năng sử dụng đồ
120
50,0
dùng, đồ chơi theo chức năng.
3 Biết chơi theo nhóm, có kỹ năng giao tiếp phối hợp với
85
35,4
bạn chơi, thể hiện sự tôn trọng, hợp tác, chia sẻ …
4 Có tính kỷ luật trong khi chơi và biết tự đánh giá.
95
39,6
Số trẻ được đánh giá chung đạt yêu cầu:
85
35,4
* Năng lực của giáo viên khi hướng dẫn trẻ tham gia các hoạt động:
Khảo sát 48 giáo viên trực tiếp đứng lớp thông qua dự giờ, trao đổi phỏng
vấn và quan sát môi trường hoạt động trong lớp.
TT
Nội dung đánh giá
1 Giáo viên nắm vững nguyên tắc xây dựng môi trường
giáo dục lấy trẻ làm trung tâm.
2 Giáo viên coi trọng ngôn ngữ giao tiếp, thể hiện mối
quan hệ thân thiện đối với trẻ và những người khác luôn
mẫu mực để trẻ noi theo.
Số GV đạt
yêu cầu
48
Tỉ lệ
(%)
100
28
58,3
7
3
Giáo viên có ý thức trong việc tận dụng nguyên vật liệu
24
50,0
tự nhiên, sẵn có để tạo nên đồ dùng, đồ chơi và thường
xuyên thay đổi cách trang trí, sắp xếp góc chơi tạo hứng
thú cho trẻ.
4 Biết tạo những điều kiện, cơ hội, tận dụng hoàn cảnh,
24
50,0
tình huống thật cho trẻ hoạt động trải nghiệm, khám phá
trong môi trường an toàn.
5 Giáo viên có phương pháp, ý tưởng sáng tạo khi xây
12
25,0
dựng và tổ chức hoạt động phát huy tính tích cực của trẻ
Số giáo viên xếp loại chung đạt yêu
23
47,9
cầu:
Nhận xét: Qua khảo sát thực tế môi trường trong và ngoài lớp, chất lượng
trẻ và giáo viên ở các lớp, tôi nhận thấy:
* Về môi trường giáo dục trong lớp: 100% các lớp có đủ số lượng góc
chơi phù hợp độ tuổi. Tuy nhiên số lớp giáo viên biết đặt tên cho các góc, phân
chia không gian giữa các góc, bố trí màu sắc, mảng khối, vừa tầm trẻ chưa được
giáo viên chú trọng, quan tâm nhiều. Việc thiết kế góc chơi theo hướng mở, linh
hoạt, sáng tạo và hệ thống giá, hộp học liệu sắp xếp chưa khoa học, đồ dùng, đồ
chơi làm từ nguyên vật liệu sẵn có, sản phẩm mang mầu sắc riêng của địa
phương còn hạn chế.
-> Số lớp được đánh giá chung đạt yêu cầu là 22/48 lớp mới đạt 45,8%.
* Về môi trường giáo dục ngoài lớp học: Sân chơi mềm với các loại đồ
chơi, thiết bị phát triển vận động cho trẻ còn hạn chế. Các khu vực chơi khác
như: trải nghiệm kỹ năng xã hội, trải nghiệm các giác quan, khu chơi cát nước,
trò chơi dân gian… chưa được các trường đầu tư, quan tâm.
-> Số trường được đánh giá chung đạt yêu cầu là 8/16 trường mới đạt 50%.
* Đánh giá về kỹ năng của trẻ: Đa số trẻ hào hứng tham gia chơi, biết
cách chơi với đồ chơi. Song thao tác, kỹ năng chơi còn đơn giản, nghèo nàn. Sự
hợp tác chơi theo nhóm chưa bền vững, nhanh chán, nhanh thay đổi do kỹ năng
chơi chưa tốt. Tính kỷ luật còn hạn chế, khả năng tự đánh giá, khả năng diễn đạt
khi đánh giá chưa lưu loát...
-> Số trẻ được đánh giá chung đạt yêu cầu là 85/240 trẻ mới đạt 35,4%.
* Về nhận thức và năng lực của giáo viên: 100% giáo viên nắm vững
các nguyên tắc xây dựng môi trường giáo dục lấy trẻ làm trung tâm.
Tuy nhiên giáo viên chưa có ý thức trong việc tận dụng nguyên vật liệu tự
nhiên, sẵn có để tạo nên đồ dùng, đồ chơi tạo hứng thú cho trẻ. Số giáo viên có
phương pháp, ý tưởng sáng tạo khi xây dựng và tổ chức hoạt động giáo dục lấy
trẻ làm trung tâm còn rất hạn chế. Việc tạo những điều kiện, cơ hội, tận dụng
hoàn cảnh, tình huống thật cho trẻ hoạt động trải nghiệm, khám phá trong môi
trường an toàn chưa được chú ý nhiều. Vì vậy mà góc chơi chưa hấp dẫn trẻ, kỹ
năng chơi của trẻ chưa phong phú.
-> Số giáo viên xếp loại chung đạt yêu cầu là 23/48 người mới đạt 47,9%
2.2.4. Khảo sát chất lượng đầu năm học
Trước thuận lợi và khó khăn trên khi tiến hành áp dụng các biện pháp tôi
khảo sát chất lượng đầu năm học như sau.
8
Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm học (tháng 9/2018)
T
T
Lớp
GV chủ nhiệm
Số
trẻ
Nội dung đánh giá
Thói quen VS Thói quen Thói quen
thân thể (rửa vệ
sinh đi vệ sinh
mặt, rửa tay, trong
ăn đúng nơi
chân, đi giày uống
quy định,
dép,
đánh
giữ
gìn
răng, trải tóc,
VSMT
mặc quần áo)
Đ
CĐ
Đ
CĐ
Đ
CĐ
Qua khảo sát chất lượng đầu năm học tôi thấy kết quả chưa cao. Trẻ có
thói quen đi vệ sinh đúng nơi quy định, giữ gìn vệ sinh môi trường mới đạt
60.5% %; trẻ có thói quen vệ sinh trong ăn uống mới đạt 58%; đặc biệt thói quen
vệ sinh thân thể rất thấp mới đạt 54.5%. Từ thực trạng trên với vai trò và trách
nhiệm là người quản lý, chỉ đạo chuyên môn tôi suy nghĩ và tìm ra một số biện
pháp chỉ đạo, giáo dục thói quen vệ sinh cho trẻ nhằm nâng cao chất lượng chăm
sóc sức khỏe trẻ mẫu giáo ở trường mầm non trên địa bàn huyện Đông Sơn đạt
hiệu quả tốt hơn.
2.3. Biện pháp thực hiện.
2.3.1. Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch chỉ đạo
Việc xây dựng kế hoạch có tầm quan trọng đặc biệt, nó được ví như chiếc
chìa khóa mở để thực hiện có hiệu quả mục tiêu đã đề ra, là kim chỉ nam có tác
dụng chỉ đạo cho hoạt động thực hiện theo con đường đã định sẵn. Kế hoạch
cũng có thể được xem như ngọn đèn dẫn lối cho ta thực hiện công việc một cách
khoa học và đi đến thành công. Cho nên kế hoạch tôi xây dựng là những mục
tiêu được xác định, những nội dung cụ thể, những phương thức tốt nhất để tôi
lựa chọn. Việc xây dựng kế hoạch tạo điều kiện cho công tác kiểm tra, đánh giá
đạt hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên, xây dựng kế hoạch phải cụ thể, bám sát vào
mục tiêu đề ra và phù hợp với đối tượng trẻ, thì kế hoạch đó mới có thể thực
hiện và đạt mục tiêu theo kế hoạch. Tôi chỉ đạo các nhà trường xây dựng kế
hoạch lồng ghép giáo dục vệ sinh cho trẻ vào các chủ đề một cách đầy đủ, rõ
ràng, đối với giáo viên các lớp 5 tuổi xây dựng kế hoạch phù hợp với lớp mình
phụ trách.
Ví dụ: Nội dung giáo dục vệ sinh cho trẻ vào các chủ đề.
Chủ đề “Trường mầm non”
- Dạy trẻ nhận biết được các món ăn tại trường có lợi cho sức khỏe.
