Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Bài dự thi tìm hiểu Bác Hồ với Ninh Bình Ninh Bình làm theo lời Bác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (100.39 KB, 11 trang )

CUỘC THI TÌM HIỂU
“BÁC HỒ VỚI NINH BÌNH - NINH BÌNH LÀM THEO LỜI BÁC”
Nội dung tìm hiểu
1. Hoàn cảnh ra đời, nội dung cốt lõi và các giá trị cốt lõi trong Di chúc
của Chủ tịch Hồ Chí Minh
a. Hoàn cảnh ra đời
-Năm 1965, nhân dịp sinh nhật lần thứ 75, vào lúc 9 giờ sáng ngày 10-51965 Bác viết bản Di chúc với tiêu đề "Tuyệt đối bí mật" gồm ba trang, do
chính Bác đánh máy, ở cuối đề ngày 15-5-1965. Đây là bản Di chúc hoàn
chỉnh có chữ ký của Bác và bên cạnh có chữ ký của đồng chí Lê Duẩn, Bí
thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
- Các năm 1966, 1967, Bác không có những bản viết riêng.
-Năm 1968, Bác viết bổ sung thêm một số đoạn, gồm sáu trang viết tay.
Trong đó, Bác viết lại đoạn mở đầu và đoạn nói "về việc riêng" đã viết
trong bản năm 1965, và viết thêm một số đoạn. Đó là những đoạn nói về
những công việc cần làm sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
của nhân dân ta hoàn toàn thắng lợi, như: chỉnh đốn lại Đảng, quan tâm gia
đình liệt sĩ, thương bệnh binh, chăm sóc đời sống của các tầng lớp nhân
dân, miễn thuế nông nghiệp một năm cho các hợp tác xã nông nghiệp, xây
dựng lại thành phố và làng mạc, khôi phục và phát triển kinh tế, văn hoá,
củng cố quốc phòng, chuẩn bị thống nhất đất nước.
- Ngày 10-5-1969, Bác viết lại toàn bộ đoạn mở đầu Di chúc, gồm một
trang viết tay. Sau đó, trong các ngày từ 11 đến ngày 19-5-1969, Bác còn
tiếp tục sửa chữa bản Di chúc của các năm 1965, 1968, 1969. Đúng 10 giờ
ngày 19-5-1969, là kỷ niệm ngày sinh lần thứ 79 của Bác, Bác đọc lại lần
cuối cùng tất cả các bản Di chúc đã viết trước đó, rồi xếp tất cả bỏ vào
phong bì và cất đi…
- Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh lần đầu tiên được công bố trong Lễ
tang của Người tháng 9-1969, gồm 4 trang in khổ 14,5 cm x 22 cm. Ngày
19-8-1989, Bộ Chính trị ra Thông báo số 151-TB/TW Về một số vấn đề
liên quan đến Di chúc và ngày qua đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định Di chúc công bố chính thức năm 1969 đảm bảo trung thành với bản


gốc của Người. Nội dung chủ yếu dựa theo bản Bác viết năm 1965, trong
đó đoạn mở đầu là của bản viết năm 1969, đoạn về việc riêng là của bản
viết năm 1968. Lúc đầu, vì những lý do nhất định, nên một số vấn đề trong
1


Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh chưa được công bố, như: Việc căn dặn
của Người về hoả táng thi hài; việc cần làm sau khi cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước thắng lợi; miễn giảm thuế nông nghiệp một năm cho
các hợp tác xã nông nghiệp... Trong dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Chủ
tịch Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá
VI) đã quyết định công bố toàn bộ các bản viết Di chúc của Người.
b. Nội dung cốt lõi của Di chúc
-Trước hết nói về Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định truyền
thống đoàn kết chặt chẽ trong Đảng và “cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của
Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”;
Người yêu cầu “trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và
nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình” để củng cố và phát triển đoàn kết
và thống nhất trong Đảng. Mỗi cán bộ đảng viên phải thực sự thấm nhuần
đạo đức cách mạng; giữ gìn Đảng ta thật trong sạch.
- Nói về đoàn viên và thanh niên, Bác nhấn mạnh, “bồi dưỡng thế hệ
cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Đảng
cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ - những người thừa
kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng”, vừa “chuyên”.
- Nói về nhân dân lao động, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, nhân dân
lao động bao đời chịu đựng gian khổ, bị nhiều áp bức bóc lột của phong
kiến, thực dân; nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù, luôn
đi theo và rất trung thành với Đảng. Đảng phải có kế hoạch thật tốt để phát
triển kinh tế, văn hoá, xã hội nhằm không ngừng nâng cao đời sống của
nhân dân.

