Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Một số biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục phát triển tình cảm và kỹ năng xã hội cho trẻ 4 5 tuổi tại trường mầm non hoằng thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.88 KB, 18 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HOẰNG HÓA

TRƯỜNG MẦM NON HOẰNG THÀNH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC
PHÁT TRIỂN TÌNH CẢM VÀ KĨ NĂNG XÃ HỘI
CHO TRẺ 4 - 5 TUỔI TẠI TRƯỜNG MẦM NON
HOẰNG THÀNH

Người thực hiện: Lương Thị Lài
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường mầm non Hoằng Thành
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn

HOẰNG HÓA NĂM 2019


MỤC LỤC
TT

NỘI DUNG

1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1


2.2
2.2.1
2.2.2
2.3

Mở đầu
Lí do chọn đề tài.
Mục đích nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu.
Nội dung
Cơ sở lý luận.
Thực trạng của vấn đề.
Thuận lợi.
Khó khăn.
Biện pháp.
Giáo viên nhận thức được ý nghĩa của việc giáo dục phát triển
tình cảm và kĩ năng xã hội cho trẻ 4 - 5 tuổi.
Lồng ghép giáo dục phát triển tình cảm và kĩ năng xã hội
trong các hoạt động học.
Lồng ghép giáo dục phát triển tình cảm và kĩ năng xã hội
thông qua các hoạt động khác và mọi lúc, mọi nơi.
Tuyên truyền tới cha mẹ trẻ nội dung giáo dục tình cảm, kĩ
năng xã hội cho trẻ và phối hợp với cha mẹ trẻ để hình thành,
rèn và giáo dục tình cảm, kĩ năng xã hội cho trẻ.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục phát triển tình
cảm và kĩ năng xã hội cho trẻ.

2.3.1
2.3.2

2.3.3
2.3.4
2.3.5

Trang
3
3
3
3
4
4
4
5
5
6
7
7
8
9
14
15

2.4

Hiệu quả.

16

3
3.1

3.2

Kết luận và kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị

17
17
18

2


1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
Phát triển tình cảm, kĩ năng xã hội là tiền đề quan trọng cho việc học và
phát triển toàn diện của trẻ. Các năng lực tình cảm và xã hội có mối quan hệ chặt
chẽ với kết quả học tập và phát triển của trẻ. Đó là nền tảng vững chắc cho sự
phát triển nhận thức ở trẻ em cũng như khả năng tham gia hiệu quả vào các công
việc nhóm hay trách nhiệm của trẻ với tập thể, xã hôi. Khi trẻ có ý thức rõ ràng
và tích cực về bản thân mình, trẻ tự chủ và tự tin hơn thì sẽ biết quan tâm đến
người khác trong giao tiếp, biết thông cảm và tôn trọng. Nếu trẻ không đạt được
sự phát triển tình cảm và kĩ năng xã hội tối thiểu vào khoảng 6 tuổi thì trẻ có thể
gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống sau này.
Kết quả khảo sát về sự sẵn sáng đi học của trẻ 5 tuổi (EDI) cho thấy có
hơn một nửa số trẻ bị thiếu hụt hoặc có nguy cơ bị thiếu hụt một lĩnh vực phát
triển, trong đó kĩ năng cảm xúc - xã hội của trẻ đạt thấp, tỷ lệ % trẻ bị thiếu hụt
và nguy cơ bị thiếu hụt còn cao.
Trong thực tế chương trình giáo dục mầm non chưa có những hoạt động
giáo dục tình cảm và kỹ năng xã hội riêng biệt cho trẻ mà chỉ lồng ghép giáo dục

tích hợp qua các hoạt động trong ngày, song đa số giáo viên chưa biết cách tận
dụng các cơ hội trong ngày để lồng ghép giáo dục tình cảm và kỹ năng xã hội
cho trẻ, chưa biết chọn nội dung giáo dục phù hợp với độ tuổi của trẻ. Bên cạnh
đó trong xã hội hiện nay các gia đình thường chú trọng đến việc học kiến thức
của trẻ mà không chú ý đến việc phát triển tình cảm và kỹ năng xã hội cho trẻ,
luôn bao bọc, nuông chiều, làm hộ trẻ khiến trẻ ỷ lại, nhút nhát, thiếu tự tin
không có khả năng chờ đến lượt, không biết chú ý lắng nghe và làm việc theo
nhóm, các kỹ năng trong cuộc sống rất hạn chế.
Mặt khác, tình trạng trẻ em vô tư, thờ ơ, lạnh cảm, chưa có cách xử lý phù
hợp với những tình huống diễn ra hằng ngày như: thưa, gởi, cảm ơn, xin lỗi,
thăm hỏi, giúp đỡ,…hay những hành vi gây hại với môi trường: vứt rác bùa bãi,
hái hoa, bẻ cành, không thích chăm sóc cây cối, con vật xung quanh…
Là giáo viên mầm non trải qua nhiều năm công tác, đã chủ nhiệm nhiều
nhóm lớp và độ tuổi trẻ khác nhau tôi nhận thấy việc giáo dục tình cảm và kĩ
năng xã hội cho trẻ là rất cần thiết và quan trọng, đặc biệt trong thời kỳ cuộc
cách mạng 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn thế giới. Vì vậy, tôi đã chọn đề
tài: “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục phát triển tình cảm và kĩ
năng xã hội cho trẻ 4 - 5 tuổi” để nghiên cứu nhằm đưa ra một số kinh nhiệm
của bản thân mình góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục phát triển tình cảm và
kĩ năng xã hội cho trẻ mầm non nói chung và trẻ 4 - 5 tuổi nói riêng.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn đề xuất một số biện pháp nâng
cao hiệu quả giáo dục phát triển tình cảm và kĩ năng xã hội cho trẻ 4 - 5 tuổi.
Nhằm góp phần vào việc hình thành những tình cảm tích cực và rèn luyện các
kỹ năng xã hội cho trẻ, nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non.
.3. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục phát triển tình cảm và kĩ
năng xã hội cho trẻ 4 - 5 tuổi.
3



1.4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện sáng kiến kinh nghiệm, tôi đã sử dụng các
nhóm phương pháp đó là:
Phương pháp nghiên cứu lí luận: Qua nghiên cứu sách vở, chuyên đề, tài liệu
có liên quan đến giáo dục phát triển tình cảm và kĩ năng xã hội cho trẻ 4 - 5 tuổi.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Quan sát các hoạt động trong ngày
của trẻ 4 - 5 tuổi ở lớp mình và qua các giờ dự hoạt động của đồng nghiệp.
Phương pháp điều tra, thu thập thông tin: Tôi thực hiện cuộc phỏng vấn
với giáo viên, cha mẹ trẻ, đồng thời hỏi trẻ một số câu hỏi liên quan đến giáo
dục phát triển tình cảm và kĩ năng xã hội của trẻ.
Phương pháp thống kê, toán học: Từ những thông tin và số liệu thu thập
được, tôi thống kê, chọn lọc những thông tin, phân loại rồi tính toán đưa ra
những kết quả xác thực nhất phục vụ cho việc nghiên cứu.
Phương pháp nêu gương, khích lệ, tổng kết kinh nghiệm…
2. Nội dung
2.1. Cơ sở lí luận
2.1.1. Khái niệm về phát triển tình cảm và kĩ năng xã hội đối với trẻ
Phát triển tình cảm
Tình cảm là những thái độ thể hiện sự rung cảm của con người đối với sự
vật hiện tượng có liên quan tới nhu cầu, động cơ của họ gắn với một đối tượng
cụ thể.
Phát triển tình cảm ở trẻ em là phát triển năng lực:
- Nhận biết và hiểu cảm xúc của bản thân: Cảm xúc có sức mạnh rất lớn
trong cuộc sống con người.
- Thể hiện và kiểm soát cảm xúc của chính mình: Phát triển tình cảm là
việc trẻ có được hiểu biết không ngừng về cảm xúc, khả năng thể hiện và kiểm
soát cảm xúc của trẻ.
- Hiểu và đáp lại cảm xúc của người khác: Sự thể hiện cảm xúc của trẻ em
như khóc, cười ảnh hưởng đến hành vi của người khác với trẻ, và ngược lại, sự