- Rèn cho trẻ thói quen vệ sinh cá nhân như: Lau mặt, chải răng, súc
miệng, rửa tay bằng xà phòng, rửa mặt, rửa chân, mặc quần áo, đi vệ sinh đúng
nơi quy định, giữ gìn vệ sinh môi trường.
- Dạy trẻ nhận biết được những hành động, đồ vật trong trường lớp có thể
gây hại cho sức khỏe, cho răng lợi như: Không dùng tăm nhọn xỉa răng, cầm bút,
cắn vật quá nóng, quá lạnh.
- Giáo dục trẻ không nghịch đất, cầm nắm chơi những vật bẩn, nguy hiểm.
Chủ đề: “Bản thân”
9
- Trẻ biết được một số thức ăn tốt cho sức khỏe và răng lợi, cần ăn uống
đầy đủ chất để cơ thể khỏe mạnh.
- Vệ sinh thân thể: Tập cho trẻ có thói quen vệ sinh tự phục vụ trong sinh
hoạt (rửa mặt sạch sẽ; chải răng sau khi ăn, trước khi đi ngủ; rửa tay trước khi
ăn, khi tay bẩn và sau khi đi vệ sinh; rửa chân trước khi đi ngủ, khi chân bẩn,
không đi chân đất; đầu tóc luôn sạch sẽ gọn gàng; ăn mặc quần áo phù hợp; mũi
dãi chảy biết lấy khăn lau không quệt ra áo, tay áo...)
- Vệ sinh ăn uống: Trẻ biết ho ngáp lấy tay che miệng, biết nhặt cơm rơi
vào đĩa riêng, không ngậm lâu thức ăn trong miệng, không nhai ngồm ngoàm,
nhai từ từ, nhai kỹ.
- Giáo dục trẻ nhận biết một số thói quen có hại cho sức khỏe và răng
miệng (mút tay, chống cằm, cắn vật cứng).
- Trẻ biết giữ gìn bảo vệ sức khỏe: Nhận biết một số biểu biện khi ốm.
Chủ đề “Gia đình”.
- Trẻ biết được các món ăn trong gia đình có lợi cho sức khỏe và răng
miệng; làm quen, nhận biết 4 nhóm thực phẩm.
- Trẻ biết giúp bố mẹ một số công việc vừa sức khi trong gia đình khi có
người ốm.
- Dạy trẻ ăn uống sạch sẽ, ăn thức ăn đã nấu chín, uống nước đã được đun
sôi, ăn chậm nhai kỹ, không làm rơi vãi thức ăn khi ăn.
- Luyện tập cho trẻ một số nề thói quen, hành vi văn minh trong ăn uống,
trẻ biết giúp mẹ chuẩn bị bàn ăn và sơ chế một số loại rau, quả.
Chủ đề “Nghề nghiệp”
- Giới thiệu cho trẻ một số nghề liên quan đến cung cấp thực phẩm, chăm
sóc bảo vệ sức khỏe (Bác sỹ, bác sỹ nha khoa, cô y tá; người sản xuất ca cốc,
khăn mặt, quần áo, giầy dép, xà phòng kem đánh răng, bàn chải đánh răng...)
- Dạy trẻ không khóc “dũng cảm” hợp tác với bác sỹ khi được khám chữa
bệnh, khám răng.
- Trẻ nhận biết nơi nguy hiểm ở các khu vực sản xuất, xây dựng; mối nguy
hiểm khi nghịch kim tiêm, kéo, dụng cụ y tế.
- Rèn luyện cho trẻ thói quen tốt trong ăn uống, tư thế ngồi khi ăn.
- Dạy trẻ tập chia thức ăn, rót nước uống.
- Dạy trẻ ăn uống sạch sẽ ở cửa hàng bán đồ ăn, có hành vi văn minh ăn
uống nơi công cộng.
Chủ đề “Thế giới động vật”
- Trẻ nhận biết được giá trị dinh dưỡng của một số món ăn, thực phẩm có
nguốn gốc từ động vật và lợi ích của chúng đối với sức khỏe.
- Trẻ biết giữ gìn vệ sinh an toàn thực phẩm.
- Trẻ biết và không ăn thức ăn ôi thiu và biết bảo quản thực phẩm.
- Trẻ nhận biết được nguy hiểm khi trêu, chọc hoặc chơi với chó, mèo.
Cẩn thận khi tiếp xúc với con vật.
- Trẻ biết gọi tên và phòng trách được một số bệnh lây nhiễm từ động vật.
Chủ đề “Thế giới thực vật – Tết và mùa xuân ”
- Trẻ nhận biết được giá trị dinh dưỡng của một số món ăn, thực phẩm có
nguồn gốc từ thực vật và lợi ích của chúng đối với sức khỏe.
10
- Trẻ có một số hiểu biết các món ăn ngày tết, giữ gìn vệ sinh an toàn thực
phẩm ngày tết.
- Trẻ biết khi ăn một số loại quả phải rửa sạch, gọt vỏ, bỏ hạt
- Trẻ biết giữ gìn sức khỏe trong ngày Tết và khi thay đổi thời tiết. Biết ăn
mặc phù hợp với thời tiết.
Chủ đề “Giao thông”
- Trẻ nhận biết được các phương tiện chuyên trở thực phẩm, xe cứu
thương.
- Dạy cho trẻ biết một số quy định an toàn cho bản thân khi tham gia giao
thông, giữ gìn sức khỏe khi đi trên các phương tiện giao thông.
- Trẻ biết ăn những thức ăn, nước uống có lợi cho sức khỏe khi đi tàu, xe
Chủ đề “Nước và các hiện tượng tự nhiên ”.
- Giáo dục trẻ biết được vai trò của nước đối với sức khỏe con người.
- Dạy trẻ biết lựa chọn, ăn mặc trang phục phù hợp với thời tiết và lợi ích
việc ăn mặc phù hợp đối với sức khỏe con người.
- Dạy trẻ biết bảo vệ bản thân khi gặp thời tiết mưa bão, sấm chớp.
Chủ đề “Quê hương, Đất nước, Bác Hồ- Trường Tiểu học”
- Dạy trẻ nhận biết một số loại quả, món ăn theo vùng miền, một số món
ăn của quê hương tốt cho sức khỏe.
- Trẻ biết giữ gìn vệ sinh trong ăn uống; vệ sinh môi trường và những
ngày lễ hội taị quê hương.
- Trẻ nhận biết được một số bệnh liên quan đến ăn uống không hợp vệ
sinh
- Trẻ biết sử dụng đồ dùng học tập an toàn, ăn uống đầy đủ chất để có sức
khỏe vào lớp 1.
- Trẻ biết cách ngồi đọc, viết đúng tư thế, đọc sách ở nơi đủ ánh sáng.
Như vậy việc xây dựng kế hoạch chỉ đạo cụ thể, chi tiết cùng với thực
hiện nghiêm túc của giáo viên nó đã mang lại kết quả tốt, trong việc giáo dục vệ
sinh cho trẻ.
Biện pháp 2: Coi trọng công tác bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ
CBQL, GV các nhà trường trên địa bàn huyện.
Trong công cuộc đổi mới Đảng ta đã nhận định:“Giáo viên là nhân tố
quyết định sự nghiệp giáo dục đào tạo và được xã hội tôn vinh” cho nên muốn
có chất lượng giáo dục tốt, trước hết phải bồi dưỡng đội ngũ CBQL, giáo viên có
chất lượng cao. Trong nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục, thì việc
bồi dưỡng chuyên môn là một hình thức hoạt động chuyên môn được tiến hành
thường xuyên, liên tục của các trường học. Nhằm không ngừng nâng cao năng
lực chuyên môn nghiệp vụ cho CBQL, giáo viên, đồng thời cũng chính là nâng
cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ. Việc bồi dưỡng chuyên môn cho CBQL,
giáo viên là yêu cầu cần thiết, là yếu tố cơ bản có ý nghĩa quyết định chất lượng
giáo dục. Nên CBQL, giáo viên phải là người nắm vững chuyên môn, giỏi
nghiệp vụ để thực hiện tốt công việc của mình. Chính vì vậy tôi đã tập trung chỉ
đạo bồi dưỡng chuyên môn cho CBQL, giáo viên với hình thức sau:
a/ Bồi dưỡng kiến thức giáo dục vệ sinh cho trẻ.