- Dự báo cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước có thể kéo dài nhưng
nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, sau khi
kháng chiến thắng lợi, ra sức hàn gắn vết thương chiến tranh, phát triển đất
nước; Đảng và Nhà nước phải quan tâm chăm lo tới mọi đối tượng trong xã
hội, đem lại ấm no hạnh phúc cho nhân dân.
- Về phong trào cộng sản thế giới, Người bày tỏ sự đau lòng vì sự bất
hòa của các đảng anh em. Chủ tịch Hồ Chí Minhmong rằng Đảng ta sẽ ra
sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa
các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc tế
vô sản có lý, có tình.
- Nói về một số việc riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ tiếc rằng không
được phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân lâu hơn nữa,
2


nhiều hơn nữa. Người căn dặn “Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức
điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân”.
- Mong muốn cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trước lúc đi xa là
toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam
hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng
vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
c. Giá trị cốt lõi của Di chúc
* Di chúc là tâm nguyện, tình cảm, ý chí, niềm tin, trách nhiệm của Chủ
tịch Hồ Chí Minh với Tổ quốc, nhân dân và sự nghiệp cách mạng
Di chúc là Tâm nguyện của Người: “Suốt đời tôi hết lòng phụng vụ Tổ
quốc, phụng vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới
này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được
phụng vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Ý chí, niềm tin, tinh thần lạc quan
cách mạng, trách nhiệm với nhân dân của Người thể hiện sâu sắc ở dự báo
về thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ và ngày thống nhất đất nước,

ở những chỉ dẫn về công việc của sự nghiệp cách mạng còn dang dở. Di
chúc là tâm sự của một người đã suốt đời hy sinh hạnh phúc riêng tư, hiến
dâng trọn cuộc đời cho Tổ quốc và nhân dân; là tấm lòng chung thuỷ với
“các nước anh em” và “bầu bạn khắp năm châu”.
* Di chúc là công trình lý luận về xây dựng và củng cố Đảng cầm quyền
- Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Đảng ta là Đảng
cầm quyền”. Để đáp ứng được nhiệm vụ lãnh đạo xã hội, Đảng phải luôn
vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và gắn bó máu thịt với nhân dân,
không ngừng nâng cao bản chất giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác Lênin làm nền tảng tư tưởng, làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của
mình. Di chúc nêu những vấn đề cốt yếu của công tác xây dựng Đảng, đó
là: Giữ gìn mối đoàn kết trong Đảng, thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ, nguyên tắc tự phê bình và phê bình, rèn luyện đạo đức cách mạng, nêu
cao tinh thần trách nhiệm, hết lòng phục vụ nhân dân của mỗi cán bộ, đảng
viên. Công tác chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ chiến lược, là công việc
thường xuyên để giữ vững vai trò lãnh đạo và cầm quyền của Đảng.
- Sự nghiệp cách mạng là một sự nghiệp bền bỉ, dài lâu, tiếp nối từ thế hệ
này sang thế hệ khác. Đảng cầm quyền phải chăm lo phát triển lực lượng
cho hiện tại và chuẩn bị cho tương lai một thế hệ trẻ vừa “hồng” vừa
“chuyên”, có như vậy mới thực hiện thành công lý tưởng xây dựng một xã
3


hội mới, tiến bộ, văn minh. Bác dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời
sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”, đó là công việc bồi dưỡng
lý tưởng cộng sản, giáo dục truyền thống yêu nước, ý thức rèn luyện đạo
đức cách mạng, đào tạo nguồn nhân lực kế tục sự nghiệp xây dựng xã hội
chủ nghĩa.
- Cách mạng Việt Nam không thể tách rời cách mạng thế giới. Sự vững
mạnh của Đảng còn được khẳng định trong mối quan hệ đoàn kết chặt chẽ
với các đảng cộng sản và bè bạn quốc tế. Điều Bác dặn trong Di chúc “về