biểu hiện cảm xúc của mọi người giúp điều tiết hành vi xã hội của trẻ.
- Trẻ mầm non đang hình thành và phát triển nhân cách: trẻ tiếp thu và
học hỏi từ xung quanh tạo nên sự phát triển và hoàn thiện cá nhân. Giáo dục trẻ
bắt đầu từ việc đơn giản, gần gũi, nhận biết những biểu hiện của cảm xúc của
người khác để điều chỉnh các biểu hiện và hành vi cho phù hợp, trẻ nhận cảm
xúc và tình cảm của mình, học cách thể hiện cho phù hợp.
Phát triển kĩ năng xã hội
Kỹ năng xã hội là cách thức để giải quyết vấn đề trong cuộc sống xã hội
giúp con người thích nghi và phát triển tốt hơn.
Tùy theo giai đoạn phát triển, mở rộng phạm vi và sự đa dạng của hoạt
động, sự phong phú của các mối quan hệ -> kỹ năng xã hội được phát triển lên.
Phát triển kĩ năng xã hội ở trẻ em là phát triển khả năng hiểu biết bản
thân, hiểu người khác, các quy tắc và mong đợi của xã hội, điều chỉnh và kiểm
soát các hành vi của bản thân.
4


Phát triển kĩ năng xã hội liên quan đến việc hiểu bản thân: Tự nhận thức;
ý thức về bản thân và tự trọng.
Hiểu và ứng xử phù hợp với người khác.
Phát triển và duy trì các mối quan hệ với người khác: Kết bạn và gìn giữ
tình bạn; hợp tác với người khác; xử lý vấn đề và giải quyết mâu thuẫn.
Hiểu về vai trò và trách nhiệm xã hội; có trách nhiệm với môi trường.
2.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển tình cảm và kĩ năng xã
hội đối với trẻ
Yếu tố gia đình: Gia đình là môi trường đầu tiên trẻ được tiếp xúc, tìm
hiểu và học tập, vì vậy những đặc điểm về gia đình như: kinh tế của gia đình (Sự
nghèo đói...), văn hóa gia đình (bạo lực gia đình, sự quan tâm của các thành viên
gia đình, trình độ văn hóa của cha mẹ,...) tác động, ảnh hưởng rất lớn đến sự
hình thành, phát triển tình cảm và kĩ năng xã hội của trẻ.

Các mối quan hệ của trẻ với những người xung quanh: với các thành viên
trong gia đình, với cô giáo, bạn bè của trẻ trong lớp, trong trường.
Môi trường văn hóa, xã hội nơi trẻ sống: nguy hiếm/an toàn, vùng thành
thị hay nông thôn, văn hóa cộng đồng, phong tục tập quán hay địa phương.
Chất lượng chăm sóc giáo dục của trường mầm non.
Các đặc điểm cá nhân: tính khí, giới tính, trí thông minh, các vấn đề về
sức khỏe của trẻ.
2.1.3. Mục tiêu phát triển tình cảm và kỹ năng xã hội của trẻ 4 - 5 tuổi
Về tình cảm. (Mục tiêu cần đạt)
- Nhận biết và thể hiện cảm xúc, tình cảm với con người sự vật, hiện
tượng xung quanh: Nhận biết cảm xúc, vui buồn, sợ hãi, tức giận qua nét mặt, cử
chỉ, giọng nói.
- Cảm nhận và thể hiện cảm xúc trước vẻ đẹp thiên nhiên của cuộc sống
và các hoạt động mang tính nghệ thuật.
Về kỹ năng xã hội. (Mục tiêu cần đạt)
- Thể hiện ý thức về bản thân: Nói được những việc trẻ đã làm
- Thể hiện sự tự tin, tự lực: trẻ tự chọn đồ chơi, trò chơi theo ý thích ->
Hoàn thành việc.
- Thể hiện hành vi và quy tắc ứng xử: Biết trao đổi và thỏa thuận với bạn
khi thực hiện một hoạt động chung.
2.2. Thực trạng
Năm học 2018 - 2019, tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp mẫu
giáo 4 - 5 tuổi, với tổng số 31 trẻ: trẻ nam là 15, trẻ nữ là 16. Trong quá trình
thực hiện tổ chức hoạt động chăm sóc giáo dục cho trẻ tôi đã gặp những thuận
lợi và khó khăn sau:
2.2.1. Thuận lợi
Tháng 12 năm 2018 nhà trường đã được công nhận trường đạt chuẩn quốc
gia mức độ II. Trường có khuôn viên rộng, khang trang, sạch sẽ, có đầy đủ trang
thiết bị, đồ chơi cho trẻ. Lớp học đủ diện tích, có các góc chơi, đồ chơi phong
phú hấp dẫn trẻ.

Ban giám hiệu nhà trường rất quan tâm và luôn chỉ đạo sát sao, đầu tư cơ
sở vật chất và thường xuyên bồi dưỡng chuyên môn.
5


Giáo viên đều có trình độ trên chuẩn, yêu nghề mến trẻ, tâm huyết với
nghề, có tinh thần học hỏi, luôn trau dồi về chuyên môn nghiệp vụ.
Số trẻ trên lớp: 31 trẻ, trong đó trẻ nam: 15, trẻ nữ: 16. Trẻ đi học chuyên
cần, tỷ lệ bé ngoan cao, hầu hết trẻ khỏe mạnh, nhanh nhẹn thích tham gia các
hoạt động trên lớp.
Bản thân tôi là một giáo viên đã có 12 năm công tác trong ngành, phụ
trách nhiều nhóm lớp, độ tuổi khác nhau, là tổ trưởng chuyên môn và có nhiều
thành tích trong quá trình công tác như: Giáo viên giỏi cấp huyện, cấp tỉnh, là
chiến sĩ thi đua cơ sở nhiều năm và được chủ tịch UBND huyện tặng giấy khen,
có nhiều sáng kiến kinh nghiệm được xếp loại cấp huyện. Có năng lực, trình độ
chuyên môn trên chuẩn, luôn cố gắng trong quá trình tự học, tự rèn luyện và tổ
chức tốt các hoạt động chăm sóc - giáo dục trẻ.
2.2.2. Khó khăn
Bên cạnh những điều kiện thuận lợi trên tôi đã gặp những khó khăn đó là:
Trẻ 4 - 5 tuổi là độ tuổi hiếu động, khả năng tiếp cận thông tin nhanh, vì
vậy trẻ dễ và nhanh tiếp nhận những kỹ năng xã hội không tốt. Trẻ bị ảnh hưởng
bởi cuộc sống phát triển hiện đại như internet, tivi, các trò chơi điện tử…
VD: Khi ăn thì trẻ phải xem điện thoại, tivi, đòi bố mẹ xúc cơm…thì trẻ
mới chịu ăn.
Tình trạng xem trọng kiến thức mà bỏ qua giáo dục tình cảm, lễ giáo như
các cụ ngày xưa có câu “Tiên học lễ, hậu học văn” không còn được chú trọng,
cho nên trẻ em ngày nay thường có thái độ thơ ờ, ít lễ phép “Dạ”, “Vâng”...
thậm chí ngang bướng, không kính trọng người trên đang rất phổ biến.
Mặt khác, một số trẻ khi ở nhà được bố mẹ nuông chiều, bao bọc, làm hộ
trẻ khiến trẻ ỷ lại, ích kỉ, không quan tâm đến người khác. Cha mẹ chưa quan

tâm đến việc rèn kỹ xã hội cho trẻ, nên các kỹ năng trong cuộc sống rất hạn chế
và rất khó khăn cho trẻ trong khi có tình huống bất ngờ xảy ra. Một số trẻ trong
lớp còn có tính thụ động, ít giao lưu trong các hoạt động. Trẻ được sống trong
môi trường quá bao bọc khiến trẻ quen dựa dẫm, không có tính tự lập, lãnh cảm
với môi trường xung quanh.
Từ thuận lợi, khó khăn nêu trên, trước khi áp dụng các biện pháp mới
nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục tình cảm và phát triển kĩ năng cho trẻ, tôi đã
tiến hành khảo sát thực tế trên trẻ 4 - 5 tuổi của lớp tôi phụ trách và thu được kết
quả như sau:
Bảng 1: Kết quả khảo về tình cảm và kĩ năng xã hội của trẻ 4 - 5 tuổi
(Thời điểm tháng 9 năm 2018)
Kết quả
Đạt
Chưa đạt
TT
Nội dung đánh giá
Tỷ
Tỷ
Số
Số
lệ
lệ
trẻ
trẻ
%
%
1 Kĩ năng nhận biết và hiểu cảm xúc của bản thân
12
39
19