11
Để trẻ hiểu và có kỹ năng thực hiện các thao tác vệ sinh cá nhân tốt thì
trước tiên giáo viên phải có kiến thức. Vì giáo viên có kiến thức mới giáo dục,
rèn kỹ năng cho trẻ một cách có hiệu quả. Vào đầu năm học ngoài kế hoạch
chuyên môn được triển khai, tôi chú trọng nhấn mạnh nội dung trọng tâm giáo
dục vệ sinh, chăm sóc sức khỏe cho trẻ. Trước khi triển khai kế hoạch tôi nghiên
cứu xem nội dung nào cần triển khai kỹ, nội dung nào hướng dẫn cho giáo viên
nghiên cứu tài liệu, thời gian còn lại tôi hướng dẫn một số kỹ năng thực hành
thao tác vệ sinh.
Ví dụ 1: Giáo dục thói quen vệ sinh cá nhân bao gồm: Thói quen rửa mặt
buổi sáng sau khi ngủ dậy, buổi tối trước khi đi ngủ; rửa tay bằng xà phòng và
nước sạch trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh và khi tay bẩn; rửa chân khi chân bẩn
và trước khi đi ngủ; chải răng khi ngủ dậy và trước khi đi ngủ, sau khi ăn; chải
tóc; mặc quần áo sạch sẽ gọn gàng và thường xuyên tắm gội sạch sẽ.
Giáo dục trẻ khi ho ngáp, hắt hơi dùng khăn hoặc dùng tay che miệng,
không khạc nhổ bừa bãi, đi đại tiện, tiểu tiện phải vào nhà vệ sinh và đúng nơi
quy định. Giáo dục trẻ thói quen thường xuyên đi giày dép đúng chân, đội mũ
khi đi ra ngoài nắng.
Giáo dục trẻ cách rót nước vào ca cốc, thói quen uống nước đun sôi để
nguội, nước các loại rau quả. Hạn chế uống các loại nước ngọt có ga.
Ví dụ 2: Thói quen vệ sinh môi trường: Giáo dục cho trẻ về tác hại do ô
nhiễm môi trường gây ra cho con người như: Không khí và nước bị ô nhiễm, các
động vật trung gian truyền bệnh phát triển. Vệ sinh phòng nhóm lớp, đồ dùng,
đồ chơi; vệ sinh khuôn viên trong và ngoài nhà trường; giữ sạch nguồn nước và
xử lí rác, nước thải; vệ sinh trong học tập, lao động, luyện tập thể dục thể thao
phù hợp với lứa tuổi, giới tính để phòng tránh bệnh tật; phòng tránh tai nạn
thương tích thường gặp và nâng cao sức khỏe cho trẻ.
Bất cứ làm việc gì có rác, bụi ở bàn ghế, sàn nhà như cắt xé giấy, gọt bút
chì, chơi trò chơi… tôi đều giáo dục trẻ biết quét dọn đem bỏ vào thùng rác,
không vứt bừa bãi; biết dọn dẹp đồ dùng, cất đồ chơi cẩn thận vào nơi qui định
sau khi dùng hoặc chơi xong.
Giường chiếu, tủ đồ chơi, giá khăn mặt, giá để ca cốc phải luôn giữ gọn
gàng, ngăn nắp.
Ví dụ 3: Dinh dưỡng, vệ sinh ăn uống như: Cải tiến bữa ăn, dinh dưỡng
hợp lý. Đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm (không kén chọn thức ăn, ăn chín,
uống sôi, không ăn thức ăn ôi thiu..), biết phòng tránh ngộ độc thức ăn và các
bệnh do rối loạn dinh dưỡng.
Ví dụ 4: Chỉ đạo các trường thông qua buổi họp chuyên môn để đánh giá
những ưu điểm và hạn chế, đồng thời đưa vào tiêu chí thi đua hàng tháng, cuối
kỳ, cuối năm học. Đánh giá việc giáo viên rèn luyện, giáo dục kiến thức, kỹ năng
vệ sinh cá nhân cho trẻ, cách thực hiện như thế nào? Tốt hay chưa tốt? Thực hiện
có thường xuyên không? Trẻ đã có kỹ năng thói quen chưa?... Ngoài ra tôi gợi ý,
hướng dẫn cho giáo viên truy cập trên mạng Intenet một số tài liệu tham khảo để
nâng cao hiểu biết và có thêm kinh nghiệm dạy trẻ.
Nội dung bồi dưỡng tôi triển khai vào đầu năm học, hàng tuần, hàng
tháng, bồi dưỡng qua các buổi sinh hoạt chuyên môn cho giáo viên
12
b/ Bồi dưỡng hướng dẫn trẻ thực hành thao tác vệ sinh.
Không phải trẻ nào cũng có thói quen biết rửa tay khi bẩn, trước khi ăn và
sau khi đi vệ sinh, chải răng, rửa mặt đúng qui trình. Muốn tạo được thói quen
cho trẻ thì công việc này phải được hướng dẫn chính xác và duy trì thường
xuyên, chủ yếu là giữ gìn vệ thân thể sạch sẽ (đầu tóc, mặt mũi, chân tay, răng
miệng, quần áo…), vệ sinh đồ dùng cá nhân, vệ sinh trong ăn uống....
Ví dụ: Bồi dưỡng cho giáo viên các thao tác thực hành vệ sinh
Vệ sinh mặt mũi. Hướng dẫn trẻ tự lau mặt sạch sẽ trước và sau khi ăn, khi
mặt bẩn (mùa đông cần chuẩn bị khăn ấm cho trẻ lau).
Vệ sinh bàn tay. Hướng dẫn trẻ biết và rửa tay đúng trình, lau tay khô sạch
sẽ ( trẻ mới vào lớp, nên hướng dẫn trẻ tỉ mỉ từng thao tác rửa tay và tập cho trẻ
làm quen dần với việc tự phục vụ)
Vệ sinh răng miệng.Thường xuyên nhắc nhở trẻ uống nước và súc miệng
sau khi ăn. Kết hợp với gia đình dạy trẻ tập chải răng ở nhà. Tuyên truyền cho
phụ huynh không nên cho trẻ ăn quà vặt nhất là kẹo, bánh ngọt. Khám răng định
kì phát hiện sớm răng sâu và chữa trị kịp thời.
Hướng dẫn trẻ đi vệ sinh: Hướng dẫn trẻ đi vệ sinh đúng nơi quy định.
Dạy trẻ cách giữ vệ sinh cho bản thân, giữ gìn nhà vệ sinh sạch sẽ. Nhắc trẻ dội
nước, rửa tay sau khi đi vệ sinh.
Giữ gìn quần áo, giày dép sạch sẽ. Không để trẻ mặc quần áo ẩm, ướt.
Khi trẻ bị nôn hoặc đại, tiểu tiện ra quần áo hoặc khi mồ hôi ra nhiều, cần thay
ngay cho trẻ. Cởi bớt quần áo khi trời nóng hoặc mặc thêm áo khi trời lạnh.
Nhắc nhở phụ huynh chuẩn bị đủ tất, quần áo dự trữ để thay cho trẻ khi cần thiết.
Cho trẻ mặc quần áo bằng những loại vải mềm, thấm mồ hôi. Nên dùng loại
giày, dép vừa chân, mềm, mỏng, nhẹ, có quai sau và dễ cởi, tháo.
Để việc bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên có hiệu quả. Tôi xây dựng
quy chế hoạt động chuyên môn cụ thể, nhằm chấn chỉnh nề nếp, kỹ cương trong
nhà trường, đồng thời đưa vào quy chế chuyên môn và tiêu chí đánh giá thi đua
hàng tháng, cuối kì, cuối năm học.
Biện pháp 3: Giáo dục vệ sinh thông qua hoạt động học và lồng ghép
qua hoạt động khác.
a/ Giáo dục vệ sinh thông qua hoạt động học.