phong trào cộng sản thế giới” chỉ dẫn định hướng quan trọng cho quan hệ
đối ngoại của Đảng, đó là nguyên tắc đoàn kết quốc tế dựa trên “nền tảng
chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý có tình”.
* Di chúc là tác phẩm bàn về xây dựng xã hội XHCN ở Việt Nam, là
phác thảo lý luận sự nghiệp đổi mới ở nước ta
- Di chúc là điểm kết tinh tư tưởng của Bác về độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam,
mối quan hệ giữa công bằng và tiến bộ xã hội, mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và phát triển văn hoá trong xây dựng xã hội mới, sức mạnh
đại đoàn kết dân tộc và sức mạnh thời đại, động lực lợi ích và chăm lo chu
đáo tới cuộc sống con người, tư tưởng trọng dân, coi dân là gốc, là chủ thể
của sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước.
- Di chúc như một kế hoạch, một chương trình hành động của toàn Đảng,
toàn dân về sự nghiệp xây dựng đất nước sau chiến tranh với những chỉ
dẫn về quản lý xã hội như: đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội; sửa đổi chế độ giáo dục cho phù hợp hoàn cảnh mới;
khôi phục và mở rộng các ngành kinh tế; phát triển công tác vệ sinh, y tế;
chính sách miễn thuế nông nghiệp cho nông dân; chính sách xã hội, công
bằng xã hội...
- Giá trị văn hoá của Di chúc chỉ dẫn con đường, mục tiêu phát triển của
nền văn hoá Việt Nam; trù tính, dự liệu về những cuộc vận động lớn giáo
dục văn hoá trong toàn dân, toàn xã hội, lấy văn hoá chính trị của Đảng
Cộng sản cầm quyền và văn hoá trong thể chế nhà nước - một nhà nước
dân chủ pháp quyền của dân, do dân, vì dân làm sức mạnh tiêu biểu nêu
gương thuyết phục nhân dân. Qua lời dặn dò về việc riêng, Chủ tịch Hồ
Chí Minh còn đề cập đến việc xây dựng một đời sống văn hoá mới; một lối
sống tiết kiệm, không lãng phí; mối quan hệ giữa con người với thiên
nhiên, môi trường sinh thái.
4



- Di chúc phác thảo những vấn đề quan trọng của sự nghiệp đổi mới đất
nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm, đổi mới là một tất yếu để phát
triển; đổi mới là một cuộc đấu tranh bền bỉ, một quá trình xây dựng gian
khổ, "là một công việc cực kỳ to lớn, nặng nề và phức tạp”, là “cuộc chiến
đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt
tươi”. Người yêu cầu, Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh
tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân.
- Theo Hồ Chí Minh, xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh, điều
kiện nước ta phải đặc biệt chú trọng phát huy khả năng sáng tạo của dân,
“động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ
đại của toàn dân”.
2. Những lần đi thăm, động viên và làm việc cụ thể của Bác Hồ với
Đảng bộ và nhân dân Ninh Bình1
a. Lần thứ nhất (13/01/1946)
Bác về thăm Phát Diệm, Kim Sơn, Ninh Bình – một địa danh nổi tiếng của
đạo Công giáo ở tỉnh ta; tại đây Bác đã nhắc nhở đồng bào: “Kính Chúa
phải yêu nước. Nước không được độc lập thì tôn giáo không được tự do”
b. Lần thứ hai (10/02/1947)
Bác về Nho Quan để dự Hội nghị điền chủ; tại đây Bác đã kêu gọi các điền
chủ, thương gia góp tiền, gạo để ủng hộ kháng chiến
c. Lần thứ ba (15/03/1959)
Bác về thăm và chia sẻ động viên cùng bà con trong đợt hạn hán ở Ninh
Sơn, Hoa Lư, Bác căn dặn: “Nhân dân ta đã anh dũng trong kháng chiền,
cần phải anh dũng trong sản xuất, chúng ta cần phải thắng thiên tai”
d. Lần thứ bốn (18/10/1959)
Bác về dự Hội nghị sản xuất Đông Xuân. Bác căn dặn cán bộ phải tăng
cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, tuyên truyền, giải thích cho
nhân dân hiểu về hai con đường làm ăn cá thể và tập thể.
e. Lần thứ năm (20/07/1960)