61
2 Kĩ năng thể hiện và kiểm soát cảm xúc của chính mình 10
32
21
68
3 Kĩ năng hiểu và đáp lại cảm xúc của người khác
11
35
20
65
4 Kĩ năng hiểu và ứng xử phù hợp với người khác
12
39
19
61
6


5
6
7
8

Kĩ năng kết bạn và giữ gìn tình bạn
11
35
20
65
Kĩ năng hợp tác với người khác
12

39
19
61
Kĩ năng hiểu và tuân thủ những quy tắc xã hội
10
32
21
68
Kĩ năng hiểu về vai trò và trách nhiệm của mình
10
32
21
68
Qua bảng khảo sát, tôi thấy việc thể hiện tình cảm và các kĩ năng xã hội
của trẻ còn thấp.
Mặt khác, khi tìm hiểu thực trạng của trường, giáo viên và gia đình đã
giáo dục tình cảm và kỹ năng xã hội cho trẻ, tôi nhận thấy yếu điểm xuất phát từ
các bậc cha mẹ thiếu kinh nghiệm trong việc chăm sóc con cái, ít gần gũi với
con cái hoặc nuông chiều trẻ quá mức gây tác động đến tinh cảm và kỹ năng của
trẻ. Một số phụ huynh chưa hiểu tầm quan trọng của việc giáo dục các con nên
thường khoán trắng cho giáo viên. Mặt khác nhà trường tập trung chỉ đạo việc
dạy trẻ theo chương trình giáo dục mầm non mới nên việc chỉ đạo về nội dung
cũng như các hình thức và phương pháp để giáo dục tình cảm và kỹ năng xã hội
cho trẻ còn chung chung. Đa số giáo viên còn mơ hồ trong việc giáo dục kĩ năng
xã hội cho trẻ, chủ yếu dạy trẻ theo chương trình với các chủ đề trong năm, việc
lồng ghép giáo dục tình cảm và kĩ năng xã hội cho trẻ giáo viên còn lúng túng
hoặc nội dung giáo dục chưa cụ thể. Các kĩ năng xã hội của trẻ còn hạn chế qua
việc ứng xử giao tiếp, chưa biết cách cảm thông chia sẻ hợp tác với các bạn với
người lớn hoặc kĩ năng tự phục vụ hay tự bảo vệ bản thân.
Với tình hình như vậy, là giáo viên mầm non tôi luôn trăn trở với những

thực trạng trên nên tôi mạnh dạn đề xuất ra một số biện pháp giáo dục tình cảm
và kỹ năng xã hội cho trẻ để từng trẻ lớp tôi có được những thói quen và hành vi
đạo đức phù hợp với chuẩn mực xã hội, nhằm góp phần hình thành nhân cách
ban đầu cho trẻ.
2.3. Biện pháp.
2.3.1. Giáo viên nhận thức được ý nghĩa của việc giáo dục phát triển
tình cảm và kĩ năng xã hội cho trẻ 4 - 5 tuổi
Giáo dục tình cảm - kỹ năng xã hội cho trẻ mầm non là nhằm giúp trẻ có
những tình cảm, những chuẩn mực đạo đức, những kinh nghiệm trong cuộc
sống, biết được những điều nên làm và không nên làm. Giáo dục kỹ năng sống
giúp trẻ tự lập, tự tin, tích cực, sáng tạo trong cuộc sống.
Giáo dục tình cảm - kỹ năng xã hội tạo cơ hội cho trẻ vận dụng những
kiến thức, kỹ năng đã học vào giải quyết các vấn đề của thực tiễn gần gũi với
đời sống hàng ngày của trẻ. Vì vậy, chương trình giáo dục mầm non đã đưa ra
các nội dung đơn giản và hết sức gần gũi với trẻ như: Dạy trẻ có kỹ năng hợp tác
với mọi người, kỹ năng nhận và hoàn thành nhiệm vụ, kỹ năng tự phục vụ, kỹ
năng kiểm soát cảm xúc…các kỹ năng này không tách rời nhau mà có liên quan
chặt chẽ với nhau, được thể hiện đan xen vào nhau, có thể thực hành trong bất
cứ tình huống nào xảy ra hàng ngày. Giáo dục tình cảm - kỹ năng xã hội cho trẻ
mầm non có thể tiến hành trong tất cả các hoạt động giáo dục hàng ngày (Như
vui chơi, học tập, chăm sóc sức khỏe, lao động vừa sức, lễ hội tham quan…). Để
có được tình cảm - kỹ năng xã hội thì trẻ cần phải có thời gian, trong một quá
trình tập luyện thường xuyên với sự hỗ trợ của người lớn và bạn bè. Trẻ thường
7


học các hành vi thông qua việc bắt chước, nhập tâm, qua luyện tập, thực hiện
hàng ngày, lâu dần trở thành kỹ năng của trẻ.
Việc giáo dục và vận dụng tốt kỹ năng sẽ giúp trẻ có nhân cách tốt. Giáo
dục kỹ năng sống còn góp phần mở rộng nhận thức, phát triển trí tuệ, giáo dục

đạo đức, giáo dục thẩm mĩ, phát triển ngôn ngữ... cho trẻ.
2.3.2. Lồng ghép giáo dục phát triển tình cảm và kĩ năng xã hội trong
các hoạt động học
Thông qua hoạt động học, tôi tích hợp có hiệu quả nội dung giáo dục
kỹ năng cần thiết cho trẻ. Khi xây dựng kế hoạch hoạt động học cho trẻ giáo
viên dựa trên các lĩnh vực phát triển như: phát triển thể chất, nhận thức, ngôn
ngữ, thẩm mĩ và phát triển tình cảm và kĩ năng xa hội, tương ứng là các môn học
như: Thể dục; làm quen biểu tượng sơ đẳng về toán, khám phá thế giới xung
quanh, thế giới khoa học; làm quen văn học; tạo hình. Riêng lình vực phát triển
tình cảm và kĩ năng xã hội không có môn học riêng, cụ thể mà việc giáo dục
phát triển tình cảm kĩ năng xã hội cho trẻ thường lồng ghép vào các môn học. Vì
vây việc lồng ghép giáo dục phát triển tình cảm, kĩ năng xã hội cho trẻ cần xác
định đúng nội dung cần giáo dục, lồng ghép thích hợp.
Ví dụ: Trong chủ đề "Bản thân" với đề tài “Tìm hiểu, nhận biết bản thân
mình và các bạn qua một số đặc điểm” tôi giáo dục trẻ ý thức về bản thân như
cho trẻ tự giới thiệu về mình với các bạn: Tên, tuổi, giới tình, những điều bé
thích, không thích. Nhận biết và thể hiện cảm xúc, tình cảm với bạn bè qua hoạt
động khám phá "Guơng mặt vui, gương mặt buồn": giúp trẻ nhận biết một số
trạng thái, cảm xúc vui buồn, sợ hãi, tức giận..
Ví dụ: Trong chủ đề “Gia đình” với đề tài “Làm quen, tìm hiểu đồ dùng
trong gia đình” khi cho trẻ quan sát một số vật dụng nguy hiểm như: ổ điện, bếp
đang đun, phích nước nóng... qua đó giáo dục trẻ biết tránh một số hành động có
thể gây nguy hiểm cho bản thân và người khác như: Không được ghịch đồ dùng
sử dụng điện, không lại gần chơi, nghịch chỗ nước nóng ... và đặc biệt giáo dục
trẻ ý thức sử dụng điện tiết kiệm, bảo vệ đồ dùng trong gia đình.
Bồi dưỡng cho trẻ kinh nghiệm sống, nhân cách tốt đẹp qua những câu
truyện bài thơ, tục ngữ, ca dao, đồng dao...
Ví dụ: Trong bài thơ “Thỏ bông bị ốm” với nội dung “Bạn Thỏ bị đau
bụng với lý do ăn thức ăn còn sống, uống nước ngoài ao” nhằm lồng ghép giáo
dục kỹ năng an toàn, tự bảo vệ (không ăn thức ăn chưa được nấu chín, không ra