Tổ chức hoạt động học giáo dục vệ sinh chuyên biệt là cách thức, tác động
trực tiếp đến nhận thức và hành vi của trẻ. Nhằm trang bị cho trẻ những tri thức
chủ yếu về vệ sinh, giúp trẻ nắm được các thao tác thực hiện trong từng hành
động vệ sinh một cách chính xác, đúng đắn, làm cơ sở để trẻ thực hành luyện tập
trong sinh hoạt hàng ngày. Trong quá trình tổ chức tiết học vệ sinh chuyên biệt,
giáo viên chuẩn bị đầy đủ đồ dùng, có thể sử dụng các dụng cụ trực quan như
tranh ảnh hoặc các dụng cụ vệ sinh cá nhân (vật thật), giúp trẻ dễ dàng nắm được
cách thức, quy trình thực hiện.
Ví dụ 1: Thao tác rửa mặt {4}.
Trước khi tiến hành cô giáo tạo hứng thú cho trẻ bài thơ: “Bé tập rửa mặt”
hoặc bài hát mô phỏng động tác rửa mặt, sau đó trò chuyện giải thích với trẻ tại
sao phải giữ cho mặt sạch sẽ, khi nào phải rửa mặt (khi mặt bẩn, lúc ngủ dậy, khi
đi chơi về, sau bữa ăn...)
13
Hướng dẫn cách lấy nước từ vòi hoặc từ xô chậu (lấy nước nhẹ nhàng
không làm ướt quần áo không té nước ra nền nhà)
Hướng dẫn cách rửa mặt:
+ Bước 1: Xắn cao tay áo ( nếu tay áo dài)
+ Bước 2: Rửa tay sạch trước khi rửa mặt
+ Bước 3: Vò khăn trước khi vắt bớt nước. Nếu dùng chậu thì múc nước
vào chậu, vò khăn vắt bớt nước.
+ Bước 4: Giữ khăn, chải lên hai lòng bàn tay, lau 2 mắt trước, di chuyển
khăn lau sống mũi, di chuyển khăn cứ như vậy lau miệng, cằm, gấp đôi khăn lau
trán từng bên má.
+ Bước 5: Gấp đôi khăn lần nữa hoặc vò khăn lần hai, vắt bớt nước, lau
gáy, cổ lật mặt sau khăn ngoáy hai lỗ tai, vành tai, cuối cùng dùng 2 góc khăn
ngoáy hai lỗ mũi.
+ Bước 6: Vò khăn lần cuối vắt kiệt nước phơi khăn lên giá.
(Hình ảnh minh họa - Hình 1 – trang 23: Trẻ lớp mẫu giáo nhỡ thực hành thao
tác rửa mặt)
Ví dụ 2: Hướng dẫn trẻ rửa tay bằng xà phòng{4}.
Cô trò chuyện giúp trẻ hiểu vì sao phải rửa tay sạch sẽ? khi nào cần phải
rửa tay? Hướng dẫn cách lấy nước lấy nước từ vòi, hoặc từ trong xô chậu, thùng
bể.
Hướng dẫn thao tác vệ sinh đúng cách.
+ Bước 1: Làm ướt hai bàn tay, xoa xà phòng vào lòng bàn tay. Chà xát
hai lòng bàn tay vào nhau.
+ Bước 2: Dùng ngón tay và lòng bàn tay cuốn và xoay từng ngón tay của
bàn tay kia và ngược lại.
+ Bước 3: Dùng bàn tay này chà xát lên cổ tay, mu bàn tay kia và ngược
lại.
+ Bước 4: Dùng ngón tay của bàn tay này miết vào kẽ giữa các ngón tay
của bàn tay kia và ngược lại.
+ Bước 5. Chụm năm đầu ngón tay của bàn tay này cọ vào lòng bàn tay
kia, bằng cách xoay đi xoay lại và ngược lại.
+ Bước 6. Xả tay cho sạch hết xà phòng dưới nguồn nước sạch.
+ Bước 7. Sau đó lau tay bằng khăn khô.
Ví dụ3: Hướng dẫn trẻ chải răng, súc miệng{4}.
* Hướng dẫn chải răng.
Cô trao đổi trò chuyện với trẻ lợi ích của việc chải răng, khi nào cần chải
răng, tại sao phải chải răng đúng cách, giáo dục trẻ không dùng tăm xỉa răng.
Hướng dẫn trẻ biết các mặt của răng, sử dụng bàn chải riêng.
Hướng dẫn trẻ cách chải răng: Rửa sạch bàn chải dưới vòi nước, sau đó
lấy lượng kem đánh răng vừa đủ lên mặt bàn chải.
+ Chải mặt ngoài răng: Đặt bàn chải nghiêng 45 độ so với mặt ngoài của
răng, một phần bàn chải đặt lên nướu và kẻ răng luôn để lông bàn chải tiếp xúc
với răng. Chải nhẹ nhàng mặt ngoài với động tác rung và xoay tròn tại chỗ 6-10
lần cho từng đoạn (2-3 răng), sau đó nhích dần bàn chải qua phần răng kế tiếp,
tiếp tục chải hết mặt ngoài từ trái qua phải.
14
+ Chải mặt trong răng: Sau khi chải xong mặt ngoài thì chải đến mặt trong
của răng, giống như khi chải mặt ngoài của răng, đồng thời chải theo thứ tự để
không xót đoạn nào.
+ Chải mặt nhai răng: Đặt lông bàn chải thẳng góc với mặt nhai, hơi ép
nhẹ cho lông bàn chải chui vào rãnh trũng của răng, chải từng động tác lui từng
đoạn ngắn,. khi chải răng xong cần rửa sạch bàn chải, cầm bàn chải cắm vào cốc
theo chiều thẳng đứng, cán ở phía dưới để bàn chải khô ráo.
*Hướng dẫn trẻ súc miệng: Ngậm một ngum nước vừa phải, tốt nhất súc
miệng nước muối, ngậm 1-2 phút sau đó ngửa cổ để súc sạch cổ họng
(Hình ảnh minh họa - Hình 2 – trang 23. Cô giáo hướng dẫn trẻ cách chải răng)
Ví dụ 4: Hướng dẫn trẻ trải tóc {4}.
Đối với bé gái cầm lược bằng tay phải, chia tóc làm 2 phần, chải tóc cho
suôn, rẽ ngôi và chải xang hai bên hoặc chải hất từ dưới ra sau, từ trên xuống
dưới (nếu tóc dài chải dần từ ngọn đến gốc để tóc không bị rối và không làm đau
đầu trẻ)
Đối với trẻ trai: Cầm lược bằng tay phải chải tóc cho suôn, rẽ ngôi và trải
sang hai bên hoặc chải hất ra sau, từ trên xuống dưới.
Ví dụ 5: Hướng dẫn trẻ mặc quần áo{4}.
Đối với áo chui đầu: Cần xác định mặt trước của áo, xỏ từng tay áo, sau
đó chui từng tay áo, chui cổ áo qua đầu hoặc chui cổ áo qua đầu, chui từng tay
áo. Khi cởi áo cần kéo áo lên phía đầu, rồi lần lượt cởi từng bên tay áo sau đó
kéo áo qua đầu.
Đối với áo có cúc, mặc lần lượt từng ống tay một, kéo 2 vạt áo bằng nhau
và cài cúc, khuy, khóa, bẻ cổ áo, kéo áo phẳng phiu ngay ngắn. Khi cởi áo cởi
lần lượt hết hàng cúc, khuy, khóa sau đó cởi tay áo.
Mặc quần: Trẻ ngồi xuống ghế, giường để lấy thăng bằng lần lượt mặc
từng ống quần sau đó đứng dậy cài móc hoặc khóa, khuy.
Ví dụ 6: Hướng dẫn trẻ rửa chân đi giầy dép{4}.
+ Rửa chân: Hướng dẫn trẻ cách lấy nước rửa chân, lấy nước từ vòi hoặc
xô, chậu, thùng.
Hướng dẫn cách rửa chân: Trẻ có thể đứng, hoặc ngồi trên ghế thấp, xắn
cao ống quần (nếu quần dài). Mở vòi nước hoặc dùng gáo dội nước vào hai chân
từ cổ chân xuống làm ướt hai bàn chân. Dùng chân này cọ vào chân kia (tay vịn
bạn hoặc vật chắc để giữ thăng bằng) rửa cổ chân, mắt cá, mu bàn chân, ngón
chân, kẻ ngón chân. Dội nước sạch lau khô chân và đi dép.