Bác về thăm Nông trường quốc doanh Đồng Giao, tại thị xã Tam Điệp, Bác
đã đi tham quan các đội sản xuất, nhà ăn, nhà trẻ, khu chăn nuôi lợn, bò.
3. Bác Hồ căn dặn, chỉ bảo đối với Đảng bộ và nhân dân Ninh Bình
trong hài lần về thăm năm 1959; Đảng bộ và nhân dân Ninh Bình thực
hiện lời Bác dạy
1 Tham khảo thông tin trên trang: />
5


a. Lời căn dặn của Bác trong hai lần về thăm Ninh Binh năm 1959
Ngày 15/03/1959 Bác đến động viên, thăm hỏi, nhân dân xã Khánh Cư
(Huyện Yên Khánh) Bác động viên, khích lệ mọi người hăng hái lao động
quên mình chống hạn cứu lúa và căn dặn đồng bào hãy “Cố gắng làm thủy
lợi để lấy nước cứu hàng vạn mẫu lúa và cày cấy hết số diện tích còn lại”
Tại thị xã Ninh Bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với hơn 2000
đại biểu cán bộ và nhân dân. Sau khi khen ngợi, biểu dương những cố gắng
và thành tích chống hạn và sản xuất, nêu rõ khuyết điểm, thiếu sót cần phải
khắc phục, Người dặn dò “Cán bộ phải có quyết tâm chống hạn và quyết
tâm phải liên tục, bền bỉ. Biến quyết tâm của cán bộ thành quyết tâm của
nhân dân, đoàn kết giúp đỡ nhau…”. Trước khi dứt lời, Bác nhắc nhở:
“Nhân dân ta đã anh dũng trong kháng chiến, cần phải anh dũng trong sản
xuất. Chúng ta phải thắng thiên tai, hạn hán, bão lụt… để sản xuất ngày
càng được nhiều, đem lại hạnh phúc cho nhân dân, đưa nước nhà dần tiến
lên chủ nghĩa xã hội”
Ngày 18-10-1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh về dự Hội nghị sản xuất đông
– xuân tỉnh Ninh Bình do Tỉnh ủy, Uỷ ban Hành chính tỉnh Ninh Bình tổ
chức. Mở đầu Hội nghị, Người nói: “Bác thay mặt Trung ương Đảng và
Chính phủ đếnhỏi thăm và nói chuyện với các cô, các chú về vụ sản xuất
đông – xuân này”. Tiếp đó, Người biểu dương, khen ngợi cán bộ và nhân
dân Ninh Bình có nhiều thành tích trong vụ sản xuất đông – xuân 19581959, đã tích cực chống hạn cứu lúa, biết giữ nước và sản xuất khá. Người

lưu ý các đại biểu bài học kinh nghiệm làm vụ đông – xuân vừa qua là
“Phải đi đúng đường lối quần chúng trong việc xây dựng và thực hiện kế
hoạch, phải biến quyết tâm của Đảng, của Chính phủ, thành quyết tâm của
toàn thể cán bộ và quần chúng thì dù khó khăn mấy nhất định cũng khắc
phục được và vụ đông – xuân nhất định sẽ tốt”. Đồng thời, Người nhắc nhở
những công việc trước mắt mà bà con nông dân Ninh Bình phải làm và ân
cần khuyên cán bộ và nhân dân Ninh Bình muốn sản xuất vụ đông – xuân
này thắng lợi thì phải nhớ và làm đúng tám điều:
“Nước phải đủ, phân phải nhiều
Cày sâu, giống tốt, cấy đều dảnh hơn
Trừ sâu, diệt chuột chớ quên,
Cải tiến nông cụ, là nền nhà nông
Ruộng nương quản lý ra công
6


Tám điều đầy đủ, thóc bông đầy bồ”
Cuối buổi nói chuyện, Người căn dặn Đảng bộ và nhân dân Ninh Bình:
“…phải đoàn kết toàn dân, đoàn kết trong Đảng và ngoài Đảng, đoàn kết
lương giáo… Đoàn kết chặt chẽ để thi đua tăng gia sản xuất và thực hành
tiết kiệm, thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống
nhất nước nhà”.
Như vậy, năm 1959 là năm vô cùng có ý nghĩa đối với Đảng bộ và nhân
dân Ninh Bình vì đã được vinh dự hai lần đón Bác về thăm. Đầu năm 1959,
Hồ Chủ tịch đã về thăm và kiểm tra công tác chống hạn tại một số tỉnh,
trong đó có Ninh Bình. Cuối năm đó, Người về dự Hội nghị sản xuất đông
– xuân năm 1959 – 1960 do Tỉnh ủy, Ủy ban Hành chính tỉnh Ninh Bình tổ
chức.
b. Ninh Bình thực hiện lời dạy của Bác
Khắc ghi lời dạy của Bác trong 60 năm qua (1959 - 2019), Đảng bộ,