gần bờ ao, giếng nước dễ xảy ra tai nạn).
Được nghe kể chuyện là điều trẻ rất thích, do đó tôi lựa chọn câu chuyện
phù hợp để lồng ghép giáo dục kỹ năng xã hội cho trẻ.
Ví dụ: Trong chủ đề Bản thân, với câu chuyện “Mỗi người một việc” có
nội dung giáo dục “tất cả các bộ phận trên cơ thể bé đều rất quan trọng”, khi đó
cô chuyển tải những thông điệp quý báu “kỹ năng tự nhận thức bản thân”, hãy
biết giữ gìn và bảo các bộ phận trên cơ thể mình. Hay khi kể cho trẻ nghe các
câu chuyện mang tính giáo dục tình cảm như Tích Chu, ba cô gái.. qua câu
truyện tôi đặt ra những câu hỏi tình huống như: Ví dụ người thân trong gia đình
mình bị ốm con sẽ chăm sóc họ như thế nào? Con sẽ làm gì để họ đỡ buồn và
nhanh khoẻ?…
8


Với chủ đề “Gia đình” thông qua câu chuyện “Chú vịt xám” tôi giáo dục
kỹ năng xã hội cho trẻ: “Khi được bố mẹ cho đi công viên, siêu thị hoặc đến
những nơi công cộng thì phải đi với bố mẹ, không được chạy lung tung để khỏi
bị lạc” qua đó tôi đặt ra những câu hỏi tình huống dạy trẻ, nếu chẳng may con bị
lạc thì con sẽ làm thế nào? Tôi đã cho trẻ suy nghĩ và mời trẻ đưa ra cách giải
quyết, tôi lắng nghe ý kiến của trẻ, gợi mở cho trẻ bằng các câu hỏi: Theo con
làm như vậy có được không? Tại sao? Sau đó, cô giúp trẻ rút ra phương án tối
ưu nhất: Khi bị lạc mẹ, bé hãy bình tĩnh, không khóc và chạy lung tung mà hãy
đứng yên tại chỗ bị lạc chờ vì bố, mẹ sẽ quay lại chỗ đó để tìm bé, nếu muốn
nhờ người lớn gần đó giúp đỡ bé phải tìm công an hoặc những người mặc đồng
phục (bảo vệ, nhân viên) ở gần chỗ đó để nhờ giúp đỡ để tìm bố mẹ. Tuyệt đối
không đi theo người lạ dù người đó có hứa sẽ đưa về với bố mẹ vì có thể đó sẽ là
kẻ xấu lợi dụng cơ hội đó bắt cóc hoặc làm hại bé...
Rèn sự mạnh dạn, tự tin và tình yêu gia đình, bạn bè, yêu quê hương đất
nước cho trẻ qua hoạt động âm nhạc hoặc các hoạt động khác diễn ra trong hoạt
động học cũng vậy, tôi luôn chọn nội dung phù hợp với trẻ lớp mình, kết hợp với

phương pháp dùng lời, phương pháp trực quan, trẻ được nghe, được xem hình
ảnh cùng với sự giảng giải của cô, trẻ sẽ thấm nhuần ý nghĩa của cuộc sống xung
quanh, từ đó trẻ tích luỹ cho mình những bài học kinh nghiệm. Hàng ngày tôi
ghi chép từng chi tiết về sự tiến bộ của trẻ, các mối quan hệ với cô, với bạn, ghi
chép những kỹ năng trẻ đạt được trong mỗi ngày, lưu trữ dữ liệu, sản phẩm để
đánh giá trẻ, đồng thời có cơ sở để thay đổi, bổ sung các biện pháp giáo dục
từng trẻ và giúp trẻ hình thành các kỹ năng xã hội.
2.3.3. Lồng ghép giáo dục phát triển tình cảm và kĩ năng xã hội thông
qua các hoạt động khác và mọi lúc, mọi nơi
*Giáo dục tình cảm và kĩ năng xã hội cho trẻ trong giờ đón trẻ và trả trẻ
Tôi luôn rèn cho trẻ những hành vi và quy tắc ứng sử xã hội trong giờ đón
trẻ như: cử chỉ, lời nói lễ phép của trẻ với mọi người, kỹ năng tự chào hỏi, tự cất
đồ dùng cá nhân gọn gàng....
Ví dụ: Ngay từ đầu năm khi trẻ được bố mẹ, ông bà hoặc người thân
mang đến lớp cô giáo sẽ là người chào trước để cho trẻ bắt chước chào người
thân, chào cô giáo đề vào lớp. Hay tôi đã tập cho trẻ ý thức tự cất đồ dùng gọn
gàng, ngăn nắp lúc vào lớp cũng như lúc ra về, tôi sẽ kiểm tra xem bạn nào thực
hiện chưa đạt, bạn nào đã thực hiện tốt cuối ngày tôi sẽ đánh giá và nêu gương
bạn thực hiện tốt, đồng thời cũng khích lệ động viên
Hình ảnh trẻ tự cất đồ dùng
cá nhân chưa cố gắng, từ đó việc cất đồ dùng cá nhân đúng nơi quy định không
còn là “hành động” mà trở thành “ý thức”, trẻ tự thực hiện không cần phải đợi
nhắc nhở hay kiểm tra.
Thông qua giờ trả trẻ: tôi trò chuyện với trẻ, cho trẻ xem tranh ảnh các
tình huồng giáo dục kỹ năng xã hội, qua đó tạo cho trẻ một số tình huống giáo
dục và khắc sâu tình cảm và các kĩ năng xã hội cho trẻ, hình thành cho trẻ thói
quen cất ghế, đồ dùng của lớp gọn gàng trước khi ra về.
Ví dụ: Khi cho trẻ quan sát tranh trong câu chuyện “Bé Minh Quân dũng
cảm” câu chuyện kể về cậu bé đá bóng trong nhà làm vỡ lọ hoa, khi bố mẹ về
9