+ Đi giày dép: Dạy trẻ phân biệt chân trái, chân phải. Đặt đôi giày dép
trước mặt hướng dẫn trẻ đi từng chân trái, phải cho đúng chân nào thì xỏ giày
dép đó. Hướng dẫn cách buộc dây giày bằng cách làm mẫu 2-3 lần, sau đó để trẻ
tự làm và cô giúp đỡ trẻ khi cần thiết.
Như vậy thông qua tiết học giáo dục vệ sinh, trẻ có những kiến thức kỹ
năng cần thiết về thao tác vệ sinh đúng cách, đúng quy trình từ đó trẻ áp dụng
vào hoạt động hàng ngày một cách hiệu quả hơn.
b/ Giáo dục vệ sinh thông qua các hoạt động khác.
Việc chăm sóc sức khỏe, giáo dục vệ sinh cho trẻ được tiến hành thông
qua các hoạt động giáo dục ở trường mầm non với nhiều hoạt động phong phú,
15
đa dạng trẻ được rèn luyện kỹ năng, kỹ xảo, thói quen và có cảm xúc tốt đối với
quá trình thực hiện các hoạt động dạy học như: Hoạt động văn học, âm nhạc
khám phá khoa học, thể dục.... trẻ sẽ lĩnh hội được các biểu tượng đúng về quá
trình vệ sinh, hiểu được ý nghĩa của nó.
Nội dung giáo dục thói quen vệ sinh cá nhân cho trẻ thông qua hoạt động
học cần phải đảm bảo được tính tự nhiên, hợp lý từng hoạt động. Nội dung giáo
dục phải là một bộ phận không tách rời hoạt động học tập, có tác dụng làm tăng
ý nghĩa thực tiễn của hoạt động học tập gắn với cuộc sống, các nội dung lồng
ghép không làm biến dạng nội dung học tập. Tránh hiện tượng khai thác hoạt
động học tập một cách máy móc, quá sơ sài, mang tính hình thức. Song lưu ý
tránh quá đơn giản, nhạt nhẽo làm trẻ chán hoặc quá cao so với nhận thức của
trẻ, nội dung đưa ra phải thiết thực, gần gũi với trẻ.
Ví dụ 1: Thông qua hoạt động Khám phá khoa học “Tìm hiểu về cơ thể
của bé” tôi hướng dẫn giáo viên nội dung lồng ghép: Để cơ thể chúng ta khỏe
mạnh, phát triển cân đối thì ngoài ăn uống đủ chất, các con phải làm gì? (cô để
trẻ tự nói lên ý hiểu của trẻ) sau đó cô nhấn mạnh cho trẻ hiểu: Cần phải giữ gìn
vệ sinh cho cơ thể luôn được sạch sẽ như: Rửa tay, rửa mặt, tắm rửa hàng ngày...
hay khi dạy trẻ “Tìm hiểu các giác quan” giáo viên lồng ghép: Để bảo vệ đôi
mắt các con phải làm gì? Tại sao phải làm như vậy? Làm thế nào để đôi tay, đôi
chân được sạch sẽ?
Ví dụ 2: Hoạt động Thơ với bài thơ “Cơ thể nói gì” (Sưu tầm) MG lớn
Đôi mắt để nhìn
Đừng nên vội vã
Đừng nghịch bẩn nhé!
Giữ đừng để bụi
Tóc xinh đừng xõa
Các bạn cười chê
Miệng xinh để nói,
Bé nhớ gọn gàng
Giữ sạch cơ thể
Lễ phép hỏi –Thưa
Tay bé để làm
Ngày ngày nhớ chăm!
Chân bước trên đường,
Giúp bà, giúp mẹ
Qua bài thơ trò chuyện với trẻ cơ thể các con gồm bộ phận nào? Đôi mắt
giúp chúng ta những gì? Nếu mắt bị đau thì điều gì sẽ xảy ra? Để cho đôi mắt
trong sáng, không bị đau, các con phải làm gì? Miệng để làm gì? Để miệng luôn
sạch sẽ thơm tho thì các con phải làm sao? Chân để làm gì? Để bảo vệ đôi chân
các con phải làm gì? Muốn có mái tóc gọn gàng, sạch sẽ các con phải làm thế
nào? Bàn tay mà nghịch bẩn điều gì xảy ra.
Ví dụ 3: Thông qua hoạt động Âm nhạc giáo viên dạy các bài hát để cung
cấp kiến thức vệ sinh cho trẻ như: Bài hát “Khám tay” giáo dục trẻ hàng ngày
các con phải làm gì để tay sạch sẽ? Nếu tay bẩn phải làm gì? Hay bài hát “ Rửa
mặt như mèo” giáo dục trẻ bài hát nói về chú mèo rửa mặt như thế nào? Vì sao
chú mèo bị đau mắt? (cô nhấn mạnh chú mèo rửa mặt không sạch, không lấy
khăn lau nên đã bị đau mắt rồi khóc). Nên hàng ngày các con không giống như
chú mèo, mà biết dùng khăn lau mặt sạch sẽ để giữ gìn vệ sinh cơ thể nhé.
Ví dụ 4: Thông qua hoạt động Tạo hình bài “ xé dán” giáo dục trẻ biết giữ
gìn vệ sinh, không vứt giấy vụn bừa bãi, thu gom giấy vụn vào thùng rác, rửa tay
sạch sẽ khi kết thúc hoạt động...
Như vậy việc lồng ghép giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ, thường liên hệ
thực tế gợi lại những điều trẻ đã biết, đưa ra tình huống cho trẻ giải quyết sẽ giúp
16
trẻ tiếp thu bài nhanh hơn, hiểu được cách bảo giữ gìn vệ sinh, bảo vệ cơ thể tốt
hơn.
Biện pháp 4. Giáo dục thói quen vệ sinh thông qua hoạt động vui chơi.
Vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo, vui chơi có vai trò quan
trọng đối với việc hình thành nhân cách trẻ nói chung, giáo dục vệ sinh bảo vệ
sức khỏe nói riêng. Bởi vì chơi là quá trình trẻ học cách làm người, được trải
nghiệm những cảm xúc, hành vi của con người qua các vai chơi khác nhau. Do
vậy những yếu tố đạo đức xuất hiện ngay trong bản thân trẻ một cách tích cực,
có tác dụng hình thành động cơ đúng cho trẻ, chứ không phải lời nói trìu tượng.
Nội dung giáo dục thói quen vệ sinh phụ thuộc vào chủ đề chơi, dựa vào chủ đề
chơi để hình thành thói quen vệ sinh cho trẻ.
Ví dụ 1: Trong giờ chơi hoạt động góc tôi gợi ý, hướng dẫn giáo viên cho
trẻ chơi các trò chơi:
Góc chơi phân vai: Nhóm chơi bế em trẻ chơi (rửa mặt, rửa tay, tắm cho
búp bê, cho búp bê ăn, chăm sóc búp bê bị ốm, bị đau mắt, vệ sinh quần áo, mũ
dép, giường chiếu cho búp bê).
Nhóm chơi bán hàng, nấu ăn: Trẻ biết được những đồ chơi dùng để chơi
không được bóc, cắn, ăn ...
Góc chơi xây dựng: Nhắc nhở trẻ không ngồi trệt, lê la dưới đất, khi chơi
tay bẩn không dụi lên mặt, mắt, mũi.
Góc tạo hình: Chơi nặn, vẽ, xé dán tay bẩn không dụi lên mặt mũi, chơi
xong biết thu dọn đồ dùng, đồ chơi gọn gàng, rác, giấy vụn biết thu rọn bỏ vào
thùng rác.
Góc khám phá khoa học: Chơi với cát, nước cô giáo hướng dẫn giáo dục
trẻ chơi sạch sẽ, không vầy nước, nghịch nước làm ướt quần áo.
Ví dụ 2: Thông quan hoạt động chơi ngoài trời khi cho trẻ lao động nhặt lá
rụng, rọn vệ sinh sân trường, quan sát chăm sóc cây, nhổ cỏ, tưới cây. Giáo dục
trẻ tay bẩn không dụi lên mắt, mặt mũi, chơi xong trẻ biết rửa tay sạch sẽ, không
chơi những nơi bẩn, nơi nguy hiểm, nơi nắng to, gió lạnh.