chính quyền và nhân dân Ninh Bình luôn đoàn kết, nỗ lực, phấn đấu, vượt
qua mọi khó khăn, thách thức, góp phần cùng với nhân dân cả nước giành
thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng hoàn toàn miền Nam,
thống nhất đất nước. Kháng chiến thành công, nhân dân Ninh Bình cùng
với nhân dân Hà Nam Ninh tích cực khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương
chiến tranh, từng bước phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội. Đặc biệt, từ sau
khi được tái lập (năm 1992 đến nay), tỉnh Ninh Bình đã vươn lên giành
được nhiều thành tựu trên mọi lĩnh vực.
Kinh tế của tỉnh phát triển khá toàn diện và duy trì được tốc độ tăng
trưởng cao. Tốc độ tăng trưởng GRDP (theo giá SS 2010) bình quân giai
đoạn 2016-2018 ước đạt 8,21%/năm. Thu ngân sách trên địa bàn tỉnh khi
mới tái lập năm 1992 mới chỉ đạt 40 tỷ đồng, đến năm 2018 đã tăng gấp
hơn 300 lần, đạt 12.777 tỷ đồng. Cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch theo
hướng tích cực, tăng tỷ trọng các ngành phi nông nghiệp và dịch vụ. Năm
2018, tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng là 40,80%; nông, lâm nghiệp,
thuỷ sản là 12,10%, dịch vụ là 47,10%. Đặc biệt, lĩnh vực du lịch có bước
phát triển đột phá, Quần thể danh thắng Tràng An được UNESCO ghi danh
là Di sản Văn hóa và Thiên nhiên thế giới, đã tạo điều kiện và mở ra cơ
hội, vận hội lớn đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.
Lượng khách du lịch đến Ninh Bình ngày càng tăng, năm sau cao hơn năm
trước, năm 2018 đạt 7,3 triệu lượt khách, doanh thu từ du lịch đạt 3.200 tỷ
đồng. Công tác xây dựng nông thôn mới đạt kết quả nổi bật, đến hết năm
7


2018, toàn tỉnh có 90 xã (chiếm 84% tổng số xã), 02 huyện Hoa Lư, Yên
Khánh đạt chuẩn nông thôn mới và thành phố Tam Điệp hoàn thành nhiệm
vụ xây dựng nông thôn mới.
Cùng với đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội của tỉnh được chú
trọng đạt nhiều kết quả toàn diện về mọi lĩnh vực. Đến nay, Ninh Bình đã

cơ bản hoàn thiện hệ thống cơ sở vật chất y tế, giáo dục, văn hóa, thể dục,
thể thao… từ tỉnh đến cơ sở, đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe, học tập,
vui chơi, giải trí và sáng tạo của các tầng lớp nhân dân; đảm bảo hài hoà
giữa phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng văn hoá là nền tảng tinh thần
xã hội. Giáo dục - đào tạo đạt được nhiều kết quả tích cực, tỷ lệ trường học
đạt chuẩn quốc gia các cấp ngày càng tăng, vững chắc. Công tác an sinh xã
hội được quan tâm chỉ đạo, thực hiện kịp thời, đầy đủ các chính sách ưu
đãi đối với người nghèo, người có công với cách mạng; công tác giảm
nghèo tiếp tục được thực hiện có hiệu quả, tỷ lệ hộ nghèo theo tiêu chí đa
chiều còn 3,63%. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao diễn
ra sôi nổi; phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá được
duy trì và phát triển.
Công tác an ninh, quốc phòng địa phương được tăng cường, trật tự an
toàn xã hội được giữ vững. Các cấp ủy dảng, chính quyền đã quán triệt và
thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế đi đôi với củng cố quốc phòng an ninh; thường xuyên chăm lo, xây dựng lực lượng quân đội nhân dân,
công an nhân dân, lực lượng biên phòng trong sạch, vững mạnh, xây dựng
khu vực phòng thủ vững chắc.
Công tác tôn giáo, dân tộc được quan tâm chỉ đạo, đảm bảo thực hiện
đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Thường xuyên gặp gỡ, trao đổi, động viên, nắm bắt tư tưởng, nguyện vọng
của các chức sắc và tín đồ tôn giáo; đồng thời, xem xét giải quyết kịp thời
các đề nghị chính đáng, hợp pháp của các tổ chức tôn giáo trên địa bàn.
Nắm bắt địa bàn kịp thời, phát hiện và xử lý những vụ việc vi phạm pháp
luật về tôn giáo để ổn định tình hình an ninh, trật tự tại địa phương, tạo sự
nhất trí giữa cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo với các chức sắc tôn
giáo, tạo sự đồng thuận xã hội và người dân. Động viên các chức sắc, tín
đồ tôn giáo tích cực tham gia vào các phong trào thi đua yêu nước và thực
hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương. Đã tổ chức thành công nhiều
sự kiện tôn giáo lớn mang ý nghĩa quốc tế đảm bảo chặt chẽ, đúng quy
định. Làm tốt công tác xây dựng lực lượng cốt cán, người có uy tín ở vùng