cậu nói là do con mèo làm và bố mẹ đã phạt con mèo nhốt vào lồng, cả đêm đó
cậu không ngủ được vì hành động của mình và tiếng kêu của chú mèo, sáng hôm
sau cậu ngủ dậy sớm để xin lỗi bố mẹ và nhận lỗi của mình. Với nội dung đó tôi
hỏi trẻ: Đó là hành động đúng hay sai? với tình huống trên theo con nên làm gì
để nhận lỗi? Tôi tham khảo và lắng nghe ý kiến của trẻ sau đó đưa ra ý kiến của
mình để thảo luận cùng trẻ: con có thể xin lỗi mẹ, hứa với mẹ từ nay không đá
bóng ở trong nhà nữa và khi mắc lỗi phải biết nhận lỗi không được đỗ lỗi cho
người khác.
Ví dụ: Cho trẻ quan sát tranh bé được người khác giúp đỡ hay bé được
người lớn cho quà, tôi trò chuyện với trẻ:
Con đã được ai giúp đỡ bao giờ chưa? con đã giúp đỡ ai chưa? khi giúp
đỡ ai làm một việc gì đó con có thấy vui không? nếu được người khác giúp đỡ
con sẽ làm gì? Khi con được nhận quà con cảm thấy thể nào và con sẽ làm gì?
Qua đó tôi giáo dục trẻ biết nói lời cám ơn khi được người khác giúp đỡ
hay tặng quà và nhắc nhở trẻ hãy đoàn kết giúp đỡ nhau.
Ví dụ: Để rèn thói quen ăn uống vệ sinh cho trẻ, tôi cho trẻ quan sát một
số bức tranh có những hành động chưa đúng và trò chuyện với trẻ về hành động
mà trẻ thấy trong bức tranh, qua đó giáo dục trẻ biết rửa tay trước khi ăn và
không ăn những thức ăn đã rơi xuống đất.
*Giáo dục tình cảm và kĩ năng xã hội cho trẻ trong giờ hoạt động
ngoài trời
Hoat động ngoài trời là cũng là một hoạt động mà tôi có thể lồng ghép
tích hợp nhiều kỹ năng xã hội cần thiết. Trong hoạt động ngoài trời, khi trẻ quan
sát thiên nhiên, cây xanh....tôi giáo dục trẻ lòng yêu thiên nhiên, bảo vệ cây
xanh, bảo vệ môi trường hay khi chơi tự do, tôi vừa quan sát trẻ chơi vừa hướng
dẫn trẻ cách chơi an toàn: Khi leo lên cầu tuột thì xếp hàng theo thứ tự, biết chờ
đến lượt, không chen lấn, xô đẩy, đùa nghịch, hò hét, tuyệt đối
Hình ảnh

trẻ nhổ cỏ, nhặt lá khô giúp cô
không tranh giành đồ chơi, chơi đu quay không quay quá nhanh...
Ví dụ: Khi cho trẻ lao động nhổ cỏ tưới cây, hoạt động quan sát vườn hoa,
vườn rau, cây xanh... tôi giúp trẻ thể hiện cảm xúc vui vẻ, thoải mái, từ đó trẻ
yêu thích cái đẹp, yêu thiên nhiên. Trò chuyện về cây xanh, cây hoa, tôi sẽ trò
chuyện cùng trẻ biết nhờ đâu mà ta có những vườn hoa, vườn rau và cây xanh
cho nhiều bóng mát, biết về ích lợi của việc làm đó từ đó hình thành ở trẻ lòng
tự hào khi được góp công sức của mình vào việc làm cho môi trường “Xanh Sạch - Đẹp”. Khi cho trẻ dạo chơi sân trường, tôi thường đặt câu hỏi với trẻ: làm
thế nào để sân trường sạch đẹp? (nhặt lá cây rơi, nhặt rác bỏ vào thùng rác, hình
thành được kỹ năng ứng xử văn minh cho trẻ không những ở trường mà trẻ sẽ
thực hiện việc giữ vệ sinh nhà, ở nơi công cộng và tôi cho trẻ thực hành nhặt lá
khô, dọn vệ sinh cùng cô ơ khu vườn cổ tích của nhà trường vào chiều thứ 2 và
thứ 6 hàng tuần cùng các cô
*Giáo dục tình cảm và kỹ năng xã hội cho trẻ trong giờ hoạt động góc
Hoạt động góc cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi thường chiếm 40 - 50 phút sau
giờ hoạt động chung. Hầu hết trẻ rất hứng thú khi được tham gia hoạt động này.
Hoạt động góc có tác dụng hình thành tính mục đích, tính tổ chức, tính sáng tạo,
10


tính cần cù, khả năng tư duy, ngôn ngữ, tính đồng đội, tính hợp tác, tính nhường
nhịn, tương thân tương ái… đây chính là những phẩm chất cần thiết cho trẻ
trong cuộc sống sau này.
Ngoài ra, hoạt động góc phản ánh sự sáng tạo, độc đáo của nhận thức và
ngôn ngữ, nó là tác động qua lại giữa trẻ với môi trường xung quanh. Khi trẻ
hoạt động góc có nghĩa là đang sống trong cuộc sống thực, trong khi chơi trẻ
được đối thoại cùng nhau, trao đổi thỏa thuận, thương lượng cùng nhau, trẻ phải
nói cho bạn chơi hiểu và phải hiểu lời bạn cùng chơi, từ đó làm cho trí tuệ của
trẻ phát tiển mạnh mẽ chịu ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển tình cảm xã hội
của trẻ hướng đến cái đẹp trong giao tiếp, góp phần hình thành hành vi văn minh

trong xã hội, hình thành thái độ tích cực của trẻ với bản thân.
Ví dụ: Trong chủ đề “Nghề nghiệp” ở góc phân vai có trò chơi “bác sĩ”,
bác sĩ khám bệnh cho bệnh nhân với thái độ vui vẻ, niềm nở, y tá cấp phát thuốc
và dặn bệnh nhân uống thuốc đúng giờ và ngồi chờ khám theo lượt, tôi thường
nhập vai chơi với trẻ và hướng cho cô y tá dẫn người già và trẻ nhỏ được ưu tiên
đi khám trước. Có thể nói trẻ đóng vai bác sĩ đã có kinh nghiệm sống rất tốt và
trẻ đã áp dụng ngay trong quá trình chơi, kỹ năng giao tiếp và
Hình ảnh trẻ chơi làm Bác sĩ
ứng xử văn minh được thể hiện.
Ví dụ: Ở chủ đề “Giao thông” khi chơi “Bố, mẹ chở con đi học bằng xe
máy” yêu cầu trẻ phải đội mũ bảo hiểm, qua đó tôi dạy trẻ cách đội, cách gài
dây, thao tác lặp đi lặp lại 2- 3 lần, từ đó hình thành kỹ năng tự phục vụ cho trẻ.
Hoặc với trò chơi “Đi ô tô” tôi cũng chú ý xem cách thể hiện của trẻ để có
những gợi mở kịp thời như: Các bác đã thắt dây an toàn chưa, đừng thò đầu, thò
tay ra ngoài khi xe đang chạy nhé.
Với nhóm “Nấu ăn”, tôi cũng lưu ý đến những thao tác mà trẻ thể hiện vai
của mình.
Ví dụ: Bắc nồi lên bếp ga đặt đã đúng giữa bếp chưa? nếu không sẽ dễ đổ
và xảy ra tai nạn, nấu xong phải nhớ tắt bếp, bắc nồi phải dùng cái lót tay để
không bị bỏng. Thực phẩm trước khi chế biến đã rửa sạch chưa, khi nấu chúng
ta phải nấu cho chín, nhừ thì mới được tắt bếp.
Trong thời gian gần đây, cháy nổ là hiểm hoạ luôn rình rập với tất cả mọi
nhà. Chính vì vậy, với trẻ mẫu giáo bé tuy trẻ còn nhỏ tuổi song tôi nghĩ rằng
cũng cần dạy cho trẻ một số kỹ năng ứng biến nếu chẳng may có điều đó xảy ra .
Tôi đã đưa tình huống: “Nếu bé thấy có khói, hoặc cháy ở đâu đó bé sẽ phải làm
thế nào?”
Qua tình huống này tôi dạy trẻ: Khi thấy có khói hoặc cháy ở đâu, trước
hết bé phải chạy xa chỗ cháy, hãy hét to để báo với người nhà và những người
xung quang có thể nghe thấy. Nếu không có người ở nhà thì chạy báo cho hàng
xóm. Từ những tình huống cụ thể mà rất dễ xảy ra đối với trẻ, bằng cách cho trẻ

thảo luận, yêu cầu trẻ suy nghĩ, vận dụng vốn hiểu biết của mình đã có để tìm
cách giải quyết vấn đề.
Thông qua đó cô giúp trẻ tìm ra phương án tối ưu nhất, đó cũng chính là
kinh nghiệm mà tôi dạy trẻ. Thông qua hoạt động đó cũng giúp trẻ có sự tư duy
11