(Kết thúc hoạt động nhắc nhở trẻ xếp đồ chơi gọn gàng, rửa tay sạch sẽ)
Như vậy việc lồng ghép giáo dục vệ cá nhân cho trẻ qua hoạt động vui
chơi, giúp trẻ có cơ hội chuyển tri thức và kỹ năng đã biết để đạt được mục đích
chơi. Cùng với sự hổ trợ của cô giáo trẻ phát triển mối quan hệ trong trò chơi
bằng cách mở rộng nội dung chơi, vai chơi. Qua đó giúp trẻ kịp thời điều chỉnh
hành động đúng hướng. Từ đó giao nhiệm vụ cho trẻ luyện tập vệ sinh trong sinh
hoạt hàng ngày.
Biện pháp 5: Giáo dục thói quen vệ sinh cho trẻ thông qua mọi lúc, mọi
nơi.
Giáo dục thói quen vệ sinh, chăm sóc bảo vệ sức khỏe cho trẻ thông qua
hoạt động hàng ngày phụ thuộc vào nội dung sinh hoạt của trẻ. Muốn xác định
nội dung cụ thể cần dựa vào hoạt động sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Từ đó để lựa
chọn nội dung chăm sóc sức khỏe, giáo dục vệ sinh trẻ cho phù hợp . Các nội
dung giáo dục thói quen vệ sinh, kỹ năng thực hành tôi hướng dẫn chỉ đạo giáo
viên lồng ghép vào tất cả các hoạt động trong ngày.
17
Ví dụ 1: Trong giờ đón trẻ, khi trẻ đến lớp cô nhắc nhở trẻ để giày dép, đồ
dùng cá nhân ngay ngắn đúng nơi quy định, ăn mặc phù hợp với thời tiết, trời
lạnh quàng khăn, đi tất, mặc áo ấm, trời nóng mặc áo mỏng, ngắn tay, hay cô trò
chuyện với trẻ: Buổi sáng thức dậy các con làm những việc gì phục vụ cho bản
thân?
+ Vì sao phải làm như thế?
+ Các con chải răng như thế nào? Lau mặt ra sao?
+ Khi chải răng, lau mặt xong các con thấy thế nào?
Cô để trẻ tự nói lên suy nghĩ của trẻ và sau đó cô giáo nhấn mạnh nhắc
nhở trẻ làm đúng quy trình, đúng thao tác vệ sinh và vì sao phải chải răng, rửa
mặt. Qua đó nhấn mạnh cho trẻ biết về tầm quan trọng của việc chải răng, rửa
mặt, vệ sinh cá nhân và không quên dặn dò trẻ cách giữ gìn vệ sinh như: Chải
răng, rửa mặt, rửa tay sạch sẽ dưới vòi nước chảy, móng tay, chân luôn được cắt
ngắn. Để trẻ có ý thức phấn đấu cuối ngày tôi đưa nội dung giáo dục vệ sinh cá
nhân vào tiêu chuẩn bé ngoan hàng ngày.
(Hình ảnh minh họa - Hình 3 - trang 24: Trẻ lớp mẫu giáo lớn C sắp xếp
giày dép, cô giáo hướng dẫn cất đồ dùng cá nhân).
Ví dụ 2: Khi dạo chơi ngoài sân trường cô cho trẻ quan sát, phân biệt, so
sánh các loại rau, củ, quả, con vật và lợi ích của chúng đối với sức khỏe con
người. Cô giáo dục trẻ không đưa tay bẩn lên mắt, vứt rác ra sân trường, không
đựơc chơi với vật sắc nhọn, ngậm vật bẩn, cứng, hột hạt vào mồm, rửa tay sạch
sẽ trước khi vào lớp. Đồng thời hướng dẫn trẻ một số nguyên tắc chơi ngoài trời
an toàn, không chơi gần nơi nguy hiểm, đồ chơi được phép chơi và không được
phép chơi (đồ chơi nguy hiểm, sắc nhọn).
Quan sát trò chuyện những hình ảnh tuyên truyền vệ sinh ở góc trao đổi
phụ huynh các nhóm lớp, sau đó cho trẻ cùng làm mô phỏng các thao tác thực
hành cùng cô, như vậy giúp trẻ ghi nhớ lâu hơn.
(Hình ảnh minh họa - Hình 4 – trang 25: Trẻ lớp mẫu giáo nhỡ B vứt rác vào
thùng rác)
Ví dụ 3: Đối với giờ ăn cô giới thiệu cho trẻ biết thức ăn trong bữa ăn,
nhắc trẻ nhai kỹ, ăn uống từ tốn, không nhai ngồm ngoàm nuốt vội, không ngậm
lâu thức ăn trong miệng, biết nhặt cơm rơi vào đĩa riêng, khi ho ngáp, hắt hơi
biết lấy tay che miệng, ăn xong biết chải răng, súc miệng sạch sẽ...
Giờ ngủ cô nhắc nhở trẻ đi vệ sinh trước khi ngủ, tự lấy gối, tuyệt đối
không được ra ngoài khi không được phép.
Hướng dẫn trẻ rửa tay trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh, khi tay bẩn, không
vứt đồ chơi bừa bãi, chơi xong sắp xếp gọn gàng và đúng nơi quy định. Cuối
tuần cho trẻ tổng vệ sinh đồ chơi, đồ dùng.
(Hình ảnh minh họa - Hình 5 – trang 25: Cô giáo hướng dẫn trẻ lớp MG Nhỡ
rửa tay trước khi ăn)
(Hình ảnh minh họa - Hình 6 - trang 26: Giờ ăn trưa lớp mẫu giáo Bé)
(Hình ảnh minh họa- Hình 7 - trang 26: Trẻ MG Nhỡ chải răng sau khi ăn)
Ví dụ 4: Hoạt động chiều sau khi ngủ dậy cô cho trẻ đi vệ sinh, rửa tay,
rửa mặt sạch sẽ, ngậm nước muối cho sạch miệng, giúp cô thu dọn chăn, chiếu,
gối rồi vận động nhẹ nhàng chuẩn bị ăn chiều. Thời gian hoạt động chiều ngoài
18
việc ôn luyện kiến thức cũ, cô hướng dẫn cho trẻ ôn lại kỹ năng thực hành thao
tác vệ sinh. Sau đó cho trẻ chuẩn bị đồ dùng cá nhân, sửa sang quần áo, giày dép
chuẩn bị ra về.
Giờ trả trẻ cô phối hợp với phụ huynh, lồng ghép giáo dục vệ sinh cá nhân
cho trẻ và cách phòng tránh một số bệnh thường gặp do vấn đề vệ sinh gây ra.
( Hình ảnh minh họa - Hình 8 – trang 27: Trẻ lớp Lớn C chải đầu, đi giày dép )
( Hình ảnh minh họa - Hình 9 – trang 28: Trẻ lớp Lớn A mặc áo, cài cúc áo)
Có thể nói, thông qua các hoạt động lồng ghép giáo dục vệ sinh, chăm sóc
sức khỏe cho trẻ mọi lúc, mọi nơi giúp trẻ được luyện tập, ghi nhớ các kỹ năng,
thao tác vệ sinh mà cô giáo hướng dẫn. Từ đó trẻ thực hiện đúng quy trình, đúng
thao tác,giúp cho trẻ có kỹ năng thói quen vệ sinh tốt trong sinh hoạt hàng ngày.
Biện pháp 6: Chỉ đạo các nhà trường làm tốt công tác phối hợp với phụ
huynh.