8


đồng bào có đạo. Tỉnh đã có nhiều cách làm sáng tạo trong công tác tôn
giáo như: Tổ chức giao lưu, gặp gỡ giữa các chức sắc, thanh niên tôn giáo
góp phần củng cố vững chắc khối đoàn kết lương - giáo.
Hệ thống chính trị ngày càng được củng cố, chất lượng hoạt động được
nâng lên. Phương thức và năng lực lãnh đạo của các cấp ủy đảng từ tỉnh
đến cơ sở có nhiều đổi mới; hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của
chính quyền các cấp được nâng lên, đáp ứng yêu cầu đổi mới và phát triển
của tỉnh. Công tác xây dựng Đảng được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đạt
được nhiều kết quả trên các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, tạo
nhiều chuyển biến tích cực. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng được triển
khai toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, bám sát thực tiễn, phục vụ hiệu
quả các nhiệm vụ chính trị, góp phần giữ vững ổn định tình hình tư tưởng,
củng cố niềm tin, tạo sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận
trong các tầng lớp nhân dân. Việc triển khai thực hiện các chỉ thị của Bộ
Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh gắn với các nghị quyết về xây dựng Đảng nhất là Nghị quyết
Trung ương 4 (khóa XI, XII) đạt nhiều kết quả, tạo sự chuyển biến mạnh
mẽ về nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức
trong việc học và làm theo gương Bác được nhân dân đồng tình, đánh giá
cao.
4. Phân tích làm rõ kết quả Đảng bộ và nhân dân Ninh Bình đạt được
gắn với việc thực hiện Chỉ thị số 05 – CT/TW của Bộ Chính trị
Thực hiện Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị và Kế hoạch số 03-KH/TW,
ngày 26-7-2016
Tỉnh Ninh Bình đã sớm ban hành nghị quyết, chỉ thị, chương trình để
thực hiện Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị. Nhờ đó, việc lãnh đạo, chỉ đạo đã
trực tiếp, cụ thể, nền nếp hơn, mang lại kết quả rõ rệt trong việc tổ chức

học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; cố gắng,
nỗ lực tìm tòi cách làm phù hợp với điều kiện của mình, như phát động các
cuộc vận động, phong trào thi đua, tổ chức các hội nghị, hội thảo, gặp gỡ,
tọa đàm về cách làm trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách của Bác; tổ chức các hoạt động “về nguồn”, biểu dương các tập thể,
cá nhân tiêu biểu... Nhiều mô hình hay, cách làm hiệu quả được vận dụng
sáng tạo đã đem lại kết quả tích cực trong thực tiễn.
Việc thực hiện học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh đã trở thành việc làm quan trọng, thường xuyên, trở thành ý thức
9