lôgích, biết cách diễn đạt suy nghĩ của mình, và giúp trẻ có thêm kinh nghiệm
trong cuộc sống.
Ví dụ: Với nhóm bán hàng tôi rèn kỹ năng giao tiếp lịch sự của khách
hàng, nhẹ nhàng niềm nở của chủ hàng, lễ phép cho trẻ, rèn trẻ đưa đón đồ dùng
cho bạn bằng 2 tay, hình thành cho trẻ kĩ năng mua bán trao đổi hàng hóa thông
qua tiền, rèn tinh thần đoàn kết khi chơi, khi chơi không ném đồ chơi bừa bãi,
chơi xong giáo dục trẻ có ý thức cất đồ dùng, đồ chơi gọn gàng.
Hình ảnh trẻ chơi bán hàng
Với chủ đề “Gia đình” dạy trẻ kỹ năng chia sẻ, thể hiện sự quan tâm lẫn
nhau giữa các thành viên trong gia đình, ví dụ như: gọi điện thoại hỏi thăm,
chăm sóc ông bà, gia đình cùng nhau đi du lịch, thăm hỏi lẫn nhau lúc ốm đau..
Hoạt động vui chơi diễn ra trong thời gian tương đối dài (40 phút), có rất
nhiều tình huống xảy ra, tôi luôn bao quát và kịp thời can thiệp để điều chỉnh
hành vi, giúp trẻ có thói quen tốt, biết được điều gì nên làm, điều gì không nên
làm, lâu dần những thói quen tốt, những hành vi đẹp sẽ được tích luỹ và trở
thành kỹ năng xã hội đối với trẻ.
*Giáo dục tình cảm và kỹ năng xã hội cho trẻ trong giờ ăn ngủ, vệ sinh
Trong giờ ăn, ngủ, vệ sinh kỹ năng tự phục vụ được rèn luyện, được giáo
dục thường xuyên nhất. Ngay từ đầu năm học tôi đã dạy trẻ biết giữ gìn quần áo
chân tay sạch sẽ, trước khi ăn là phải rửa tay, lau mặt. Dạy trẻ có những hành vi
văn hóa trong ăn uống, qua đó dạy trẻ kỹ năng lao động tự phục vụ, rèn tính tự
lập như: Biết tự rữa tay sạch sẽ trước khi ăn, chỉ ăn uống tại bàn ăn, biết cách sử
dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi,

nhai nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước
khi ăn, ngồi ngay ngắn, ăn hết suất. không làm ảnh hưởng đến người xung
quanh. Ăn xong trẻ giúp cô lau bàn, cất ghế. Đặc biệt tôi rèn cho trẻ thói quen
xếp hàng, chờ đến lượt khi đi lấy cơm về chỗ ngồi để ăn.
Hình ảnh trẻ rủa tay trước khi ăn và xếp hàng chờ lấy cơm về bàn ngồi để ăn
Ngoài ra, tôi rèn cho trẻ nền nếp khi ngủ, không nói chuyện, không nằm
sấp, không cầm đồ chơi trong tay, không ngậm vật gì trong miệng, khi ngủ dậy
giúp cô gập thảm, cất gối... Cứ như thế ngày này qua ngày khác, lân dần trẻ tự thực
hiện thành nề nếp mà không cần tôi phải nhắc nhở. Những kỹ năng ấy không
những được trẻ thực hiện ở trường mà còn thực hiện ở nhà, hay ở bất cứ đâu khi trẻ
đi đến.
Trẻ gấp chiếu, cất gối giúp cô sau khi ngủ dậy
*Giáo dục tình cảm và kỹ năng xã hội cho trẻ trong hoạt động nêu
gương bé ngoan trong ngày, trong tuần
Với cách làm này tôi giúp trẻ nhút nhát, thụ động mạnh dạn tự tin hơn với
mọi hoạt động trong ngày. Bản thân trẻ rất quan tâm tới: “Bảng bé ngoan” khi
trẻ được lên cắm cờ trẻ sẽ rất phấn khởi, tự hào với các bạn bè, mong chờ được
khoe với bố mẹ vào mỗi buổi chiều, báo các lại kết quả vì sao mình được lên
12


cắm cờ cho bố mẹ biết. Từ đó tôi đã dần tạo cho trẻ tính mạnh dạn tự tin trong
giao tiếp với bạn bè, biết giúp đỡ cô, biết làm việc tốt với bản thân và người
khác để được công nhận. Tôi sẽ đưa ra các tiêu chí được lên cắm cờ: chăm giơ
tay phát biểu, biết giúp đỡ cô và bạn bè, mạnh dạn tự tin mọi hoạt động trong
lớp học biết tự phục vụ bản thân, không tranh giành đồ chơi, không đánh bạn…
Và tùy thuộc vào đối tượng mà tiêu chí đó có được cô và các bạn công nhận hay
không.
Với cách làm này trẻ sẽ luôn vui vẻ, tự tin, phấn đấu để cuối ngày được
lên cắm cờ từ đó luôn diễn ra sự cạnh tranh rất lành mạnh giữa các trẻ. Kết quả

giúp trẻ tự có nhu cầu hoàn thiện bản thân cao, trẻ sẽ mạnh dạn tự tin hơn trong
các trong các hoạt động trong ngày, dần dần thói quen tốt nảy sinh trở thành một
nhu cầu, một kỹ năng sống tốt của trẻ.
2.3.4. Tuyên truyền tới cha mẹ trẻ nội dung giáo dục tình cảm, kĩ
năng xã hội cho trẻ và phối hợp với cha mẹ trẻ để hình thành, rèn và giáo
dục tình cảm, kĩ năng xã hội cho trẻ
Cha mẹ là tấm gương đầu tiên cho trẻ học tập những thói quen tốt. Việc
phối hợp với phụ huynh trong giáo dục tình cảm và kỹ năng xã hội cho trẻ là vô
cùng cần thiết. Trong các buổi đón trẻ tôi thường trao đổi những nội dung ngắn
gọn, dễ hiểu, dễ thực hiện và mang tính thuyết phục, tôi thường xuyên trao đổi
những kỹ năng tự phục vụ trong tuần cho cha mẹ trẻ biết để cùng phổi hợp rèn
trẻ đạt hiệu quả cao nhất, tôi luôn khuyến khích phụ huynh tạo điều kiện để trẻ
tự phục vụ bản thân: rửa mặt, đánh răng, thay quần áo, tự chọn quần áo, đồ dùng
cá nhân chuẩn bị đi học,…nhắc
Hình ảnh giáo viên trao đổi với phụ huynh
nhở phụ huynh cần dạy trẻ những kỹ năng như: ghi nhớ số điện thoại của bố,
mẹ, địa chỉ gia đình để trẻ có thể tự bảo vệ bản thân khi gặp nguy hiểm.
Phụ huynh hãy cho trẻ được chơi, bày đồ chơi, không cấm đoán trẻ, lúc
này cần thiết nhất là dạy trẻ phải tự cất đồ chơi hoặc ba mẹ cùng cất với trẻ,
tuyệt đối không nên làm thay cho trẻ. Hãy cho trẻ cùng tham gia công việc trong
gia đình, nêu lên hiểu biết và suy nghĩ của mình, từ đó sẽ có hướng điều chỉnh
kỹ năng xã hội phù hợp với trẻ 4 tuổi.
Tôi tuyên truyền phụ huynh cần phối hợp với giáo viên một cách chặt chẽ
và hợp lý bằng việc tham gia tình nguyện vào quá trình giáo dục trong nhà
trường. Cha mẹ nên tham gia vào các buổi trao đổi với giáo viên, tham gia các
buổi họp của nhà trường và dự một số giờ học, dự các hoạt động ngoại khoá, chỉ
bằng cách đó thôi cha mẹ đã giúp trẻ hiểu rằng học là phải học cả đời.
Cần giáo dục để trẻ cảm thấy thoải mái tự tin trong mọi tình huống của
cuộc sống. Nếu cha mẹ muốn giáo dục trẻ biết tự giữ kỷ luật, trước hết cần đánh
thức sự tự ý thức của trẻ, cố gắng khơi gợi để trẻ luôn nghĩ về bản thân mình