Phối kết hợp giữa nhà trường và gia đình có vai trò tác động vô cùng quan
trọng, gia đình là trọng tâm của hoạt động kết hợp. Gia đình là nơi trẻ được sinh
ra, lớn lên và hình thành nhân cách của mình. Ảnh hưởng giáo dục của gia đình
đến với trẻ là sớm nhất. Ý nghĩa của việc phối hợp giáo dục đã được Bác Hồ chỉ
ra từ lâu: “Giáo dục trong nhà trường chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục
ngoài xã hội và trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được
tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt đến mấy, nhưng thiếu giáo dục trong
gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn” (Trích bài nói của
Bác Hồ tại Hội nghị cán bộ Đảng trong ngành giáo dục tháng 6/ 1957){6}. Chính
vì vậy tôi chỉ đạo giáo viên phối hợp chặt chẽ với phụ huynh, nội dung phối hợp
ngoài việc phụ huynh quan tâm đến chế độ ăn uống, sinh hoạt, học tập, dạy trẻ
cách giao tiếp ứng xử đúng đắn, giáo dục lòng thương yêu đối với con người và
sự vật và xung quanh. Tôi nhấn mạnh nội dung phối hợp nề nếp thói quen vệ
sinh, chăm sóc sức khỏe cho trẻ ở gia đình, trao đổi tuyên truyền cho phụ huynh
biết và hiểu được kiến thức cũng như các thao tác, kỹ năng chăm sóc giáo dục vệ
sinh cho trẻ, để phụ huynh rèn luyện nhắc nhở giáo dục trẻ ở nhà nhằm giúp trẻ
có thói quen vệ sinh tốt.
Tuyên truyền cho phụ huynh biết muốn giáo dục trẻ thì người lớn phải là
tấm gương sáng cho trẻ noi theo. Sự gương mẫu của người lớn ảnh hưởng rất lớn
đối với trẻ. Đặc điểm của trẻ là hay bắt chước những hành động, lời nói của
người lớn. Vì vậy muốn giáo dục trẻ làm một việc gì, thì người lớn phải làm việc
đó.
Ví dụ 1: Tuyền truyền với phụ huynh qua giờ đón. trả trẻ, nhắc nhở trẻ đến
lớp chào cô giáo, chào bạn, tạm biệt bố mẹ, hướng dẫn nhắc nhở trẻ cất đồ dùng
cá nhân đúng nơi quy định, xắp xếp giày dép gọn gàng, ăn mặc đủ ấm khi trời
lạnh, trời nóng trẻ tự cởi bớt quần áo, khi về trẻ biết tự chuẩn bị quần áo, đầu tóc
sạch sẽ gọn gàng, tự lấy đồ dùng cá nhân, xin phép cô giáo, chào bố mẹ, tạm biệt
bạn ra về.
Ví dụ 2: Tuyên truyền thông qua cuộc họp phụ huynh, tôi chỉ đạo cho giáo
viên dành thời gian tuyên truyền kiến thức, cách chăm sóc vệ sinh cho trẻ ở gia
đình cũng như mọi lúc, mọi nơi.
19
Ví dụ 3: Tuyên truyền qua góc trao đổi với phụ huynh của các nhóm lớp,
ngoài những nội dung tuyền truyền chăm sóc giáo dục trẻ, thì nội dung tuyên
truyền giáo dục thói quen vệ sinh, chăm sóc sức khỏe cho trẻ bằng những hình
ảnh, nội dung tuyên truyền phong phú, đa dạng như: Hình ảnh về quy trình rửa
tay, rửa mặt, chải răng, chải đầu, gấp quần áo, xắp xếp giày dép. Một số bài hát,
bài thơ, câu chuyện giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ. Các nội dung tuyên truyền
thường xuyên được thay đổi để làm mới hình thức tuyên truyền.
Ví dụ 4: Tuyên truyền qua đài truyền thanh của trường phát vào các buổi
sáng và chiều trong giờ đón, trả trẻ. Nội dung giáo dục vệ sinh, chăm sóc sức
khỏe cho trẻ, cách phòng trách một số các bệnh thường gặp do vấn đề vệ sinh
gây ra. Nội dung tuyên truyền rất thực tế với sinh hoạt cuộc sống hàng ngày nên
được phụ huynh quan tâm và chú ý lắng nghe.
Việc phối hợp giữa gia đình, nhà trường nhằm đảm bảo sự thống nhất trong
nhận thức cũng như các hoạt động giáo dục của nhà trường và gia đình cùng một
hướng, một mục đích, tạo sức mạnh kích thích, thúc đẩy quá trình phát triển
nhân cách của trẻ đạt kết quả tốt hơn.
Biện pháp 7. Tăng cường công tác kiểm tra đánh giá.
Việc kiểm tra - đánh giá kết quả mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Một người quản lý tốt ngoài việc lên kế hoạch chỉ đạo cho giáo viên, thì công tác
kiểm tra là rất quanh trọng: Bởi có kiểm tra mới nắm bắt được giáo viên thực
hiện như thế nào? tốt hay chưa tốt? để biểu dương những việc làm tốt, điều chỉnh
bổ xung những việc làm chưa tốt kịp thời. Nội dung kiểm tra với nhiều hình
thức.
Kiểm tra thường xuyên: Hàng ngày tôi kiểm tra, giám sát việc giáo viên
thực hiện giáo dục, rèn luyện vệ sinh cho trẻ có thường xuyên không, kiểm tra vệ
sinh trước, trong và sau khi ăn của trẻ như thế nào. Sắp xếp đồ dùng cá nhân của
trẻ có gọn gàng không? Nhà vệ sinh có khô ráo sạch sẽ không? Từ đó biết được
giáo viên nào thực hiện tốt, giáo viên nào thực hiện chưa tốt để tôi góp ý, chấn
chỉnh ngay.
Ví dụ 1: Trước khi ăn trẻ rửa tay không? Việc sắp bàn ăn, xếp chỗ ngồi
cho trẻ có thoáng không? Có thuận tiện cho cô chăm sóc bữa ăn cho trẻ chưa?
Trên bàn ăn của trẻ có đầy đủ khăn, đĩa đựng khăn lau tay, đựng thức ăn rơi
chưa? Trong quá trình ăn trẻ có nhặt thức ăn rơi để ăn không? trẻ có bốc thức ăn
trong bát mình hay bát của bạn không?...
Chuẩn bị khăn lau miệng cho trẻ ăn xong được gấp vắt trên giá khăn ra
sao để cho trẻ nhận được ký hiệu của mình. Trẻ có súc miệng sau khi ăn
không?...
Dụng cụ cho trẻ ăn uống: Bát, thìa, cốc luôn được rửa sạch, tráng nước sôi
để ráo trước khi sử dụng và cuối ngày úp cất vào tủ đóng cửa để trách chuột, côn
trùng bò vào.
- Kiểm tra đột xuất. Ngoài việc kiểm tra thường xuyên hàng ngày, tôi
kiểm tra đột xuất các nhóm lớp có thực hiện theo kế hoạch đề ra không. Kiểm tra
bất kỳ ngày nào trong tuần hoặc trong tháng và bất kỳ thời điểm nào trong ngày,
việc thực hiện của giáo viên ở các nhóm lớp.
- Quan sát đánh giá:
20
Ngoài việc kiểm tra trực tiếp, tôi quan sát giáo viên và trẻ xem việc thực
hiện của giáo viên, trẻ đạt được mức độ nào để có biện pháp chỉ đạo phù hợp.
Ví dụ 2: Theo dõi giáo viên có giặt khăn cho trẻ thường xuyên không? có
chuẩn bị đầy đủ đồ dùng cho trẻ trước khi ăn không? Trẻ rửa tay cô giáo có
hướng dẫn, nhắc nhở các thao tác rửa tay cho những trẻ chưa?
Qua quan sát tôi có thể biết được phương pháp giáo dục, rèn luyện của
giáo viên, nhận thức của trẻ để tôi có biện pháp điều chỉnh kịp thời giúp giáo
viên thực hiện nghiêm túc và thường xuyên hơn.
- Khảo sát trên trẻ: Qua việc kiểm tra giáo viên, việc khảo sát trên trẻ, tôi
nhận biết được giáo viên đã rèn luyện, giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ có
thường xuyên không, tốt hay chưa tốt.
Ví dụ 3: Khảo sát trẻ vệ sinh trước- trong – sau khi ăn trẻ thực hiện những
gì, nếu đa số trẻ thực hiện và trả lời được (lớp lớn), như vậy là giáo viên đã giáo
dục trẻ và trẻ cũng được thực hiện thường xuyên. Ngược lại nếu nhiều trẻ chưa
biết hoặc thực hiện chưa đúng, như vậy giáo viên nhóm lớp đó chưa thực hiện
thường xuyên…
Căn cứ vào kết quả kiểm tra, tôi xếp loại giáo viên, nhóm lớp hàng tháng,
cuối kỳ tôi tổng hợp đánh giá xếp loại và đưa vào tiêu chí xếp loại thi đua năm
học và đánh giá chuẩn nghề nghiệp giáo viên.