tự giác của mỗi tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, của mỗi cán bộ, đảng viên
và quần chúng nhân dân trong tỉnh ta.
5. Suy nghĩ về trách nhiệm của cá nhân trong việc học tập và làm theo
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh để xây dựng quê hương, đất nước
ngày càng giàu đẹp, văn minh2
Điều trước hết, mỗi cán bộ, đảng viên, đoàn viên, thanh niên và toàn dân,
toàn quân tự giác nghiên cứu, quán triệt sâu sắc các nội dung Di chúc, thêm
thấm nhuần những lời dạy của Người, tạo ra đợt sinh hoạt chính trị sâu
rộng; để phấn đấu, rèn luyện nghiêm túc hơn, cố gắng đóng góp nhiều hơn
cho đất nước; nhất là Bài học về tinh thần cống hiến cho lý tưởng cách
mạng. Khi nói về việc riêng trong bản Di chúc của mình, Bác “chỉ tiếc là
tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa” cho Tổ quốc,
cho cách mạng và cho nhân dân. Bác nhấn mạnh từ “phục vụ” nhằm nói rõ
nhiệm vụ của người làm cách mạng là phải quên mình “phục vụ” Tổ quốc,
nhân dân. Người cán bộ vừa là người lãnh đạo, vừa là người “đầy tớ” trung
thành của nhân dân.
Thứ hai, Di chúc như một kế hoạch, một chương trình hành động của
toàn Đảng, toàn dân về sự nghiệp xây dựng đất nước sau chiến tranh với

những chỉ dẫn về quản lý xã hội như: đào tạo nguồn nhân lực cho sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; sửa đổi chế độ giáo dục cho phù hợp
hoàn cảnh mới; khôi phục và mở rộng các ngành kinh tế; phát triển công
tác vệ sinh, y tế; chính sách cho nông nghiệp, nông dân; chính sách xã hội,
công bằng xã hội...Để đạt được mục tiêu ấy, mỗi cán bộ, đảng viên cần
phải nhận thức đầy đủ và vận dụng đúng các quy luật phát triển, huy động
được các nguồn lực của địa phương, đơn vị mà trước hết, quan trọng nhất
là nguồn lực con người, phải có một lộ trình kế hoạch để từng bước thực
hiện. Cần phải tích cực, có bản lĩnh chống biểu hiện sự vô cảm, quan liêu
mệnh lệnh, hách dịch, nhũng nhiễu, gây phiền hà cho Nhân dân, doanh
nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho Nhân dân, doanh nghiệp sản xuất,
kinh doanh theo pháp luật, góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Mọi thành
quả của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước đều vì hạnh phúc của
nhân dân, vì mục tiêu không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần
cho nhân dân. Mọi nhiệm vụ cách mạng đều do nhân dân thực hiện dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Đó là yêu cầu xuất phát từ bản chất của chế độ ta.
2 />
10


Thứ ba, Di chúc chỉ dẫn con đường, mục tiêu phát triển của nền văn hoá
Việt Nam; trù tính, dự liệu về những cuộc vận động lớn giáo dục văn hoá
trong toàn dân, toàn xã hội, lấy văn hoá chính trị của Đảng và văn hoá
trong thể chế nhà nước - một nhà nước dân chủ pháp quyền của dân, do
dân, vì dân làm sức mạnh tiêu biểu nêu gương thuyết phục nhân dân. Qua
lời dặn dò về việc riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đề cập đến việc xây
dựng một đời sống văn hoá mới; do đó mỗi cán bộ, đảng viên đề cao ý
thức, trách nhiệm xây dựng lối sống tiết kiệm, không lãng phí, văn minh,
tiến bộ; bảo vệ môi trường thiên nhiên, môi trường sinh thái.
Thứ tư, Đẩy mạnh thực hiện hiệu quả việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng,

đặc biệt là đề cao trách nhiệm, vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên. Đó
cũng chính là những công việc quan trọng, thiết thực và có ý nghĩa nhất
trong dịp kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc thiêng liêng của Người. Đảng
ta đã ban hành nhiều văn bản về trách nhiệm nêu gương, đặc biệt là Quy
định số 08-QĐi/TW ngày 25-10-2018 của Ban Chấp hành Trung ương Quy
định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ
Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương. Nêu
gương của cán bộ, đảng viên là tỏ rõ sự biết ơn Bác, tự hào và nguyện làm
theo Bác. Nêu gương về lòng trung thành vô hạn với lý tưởng cách mạng,
suốt đời phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, hoàn thành tốt nhất nhiệm
vụ được giao. Nêu gương về đạo đức, lối sống trong sáng; về bản lĩnh,
trách nhiệm, niềm tin. Nêu gương phải thực chất, tránh hình thức, cố tạo ra
hình ảnh, phải thật sự chân thực trong công việc, cuộc sống của mỗi người
lãnh đạo, bình dị, giản dị như cuộc đời của Bác.

11



×