một cách tích cực và đừng bao giờ phá vở suy nghĩ tích cực về bản thân trẻ.
Trong gia đình, việc dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống rất
cần thiết. Để trẻ có được những kỹ xảo, thói quen sử dụng đồ dùng một cách
chính xác và thuần thục và khéo léo, không chỉ đòi hỏi trẻ phải thường xuyên
luyện tập, mà còn phải đáp ứng được những nhu cầu của trẻ, đó là cung cấp cho
13


trẻ những mẫu hành vi văn hóa, những hành vi đúng, đẹp, văn minh của chính
cha mẹ và những người xung quanh trẻ.
Tôi tuyên truyền để phụ huynh hiểu giáo dục tình cảm và kỹ năng
xã hội cho trẻ hiện nay là điều mà mỗi cá nhân, bậc làm cha, làm mẹ điều phải
quan tâm, tuyên truyền để họ hiểu điều quan trọng trong việc rèn luyện giáo dục
tình cảm và kỹ năng xã hội chính là việc “không nên cấm đoán trẻ làm mà hãy
dạy trẻ cách thực hiện chúng”. Cô giáo, cha mẹ là tấm gương, bằng việc làm đơn
giản, gần gũi hàng ngày mà dạy kỹ năng xã hội cho trẻ.
Cần giáo dục để trẻ cảm thấy thoải mái tự tin trong mọi tình huống của
cuộc sống. Cần đánh thức sự tự ý thức của trẻ, cố gắng khơi gợi để trẻ luôn nghĩ
về bản thân mình một cách tích cực và đừng bao giờ phá vở suy nghĩ tích cực về
bản thân trẻ.
Bên cạnh đó, yêu cầu phụ huynh phối hợp cùng cô giáo trong việc thống
nhất phương pháp giáo dục trẻ:
- Tin tưởng vào trẻ và năng lực của trẻ.
- Tôn trọng ý kiến của trẻ, không áp đặt ý kiến của mình .
- Không nói dài và nói nhiều, không đưa lời giải đáp có sẵn mà hãy đưa
câu hỏi để trẻ tự tìm tòi.
- Không vội vàng phê phán đúng - sai mà kiên trì giúp trẻ biết tranh luận
và có thể đưa ra kết luận của mình.
2.3.5. Ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục phát triển tình
cảm và kĩ năng xã hội cho trẻ

Công nghệ thông tin phát triển đã mở ra những hướng đi mới cho ngành
giáo dục trong việc đổi mới phương pháp và hình thức dạy học. Chỉ cần vài cái
"nhấp chuột" là hình ảnh những con vật ngộ nghĩnh, những bông hoa đủ màu
sắc, những hàng chữ biết đi và những con số biết nhảy theo nhạc hiện ngay ra
với hiệu ứng của những âm thanh sống động ngay lập tức thu hút được sự chú ý
và kích thích hứng thú của học sinh vì được chủ động hoạt động nhiều hơn để
khám phá nội dung bài giảng. Đây có thể coi là một phương pháp ưu việt vừa
phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, vừa thực hiện được nguyên lý giáo
dục của Vưgotxki "Dạy học lấy học sinh làm trung tâm" một cách dễ dàng.
Có thể thấy ứng dụng của công nghệ thông tin trong giáo dục mầm non đã tạo ra
một biến đổi về chất trong hiệu quả giảng dạy của ngành giáo dục mầm non, tạo
ra một môi trường giáo dục mang tính tương tác cao giữa giáo viên và học sinh.
Vì vậy, để giáo dục phát triển tình cảm và kĩ năng xã hội cho trẻ không
thể bỏ qua việc ứng dụng công nghệ thông tin. Tôi có thể vào trang Youtube,
google... gõ những nội dung, kĩ năng cần cho trẻ xem là có, với những hình ảnh
sinh động, bắt mắt và gần gũi với trẻ, giúp trẻ rất hứng thú khi xem hay những
giờ học ứng dụng công nghệ thông tin giúp trẻ chú ý hơn.
Giờ học ứng dụng CNTT của lớp 4 - 5 tuổi
2.4. Hiệu quả
Sau khi áp dụng những biện pháp trên, cùng với sự chỉ đạo của Ban giám
hiệu nhà trường và sự đóng góp ý kiến của các bạn đồng nghiệp, tôi đã tiến hành
khảo sát trẻ cuối năm học và thu được những kết quả như sau:
Bảng 2: Kết quả khảo về tình cảm và kĩ năng xã hội của trẻ 4 - 5 tuổi
14


(Thời điểm tháng 4 năm 2019)
Kết quả
Đạt
Chưa đạt

TT
Nội dung đánh giá
Tỷ
Tỷ
Số
Số
lệ
lệ
trẻ
trẻ
%
%
1 Kĩ năng nhận biết và hiểu cảm xúc của bản thân
31 100
0
0
2 Kĩ năng thể hiện và kiểm soát cảm xúc của chính mình 29
94
2
6
3 Kĩ năng hiểu và đáp lại cảm xúc của người khác
31 100
0
0
4 Kĩ năng hiểu và ứng xử phù hợp với người khác
30
97
1
3
5 Kĩ năng kết bạn và giữ gìn tình bạn

31 100
0
0
6 Kĩ năng hợp tác với người khác
31 100
0
0
7 Kĩ năng hiểu và tuân thủ những quy tắc xã hội
28
90
3
10
8 Kĩ năng hiểu về vai trò và trách nhiệm của mình
29
94
2
6
Nhìn vào bảng khảo sát, tôi thấy sự phát triển tình cảm và kĩ năng xã hội
của trẻ tăng lên rõ rệt. Đặc biệt,với những hình thức cô đưa ra, trẻ nhận thức rất
nhanh và biết ứng dụng trong cuộc sống thông qua việc trẻ được trải nghiệm
trong hoạt động vui chơi, học tập. Từ đó tạo cho trẻ sự mạnh dạn, tự tin, độc lập.
Thông qua việc trẻ được thảo luận, suy nghĩ tìm ra cách giải quyết đã giúp trẻ
phát triển ở nhiều mặt: trẻ phát triển được các kỹ năng phán đoán, suy luận, biết
đưa ra quyết định của mình.
Qua trao đổi với cha mẹ trẻ, nhiều cha mẹ cũng nhận thấy rằng có rất
nhiều điều con mình có thể làm được nhưng trước đó lại nghĩ con mình còn bé
và luôn làm hộ trẻ cũng như nghĩ có những điều chưa thể đưa ra. Giờ đây có
nhiều trẻ đã hiểu được cảm xúc, thể hiện cảm xúc của mình đối với người khác
phù hợp, trẻ mạnh dạn tự tin trong giao tiếp, kết bạn và có ý thức giúp đỡ bố mẹ,
cô giáo những công việc vừa sức.