2.4. Kết quả đạt được:
Sau khi áp dụng các biện pháp trên trong năm học 2018 - 2019 bản thân
tôi thu được kết quả như sau:
+ Đới với trẻ: Trẻ có ý thức, thực hiện tốt thói quen vệ sinh cá nhân cụ thể
kết quả khảo sát cuối năm học như sau:
Kết quả khảo sát cuối năm học (tháng 3 năm 2018)
T Lớp
T
GV chủ nhiệm
Số
trẻ
Nội dung đánh giá
Thói quen VS Dinh
thân thể (rửa dưỡng vệ
mặt, rửa tay, sinh
ăn
chân đi giày dép, uống
chải răng, chải
tóc, mặc quần áo
Đ
CĐ
Đ CĐ
Thói quen
đi
VS
đúng nơi
quy định,
giữ
gìn
VSMT
Đ CĐ
Qua khảo sát cho thấy kết quả trẻ đạt yêu cầu được nâng lên rõ rệt. Trẻ hiểu
biết về dinh dưỡng, vệ sinh trong ăn uống đạt 100% tăng 42% so với đầu năm
học; trẻ có thói quen đi VS đúng nơi quy định, giữ gìn VSM đạt 99.2% tăng
38.7% so với đầu năm học; trẻ có thói quen VS thân thể (rửa mặt, rửa tay, chân
đi giày dép, chải răng, chải tóc, mặc quần áo đạt 96.4% tăng 49.1% so với đầu
năm học.
Số trẻ khám sức khỏe định kỳ mắc các bệnh về mắt, răng miệng giảm so
với đầu năm học.
+ Đối với giáo viên: Giáo viên nắm vững kiến thức, kỹ năng thao tác vệ
sinh cho trẻ đúng cách, đúng quy trình.
100% Giáo viên có ý thức rèn luyện, giáo dục nề nếp, thói quen vệ sinh,
chăm sóc sức khỏe cho trẻ đạt hiệu quả.
21
+ Đối với nhà trường: Kết quả rèn luyện nề nếp thói quen vệ sinh, chăm
sóc sức khỏe trẻ được nâng lên, tạo được uy tín với phụ huynh và nhân dân địa
phương. Đặc biệt trong năm học 2017 – 2018 nhà trường thực hiện tốt công tác
vệ sinh trường học, không để xảy ra dịch bệnh gì liên quan đến vấn đề vệ sinh.
+ Đối với phụ huynh: 100% phụ huynh được tuyên truyền về kiến thức
chăm sóc, giáo dục vệ sinh cá nhân cho trẻ.
Đa số phụ huynh có ý thức phối hợp tốt với cô giáo và nhà trường, trong
việc giáo dục rèn luyện vệ sinh cá nhân cho trẻ.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Qua áp dụng các biện pháp và thu được kết quả trên ở các trường mầm
non bản thân tôi rút ra kết luận như sau:
Người cán bộ quản lý không ngừng học tập, nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ. Đổi mới công tác quản lý, năng động, sáng tạo tìm ra những
phương pháp mới, có hiệu quả trong chỉ đạo chuyên môn nói chung, giáo dục vệ
sinh cho trẻ nói riêng. Nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cho trẻ
trong trường mầm non.
Người cán bộ quản lý chỉ đạo chuyên môn, phải biết xây dựng kế hoạch
một cách cụ thể và khoa học, chỉ đạo giáo viên thực hiện nghiêm túc kế hoạch.
Luôn coi trọng công tác bồi dưỡng chuyên môn cho đội ngũ giáo viên,
không ngừng tu dưỡng rèn luyện bản thân theo tinh thần “Mỗi thầy, cô giáo là
một tấm gương sáng tự học và tự sáng tạo”, nắm bắt kịp thời các thông tin đổi
mới về phương pháp chăm sóc sức khỏe cho trẻ trong trường mầm non để có
biện pháp giáo dục kịp thời.
Chỉ đạo giáo viên thực hiện nghiêm túc công tác chăm sóc giáo dục vệ
sinh cá nhân cho trẻ.
Thường xuyên kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện giáo dục thói quen vệ
sinh cho trẻ một cách nghiêm túc và công bằng.
Trên đây là Sáng kiến kinh nghiệm “Kinh nghiệm tổ chức các hoạt động
giáo dục kỹ năng vệ sinh cá nhân cho trẻ 5-6 tuổi ở trường mầm non trên địa
bàn huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa” được tích luỹ từ bản thân tôi, nên
không sao tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Vậy kính mong sự góp ý chân
thành của hội đồng khoa học các cấp, bạn đồng nghiệp để bản thân có thêm
nhiều kinh nghiệm trong công tác chỉ đạo chuyên môn tốt hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Đông Sơn, ngày 15 tháng 3 năm 2019
(Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép
nội dung của người khác)
NGƯỜI VIẾT
22
Lê Thị Tình
ĐÁNH GIÁ, XẾP LOẠI CỦA HĐKH CẤP HUYỆN
SKKN XẾP LOẠI: ……
CHỦ TỊCH HĐKH
TRƯỞNG PHÒNG GD&ĐT
Chu Quang Phúc
23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
{1} Bộ Giáo dục và Đào tạo, Chỉ thị số 2699 /CT-BGDĐT về nhiệm vụ
chủ yếu năm học 2017-2018 của ngành giáo dục.
{2} NXB Đại học Sư phạm Hà Nội, Giáo trình vệ sinh trẻ em.
{3} Nhà xuất bản Hà Nội, Sổ tay thực hiện dự án phát triển giáo dục trẻ
thơ.
{4} Nhà xuất bản giáo dục việt nam, Hướng dẫn thực hiện công tác vệ
sinh nước sạch và giáo dục vệ sinh cho trẻ.
{5} Nhà xuất bản giáo dục việt nam, Các hoạt động giáo dục dinh dưỡng
- sức khỏe cho trẻ mầm non.
{6} Bài nói của Bác Hồ tại Hội nghị cán bộ Đảng trong ngành giáo dục
tháng 6/1957.
{7}. Xem và tham khảo trên mạng Intenet các kỹ năng thói quen vệ sinh
cho trẻ.
24
DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả:
Lê Thị Tình
Chức vụ và đơn vị công tác: Chuyên viên, Phòng GD&ĐT huyện Đông Sơn.
TT
Tên đề tài SKKN
1.
Kỹ năng dạy tốt môn kể
chuyện cho trẻ 5-6 tuổi, trường
MN Đông Tân, Đông Sơn.
Kinh nghiệm dạy nặn cho trẻ
mẫu giáo 3-4 tuổi đạt kết quả
tốt, trường MN Đông Tân,
huyện Đông Sơn.
Kinh nghiệm dạy đọc cho trẻ
mẫu giáo 4-5 tuổi đạt kết quả
tốt, trường MN Đông Tân,
huyện Đông Sơn.
Kinh nghiệm hướng dẫn trẻ
mẫu giáo 5-6 tuổi chơi xây
dựng, trường MN Đông Tân,
huyện Đông Sơn.
Kinh nghiệm dạy trẻ 5-6 tuổi
học tốt văn học và chữ viết,
trường MN Đông Tân, huyện
Đông Sơn. .
Một số biện pháp hướng dẫn
trẻ mẫu giáo lớn chơi trò chơi
xây dựng, trường MN Đông
Tân, huyện Đông Sơn.
Kinh nghiệm đổi mới tổ chức
hoạt động góc cho trẻ mẫu
giáo 5-6 tuổi, trường MN
Đông Tân, huyện Đông Sơn.
Một số biện pháp chỉ đạo nâng
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
Cấp đánh giá
xếp loại
(Phòng, Sở,
Tỉnh...)
Kết quả
đánh giá xếp
loại (A, B,
hoặc C)
Năm học
đánh giá
xếp loại
Sở GD&ĐT
B
2000-2001
Sở GD&ĐT
B
2001-2002
Sở GD&ĐT
C
2003-2004
Sở GD&ĐT
C
2004-2005
Sở GD&ĐT
C
2006-2007
Sở GD&ĐT
B
2008-2009
Phòng
GD&ĐT
B
2009-2010
25