3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
Qua kết quả đã đạt được, để giáo dục phát triển tình cảm và kĩ năng xã hội
cho trẻ đạt kết quả tốt tôi thấy giáo viên cần thực hiện tốt những vấn đề sau:
Giáo viên phải nhiệt tình, chịu thương, chịu khó tìm tòi, tham khảo tài
liệu, học hỏi đồng nghiệp, tìm ra các phương pháp dạy sáng tạo, phù hợp mang
lại hiệu quả cao.
Giáo viên phải mạnh dạn, tự tin đưa những vấn đề cần thiết trong cuộc
sống hằng ngày cho trẻ tìm hiểu và làm quen.
Lắng nghe ý kiến của trẻ, không gò bó áp đặt trẻ. Cô luôn là người chỉ
dẫn, chuyền cho trẻ những kinh nghiệm sống đã được đúc kết từ lâu.
Cần tích cực đổi mới phương pháp dạy nhằm khuyến khích sự tích cực ở
trẻ. Khai thác tiềm năng sáng tạo ở mỗi trẻ. Giáo dục trẻ như thế nào để trẻ cảm
15


thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc sống. Luôn tạo cho trẻ cơ hội để
trẻ được thể hiện mình, được bộc lộ bản thân mình trước mọi người, mọi việc.
Cần thường xuyên tổ chức các hoạt động giáo dục phát huy tính tích cực
ở trẻ, giúp trẻ hứng thú chủ động khám phá, tìm tòi, biết vận dụng vốn kiến
thức, kỹ năng vào việc giải quyết các tình huống khác nhau.
Phải biết xử lý các tình huống sư phạm, luôn tìm cách tạo tình huống cho
trẻ, để cho trẻ có cơ hội bộc lộ năng khiếu, tạo cơ hội để trẻ thực hiện sở thích
của mình.
Chú ý việc phối hợp với cha mẹ trẻ để thống nhất phương pháp giáo dục
trẻ đặc biệt là giáo dục kỹ năng tự phục vụ bản thân cho trẻ được tốt nhất.
Giáo viên cần tạo cơ hội để trẻ được tương tác với bạn bè, người lớn,
được trải nghiệm thực hành và luyện tập thường xuyên ở trường cũng như ở gia
đình thông qua các hoạt động phong phú, đa dạng như: học tập, vui chơi, lao
động, sáng tạo nghệ thuật…

Giáo viên cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến
khích sự chuyên cần, tích cực của trẻ, giáo viên cần phải biết khai thác phát huy
năng khiếu, tiềm năng sáng tạo ở mỗi trẻ và giáo dục trẻ như thế nào để trẻ cảm
thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc sống.
Giáo viên cần thường xuyên tổ chức các hoạt động chăm sóc - giáo dục
trẻ một cách thích hợp, tuân theo một số quan điểm: giúp trẻ phát triển đồng đều
các lĩnh vực: thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm - kỹ năng xã hội, thẩm mỹ.
Phát huy tính tích cực của trẻ, giúp trẻ hứng thú, chủ động tìm tòi, khám phá,
biết vận dụng vốn kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các tình huống khác
nhau.
Giáo viên cần giúp trẻ có những mối liên kết mật thiết với những bạn
khác trong lớp, trẻ biết chia sẻ, chăm sóc, trẻ cần phải học về cách ứng xử, biết
lắng nghe, trình bày và mạnh dạn diễn đạt được ý của mình, trẻ tham gia mọi
hoạt động tích cực và hứng thú. Giúp trẻ luôn cảm thấy mạnh dạn, tự tin khi tiếp
nhận các thử thách mới. Điều này liên quan tới việc đứa trẻ có cảm thấy thoải
mái, tự tin trước mọi người, mọi hoàn cảnh xung quanh hay không.
Giáo viên cần theo dõi sát sao những hoạt động của trẻ để kịp thời khuyến
khích và chỉ dạy trẻ. Các bài học đều là những hành động đơn giản, nhưng với
trẻ là những điều mới lạ và rất khác biệt. Bất cứ lúc nào trẻ làm thử việc gì, dù
trẻ có làm được hay không, giáo viên cũng nên biểu dương sự cố gắng của trẻ và
khuyến khích trẻ làm tốt hơn. Giáo viên không nên vội giúp trẻ mà điều cần thiết
là hướng dẫn trẻ tự làm và cho trẻ có thời gian để tự mình làm được những điều
này, việc nhanh hay chậm tùy thuộc vào mỗi đứa trẻ. Vì thế giáo viên đừng tạo
áp lực cho trẻ mà hãy cư xử thật khéo léo.
Giáo viên khuyến khích trẻ nói lên quan điểm, suy nghĩ của mình, rèn
luyện tính tự tin cho trẻ khi tham gia các hoạt động.
Giáo viên thường xuyên liên lạc với cha mẹ trẻ để kịp thời nắm bắt tình
hình của trẻ, trao đổi những nội dung và biện pháp chăm sóc - giáo dục trẻ tại
nhà, cùng cha mẹ trẻ tìm cách giải quyết những khó khăn gặp phải.
Giáo viên cần tích cực tham gia các lớp học bồi dưỡng chuyên môn

nghiệp vụ về giáo dục mầm non. Giáo viên tích cực dạy, dự giờ, trao đổi chuyên
16


môn với đồng nghiệp để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Không ngừng
học tập, tự bồi dưỡng, tìm hiểu tài liệu về giáo dục mầm non để có biện pháp, kỹ
năng tốt nhất trong công tác chăm sóc - giáo dục trẻ, có những hiểu biết cần thiết
để rèn kỹ năng sống nói chung và kỹ năng tự phục vụ nói riêng cho trẻ.
Một điều quan trọng trẻ cần học chính là trách nhiệm. Tôi cũng áp dụng
dạy trẻ từ từ, và một lần nữa, tôi là tấm gương sáng, tôi phải thể hiện cho trẻ
thấy tôi luôn hoàn thành trách nhiệm của mình sau mỗi công việc.
2. Kiến nghị.
Qua thực tế giảng dạy và sau khi áp dụng một số biện pháp giáo dục kỹ
năng tự phục vụ bản thân cho trẻ, tôi xin đề xuất một số ý kiến như sau:
- Cấp trường:
Tạo điều kiện cho giáo viên mầm non có điều kiện, thời gian nghiên cứu
các sách, tạp chí có liên quan đến các chuyên đề đặc biệt là chuyên đề giáo dục
kỹ năng sống - kĩ năng tự phục vụ bản thân cho trẻ.
Xây dựng các tiết dạy mẫu lồng ghép các chuyên đề để cho tất cả các giáo
viên được dự và tham gia góp ý kiến, đặc biệt là hoạt động giáo dục phát triển
tình cảm và kĩ năng xã hội cho trẻ.
Liên hệ với các cơ quan đoàn thể, cha mẹ trẻ để có thêm sự giúp đỡ về vật
chất, nhất là đồ dùng phục vụ cho hoạt động.
- Cấp huyện:
Thường xuyên mở các hội thi giao lưu cấp cụm, cấp huyện để trẻ được
giao lưu cọ sát, thể hiện khả năng của mình trước đám đông, giúp trẻ tự tin hơn
trong giao tiếp ứng xử.
Trên đây là những kinh nghiệm của bản thân tôi trong việc nghiên cứu áp
dụng: “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục phát triển tình cảm và kĩ
năng xã hội cho trẻ 4 - 5 tuổi”, tôi đã áp dụng vào thực tế ở lớp tôi nhưng đề tài

không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong được sự giúp đỡ, đóng góp ý
kiến của các cấp lãnh đạo, của các đồng nghiệp để giúp tôi hoàn thiện, vững
vàng hơn trong việc giáo dục phát triển tình cảm và kĩ năng xã hội cho trẻ trong
trường mầm non.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Hoằng Thành, ngày 25 tháng 04 năm 2019
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.

Hiệu trưởng

Người viết sáng kiến

Lê Thị Nguyệt

Lương Thị Lài

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mô đun MN1-C - Giáo dục phát triển tình cảm và kĩ năng xã hội - Dự án tăng
cường khả năng sãn sáng đi học cho trẻ mầm non - Hà Nội - năm 2013
2. Tạp chí giáo dục mầm non - Bộ giáo dục và đào tạo - số 3 - năm 2013
3. Hướng dẫn thực hành kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non – KidsOnline.
Kidsonline.edu.vn > huong- dan- thuc- hanh- ky- nang- tu- phuc- vu- cho- tremam- non.
4. Tiny Flower School- phát triển cảm xúc và kĩ năng sống cho trẻ.

www.tfm.edu.vn
5. sáng kiến kinh nghiệm
6. Giáo án phát triển tình cảm và kĩ năng xã hội cho trẻ -…
> document> 4547…

18



×